Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 2/6 đầuđầu 1234 ... cuốicuối
    kết quả từ 11 tới 20 trên 52
      1. #11
        Tham gia ngày
        May 2010
        Đến từ
        Đồng Tháp
        Bài gửi
        824
        Cảm ơn
        1,310
        Được cảm ơn: 462 lần
        trong 276 bài viết

        Default

        B. Cái Động của Đạo


        Trời đất vạn vật do Đạo mà ra, nhưng rồi đều trở về với Đạo.

        Chương 40 ông nói: “Phản giả đạo chi Động” 反者道之動 (Trở lại là cái động của Đạo). Đó là con đường đi về. Còn con đường đi ra thì “Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ Âm nhi bảo Dương. Xung khí dĩ vi hòa” 道生一, 一生二, 二生三, 三生萬物. 萬物負 而抱陽, 沖氣以為和 (25) (Đạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật. Trong vạn vật không vật nào mà không cõng Âm và bồng Dương. Nhân chỗ xung nhau mà hòa nhau).

        Nhất đây, là cái thể duy nhất của Đạo. Nhị, là trỏ vào hai khí âm dương, tức là hai nguyên lý mâu thuẫn nhau, nhưng bổ túc nhau đồng có ở trong mỗi vật, và vì thế mới có nói “trong vạn vật không vật nào không cõng âm và bồng dương”. Giữa sự xô xát, xung đột nhau của hai nguyên lý mâu thuẫn ấy, lại có Một cái nắm giềng mối và làm cho nó phải sống chung và dung hòa với nhau mà không thủ tiêu nhau, cái đó là nguyên lý thứ ba; cái mà Lão Tử gọi là cái Dụng của Đạo. “Xung khí dĩ vi hòa” (沖氣以為和). Tức là cái nguyên lý làm cho cái khí xung đột giữa hai nguyên lý mâu thuẫn kia điều hòa với nhau. Đến khi được cái số Ba đó, thì vạn vật mới thành hình, nên mới gọi là “Tam, sinh vạn vật” (三, 生萬物).

        Như vậy, ta thấy rằng Lão Tử có thể đã căn cứ vào Dịch học: “Thái cực sinh lưỡng nghi” để lập thành cái học “Nhất sinh Nhị” của ông. Nhưng ông chỉ mượn cái Đạo “đi ra” của Dịch, vì Dịch chủ trương Âm Dương để diễn tả cái Đạo biến đổi mà thôi. Lão Tử nhân đó, bàn về cái đạo “trở về” (phản phục), nghĩa là ông vượt cái học nhị nguyên của Dịch để chủ trương cái Đạo “quy Chân phản Phác” 歸真反樸. Theo Lão Tử, vạn vật đều động chuyển theo hai khuynh hướng nghịch nhau: Đi Ra, rồi Trở Về. Chương 16 ông nói: “Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục quy kỳ căn...” 萬物並作, 吾以觀復. 夫物芸芸, 各復歸其根… (Vạn vật cùng đều sinh ra, ta lại thấy nó trở về gốc; ôi, mọi vật trùng trùng, đều trở về cội rễ của nó). Mà trở về cội rễ, tức là trở về gốc Tịnh của nó (tức là trở về với Vô Vi): “Quy căn viết Tịnh, thị vị viết Phục Mạng, Phục Mạng viết Thường” 歸根曰靜, 是謂復命. 復命曰常. “Trở về cội rễ, gọi là Tịnh, ấy gọi là Phục Mạng. Mà Phục Mạng gọi là Thường”. Thường 常 tức là Đạo 道 vậy.

        Nhân quan niệm về chữ “Thường”, tức là một cái gì bất di bất dịch nắm cả giềng mối Vạn Vật Vũ Trụ, nên Lão Tử mới nghĩ đến một cái gì như là một thứ Định Mạng trong sắc giới: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất” 天網恢恢, 疏而不失(26) . Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà chẳng lọt. “Lưới trời”, tức là cái luật tự nhiên mà không vật nào trong Vũ Trụ thoát khỏi. “Thiên Đạo vô thân” 天道無親 Đạo trời không thân ai cả (Chương 79).

        Trong tất cả các luật của Tạo Hóa, thì cái luật lớn nhất và quan trọng nhất là luật “Phản Phục” 反復: hễ: “Vật cùng tắc phản”, “Vật cực tắc biến”...

        Chương 25 nói: “Thệ viết viễn, viễn viết phản” (逝曰遠, 遠曰反). Nghĩa là mỗi vật, khi mà đi đến cực độ thì phải biến; mà biến, thì lại biến trở về cái đối đích của nó. Phải biến Quấy, Nên biến Hư, Sống biến Chết, Lạnh biến Nóng, Vinh biến Nhục, Thiện biến Ác... hoặc trái ngược lại.

        Đó là một cái luật “Thường” 常, bất di bất dịch của Tạo Hóa: Cái gì lên cao, thì xuống thấp. Cho nên “hòng muốn thu rút, là sắp mở rộng đó ra, hòng muốn làm yếu đó, là sắp làm đó mạnh lên, hòng muốn vứt bỏ đó, là sắp làm hưng khởi đó, hòng muốn cướp đoạt đó, là sắp ban thêm cho đó. Ấy là ánh sáng huyền vi, mềm yếu thắng cứng mạnh” 將欲歙之, 必固張之. 將欲弱之. 必固強之. 將欲廢之, 必固興之. 將欲奪之, 必固與之. 是謂微明. 柔弱勝剛強 (Tương dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố hưng chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi. Thị vị vi minh, nhu nhược thắng cương cường) (chương 36).

        Tóm lại, những câu như: “Ít thì lại được, nhiều thì lại mê” 少則得, 多則惑 (thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc) (Chương 22); “Gió lốc không thổi suốt một buổi mai. Mưa dào, không mưa suốt một ngày trường..” 飄風不終朝, 驟雨不終日 (Phiêu phong bất chung triêu. sậu vũ bất chung nhật) (Chương 23); “Cái rất mềm của thiên hạ, thắng cái rất cứng trong thiên hạ” 天下之至柔馳騁天下之至堅 (Thiên hạ chi chí nhu, trì sính thiên hạ chi chí kiên). (Chương 43); “Bớt là thêm, thêm là bớt” 損之而益, 益之而損 (Tổn chi nhi ích, ích chi nhi tổn) (chương 42)… đều là do cái luật Phản Phục 反復 mà ra cả! Nhưng đối với người thường, thì lại thấy rất là trái ngược, mâu thuẫn! Bởi vậy, ở chương 41, Lão Tử mới nói: “Hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi” 下士聞道大笑之. Kẻ sĩ bậc thấp mà nghe nói đến Đạo, sẽ cả cười mà bỏ qua!

        Tuy vậy, nếu bảo rằng “vật cực tắc phản” thì chữ cực 極 đây phải hiểu như thế nào? Đâu là chỗ cùng cực của mỗi vật? Không thấy Lão Tử bày giải chỗ nào cả. Không nói ra, có lẽ là vì Lão Tử hiểu rằng mọi vật, vật nào cũng có cái cùng tận của nó, không có một mực độ cùng tận nào có thể làm mực độ chung cho vạn sự vạn vật trong đời. Cho nên ông mới nói: “Tri túc chi túc thường túc hĩ” 知足之足常足矣 (27). Biết đủ trong cái đủ, thì luôn luôn đủ. Cái gọi là đủ, không thể giống nhau đối với mọi người. Có khi cái mà người này thấy đủ, lại không đủ với người kia: hoàn cảnh, địa vị, sức khỏe, lớn nhỏ, thời buổi... đều khác nhau, không sao đưa ra một số lượng nào gọi là số lượng mẫu và đầy đủ cho cho tất cả mọi người mọi vật. Cái đủ của người mạnh không giống với cái đủ của người yếu. Cái vừa đủ đối với người khỏe, không còn là cái vừa đủ nữa đối với người đau, và ngay đối với chính bản thân của mình cũng vậy, cái mà hôm nay cho là đủ, ngày mai sẽ là thiếu không chừng! Lấy ngay trong việc ăn uống cũng đủ thấy rõ: cái mà ta thường gọi là món ăn vừa đủ cũng phải tùy... tùy tuổi tác, tùy sức khỏe, tùy chất bổ nhiều ít của món ăn, không sao nhất luật đặng.

        Đó là những cái mà Lão Tử gọi là “Thường” 常, nghĩa là bất biến, và luôn luôn đúng với tất cả vạn vật. Cho nên người sáng suốt phải là người thông suốt những cái luật ấy mà tuân theo: “Tri thường viết minh” 知常曰明 (Kẻ nào biết những luật “Thường” ấy là người sáng suốt).

        Và trái lại, kẻ nào không biết đến nó, sẽ bị tai họa suốt đời: “Bất tri thường, vọng tác hung” 不知常, 妄作凶. Không biết Đạo “thường” ấy, là gây hung họa (cho mình). Cho nên ai mà được Đạo “thường” ấy, suốt đời không nguy: “một thân bất đãi” 没身不殆(Chương 16).

        -----------------------
        (23) Chương 21. (Goldfish).
        (24) Đạo sinh đó, Đức nuôi đó, cấp dưỡng đó, nuôi nấng đó, đùm bọc đó, bồi sức đó, dưỡng nuôi đó, che chỡ đó. [Chương 51. (Goldfish)].
        (25) Chương 42. (Goldfish).
        (26) Chương 73. (Goldfish).
        (27) Chương 46. (Goldfish).
        thay đổi nội dung bởi: annhien, 30-06-14 lúc 18:08
        Annhien.
        Tâm an, vạn sự an
        Tâm bình, thế giới bình.

      2. #12
        Tham gia ngày
        May 2010
        Đến từ
        Đồng Tháp
        Bài gửi
        824
        Cảm ơn
        1,310
        Được cảm ơn: 462 lần
        trong 276 bài viết

        Default

        C. Huyền Đồng 玄同

        Trong khi nói Đạo là mẹ nuôi của muôn loài: “Hữu danh vạn vật chi mẫu” 有名萬物之母, ta thấy hình ảnh của một Bà Mẹ là đầu mối của học thuyết Lão Tử, và Lão Học là là cái học chú trọng về phần Âm. “Thiên hạ có nguồn gốc, dùng làm Mẹ của thiên hạ. Hễ giữ được Mẹ, thì biết được con. Đã biết được con, trở về với Mẹ : thân đến chết không nguy” 天下有始, 以為天下母. 即(28) 得其母. 以知其子, 即知其子, 復守其母, 沒身不殆 (Thiên hạ hữu thủy, dĩ vi thiên hạ mẫu. Ký đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử.
        Ký tri kỳ tử, phục thủ ký mẫu. Một thân bất đãi) (Chương 52).

        “Đã biết được con, trở về với Mẹ”, là nghĩa làm sao? “Con” đây là ám chỉ vạn vật. Sau khi cái học của mình về cái học trục vật mà đi đến cùng tột rồi thì con người lại “trở về với Đạo” (復守其母). Cũng như văn minh vật chất mà đến mức tột cùngt rồi, bèn sẽ xoay về tinh thần. Bởi vậy mới có người bảo rằng cái học nguyên tử ngày nay của Tây Phương “trở lại” gặp gỡ với Huyền học của Đông phương. Vấn đề đồng nhất của Tâm và Vật, Vật chất và Tinh thần... trước những phát minh về nguyên tử lực không còn phải là một vấn đề siêu hình nan giải nữa(29).

        Cái số kiếp con người, cũng như của vạn vật là sớm muộn phải “trở về với Đạo”: “các phục quy kỳ căn” 各復歸其根 (mọi vật trùng trùng, đều trở về với cội rễ của nó cả). Trở về được với Đạo, thì người ta mới được” trường cửu”, hay nói một cách khác, người ta mới thực hiện được cái Chân Tánh của mình, tức là cái mà Lão Tử gọi “Tử nhi bất vong” 死而不亡 (Ch.33).

        Nhưng làm sao thực hiện được sự Huyền Đồng ấy với Đạo? Phải “kiến tố, bảo phác”, và “thiểu tư, quả dục”, nghĩa là trở về với đời sống giản dị tự nhiên, ít tư riêng, ít tham dục. Công việc này chỉ là bước đường đầu: con đường “tâm trai”, gột sạch lòng vị kỷ đủ mọi phương diện: “Vi Đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư Vô Vi” 為道日損, 損之又損, 以至於無為 (48) (Theo Đạo, càng ngày ngày càng bớt. Bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi).

        Vô Vi đây là vô dục vậy. Phải dứt bỏ: dứt bỏ cả lề lối suy tư theo “la tập” nhị nguyên, dứt bỏ cả lòng ham muốn riêng tư, dứt bỏ cả cái học trục vật, chạy theo danh lợi bên ngoài... Dứt bỏ cả cái lòng đèo bòng tham muốn theo những tánh phận bên ngoài... Tóm lại, phải dứt bỏ cái “ta” nhân tạo, giả dối để trở về với cái “ta” đồng nhất với Đạo, trở về “thanh tĩnh” và “vô vi”.Khi mà giai đoạn đầu này được thực hiện đầy đủ, thì mới bước qua giai đoạn” ngộ Đạo”. Hễ “trí hư cực, thủ tĩnh đốc” 致虛極, 守靜篤 (30) . Bấy giờ mới có thể “hoát nhiên đại ngộ”! 豁然大悟.


        Lão Tử không thấy nói về giai đoạn này, vì ông cho rằng “tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” 知者不言, 言者不知 nhưng ông chỉ cho ta biết rằng trong cái trạng thái “huyền đồng” ấy, tất cả mọi sự mọi vật đều hòa lẫn nhau không còn thấy riêng tư, phân biệt nữa. Trước con mắt của người đã thực hiện được sự huyền đồng, thì tất cả đều là Một. “Giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần - thị vị Huyền Đồng” 解其紛, 和其光, 同其塵. 是謂玄同 (31) (Bỏ chia phân, hòa ánh sáng, đồng bụi bậm, ấy gọi là Huyền Đồng). Trong những câu như: “Đại phương vô ngung, đại khí vãn thành,đại âm hi thanh, đại tượng vô hình” 大方無隅, 大器晚成, 大音希聲; 大象無形 (Vuông lớn, không góc; chậu lớn muộn thành; âm lớn, ít tiếng; tượng lớn, không hình) (Ch.41); hoặc: “kỳ thượng bất kiểu, kỳ hạ bất muội” (32)
        ... “vô vật chi tượng, thị vị hốt hoảng” (33) ... “nghinh chi bất kiến kỳ thủ, tùy chi bất kiến kỳ hậu (34) ... vân vân… đều là những chân lý mà ông gượng miêu tả trong những khi huyền hóa, tức là những lúc ông “kiến độc” và “tiêu triệt”.

        Sự “huyền đồng” với Đạo mưu cho con người được một sự yên tĩnh và khoan khoái tâm hồn mà không còn có một khoái lạc nào khác trên đời so sánh kịp... Không phải là một thứ vui sướng, nhưng là một cái gì nhẹ nhàng lâng lâng khác thường mà chỉ có ai đã “nếm” qua mới ý thức được đôi phần. “Đạo chi xuất khẩu… đạm hồ ký vô vị. Thị chi bất túc kiến, thính chi bất túc văn, dụng chi bất túc ký” 道之出口, 淡乎其無味, 視之不足見, 聽之不足聞, 用之不足既 (Đạo ra cửa miệng, lạt lẽo vô vị, nhìn không đủ thấy, lắng không đủ nghe, nhưng mà dùng nó không hết) (Ch.35). Mùi vị của Đạo, đối
        với những khoái lạc nồng nhiệt trong đời, thì thấy như là lạt lẽo vô vị, “nhìn không đủ thấy, lắng không đủ nghe”, nghĩa là không thể nào tả được.

        Sự “huyền đồng” với Đạo có đem lại cho con người quyền lực nào chăng? Có làm cho người được pháp lực phi thường nào không? Đó là thắc mắc của số đông người học Lão Trang tự hỏi. Bởi vậy, về sau để trả lời câu hỏi ấy, nhóm Đạo gia mới bày ra những câu chuyện Thần Tiên, trong đó Lão Tử được tôn làm Thái Thượng Lão Quân, và Trang Tử được tôn làm Nam Hoa Đại Lão Chân Tiên.

        Thực ra vấn đề này không thấy Lão Tử bàn đến, người ta chỉ biết Lão Tử đặt kẻ “đắc” đạo như một “đứa anh nhi” tuy không làm gì cả mà “độc trùng không cắn được, thú dữ không ăn được, ác điểu không xớt được” 含德之厚, 比於赤子. 毒蟲不螫, 猛獸不據, 攫鳥不搏 (Ch.55). Toàn là những lời nói bóng mà ta phải hiểu như thế này: người đã được Đạo, giống cái đức của trẻ sơ sinh “kẻ mà đức dày giống như con nhỏ” 含德之厚比於赤子. Chữ “xích tử” đây là ám chỉ cái tâm trạng của đứa trẻ sơ sinh, không dục vọng, bình thản đối với ngoại vật, nên ngoại vật không động được tâm và làm thương sinh. Cho nên mới nói “độc trùng không cắn được”…


        Những danh từ hư ảo, mập mờ ấy khiến người ta hiểu lầm và cho là “quyền phép lạ lùng”, nhân đó mới có việc tin tưởng bâng quơ sau này của phái “thần tiên”... Tuy vậy, kẻ “huyền đồng” được với Đạo, dù không biết được họ có quyền lực gì khác người chăng, song chắc chắn họ sẽ không giống người đời, từ tư tưởng, tình cảm và hành vi. Và chắc chắn họ là người không còn đau khổ nữa, vì chỉ có Bản Ngã mới là nguồn gốc của đau khổ mà thôi. Mà kẻ huyền đồng với Đạo là người không còn sống cho mình nữa!
        Annhien.
        Tâm an, vạn sự an
        Tâm bình, thế giới bình.

      3. #13
        Tham gia ngày
        May 2010
        Đến từ
        Đồng Tháp
        Bài gửi
        824
        Cảm ơn
        1,310
        Được cảm ơn: 462 lần
        trong 276 bài viết

        Default

        Làm cách nào để nhận biết một người đã bắt chước Đạo? Đã theo con đường của Đạo? Lão Tử nói: “Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm. Thế mà, thiên hạ không ai hiểu, không ai làm” 吾言甚易知, 甚易行. 天下莫能知, 莫能行(35)(70).

        Tại sao dễ hiểu, dễ làm – mà thiên hạ phần đông lại không chịu hiểu, không chịu làm? Phải chăng vì làm theo Đạo, thì lại chạm đến lòng vị kỷủa mình, nên không ai muốn làm? Theo Đạo thì phải biết “dừng”, biết “đủ”, mà lòng vị kỷ thì không biết sao “dừng” được dù Lão Tử thường căn dặn “họa mạc đại ư bất tri túc”! 禍莫大於不知足!(36) Cho nên theo Đạo, khó!

        Theo Đạo thì phải biết” làm mà không cậy công, công thành rồi không nên ở lại, không để cho ai thấy cái tài hiền của mình”. (Vi nhi bất thị, công thành nhi bất xử, bất dục kiến hiền). Mà tình đời thì làm ít lại muốn hưởng nhiều, chỉ sợ người khác không biết ân, cho nên làm 1 mà kể công 10, công thành rồi thì ở mà hưởng, hưởng đến đời con, đời cháu cũng chưa vừa lòng, suốt đời chỉ lo sợ không ai biết đến tài hay trí cả của mình! Cho nên theo Đạo càng khó!

        Theo Đạo thì phải “như cây cung mà giương lên: chỗ cao thì ép xuống, chỗ thấp thì nâng lên (có dư thì bớt đi, không đủ thì bù vào). Bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu”. 天之道其猶張弓與: 高者抑之, 下者擧之. 有餘者損之, 不足者補之. 天之道損有餘而補不足(37) (Ch.77). Nhưng mà lòng của nhân thế thì sao? “Đạo của người thì không vậy, bớt chỗ thiếu, bù chỗ dư!” (人之道則不然, 損不足以奉有餘(38). Thường hay vị thân, vị kỷ, kết phe với kẻ đắc thời, cầu thân với người đắc thế... để dựa vào đó mà bóc lột, lợi dụng những kẻ vô cô, bất hạnh! Cho nên theo Đạo rất khó!

        Theo Đạo, thì phải hạ mình, làm kẻ thấp, sống trong bóng tối, “không tự xem mình là sáng... không tự cho mình là phải... không tự hào và khoe khoang” 不自見… 不自是… 不自伐… 不自矜…(39) (Ch.22), như vậy, thì cái lòng “hiếu danh” chỉ suốt đời nơm nớp sợ không ai biết đến tên tuổi của mình và mong mỏi được “lưu danh ư hậu thế”, muốn cho ai ai cũng phải thờ kính và phục tùng theo cái lẽ phải của mình vì “đời đục cả, một mình ta trong”, “đời say cả, một mình ta tỉnh”… phải dựa vào đâu mà tồn tại? Cho nên theo Đạo thật là vô cùng khó vậy!

        Lại nữa, theo Đạo phải biết “dĩ đức báo oán” 以徳報怨 (Ch.63), và phải biết “với kẻ lành, thì lấy lành mà ở, với kẻ chẳng lành, cũng lấy lành mà ở , với kẻ thành tín, thì lấy thành tín mà ở, với kẻ không thành tín, thì cũng lấy thành tín mà ở 善者吾善之, 不善者吾亦善之 (…) 信者吾信之, 不信者吾亦信之(40) (Ch.49)- như vậy, thì làm sao mà hả được cái lòng căm thù của mình, và ít ra, nếu người ta “móc mình một con mắt” thì mình cũng phải biết “nằm gai nếm mật” để “ân” thì đền, mà “oán” phải trả, “móc họ lại một con mắt” mới hợp Công Bình chứ! Vậy thì, theo Đạo, quả là không thể nào làm được, đừng nói là khó làm!

        Tóm lại, Đạo của Lão Tử không có gì là khó hiểu, khó làm... Người ta sở dĩ không chịu hiểu, không chịu làm, là vì tâm hồn con người quá hẹp hòi ích kỷ. Và vì vậy mà từ xưa đến nay, tiếng nói của ông, tuy xét theo Lý thì rất xác đáng, mà theo Tình thì không mấy ai chịu làm theo! Cho nên Thích Ca mới bảo: “Đời là bể khổ!”, mà Lão Tử cũng đã phải than:

        ----Người đời vui vẻ,
        ----Như hưởng thái lao,
        ----Như lên xuân đài,
        ----Riêng ta im lặng,
        ----Chẳng dấu vết chi,
        ----Như trẻ sơ sinh,
        ----Chưa biết tươi cười,
        ----Rũ rượi mà đi,
        ----Đi không chỗ về,
        ----Người đời có dư,
        ----Riêng ta thiếu thốn,
        ----Lòng ta ngu dốt vậy thay,
        ----Mỏi mệt chừ! (41)
        ----Người đời phân biện,
        ----Riêng ta hỗn độn,
        ----Điềm tĩnh dường tối tăm,
        ----Vùn vụt dường không lặng,
        ----Người đời đều có chỗ dùng,
        ----Riêng ta ngu dốt, thô lậu,
        ----Ta riêng khác người đời...
        (Chương 20)

        -----------------

        (28) Chữ 即 này (cả câu có hai chữ), Thiều Chửu phiên âm là “tức” chứ không phải “ký” (既). Trên trang
        http://zhidao.baidu.com/question/96741231.html?fr=qrl, ta thấy chép cả hai chữ 既 (trong nguyên văn) lẫn hai chữ 即 (trong phiên dịch). (Goldfish).
        (29) “La matière est moins matérielle et l'esprit moins spirituel qu'on le suppose généralement. La séparation habituelle de la physique et de la psychologie, de l'esprit et de la matière est métaphysiquement indéfendable”. B. Russel (Philosophie de la Matière). Xem bài Sience et Spiritualité của R. Linssen (France-Asie số 76 9/1952). [Chữ “moins” trong “La matière est moins matérielle” do tôi thêm vào. (Goldfish)].
        (30) Chương 16. (Goldfish)
        (31) Chương 56. (Goldfish).
        (32) 其上不皦, 其下不昧: trên nó thì không sáng, dưới nó thì không tối. (Ch.14)
        (33) 無物之象, 是謂惚恍: cái hình tượng của cái không có vật, nên gọi là “tợ hữu tợ vô” (như có mà như
        không).
        (34) 迎之不見其首, 隨之不見其後: Đón thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi. (Ch.14)
        (35) Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành. (Ch.70).
        (36) Chương 46. (Goldfish)
        (37) “Thiên chi đạo kỳ do trương cung dữ: Cao giả ức chi, hạ giả cử chi. Hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc”. (Goldfish).
        (38) “Nhân chi đạo tắc bất nhiên, tổn bất túc dĩ phụng hữu dư”. (Ch.77). (Goldfish).
        (39) “Bất tự hiện (kiến)… bất tự thị… bất tự phạt… bất tự căng…). (Goldfish).
        (40) “Thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi (…). Tín giả ngô tín chi, bất tín giả ngô diệc tín chi”. (Goldfish).
        (41) Có lẽ sách in thiếu 2 câu, sau câu này: “Người đời sáng chói, Riêng ta mịt mờ”. (Goldfish)
        Annhien.
        Tâm an, vạn sự an
        Tâm bình, thế giới bình.

      4. #14
        Tham gia ngày
        May 2010
        Đến từ
        Đồng Tháp
        Bài gửi
        824
        Cảm ơn
        1,310
        Được cảm ơn: 462 lần
        trong 276 bài viết

        Default

        Câu chuyện chưa kể trong lịch sử: Lão Tử, Khổng Tử và Phật Thích Ca Mâu Ni

        Tác giả: Bất Danh

        [Chanhkien.org] Sau khi thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại trừ Phật gia không có học phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Trung Hoa bằng Nho gia và Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.

        Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15 năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.

        3 vị Thánh giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?

        Lão Tử

        “Lão Tử” tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão” là ý gọi người tuổi cao Đức lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với người khác. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia) và chức Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán). Lão Tử ở lại Lạc Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu. Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị bãi quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp 4 phương trời nhưng không để ai biết danh tính của mình.

        Ngày 1 tháng 9 năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói: “Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”. Lão Tử tại Trung Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.

        Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng]. Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.

        Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.

        Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.

        Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”

        Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.

        Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.

        Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.

        Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.

        Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.

        Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.

        Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.

        Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.

        Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.





        Nguồn: http://chanhkien.org/2010/03/cau-chu...ca-mau-ni.html
        Annhien.
        Tâm an, vạn sự an
        Tâm bình, thế giới bình.

      5. #15
        Tham gia ngày
        May 2010
        Đến từ
        Đồng Tháp
        Bài gửi
        824
        Cảm ơn
        1,310
        Được cảm ơn: 462 lần
        trong 276 bài viết

        Default

        Khổng Tử

        Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh vào nước Lỗ năm 551 trước công nguyên.

        Khi lớn lên, Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo lường cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho rằng ông là người phi thường.

        Sau khi Khổng Tử tới đất Chu học hỏi Lễ nghi trở về lại nước Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông lên. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.

        Lúc Khổng Tử 35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh giáo Khổng Tử về đạo trị nước. Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong thái của quân vương, bề tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong thái của người cha, con cần có phong thái của con”. Cảnh Công nghe xong nói: “Cực kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực, ta làm sao có thể ăn được đây!”. Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.

        Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.

        Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.

        Tại nước Lỗ, Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất nhiều thành tích, cũng từng làm một vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan không hề trôi chảy. Có lần nhà Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam Hoàn cố tình không chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu. Khổng Tử biết con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà đi dạy học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.

        Lúc đó Khổng Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp nơi. Nhưng các nước đều không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng Tử trở lại nước Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng Tử cũng không muốn ra làm quan nữa.

        Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9 năm cuối đời mình.

        Thời đại Khổng Tử, nhà Chu đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha, ‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử tìm tòi nghiên cứu chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định “Thượng thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được nhạc điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ đại. Đến thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong đó những bài phù hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.

        Lúc về già Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông giải thích về “Thoán từ”, “Hào từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch rất siêng năng, đến nỗi sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông nói: “Để ta sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải thích rõ ràng nội dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu Dịch””.

        Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công đầu tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12 đời vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng tộc nhà Chu làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở rộng và phát triển truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời văn súc tích uyên thâm.

        Cuối cùng Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu giảng dạy học trò, đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân tử có 72 người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.

        Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”. 7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ Sửu, tháng 4 năm 479 trước công nguyên.

        Sách “Luận Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo lời nói và việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực tiếp nhất để cho chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta biết thế nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung Quốc và cả vùng Đông Nam Á là rất to lớn.

        Tư Mã Thiên nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.

        Tư Mã Thiên đã đánh giá rất đúng.


        Nguồn: http://chanhkien.org/2010/03/cau-chu...ca-mau-ni.html
        Annhien.
        Tâm an, vạn sự an
        Tâm bình, thế giới bình.

      6. #16
        Tham gia ngày
        May 2010
        Đến từ
        Đồng Tháp
        Bài gửi
        824
        Cảm ơn
        1,310
        Được cảm ơn: 462 lần
        trong 276 bài viết

        Default

        Phật Thích Ca Mâu Ni

        Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.

        Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế. Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.

        Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này. Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo. Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.

        Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa. Thích Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực. Nhưng ông không có cách nào tìm thấy một vị chân sư có thể hướng dẫn cho mình, nên ông vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc “Vô thượng chính đẳng chính giác” thì ông thà chết tại nơi này.

        Thích Ca Mâu Ni thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong 49 ngày. Buổi sáng ngày thứ 49, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được những ngôi sao sáng trên bầu trời. Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và các quyền năng siêu phàm của ông lập tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở. Ông lập tức nhớ lại mọi điều mà ông đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp sống hiện tại và nhiều kiếp trước của mình, và tất cả những điều khác nữa mà ông cần phải biết sau khi khai ngộ. Bởi vì năng lượng phóng ra trong quá trình khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận động đất nhẹ, núi đổ hay sóng thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ của Thích Ca Mâu Ni. Đương nhiên năng lượng của Phật là từ bi và không làm hại ai cả. Sau 12 năm tu luyện vô cùng gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni liền bắt đầu cuộc đời truyền Pháp 49 năm của mình.

        Đặc điểm của pháp môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới chính là cấm tất cả dục vọng và tâm cố chấp, định là nói về người nhập định tu hành, huệ là nói về người khai ngộ khai huệ. Đại tạng kinh có mấy vạn quyển, đều không lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên, hình thức biểu hiện của nó rất phong phú phức tạp, nhưng thực chất chính là 3 chữ này.

        “Mọi người đều biết rằng Bà La Môn giáo là Thích Ca Mâu Ni phản đối nhiều nhất. Ông cho rằng [nó] là một tà giáo, nó cùng với Phật Giáo của Thích Ca Mâu Ni là đối lập [với nhau] nhất. Kỳ thực tôi cho chư vị biết rằng: Thích Ca Mâu Ni chống đối Bà La Môn giáo chứ không phải chống đối Thần của Bà La Môn giáo. Thần mà Bà La Môn giáo tin theo vào thời kỳ nguyên thủy nhất đều là Phật, [họ] tin theo chính là các vị Phật trước thời Thích Ca Mâu Ni. Nhưng qua thời gian quá lâu dài, con người không còn tin Phật nữa, khiến cho tôn giáo này trở thành tà giáo, thậm chí [họ] sát sinh để tế lễ Phật. Cuối cùng, Thần mà họ tin tưởng và tôn thờ kia cũng không còn là hình tượng Phật nữa, [họ] bắt đầu tin theo và thờ phụng yêu ma quỷ quái có hình tượng quái vật. Con người đã làm cho tôn giáo trở thành tà”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston).

        Lời nói và việc làm của mọi người đều trái với những điều mà các vị Phật thời tiền sử dạy bảo. Như vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời Mạt pháp. Trong thời gian ấy, Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng ra tại Ấn Độ. Bởi Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền chính là chính Pháp, trong quá trình truyền Pháp, Thích Ca Mâu Ni không ngừng bác bỏ các giáo lý của các tôn giáo khác, cho nên không ngừng có những người rời bỏ ngoại đạo đến quy y Phật giáo. Như một trong những đồ đệ của ông, người mà sau này trở thành Xá Lợi Phất ban đầu là người của Bà La Môn giáo. Ông cùng Thích Ca Mâu Ni tranh luận, biết Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền chính pháp, bèn rời bỏ Bà La Môn giáo và trở thành người đệ tử có trí tuệ cao nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền càng lúc càng cường thịnh, còn các tôn giáo kia càng lúc càng suy tàn. Phật Pháp dần dần bị các tôn giáo kia kỳ thị và phản đối. Trong thời gian mâu thuẫn tôn giáo lên đến đỉnh điểm, xuất hiện sự kiện các đệ tử Phật giáo bị sát hại một cách công khai. Người đệ tử có Thần thông nhất là Mục Kiền Liên bị những kẻ ngoại đạo lăn đá từ trên núi xuống đè chết, trở thành đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni chết vì lý tưởng của Phật giáo. Ngoại đạo còn bắt bớ đệ tử của Phật Thích Ca, ném họ vào hầm lửa, hoặc trói vào cột rồi dùng cung tên bắn chết. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế, 500 đệ tử của Phật từng bị người ta chém đầu. Sự kiện bức hại ấy khiến người ta vô cùng đau xót!

        Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn trên thế gian, các tôn giáo khác bắt đầu hưng thịnh trở lại. Phật giáo ở Ấn Độ trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng đã kết hợp với những thứ của Bà La Môn giáo, biến thành một loại tôn giáo mới là Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo không còn tin Thích Ca Mâu Ni, cũng không thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông Nam Á, tại Trung Quốc, Phật Pháp đã truyền rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của những quốc gia này.


        Nguồn: http://chanhkien.org/2010/03/cau-chu...ca-mau-ni.html
        Annhien.
        Tâm an, vạn sự an
        Tâm bình, thế giới bình.

      7. #17
        Tham gia ngày
        May 2010
        Đến từ
        Đồng Tháp
        Bài gửi
        824
        Cảm ơn
        1,310
        Được cảm ơn: 462 lần
        trong 276 bài viết

        Default

        D. Chính trị

        Như đã nói trước đây, Đạo Đức Kinh sở dĩ viết ra là để cho những nhà trị nước, hay những kẻ sắp ra cầm quyền trị nước. Có lẽ vì mục kích hỗn trạng cực kỳ thê thảm thời Xuân Thu, Chiến Quốc mà Lão Tử, cũng như Khổng Tử, Mặc Tử cùng các Pháp gia thời ấy, cố ý đưa ra một giải pháp an bang tế thế. Thật vậy, ông nói: “dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa, dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi; dân chi kkinh tử, dĩ kỳ cầu sinh chi hậu” (民之飢, 以其上食稅之多, 民之難治, 以其上之有為, 民之輕死, 以其求生之厚) (Ch.75). Dân mà đói, là vì trên bắt thuế nhiều..., dân mà khó trị, là vì trên dùng đạo hữu vi..., dân mà coi thường cái chết, vì quá trọng cầu cái sống). Bởi vậy, dù có đem cái chết mà dọa dân chúng, cũng không ích gì cả, trong khi dồn họ vào nơi tuyệt vọng... (民不畏死, 奈何以死懼之?) “dân chi úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi”. (Dân không sợ chết, làm sao lấy chết dọa đó!) (Ch.74).

        Như vậy, ta thấy trị nước, Lão Tử chống lại với những hình phạt tru lục của Pháp gia thời đó. Ham sống, sợ chết là thiên tính của loài người. Nhưng làm cho dân không sợ chết nữa, là vì đã quá dùng cái chết mà sát phạt nó. Đó là một chân lý, dù mới xem dường như là trái ngược với lẽ thường.

        Trong những chế độ hà khắc bạo ngược, hay dùng đến cực hình, dân chúng hàng ngày thường sống trong cảnh không có ngày mai... Thét rồi, họ không còn sợ chết nữa. Dân mà không còn sợ chết nữa, thì dùng cái chết mà dọa chúng có ích gì? Các nhà xã hội học ngày nay cũng chứng nhận rằng: cực hình càng tăng, số tội ác càng thêm!

        Thời Chiến Quốc, giặc giã liên miên, người ta chết, thây nằm chật đất, bởi vậy, không có tai họa nào lớn trong đời bằng cái họa chiến tranh. Cho nên ông khuyên: “Kẻ lấy Đạo thờ vua không nên dùng đến binh mà bức thiên hạ” 以道佐人主者, 不以兵強天下(42) (Ch.30)

        Đối với những tai họa đã kể trên, người trị nước phải làm cách nào? Đồng ý với Khổng Tử, Lão Tử cũng chủ trương cần phải có một bậc Hiền để cầm quyền thiên hạ. Nhưng người cầm quyền trị nước, theo Khổng thì có khác với người cầm quyền trị nước theo Lão. Trong khi theo Khổng thì người trị nước phải hành theo Đạo hữu vi, nghĩa là chế Lễ, tác Nhạc và “làm” rất nhiều... còn bậc trị nước theo Lão, trái lại, càng làm ít càng hay, và không làm gì cả lại càng tốt hơn! Là vì, theo Lão Tử: việc đời mà đa đoan, việc
        người mà rối rắm, chẳng phải vì những việc người ta đã lo cho đời quá ít, mà chính vì những việc mà người ta đã lo cho đời quá nhiều.


        Ông nói: “thiên hạ đa kỵ húy, nhi dân di bần. Dân đa lợi khí, quốc gia tư hôn. Nhân đa kỹ xảo, kỳ vật tư khởi. Pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu” (天下多忌諱而民彌貧,民多利器 國家滋昏. 人多伎巧, 其物滋起; 法令滋彰, 盜賊多有) (Thiên hạ mà nhiều kiêng kỵ, thì dân chúng càng nghèo. Nhân dân nhiều lợi khí, thì nước nhà càng tối tăm.Người người nhiều tài khéo, vật lạ càng nẩy sinh. Pháp lệnh càng rõ rệt, trộm cướp càng sinh nhiều) (Ch.57).

        Cho nên bậc Thánh nhân trị nước phải lo “đứt thánh bỏ trí, dân lợi trăm phần. Dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại thảo lành. Dứt xảo bỏ lợi, trộm cướp không có” (絕聖棄智, 民利百倍. 絕仁棄義, 民復孝慈. 絕巧棄利, 盜賊無有(43).

        “Một nơi khác ông cũng nói: “không tôn bậc hiền tài, khiến cho dân không tranh, không quý của khó đặng, khiến cho dân không trộm cướp, không phô điều muốn, khiến lòng dân không loạn. Vì vậy, cái trị của Thánh nhân là làm cho dân hư lòng, no dạ, an (yếu) chí, mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham, khiến cho kẻ trí không dám dùng đến cái khôn của mình. Làm theo Vô Vi, ắt không có gì là không trị được” 不尚賢, 使民不爭. 不貴難得之貨, 使民不為盜. 不見可欲, 使 民心不亂. 是以聖人之治, 虛其心, 實其腹, 弱其志, 強其骨. 常使民無知無欲, 使夫智者不敢為也, 為無為, 則無不治 (Bất thượng hiền, xử dân bất tranh. Bất quý nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn. Thị dĩ Thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục, sử phù trí giả bất cảm vi dã. Vi vô vi, tắc vô bất trị) (Chương 3).

        Đó là dùng phương pháp tiêu cực, thủ tiêu mọi nguyên nhân gây lòng tham dục của con người trước hết, thì nó lấy đâu mà bùng cháy? “Bậc hiền tài” cũng như “của khó đặng”, là những cái mồi làm cho lòng dân sanh loạn. Nó có khác nào những chất củi khô làm bổi cho ngọn lửa tham dục dấy lên. Cho nên “trị loạn” sao bằng “phòng loạn”, rút củi ra thì lửa tắt đi.

        Trẻ con, lòng ít tham dục, nên đời sống của nó còn tự nhiên chất phác, giản dị... Cho nên Lão Tử mới nói: “hàm đức chi hậu, tỉ ư xích tử” 含德之厚, 比於赤子, nghĩa là đem “kẻ đức dầy” mà ví với “đứa con đỏ” (Ch.55). Bậc thánh nhân trị nước, vì vậy, xem dân như đứa trẻ: “thánh nhân giai hài chi” 聖人皆孩之 (Ch49), và không làm cho nó “sáng”, mà làm cho nó “ngu”: “Cổ chi thiện vi Đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi” (古之善為道者, 非以明民, 將以愚之) (Bậc Thánh nhân trị nước mà khéo thi hành Đạo, thì không làm cho dân sáng mà làm cho dân Ngu). Chữ “minh dân” và “ngu dân” ở đây hông còn có cái nghĩa thông thường của nó nữa. “Minh dân” không có cái nghĩa là mở rộng óc thông minh, “ngu dân” cũng không có nghĩa là làm cho đầu óc con người trở nên ngu đần. Chữ “minh” đây, là “đa kiến xảo trá”, và chữ “ngu” đây là “thuần hậu thật thà”.

        Cái đạo trị nước hay nhất để đem lại hạnh phúc cho nhân dân là đưa họ trở về 1 đời sống thật thà và giản dị.
        ------------
        (42) “Dĩ đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cường thiên hạ”. (Goldfish).
        (43) “Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội; tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ; tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu”. (Ch.19) (Goldfish).
        Annhien.
        Tâm an, vạn sự an
        Tâm bình, thế giới bình.

      8. #18
        Tham gia ngày
        May 2010
        Đến từ
        Đồng Tháp
        Bài gửi
        824
        Cảm ơn
        1,310
        Được cảm ơn: 462 lần
        trong 276 bài viết

        Default

        II. PHẦN PHÂN TÍCH

        ĐẠO


        A. Về bản thể

        Trong các chương 1, 4, 14, 21, 25, 34, 42, 51, 79, Lão Tử ròng luận về Bản thể của Đạo. Chỗ mà ông gọi là Đạo, tức là chỗ ông ám chỉ cái Nguồn gốc của Vũ Trụ (宇宙之本原(44)

        Nguồn gốc của Vũ Trụ (Đạo 道) là một Lẽ tuyệt Đối, không chi đối đãi với nó cả, vì vậy, không thể lấy một danh từ gì để chỉ định. Là vì, phàm cái gì có thể lấy lời nói mà định danh là đã sa vào chỗ đối đãi rồi. Như nói Đạo tức là đã mặc nhiên hàm cái ý có một cái “không phải Đạo” ẩn trong danh từ ấy, và như thế thì Đạo không còn là một lẽ Tuyệt đối nữa. Tuyệt đối là độc nhất vô nhị, cho nên dùng danh từ của giới nhị nguyên (dualist) đối đãi mà gọi tên, là không thể được. Bởi vậy mới nói: “Đạo khả đạo, phi thường Đạo; Danh khả danh, phi thường Danh” (Đạo mà ta có thể gọi được, không còn phải là Đạo “thường”; Danh mà ta có thể gọi được, không còn phải là Danh “thường”) (Chương 1) 道可道, 非常道; 名可名, 非常名.

        Thế thì, sở dĩ lại gọi nó là Đạo, là bất đắc dĩ gượng mà kêu tên đó thôi: “Ngô bất tri kỳ Danh, cưỡng tự chi viết Đạo, cưỡng vị chi danh viết Đại” (Ta không biết tên, gượng gọi đó là Đạo, gượng cho đó là lớn) (Chương 25) 吾不知其名, 強字之曰道, 強為之名曰大.

        Việc quan trọng nhất của triết học phải chăng, không có gì cần thiết hơn mà cũng không có gì khó khăn hơn là vấn đề giải thích Vũ Trụ? Lấy Vũ Trụ làm căn nguyên cho tất cả Vạn vật thì học thuật mới có chỗ cứu cánh, và trí thức loài người mới mong đầy đủ được.

        Nếu lấy ngay hình hài và kiếp sống trăm năm là hạn của con người mà sánh với cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian, thì tuy thấy là có mà hình như không có gì cả. Cho nên, bàn về cách đo lường tinh xác Vũ Trụ đã đến đâu, và sự học thức của người để hiểu biết Vũ Trụ ấy đã tiến đến bực nào, thiết tưởng cũng không cần cho lắm. Là vì muốn giải quyết cứu cánh Vũ Trụ, rốt cuộc lại hình như không bao giờ có thể giải quyết được. Tại sao thế?

        Giả sử mà công việc giải thích ấy có thể được thì Vũ Trụ này sẽ là một Vật hữu tận, chứ không còn là vô tận nữa. Và ngoài cái Vũ Trụ này ra cũng có thể còn có một Vũ Trụ khác, và cứ như thế mãi đến không cùng. Vậy thì cái Vũ Trụ vô cùng đó, đâu phải chỗ mà chúng ta có thể giải quyết được. Theo các nhà thiên văn ngày nay thì Thái Dương ở giữa trung bộ của đại vũ trụ. Cách trung tâm đại vũ trụ ước mấy trăm trăm triệu lý, ngoài ra thì ngôi sao phân bố bốn phương như dầy dặt trên một cái vòng tròn. Cái bề cao của nguyên khôi tinh tú ấy từ đầu này sang đầu kia, nếu tính theo sức mau lẹ của ánh sáng 186.000 anh lý trong một ly đồng hồ, thì cũng phải đến 50.000 năm mới có thể đi tới đặng. Đó là cái đại vũ trụ của loài người chúng ta ở... Nhưng ngoài cái Vũ Trụ này há lại chẳng còn có cái đại vũ trụ nào khác nữa hay sao?

        Nhà thiên văn lại cũng có nói: “Cái Vũ Trụ lớn mà loài người chúng ta ở đây là một vùng xoáy của tinh vân: hình nó mỏng và bằng, bề mặt hai bên nó lồi lên. Từ trung tâm thẳng đến bên cạnh thiên hà, có trên vạn vạn triệu lý. Từ trung tâm đến khoảng hai trục ấy, lại chỉ có một phần ba con số ấy mà thôi. Nếu cho rằng mỗi một đoàn tinh vân là một cái đại vũ trụ độc lập, thì lớn hay nhỏ, nó sẽ giống nhau như đại vũ trụ mà chúng ta đang ở. Mà cái số của đoàn tinh vân ấy có trên mười vạn…

        Nhưng mà đó cũng chỉ chẳng qua là ngày nay chúng ta mới thấy được bấy nhiêu mà thôi, và biết đâu sau này, chỗ biết ấy lại không hơn bây giờ gấp trăm nghìn lần! Vậy thì Vũ Trụ tức là Không gian và Thời gian há có thể là vấn đề có thể bàn đến được không, và ta có thể nào lấy lời nói mà hình dung được cái chỗ Vô cùng Vô tận của nó chăng? Như vậy, đến ngày nay mà khoa học đã đến chỗ gần như cùng độ, thế mà đối với vấn đề Vũ Trụ, dường như cũng phải nhận là một vấn đề bất khả tư nghị và hình dung được. (Trần Trụ).

        Trong thời đại Lão Tử, quan niệm về Vũ Trụ hãy còn hết sức là ấu trĩ, cho nên phần đông con người khó tránh sa vào thần bí. Chỉ có một mình Lão Tử là không phải như thế. Mặc dù ông không có đủ khí cụ cùng phương tiện đo lường tinh xác như ngày nay, ông vẫn cũng biết được một cách rất thâm sâu rằng: Vũ Trụ không thể nào dùng tư tưởng mà suy nghĩ được, không thể nào dùng lời nói mà luận bàn được. Và vì thế ông cưỡng đặt cho nó tên là Đạo.

        Ở chương thứ nhất sách Đạo Đức Kinh có nói: “Đạo mà có thể nói ra được, không còn phải là Đạo thường nữa; Danh mà có thể nói ra được, không còn phải là Danh thường nữa”.

        Trang Tử ở Thiên Trí Bắc Du 知北遊 giải câu nói trên đây của Lão Tử rất rõ ràng:

        “Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn phải là Nó nữa; Đạo chẳng có thể thấy được, thấy được không phải là Nó nữa; Đạo chẳng có thể nói được, nói được không phải là Nó nữa. Có thể nào lấy cái Trí mà hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được chăng? Vậy thì, không nên đặt tên cho Đạo” (道不可聞, 聞而非也; 道不可見, 見而非也; 道不可言, 言而非也. 知形之不形乎! 道不當名)(45) . Ông lại nói thêm: “Kẻ hỏi Đạo cũng như kẻ đáp lại, đều là những người không hiểu Đạo cả” (有問道而應之者, 不知道也) (46) , vì “biết thì không nói, mà nói thì không biết”
        (知者不言, 言者不知)(47)
        .
        Hàn Phi Tử 韓非子 ở thiên Giải Lão 解老 cũng có bàn rộng về cái nghĩa “bất khả Đạo” 不可道 trên đây như sau đây: “Phàm cái Lý ấy, nếu đem ra mà phân chia thành ra vuông, tròn, dài, ngắn, xấu, đẹp, cứng, mềm... thì cái Lý ấy đã bị hạn định rồi vậy (...) Vật mà đã định rồi thì mới có còn mất, sống chết, thịnh suy. Ôi! vật mà khi còn, khi mất, thoạt sống, thoạt chết, trước thịnh sau suy, thì không thể gọi là “thường” được (...) Cho nên không thể gọi đó là Đạo được (凡理者方園短長粗靡堅脆之分也 (…) 故定理有存亡, 有死生,有盛衰. 夫物之一存一亡. 乍死乍死, 初盛而後衰者, 不可謂常 (…) 是以不可道 也) (48)
        Annhien.
        Tâm an, vạn sự an
        Tâm bình, thế giới bình.

      9. #19
        Tham gia ngày
        May 2010
        Đến từ
        Đồng Tháp
        Bài gửi
        824
        Cảm ơn
        1,310
        Được cảm ơn: 462 lần
        trong 276 bài viết

        Default

        Chương 67 Đạo Đức Kinh có câu:

        “Thiên hạ giai vị ngã Đạo đại tự bất tiếu. Phù duy đại, cố tự bất tiếu; nhược tiếu cữu hĩ, kỳ tế dã phù!” 天下皆謂我道大似不肖. 夫惟大, 故似不肖. 若肖久矣, 其細也夫! (Thiên hạ đều gọi Đạo ta là lớn mà dường như không giống chi cả. Bởi nó Lớn, nên Nó không giống chi cả. Nhược bằng Nó giống vật chi, thì Nó đã nhỏ lâu rồi!).

        Đạo mà nói ra đặng, mà có thể gọi tên đặng, là vì nó có chỗ giống (để mà so sánh). Có chỗ giống, mới có thể dùng lời nói mà hình dung, như vậy thì Đạo đã có chỗ cùng. Mà đã có chỗ cùng, thì sao có gọi là Lớn, lớn một cách tuyệt đối. Thật vậy, mỗi khi ta nói đến Lớn, thì óc ta liên tưởng đến một cái gì nhỏ hơn, nghĩa là lớn hơn cái nhỏ, nhỏ hơn cái lớn… Và như thế, thì trong đời không có cái gì thật lớn, cũng không có cái gì thật nhỏ.

        Chương 15 sách Đạo Đức Kinh:
        “Cổ chi thiện vi sĩ giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng chi vi dung” 古之善為士者, 微妙玄通, 深不可識. 夫唯不可識, 故強為之容.
        (Bậc toàn thiện xưa, tinh tế nhiệm mầu, siêu huyền thông suốt, sâu chẳng khá dò. Bởi chẳng khá dò, tạm hình dung đó).

        Nghiêm Phục (49) 嚴復 nói: “Vật có hình khí thời không thể không đối đãi được. Cái mà chẳng thể đối đãi được, thời chẳng thể nào tư tưởng mà suy nghĩ, lấy lời nói mà nghị luận”. 形氣之物, 無非對待; 非對待則不可思議 (Hình khí chi vật, vô phi đối đãi; phi đối đãi tắc bất khả tư nghị).

        Trở lên, là bàn về Bản thể của Đạo.

        Bản thể của Đạo, tức là Nguồn gốc của Vũ Trụ, nên mới nói: “Hữu vật hỗn thành, tiên Thiên Địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập bất cải, châu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu” (有物混成, 先天地生. 寂兮, 寥兮, 獨立而不改, 周行而不殆, 可以為天下母) (Chương 25) (Có vật hỗn độn mà nên, sanh trước Trời Đất. Yên lặng, trống không. Đứng riêng mà không đổi, đi khắp mà không mỏi, có thể là Mẹ thiên hạ). Gọi là “thiên hạ mẫu” (天下母) là muốn bảo: Đạo là Nguồn gốc của Vũ Trụ, Mẹ sinh ra vạn vật dưới trời, mà cũng là nguồn gốc của Vô Vi, của một cái Có tuyệt đối, một cái Lớn tuyệt đối mà không
        có đối đãi. Vì nó là một cái gì Lớn tuyệt đối nên mới nói: “nghinh chi nhi bất kiến kỳ thủ, tùy chi nhi bất kiến kỳ hậu” 迎之不見其首, 隨之不見其後 (Chương 14) (Đón nó thì
        không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi). Tức là “vô thủy vô chung” 無始無終 vậy. Lại cũng vì Nó là một cái Có tuyệt đối, một cái gì Lớn tuyệt đối nên mắt xem không thể thấy, tai lóng không thể nghe, tay rờ không thể đụng, nên mới nói: “Thị chi nhi bất kiến, danh viết Di; thính chi nhi bất văn, danh viết Hi; bác chi bất đắc, danh viết Vi” 視之而不見名曰夷; 聽之不聞名曰希; 搏之不得名曰微 (Chương 14) (Xem mà không thấy nên tên gọi là Di, Lóng mà không nghe nên tên gọi là Hi; Bắt mà không nắm được, nên tên gọi là Vi).

        Như vậy Đạo là một cái gì gần như không có vật gì cả, nên mới nói: “thằng thằng bất khả danh, phục quy ư vô vật, thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng” 繩繩不可名, 復歸於無物. 是謂無狀之狀, 無物之象 (Chương 14) (Dài dằng dặc mà không có tên, rồi lại trở về chỗ không có; ấy gọi là hình trạng không hình trạng, cái hì nh trạng của cái không có vật).

        Nhưng thực sự thì không phải vậy, bởi nó là Nguồn gốc sanh ra Vạn Vật, thì bảo là không có gì cả sao đặng. Nên mới nói: “Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt; hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng hề hốt hề, kỳ trung hữu vật. Yểu hề minh hề, kỳ trung hữu. (Chương 21) (道之為物, 惟恍惟惚; 惚兮恍兮, 其中有象. 恍兮惚兮, 其中有物. 窈兮冥兮, 其中有精) (Đạo sanh ra Vật, Thấp thoáng mập mờ. Thấp thoáng mập mờ, trong đó có hình; mập mờ thấp thoáng, trong đó có Vật. Sâu xa tăm tối, trong đó có tinh).

        Vì Đạo là nguồn gốc của Vũ Trụ, hay nói 1 cách khác, Đạo là nguồn gốc của Vạn Vật, nên mới nói: “Đạo sanh Nhất, Nhất sanh Nhị, Nhị sanh Tam, Tam sanh Vạn Vật” (道生一, 一生二, 二生三, 三生萬物) (Chương 42) (Đạo sanh Một, Một sanh Hai, Hai sanh Ba, Ba sanh ra Vạn Vật). Lại nói: “Đạo sanh chi, Đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi” (道生之, 德畜之, 物形之, 勢成之) (Ch.51) (Đạo sanh đó, Đức nuôi đó, chủng loại tạo hình đó, hoàn cảnh kết liễu đó).

        Bao nhiêu điều nói trên, đều là để bày giải cái lý sinh thành của Vạn Vật.

        Đạo là nguồn gốc của Vạn Vật, là cái chỗ tự sinh (生) của muôn loài mà không biết tại sao mà sinh ra. Nó là cái vật che chở và nuôi dưỡng vạn vật mà không tự cho mình là chủ muôn vật, và bởi thế mới có nói: “Vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất từ. Công thành bất danh hữu, y dưỡng vạn vật nhi bất vi chủ” 萬物恃之而生而不辭. 功成而名有. 衣養萬物而不為主 (Chương 34) (Vạn vật nhờ Nó mà sinh ra, mà không vật nào bị nó khước từ. Xong việc rồi, không để tên; che chở, nuôi nấng muôn loài mà không làm chủ). Lời nói này, chủ ý muốn nói Đạo sinh ra vạn vật, tuồng như không có làm gì cả mà k ỳ thật, không có gì là không làm (似無為而實無不為也) (50).
        Chỗ nguồn gốc phát xuất triết học chánh trị vô vi của Lão Tử là căn cứ nơi chỗ này vậy.
        -----------------
        (44)Vũ trụ chi bản nguyên. (Goldfish).
        (45) Đạo bất khả văn, văn nhi phi dã; Đạo bất khả kiến, kiến nhi phi dã; Đạo bất khả ngôn, ngôn nhi phi dã. Tri hình chi bất hình hồ! Đạo bất đương danh (Trí Bắc du).
        (46) Hữu văn Đạo nhi ứng chi giả, bất tri Đạo dã. (Trí Bắc du).
        (47) Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri (Đạo Đức kinh).
        (48) Phàm Lý giả phương viên, đoản trường thô mỹ kiên nhuế chi phân dã… Có định lý hữu tồn vong, hữu tử sinh, hữu thạnh suy. Phù vật chi nhất tồn nhất vong, sã tử sạ sinh sơ thịnh nhi hậu suy giả, bất khả vị thường… Thị dĩ bất khả đạo dã. [Chữ 脆 Thiều Chửu phiên âm là “thuý”. (Goldfish)].
        (49) Đời nhà Thanh 清
        (50) “Tự vô vi nhi thực vô bất vi dã”. Chương 37 có câu: “Đạo thường vô vi nhi vô bất vi”
        (道常無為而無不為)(Goldfish).
        Annhien.
        Tâm an, vạn sự an
        Tâm bình, thế giới bình.

      10. #20
        Tham gia ngày
        May 2010
        Đến từ
        Đồng Tháp
        Bài gửi
        824
        Cảm ơn
        1,310
        Được cảm ơn: 462 lần
        trong 276 bài viết

        Default

        B. Về nhân sự

        Những chương 8, 9, 14, 15, 16, 18, 23, 25, 30, 31, 32, 37, 38, 41, 46, 47, 48, 53, 59, 77,
        79, 81, Lão Tử bàn đến cái Đạo về nhân sự. Nhưng, thiết yếu nhất là chương: “Nhân
        pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên” (人法地, 地法天,
        天法道, 道法自然) (51)

        (Người bắt chước Đất, Đất bắt chước Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước Tự Nhiên). Bấy nhiêu lời nói ấy, đủ chỉ cho ta thấy rằng Lão Tử đối với vấn đề nhân sinh, chủ trương con người phải bắt chước theo Trời, bắt chước theo Đạo. Bởi vậy, ông thường khuyên ta: “Đạo thường Vô vi, nhi vô bất vi. Hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự hóa” (道常無為而無不為, 侯王若能守之, 萬物將自化) (Đạo thường không làm, nhưng không gì không làm. Bậc hầu vương giữ được nó, thì vạn
        vật sẽ tự thay đổi) (Ch.37).

        Câu “độc lập bất cải, châu hành bất đãi” (獨立而不改, 周行而不殆) (Đứng riêng mà không đổi, đi khắp mà không mỏi) là muốn ám chỉ cái luật mâu thuẫn của Đạo: Đạo thì chí tịnh (至静), “bất cải” mà cũng là chí động (至動) “bất đãi”. Như khoa học vật lý ngày nay đã chứng minh, ta thấy rằng trong cái chí tịnh của hạt nguyên tử, mà giác quan ta không thể nhận thức khác hơn được, kỳ thực là một cái chí động (động cùng cực). Rộng lớn hơn, là quả địa cầu ta ở: cái chuyển của quả địa cầu thật là chí động, thế mà ta không dè là có động. Lớn hơn nữa là ngôi Thái dương, chí tịnh đối với các hành tinh trong thái dương hệ, mà chí động đối với các ngôi thái dương khác. Cho hay cái chí động lại dường như cái chí tịnh, cái “không làm” gì cả mà kỳ thực là “cái làm” hiệu quả nhất.

        Bản thể của Đạo thì thấy là “không làm” gì cả: chí tịnh; mà kỳ thực không có gì là không do cái làm của nó mà ra (無為而無不為): chí động. Do đó mới có cái hành động Vô Vi là “bất tranh” (不爭), mà không có cái gì tranh được với nó, hay thắng được nó. Hành động Vô vi, là hành động “bất tranh nhi thiện thắng”, ta phải bắt chước theo hành động ấy của Đạo mà “hành” cái Đạo “không tranh”. Ông lấy nước để ví với Đạo.

        “Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố. Cố cơ ư Đạo. Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chánh thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời. Phù duy bất tranh, cố vô vưu” (上善若水.水善利萬物而不爭, 處眾人之所惡, 故幾於道. 居善地, 心善淵, 與善仁, 言善信, 正善治, 事善能, 動善時. 夫唯不爭, 故無尤) (Bậc “thượng thiện”, giống như nước, nước thì ưa làm lợi cho vạn vật mà không tranh. Ở thì hay lựa chỗ thấp, lòng thì chịu chỗ thâm sâu, xử thế thì thích lòng nhân, nói ra thì trung thành không sai chạy, sửa trị thì chịu làm cho thái bình. Làm việc thì hợp với tài năng, cử động thì hợp với thời buổi. Ôi vì không làm nên không sao lầm lỗi) (Ch.8).

        Nhân nguyên tắc “bất tranh nhi thiện thắng” mới có sanh ra những thuyết xử thế: “công toại thân thoái” (52) (功遂身退) (Ch.9), “nhược úy tứ lân” (53) (若畏四鄰) (Ch.15), và do đó nẩy ra những điều răn mình như “tự căng tự phạt” (自矜自伐) ở chương 24: “tự phạt giả vô công, tự căng giả bất trưởng...” (tự xem là có công thì không công, tự kiêu căng thì không đứng đầu...) hay là “bất dĩ binh cưỡng thiên hạ” (Ch.30) (đừng dùng binh mà bức thiên hạ)... Phải chăng đó đều là do cái nghĩa của hai chữ “bất tranh” để gìn giữ cho thân mạng của mình được lâu dài... mà nẩy sinh ra không?

        Tôn chỉ của Lão Tử, chỗ khấn yếu nhất là câu: “thượng Đức bất Đức” (上德不德) ở chương 38.

        Đoạn văn này cần phải để ý đến hai chữ “thượng” và “hạ”. Thượng, là chỉ sự gần với Đạo; hạ, là chỉ sự xa với Đạo. Cái đức của Đạo, không phải những đức tính như người đời thường nhận như Nhân, Nghĩa, Lễ... nên mới nói: “thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức, hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức”. (Đức mà cao là không có đức, bởi vậy mới có Đức. Đức mà thấp, là có đức, nên không có đức).

        Ta thấy rằng chỗ mà Lão Tử gọi là Đạo, bao giờ cũng có hai nghĩa: cái Đạo của Bản thể và cái Đạo của Nhân sự. Chữ Đức cũng có hai nghĩa: cái đức của Đạo và cái đức của cái không phải Đạo như Nhân, Nghĩa, Lễ... Và vì thế Lão Tử trọng Đạo Đức mà khinh Nhân, Nghĩa, Lễ v.v…

        Khinh Nhân, Nghĩa... không phải là bỏ Nhân, Nghĩa, mà thực ra là cho nó chưa đủ để thực hiện được cái Đạo nơi lòng mình. Còn nói đến Nhân, Nghĩa... là còn phân nhĩ ngã... còn thấy có người có ta. Đạo mà cao, hay nói một cách khác, người mà thực hiện được cái Đạo nơi mình rồi, không cần nói đến Nhân, đến Nghĩa… mà vẫn có Nhân, có Nghĩa một cách hoàn toàn đầy đủ, không miễn cưỡng... Không cần phải thi hành cái đạo Nhân, đạo Nghĩa mà tự nhiên được Nhân được Nghĩa là vì kẻ đã thực hiện được cái đạo nơi mình, không còn thấy có người, có ta... mà thấy người là ta, ta là người; cũng không còn thấy có nội, có ngoại gì nữa mà cả thẩy đều là một. Còn nói đến Nhân, Nghĩa, Lễ là còn thấy có ta và người khác nhau. Lời nói này của Trần Trụ cũng đáng để cho ta để ý: “Lão Tử, vì muốn khôi phục cái chánh trị đạo đức đại đồng, nên mới cho Nhân, Nghĩa, Lễ là chưa đủ... Nếu chưa rõ được chỗ chánh trị đạo đức đại đồng mà lại chê bướng Nhân, Nghĩa, Lễ... đó là kẻ tội nhân của Lão Tử...”. Hay nói một cách khác “Đại đạo phế, hữu Nhân Nghĩa...” 大道廢, 有仁義 (Ch.18). Đạo nơi ta đã mất rồi, ta mới nhận thấy có người có ta nên mới có bày ra Nhân Nghĩa để nối lại cái Sống Một đã bị chia lìa. Còn
        thấy nhĩ ngã, nội ngoại là còn sống trong nhận định sai lầm của Tư Ngã (本我) (54) của nhãn kiến Nhị nguyên. Trang Tử, ở chương Thiên Vận (天運) giải thích vấn đề này có nói: “Thương đại tể là Đảng hỏi Trang Tử cái nghĩa của chữ Nhân. Trang Tử nói: “Ấy là đức của hổ lang”. Đảng hỏi: “sao vậy?”. Đảng hỏi: “Còn chí nhân thì sao?” Trang Tử nói: “Chí nhân không thân ai hết.” Đảng hỏi: “Tôi nghe nói không thân thì không thương, không thương thì không hiếu. Gọi người chí nhân là không có hiếu được không?” Trang Tử nói: “Không phải vậy. Chí nhân cao lắm. Hiếu không đủ để nói đến họ”.

        Như vậy, ta thấy kẻ mà khuyên ta “thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi; tín giả, ngô tín chi, bất tín giả, ngô diệc tín chi” lại bị người đời cho là vô luân lý chẳng phải là oan lắm ru! Đối với kẻ phải với ta, ta ở thành tín với họ, thì đó là lẽ thường rồi! Nhưng, đối với kẻ ở quấy với ta, đối với kẻ bội phản ta, thế mà ta vẫn cứ một mực ở phải với họ, thành tín chung thủy với họ, thì có cần phải đem Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín mà bàn với ta nữa không? Ta là kẻ đã đứng trên loài người: đạo đức luân lý thông thường như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đều là qua nhỏ bé đối với ta vậy?

        Khác với Nho, Lão Tử khuyên ta “dĩ đức báo oán”, và dùng chữ Từ… để đối xử với tất cả mọi người, bất phân kẻ thiện ngưới ác, thì chữ Từ ấy phảng phất với chữ Bác ái và Bát nhã bình đẳng của Nhà Phật. Những kẻ vịn lẽ Lão không phân Thiện Ác, và cho ông chủ trương vô luân lý là hiểu sai! Phải nói rằng luân lý của Lão là một thứ siêu đẳng luân lý mới đúng hơn.

        -----------------
        (51) Chương 25. (Goldfish)
        (52) Thành công rồi thì lui thân.
        (53) Do dự dường sợ, mắt ngó bốn bên
        (54) “Bản ngã”. (Goldfish).
        Annhien.
        Tâm an, vạn sự an
        Tâm bình, thế giới bình.

      Trang 2/6 đầuđầu 1234 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Niên nguyệt nhật thời phi tinh & Thần Sát
        By vanhoai in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 40
        Bài mới: 23-10-23, 16:33
      2. Trả lời: 27
        Bài mới: 18-09-16, 04:06
      3. Lưu nguyệt phi tinh
        By minhtienql in forum Tư vấn phong thủy
        Trả lời: 2
        Bài mới: 03-03-12, 16:05
      4. niên nguyệt phi tinh
        By vanhoai in forum Tư vấn phong thủy
        Trả lời: 14
        Bài mới: 26-03-10, 15:02
      5. cái cười của thánh nhân(NGUYỂN DUY CẦN)
        By vanti67 in forum Nghệ Thuật - Triết Lý
        Trả lời: 11
        Bài mới: 10-10-09, 00:16

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •