Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 3/18 đầuđầu 1234513 ... cuốicuối
    kết quả từ 21 tới 30 trên 177
      1. #21
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nam viết: Sát chuyên nhất mà thuần phục là dùng có hai, là chế cùng hóa vậy. Chế Sát là, Thực thần vậy, gọi là chịu phục vào lực lượng vậy. Hóa sát là, Ấn thụ vậy. Gọi là chịu phục vào đức dộ vậy. Cùng với lấy lực lượng để chế không bằng lấy đức độ để hóa, cho nên 《 Thông Minh phú 》nói: "Chế sát bất như hóa sát cao." Chế - Hóa không thể cùng xác lập, có chế thì không có hóa, có hóa thì không có chế. Mà nếu thần hóa nhược, thấn chế cường, việc ban ơn không đủ thì hóa oán; hóa thần vượng, chế thần suy, thì sự tình không có lực để cấm chế.

        Cổ ca nói: Thời thượng Thiên Quan một vị cường, bản thân kiện vượng phú phi thường. Năm, tháng đều không có Quan Tài Sát, đơn độc chỉ có ở giờ thì vị trí tốt tương đương.

        Lại viết: Thời thổ một vị quý,vốn tàng ở trong chi. Nhật chủ cần phải cương cường, lợi danh ở phương có khí.

        Bổ túc: Lời nói giờ có Thiên Quan, như Giáp gặp giờ Thân, Ất gặp giờ Dậu các loại, chính là tàng ở trong chi vậy, nhật chủ cường vượng, danh lợi nhất định vang dội, duy chỉ có kỵ thân nhược, trăm lực lượng cũng không thể thắng vậy.

        Lại viết: Thời thượng Thiên Quan hỉ có Dương Nhận xung, thân cường chế phục lộc phong phù, hưng thịnh. Chính Quan nếu cùng đến làm hỗn tạp, thân nhược Tài sinh thì chủ khốn cùng.

        Bổ túc: Thời thượng Thiên Quan, như Giáp nhật thấy can Canh, Ất nhật thấy can Tân các loại, không sợ xung, hình, Dương Nhận vậy. 《 Kế Thiện thiên 》 khứ nói: "Thời thượng quan hỉ Nhận hỉ xung " Nhật chủ sinh vượng, năm, tháng có Thực chế phục, gọi là Thực ở trước, Sát ở sau, công danh lưỡng toàn, tước lộc phong hậu, không hỉ Chính Quan đến hỗn tạp. Có huynh không nên có đệ, gia tăng thì thân thế càng suy nhược, Tài sinh Sát cùng bè đảng, nhất định chủ bần hàn khốn khổ, do đó không toại nguyện.

        Lại viết: Thời thượng Thiên Quan một vị cường, nhật thần tự cường quý phi thường. Có Tài có Ấn thì nhiều tài lộc, chủ định cả đời lấy vinh hiển.
        Bổ túc: Thời thượng Thiên Quan, chỉ có hỉ một vị, trong tứ trụ không cần thấy tiếp. Nhật chủ tự vượng, như Giáp Dần, Ất Mão, hoặc sinh ở ngày Dần Mão các loại, thì thân Sát lưỡng cường, phú quý hơn người, có tài thì Sát có gốc, có Ấn thì hóa Sát sinh thân, Tài Mã Quan Lộc, tự nhiên hưng vượng.

        Lại viết: Thời gặp Thất Sát là Thiên Quan, có chế, thân cường xem là mệnh tốt. Chế quá hỉ gặp Sát vượng vận, ba phương đều đắc địa phát sao khó?
        Bổ túc: Thời gặp Thất Sát, chính là Thời thượng Thiên Quan cách. Thân vượng có chế, như có một vị Sát, thì có một vị chế, chính là có Quý nhân. Văn chương chấn phát, coi như là mệnh tốt. Nếu có 2-3 vị cùng chế người quá thì là chế phục thái quá, gặp Sát vượng cùng tam hợp, vận đắc địa, thì phát đạt vậy, bừng bừng là không thể gặp. Tùy tiện chế phục thái quá mà lại không thể hành Sát vượng vận, tuy có vượt qua văn chương nhưng gặp cây Lý chặn lại, cuối cùng không thể hiển đạt.

        Lại viết: Không có lý chế phục vận cần thấy, không sợ hình xung nhiều toàn là Sát. Nếu là thân suy duy chỉ có Sát vượng, định mệnh này là bần hàn.
        Bổ túc: Thiên Quan có chế phục, không cần thấy tiếp ở vận. Nếu đang sinh trưởng mà gốc không có chế phục, hỉ hành vận chế phục, nguyệt thượng có Thiên Quan, sợ hình xung hợp lại nhiều Sát. Thời thượng Thiên Quan, không sợ tam hình, lục hại, Dương Nhận xungg phá, tụ hợp lại nhiều Sát, duy chỉ có hỉ thân cường Sát ít. Nếu là Sát trọng thân khinh, cuối cùng thân có tổn hại, tha hồ không yểu thọ, định là bần hàn.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #22
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Lại viết: Thời phùng Thất Sát gốc không có con cái, lý ngày là nói người đang có con ít thôi. Năm, tháng, giờ bên trong biết có chế, định là có con quý mà hiếm.
        Bổ túc: Thời thượng Thiên Quan kiến Lộc, chủ khắc tử. Nếu năm, tháng có Thực thần chế phục, hoặc có Nhận hợp, không chỉ có con mà lại quý. Cho nên viết: Thời thượng Thiên quan hữu chế, vãn Tử anh kỳ.

        《 Tứ Ngôn Độc Bộ 》nói: Thời Sát vô căn, Sát vượng thủ quý. Thời Sát Đa căn, Sát vượng bất lợi.
        Bổ túc: Mà như Canh dụng Bính là Sát, sinh ở Dần, vượng ở Tị Ngọ, khố ở Tuất, chính là gốc của Sát vậy. 《 Cách giải 》 lấy là gốc, cũng vậy. Nếu can thời hư lộ, đã không có khí gốc lại không có Tài sinh, vận động Sát vượng, phú quý có thể được, như Tam Hợp đắc địa, đã nhiều thì cần có khí gốc, lại có Tài sinh, tái hành đất Sát vượng, trái lại là không lợi mà nhiều bần khổ.

        Như: Ất Sửu, Ất Dậu, Tân Tị, Giáp Ngọ quê hương ở phương Đông, từ thiếu gia ban đầu là quý mệnh, kim hỏa tương đình, kim trọng hỏa khinh cách.
        Nam viết: Tân kim tọa Dậu vượng thành hành, hỏa luyện Thu kim rất phi thường. Kim vượng, hỏa khinh cần có hỏa vận, thiếu niên sớm bẻ quế ở quê hương (Ở đời khoa cử, ai đỗ khoa hương gọi là thiềm cung chiết quế, bẻ quế cung trăng).
        Tân sinh tháng Dậu, hỉ đắc Tị Dậu Sửu đầy đủ thành Kim cục, hỉ được thời thượng một điểm Đinh hỏa thần đắc Lộc, thời thượng một vị quý vậy. Là sáng tỏ. Đại để, kim khí toàn cục, kim khí hoàn toàn thắng, cho nên hành Ngọ vận, Giáp Ngọ lưu niên, thi trung Hương, liên tiếp bước lên Hoàng Giáp. Có người sinh năm Ất Mùi, thiếu mất một điểm kim, chỡ vận Ngọ không tốt, do đó lấy kim cần phải vượng vậy.

        Như: Đinh Hợi, Nhâm Tý, Tân Tị, Đinh Dậu, là Lâm Thư Thượng Thư quý mệnh, là kim bạch thủy thanh, thủy chế hỏa quá cách.
        Nam viết: Tân sinh tháng Tý, thủy kim thanh, lưu Sát xung Quan là cách cục rõ ràng. Kim lạnh thủy khinh, trọng sợ thủy, cần có hành hỏa vận để triển khai qua luân phiên.
        Khứ Lưu phối hợp ung dung, dùng cách rõ ràng. Can năm là Thất Sát, có Nhâm thủy khứ mất. Can ngày trong chi chứa Bính Chính Quan, trong Hợi có Nhâm thủy năng khứ mất. Duy chỉ có tồn tại thời thượng Đinh hỏa, lấy thời thượng một vị quý cách. Nhưng hỏa ở tháng 11 (Tý) là lúc phong hàn, hỏa khí suy nhược là bệnh, sợ đất kim thủy, cần có Bính Đinh Mậu Kỷ vận, là chân quý nhân vậy. Sắp xếp Bính Đinh có thể trợ giúp cho Sát đang suy vậy, Mậu Kỷ có thể chế Nhâm Quý thủy vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #23
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Phụ Quan Sát khứ lưu tạp cách

        《 Hỉ Kỵ thiên 》nói: Loại có khứ Quan lưu Sát, thì cũng có khứ Sát lưu Quan.
        Bổ túc: Việc này chính là Ngũ hành gặp chi tháng là Thiên Quan trong đoạn viết của hai câu 《 Cách Giải 》không rõ ràng, hơn thế chọn lựa kèm theo hoàn toàn luận bản thân ở Thiên Quan cách bên dưới.

        《Tam Xa nhất kiển 》 luận thuyết nói về Quan Sát khứ lưu cũng chọn lựa kèm theo, là có thể khứ Quan lưu Sát, tức là lấy Thiên Quan luận. Có thể khứ Sát lưu Quan, tức là lấy Chính Quan luận. Phàm xem khứ Quan lưu Sát, khứ lưu Quan đều cần xem bốn hướng Tây trong trụ Quan Sát cái nào khinh, thiên can thấu xuất thì dễ khứ, chi tháng tàng thì khó nói, cần được tứ trụ khứ Quan Sát của vật nhiều mà có lực, phương được Tài. Vật khứ Quan Sát vốn là Thương Quan, Thực Thần vậy.

        《Hỉ Kỵ thiên 》nói: Thần Sát tương bán, khinh trọng giác lượng.
        《Kế Thiện thiên 》nói: Tuế Nguyệt Thời trung, đại phạ Quan Sát hỗn tạp.
        《 Dịch Giám 》nói: Thiên Địa Nhân nguyên phân ngũ âm, âm dương diệu quyết thẩm kỳ chân. Khứ lưu thư phối tu tham thấu, phúc trung gian gian lý tự minh. ( ý nói là, Thiên Địa Nhân nguyên phân ra ngũ âm, âm dương diệu quyết đích thực là chân. Khứ lưu phối hợp thư thả cần xen vào Thấu, thành phúc ở lý rõ ràng )
        《 Vạn Kim phú 》nói: Quan tinh sợ hành Thất Sát vận, Thất Sát do sợ Quan tinh lâm. Quan Sát hỗn tạp làm thọ yểu, khứ Sát lưu Sát tử tế tìm.
        Lưu Sát khứ Sát không phùng sát, lưu Sát khứ Quan mạc phùng Quan. Quan Sát thụ thương nhân tất yểu, tràng nghi Tài cách định tiền trình.
        《 Tam Xa 》nói: Hợp Quan tinh không làm quý, hợp Thất Sát không là hung. Sao vậy? Nhật kinh nói: Hợp Quan tinh, trong trụ có Nhàn thần hợp khứ Quan tinh, do đó không là hung.

        Lại viết: Đại để, Hung thần có vật hợp khứ, thì phản hung thành cát. Cát thần có vật hợp khứ, thì phản cát thành hung. Hung thần: Thất Sát, Dương Nhận, Kiếp Tài, Thiên Ấn, Kiêu Thần, Thương Quan là các thần này vậy. Cát, Hung, Thần, Sát, lại phải xem cách cục, hỉ thần nào, kỵ thần nào, không thể chấp nhất mà luận.

        《 Tập thuyết 》nói: Tham hợp Vong Sát, tham hợp vong Quan. Như người sinh ngày Lục Quý, can đầu thấu lộ chữ Kỷ, chính là Quý gia Thất Sát. Như tiếp tục gặp chữ Giáp, chính là Kỷ gia hợp thần, thì hợp khứ chữ Kỷ, không còn là Sát nữa, gọi là Tham hợp vong Sát, ngày âm lấy Thương Quan mà hợp vậy. Lại như người sinh ngày Lục Nhâm, can đầu xuất ra chữ Kỷ là Quan tinh, như thấy chữ Giáp thấu xuất, chính là Kỷ gia bị hợp khứ chữ Kỷ, không còn là Quan tinh nữa, gọi là Tham hợp vong Quan, ngày dương lấy Thực thần mà hợp giới.

        Lại nói: Nhâm thủy gặp lại giờ dương thổ, lòng mang thù hận tức giận khởi không phải tranh giành. Đột nhiên Quý thủy đến cứu giúp, hợp ở hung ác, ngoan cố không lấy uy quyền.
        Bổ túc: Giờ dương thủy gặp loại Mậu thổ, tính tình như hổ, cấp táo như phong, thường trong lóng khí hay tức giận, thích đấu tranh, hay gay hấn, đột nhiên gặp em gái là Quý thủy, hoàn toàn là Sát Mậu thổ, thì Sát ngoan cố này tự tiêu tan, mà giảm bớt uy bạo. Như không có Quý muội đến hợp để cứu thì cương bạo không kể người thân, không khỏi thành kẻ giết người mà là kẻ giết nhà tù, chẳng phải có đau buồn, tư tưởng hãm hại cũng quá thay.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #24
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Lại viết: Nhâm gặp Kỷ thổ muốn làm Quan, thình lình bị dương thanh khởi tụng bắt đầu. Mê hoặc hợp khứ sinh chân quý, đến nỗi lệnh gặp khó khăn hàng vạn hàng nghìn cách.
        Việc này nói đến Tham hợp vong Quan làm ví dụ vậy, cũng che đậy lấy Thực thần mà hợp Quan.

        Bổ túc: Dương thanh là Giáp mộc vậy, Chân quý là Kỷ thổ là Quan vậy. Cái Nói Nhâm thủy lấy Kỷ thổ là Quan quý, sợ Thương sợ hợp, tùy tiện bị Giáp mộc hợp Quan tinh mà tổn thương thì là Tham hợp vong Quan. Đem thấy ở trung tín làm kẻ thù đấu tranh mà mợ đầu việc tranh cải kiện tụng, chân quý khứ mất mà làm hạ tiện, mà hàng vạn cách chịu nhục, do đó gọi Hợp Quan tinh không thành quý vậy.

        Lại viết: Quan Sát Tương liên chỉ luận sao, can tháng có Sát, can năm sao Sát mà can tháng có Quan, gọi là Tương Liên, lập lấy Sát luận. Can năm là Quan, can giờ là Sát, can năm là Sát, can giờ là Quan, vốn là mỗi cái phân ra, chính là hỗn tạp. Thực thần phạm nặng, như Giáp thấy hai Bính, tam hợp là Thương Quan, thấy nhiều Quan tinh, như Giáp thấy hai Tân, địa chi thấy nặng, chỉ lấy Sát luận. Sát ở can, Quan ở chi, vốn là lộ Sát tàng Quan. Chính là lấy Sát nói, Quan ở can, Sát ở chi, vốn là lộ Quan tàng Sát. Chỉ lấy Quan luận. Thân thế cường kiện, thì lực có thể thắng Quan Sát này, nhiều nói là thanh quý, nếu thân nhược vô khí, Quan Sát thấy nặng thì tai họa ập đến, bản thân vốn là một điểm đặc biệt vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #25
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Quyển nhị

        Nguyệt chi Chính Tài cách, phụ khí tòng Tài cách

        Nam viết: Chính Tài là gì? Tài là vật của tính mệnh Ta, người thấy không hẳn là không muốn. Nếu thân chủ có khí thì có thể đảm nhận, như vàng bạc châu báu, như điền sản, đều là vật dụng của Ta vậy. Thân nhược thì không thể đảm nhận, như cường đạo ăn trộm tài vật con người, sự việc phát sinh thì tài vật sẽ làm hại mệnh vậy. Sách nói: "Phùng Tài hỉ Sát nhi ngộ Sát, thập hữu cửu quý." ( Tức là: Gặp Tài mà hỉ Sát lại gặp Sát, thì mười phần có chín phần quý), kết quả cho dù hơn mà không cần phải nói. Như người dụng Tài, nhật can vượng, Tỉ kiên Huynh Đệ nhiều thì chỗ này là Tỉ Kiếp, lại thêm tranh đoạt Tài của ta vậy, thì hỉ có Quan Sát để khứ bớt Tỉ Kiếp, mà Tài tinh được tồn tại. Như thân nhược Tài nhiều, lại xuất hiện Quan Sát đến khắc thân, thì tính mệnh của bản thân tạm thời không thể bảo vệ thì làm sao có thể được yên ổn mà hưởng Tài? Tài, Quan tinh nhiều mà thân chủ vượng, thì hỉ Thực thần Thương quan để lấy sinh khởi Tài thần. Như thân chủ nhược, Tài tinh nhiều thì hỉ Huynh Đệ Tỉ Kiếp để phân chia, có phụ mẫu Ấn vận để trợ giúp. Phàm dụng Thiên Tài thì chủ gặp nhiều phú quý, dụng Chính Tài thì còn nhiều bất cập. Cái âm khắc thì rõ ràng là thích thêm, còn dương khắc dương mà Tài thần có khí thì dụng ngày giờ có Thiên Tài lại càng tốt. Chỗ này cần thử nghiệm nhiều, cho nên dùng Thiên Tài nhiều là thượng cách; cũng có khi Tài thần công hiệu gần gũi, nếu có Tỉ kiên ngăn cách, không thuần hòa thì cũng không tốt, chỗ này gắn bó với ngũ hành chính lý.

        Khí mệnh tòng Tài cách, chỗ này không luận âm dương mà nhật chủ cũng tòng vậy. Tài chính là vợ của Ta, thân chủ không có lực, không thể đảm nhận Tài vậy, chỉ được bỏ mệnh mà tòng theo. Như bản thân con người không có chủ, chỉ được theo về nhà vợ mà sẽ sinh Tài tinh, mà cũng sợ thân nhập Tài, chính là đất Ấn sinh, tức là giống khí mệnh tòng Sát mà luận, lý lẽ xuất phát là thỏa đáng.

        《 Kế Thiện thiên 》nói: Nhất thế an nhiên, Tài mệnh hữu khí.
        Bổ túc: Đoạn này cũng có hai thuyết: Hoặc là Nhật Tài mệnh khí, là Tài tinh cùng thân mệnh đủ khí; Hoặc là Nhật thuần nói là Tài nguyệt ở đất có khí sinh vượng, nhiều kinh văn nói là chữ mệnh nối liền với chữ Tài, người thời nay cũng nói người đời thích mệnh tài là vậy. Sau khi thuyết phục mạnh mẽ.
        Nghiên cứu 《Tiệp Huyền Diệu khối 》nói: "Quan chính là gốc phù thân, Tài là gốc dưỡng mệnh" thì mệnh là thân mệnh vậy. So với chú thích cũ cũng phân chia Tài Mệnh ra làm hai, nhưng cách chọn từ ngữ không rõ ràng, cho nên việc bày giải còn nhiều nông cạn, nghi ngờ. Như Tài vượng có khí, mà thân nhược, nhất quyết không có thể hưởng an vui suốt cả đời. Cho nên ở trên nói: "Tài đa thân vượng, tắc đa xưng ý."
        Cổ ca lại nói: “Tắc tài mệnh đương vi quý, nhược thị thân suy họa tiện lâm”. Cho nên chỗ này thấy rõ là Tài và Thân mệnh là hai chữ khác nhau.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #26
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        《Cô Chá thiên 》nói: Chính Tài có khí hỉ cường, dương lấy âm Tài, âm lấy dương Tài, thân nhược Tài vượng thì thành họa, thân cường Tài vượng lợi danh lâu dài. Chỉ lo Quan Quỷ sợ Không Vong, Ấn thụ tương sinh là vinh quý hưng thịnh. Hưu tù thì thiếu niên không như ý, lão đến vượng vận tốt thì hưng thịnh.
        Bổ túc: Như Giáp sinh tháng Ngọ, Ngọ trong có Kỷ thổ, là Chính Tài của Giáp mộc và có Đinh hỏa sinh. Ất sinh tháng Tị, Tị trong có Mậu thổ, là Chính Tài của Ất, và Bính hỏa sinh cho, vốn là thân cường, Chính Tài có khí là tốt nhất vậy. Giáp sinh tháng Ngọ, Bính sinh tháng Dậu, Mậu sinh tháng Tý, Canh sinh tháng Mão, Nhâm sinh tháng Ngọ, chi âm mà can dương là Chính Tài vậy.
        Ất sinh tháng Tị, Đinh sinh tháng Thân, Kỷ sinh tháng Hợi, Tân sinh tháng Dần, Quý sinh tháng Tị, lấy chi dương phối can âm là Chính Tài vậy.
        Như thân ở đất hưu tù tử bại, thiên nguyên quá nhược, trong trụ can chi trọng nặng, có tam hợp Tài nhiều, không phải là kẻ vô ích, trái lại sinh Sát sinh nguy tai, là nói chỉ sợ gốc của nhật can tự nhược, là Tài nhiều sinh Sát gặp phải thân suy là vậy. Như thân ở đất lâm quan, vượng, hoặc bên trong có sinh phù, và tam hợp Tài quá vượng, thì phú quý lợi danh thanh hiển, còn chỗ Tài nhiều thì bản thân phải tự lượng sức mà làm,thì hãy tự toan tính thóc lúa cho ta là vậy. Sợ Quan quỷ, cái Quan quỷ chính là kẻ cướp lấy khí Tài mà khắc bản thân ta, vốn là đáng lo buồn, cướp khí Chính Tài nhiều thì bản thân tự nhu nhược vậy. Sợ Không Vong, chính là Lục Giáp Không Vong, như trong tuần Giáp Tý thì lấy Tuất Hợi là Không Vong. Tài lạc vào Không Vong, nhất định nghèo nàn, túng quẫn, không tụ tài được là đáng sợ. Không Vong làm hại nhất đối với sinh mệnh con người, dù cho có tích lũy tài của nhiều thì cũng nghèo mà suy vậy. Ấn thụ tương sinh vinh quý hưng thịnh, là nói Tài nhiều thân nhược, hoặc có mang Quan quỷ mà có Ấn thụ tương sinh thì tự nhiên phú quý vinh hưng thịnh.
        《 Độc Bộ 》nói: "Tiên Tài hậu Ấn, phản thành kỳ phúc."
        《 Thông Minh phú 》nói: "Tài phùng Ấn trợ, tương như thừa tứ mã chi xa." Chính là chỗ này vậy.
        Còn hai câu Hưu Tù bạc niên, chỗ này là nói Tứ trụ nếu Tài đa thân nhược mà tuổi còn trẻ ở đất hưu tù thì cũng không như ý, không chỉ không phát phúc, mà cũng gặp họa hoạn cả trăm điều. Hoặc là năm gặp đến đất Ấn thụ, hoặc tam hợp trợ vượng cho Tài khinh, thì hỉ Tài Quan vượng vận, kỵ đất Thân vượng Tỉ Kiếp, cho nên cần phải biết tính toán khinh trọng . Cũng có thân nhược mà toàn là khí khắc căn gốc, cục đầy Tài Sát thì là khí mệnh tòng theo, hành đến đất Tài Quan vượng, có đại phát, không thể lấy Thân nhược Tài Đa mà đoán.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #27
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        《Tứ ngôn Độc bộ 》nói:
        Âm hỏa tháng Dậu,
        Khí mệnh thành Tài.
        Bắc hành nhập cách,
        Nam đến thành tai.
        Nêu ra một đoạn này, lấy ví dụ thập can Tài mà đoán.
        Nam viết: Đinh hỏa trường sinh ở Dậu, là Thiên Tài đắc vị, trong trụ có ba kim, Tài nhiều mà khí gốc không có, thì là khí mệnh thành cách. Vận hành phương Nhâm Quý Hợi Tý là hành phương Bắc là trở thành nhiều phú quý, không thể không tòng theo Tài, nếu trái lại là mang tai họa. Chỗ hội gặp khí gốc, làm cho mệnh không có tình là vậy. Chỗ này xem một câu Nhập cách thì tòng Tài lại là kỵ Sát, càng không thể chấp nê vậy.

        Tân Tị, Đinh Dậu, Bính Dần, Kỷ Sửu. Đây là phú mệnh, thân vượng có thể gánh nổi Tài.
        Nam viết:
        Bính sinh tháng gốc hỏa thần nhỏ,
        Tài vượng ngại là hỏa khí thiếu.
        Hỏa thiếu kim nhiều cần hỏa địa,
        Bổng nhiên phát giàu nhờ đất vượng.
        Bính hỏa tuy tử ở Dậu, được viêm Lộc ở Tị, Bính hỏa được sinh ở Dần, lại hỉ có Đinh hỏa Dương Nhận thấu thiên can tương phù vậy. Nhưng mà kim khí hoàn toàn thắng, hỏa khí hoàn toàn khinh, hỉ vận hành đến phương để bổ túc cho hỏa, là nơi tài phát kể ra hàng vạn đồng. Có Nhật can là Bính Tý thì chỉ lấy Tài đa thân nhược, tuy hành đến mà cũng bần vậy, là do gốc không có Dần cung hỏa vậy.

        Mậu Dần, Ất Sửu, Bính Thân, Canh Dần. Vân Nam phú mệnh, thân vượng dụng Tài cách.
        Nam viết:
        Bính hỏa đề cương Nhị Dương hướng,
        Hỉ đến Tài khố thêm thân cường.
        Bính gặp thân vượng lại gặp Tài,
        Nhật chân kim hỏa gấp bội thường.
        Mặc dù không là Bính hỏa sinh mùa Hạ mà kim thì trùng điệp, mệnh giàu có , phàm Bính Đinh vượng thấy kim, nhưng có thể lý luận ở chỗ này là đơn độc có Bính Đinh thấy kim, là chân Tài của trời đất, nhật can gặp thì 10 có 9 phần là giàu có. Tạo này hỉ có trụ năm, trụ giờ Bính hỏa được trường sinh ở Dần, lại có Ất mộc kề thân, thì thành thân vượng. Mà Nhị Dương tiến khí, lại hỉ có Canh kim thấu xuất, Tài thần rõ ràng, sao không giàu? tháng Tị Ngọ Mùi, hỏa trái lại sợ nhược, hỉ hỏa vượng, tháng Tý Sửu Hợi vượng vậy. Chỗ này thấy ngoài chính lý vậy.
        Giáp Ất sinh Dần Mão Thìn, Bính Đinh sinh Tị Ngọ Mùi, Canh Tân sinh Thân Dậu Tuất, Nhâm Quý sinh Hợi Tý Sửu, đều cần thân vượng. Sơ lược hỉ thấy 1, 2 điểm khắc thần, khắc nhiều thì nhiều là bần yểu, cho nên chỗ này thấy ngoài lý lẽ, cần thử nghiệm nhiều lần.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #28
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Bính Dần, Giáp Ngọ, Đinh Dậu, Ất Tị. Tân Bình Ngô phú mệnh, hỏa sinh trưởng mùa Hạ, kim trùng điệp cách.
        Nam viết:
        Đinh sinh tháng năm hỏa tuy viêm,
        Hỏa vượng kim nhiều phú tự nhiên.
        Hỏa nhiều kim ít là có bệnh,
        Vận hành kim thủy phát rầm vang.
        Đinh hỏa lộc vượng ở năm, năm tháng có Tỉ hộ hỏa thần thái vượng, cho nên tổ tiên tiền của ít vậy. Được Tị Dậu kết thành kim Tài cục, thân vượng dụng Tài, Bính Đinh hỏa vượng thấy Canh Tân, chính là chân Tài của trời đất. Phàm Bính Đinh nhược trái lại là không phải, càng thử nghiệm thì càng ứng. Nhưng mà dụng Canh Tân kim Tài tinh thấy Tý vận, do kim tử ở Tý vậy. Tạo này đại vận nhập Dậu Tài khinh, hỉ hành vận Tài vượng, tiếng tăm rền vang, nhập vào vận Tý nói tử hình, giàu có thì trờ lại như cũ vậy.

        Giáp Thìn, Bính Tý, Kỷ Mùi, Mậu Thìn. Lâm Trung chỗ quý mệnh, thổ trọng mộc khinh cách.
        Nam viết:
        Nhật chủ can cường Thất Sát khinh,
        Tài đến sinh Sát dưỡng tinh thần.
        Sát tàng Quan lộ là chân quý,
        Thiếu niên sớm đăng cao Hổ bảng.
        Nhật can Kỷ Mùi, thân tọa mộc khố, lại thêm trụ năm, giờ trọng nặng thấy thổ, nhưng Kỷ thổ lại sinh ở tháng nhược, Tỉ nhiều cũng có thể hóa nhược thành vượng cho nên có thể dụng Tài, hỉ Tài tinh thành cục, mà thành Tài khố. Nhưng Mậu Kỷ thổ nhiều đến làm tổn Tài thần là bệnh, lại được tứ trụ có Giáp Ất là mộc, đến ám phá Mậu Kỷ là dược. Nhưng tháng Tý làm mộc khô, hỉ vận Đông phương vượng trợ giúp khí mộc bị suy, lấy phá Kỷ thổ vậy. Thiếu niên đậu khoa đệ là đương nhiên. Nhưng gốc mộc vượng thì sợ Đông phương. Mệnh này thì gốc mộc khinh, mà hỉ vượng vận vậy.

        Đinh Mão, Ất Tị, Bính Dần, Đinh Dậu. Phu nhân quý mệnh, hỏa trường sinh ở dưới nghiêng về kim trùng điệp.
        Nam viết:
        Bính hỏa thân cường Tài cũng cường,
        Vượng phu càng hỉ nhập Tài hương.
        Tài thần thành cục gốc phong hậu,
        Tử tú phu vinh lớn dị thường.
        Bính hỏa thân vượng gặp Tài, không phải chỉ có nam nhân là phú quý, nữ mệnh gặp cũng chủ Tử quý, Phu vinh. Cái được Dậu là chân Tài thành cục, gốc Tài rất nhẹ, Tây phương bổ túc để khởi thần, chồng là quan Thái Thú, vàng bạc châu báu đầy nhà, chẳng phải thích hợp ư?
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #29
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nhâm Thìn, Mậu Thân, Quý Mão, Bính Thìn. Vợ Tham chính, tài vượng sinh cách.
        Nam viết:
        Sinh thân Mậu thổ thấu phu tinh,
        Tài vượng sinh phu cách gốc rõ.
        Vận nhập Nam phương phu vượng địa,
        Giúp phu giúp Tử bước lộ trình.
        Quý thủy hợp Mậu thành hỏa cục, thân chủ không nhu nhược, phu tinh khí nhẹ, chính là phương có bệnh thành quý vậy. Hành Nam phương Tài vận vượng phu, Phu Tử đều quý hiển, chẳng lẽ tình cờ ư?

        Tân Dậu, Canh Tý, Mậu Tý, Quý Hợi. Phú nữ mệnh, phu khinh hành phu vượng vận cách.
        Nam viết:
        Mậu đến Tý nhật tọa Tài tinh,
        Tối thượng phu tinh cách cục rõ.
        Tối hỉ vận hành phu vượng địa,
        Giúp hưng phu tử có thanh danh.
        Mậu Tý nhật chủ, là Tài tinh quá nhiều vậy. Nếu vượng thì xem nhược, Giáp mộc là phu tinh bên trong cực suy, lại thêm Canh Tân kim làm tổn hại Giáp, vận nhập Đông phương trợ Phu sinh Tử mà phát đạt. Nhưng thân chủ nhược, dù cả đời phát tài mà thân thường là có tật bệnh vậy. Cho nên Tài Quan quá vượng, nhật chủ quá nhược, cha mẹ thì rất nghèo, gia đình chồng thì rất hưng thịnh, nhập Tị vận Canh khắc khứ phu tinh mà chết.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #30
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Thương Quan, Thực thần cách

        Nam viết: Thương Quan, Thực thần, một âm một dương. Thương Quan âm thấy âm, Dương thấy dương. Thực thần đều là vật cướp khí của Ta vậy. Sách Tử Bình nói về thần Thương Thực, sách tuy quá nhiều nhưng chỗ nói đều là không gần gũi.
        Sao gọi là Thương Quan vậy? Bản thân con người lấy Quan tinh là ông quan quản lý bản thân, như quan huyện phủ các loại vậy. Động tác vào ra đều cần có tuân thủ theo luật lệ, không thể làm điều xằng bậy được.

        Trước mắt quy tắc xem Thương Quan còn gọi là Thương sát kỳ quan, không phục sự cai quản của Quan, như thương sát Quan trên vậy, thì thành là dân cường tặc sống ngoài vòng pháp luật. Như cách này, sẽ không thấy Quan tinh, như lại thấy Quan tinh, liền đến đánh quan phủ huyện, lại tiếp tục khứ mất Quan phủ huyện, thì Quan đồng ý tha cho anh ư? Sách hiện nay chỉ nói: "Thương quan kiến quan. Vi họa bách đoan." Mà không nói thẳng ra lý lẽ.

        Lại viết: Thương Quan thương tẫn là tốt nhất, lại càng sợ thương tổn nhiều thì trái lại là không phù hợp. Chỗ này tuy là lý do chính 《 Chí Thông Huyền 》 nói: "Thương quan cách, tứ trụ đều không thấy Quan tinh, vốn là nhập cách, nhưng mà thanh thuần lại không có bệnh" có thể xem thêm thuyết về Bệnh Dược. Tuy nhiên, nhật can có khí, nếu tứ trụ trọng nặng Thương Quan, cướp lấy hết tinh khí của Ta, như người chịu nhiều lần phải uống thuốc bổ, thì thân do nóng mà tiết, đả thương nguyên khí, thì làm sao mà cứu. Như chỗ này là nhược, thì dụng thuốc phụ tử, phương có thể cứu được tính mệnh. Nếu bát tự trùng điệp Thương Quan, Thực thần, gốc nhật chủ lại càng suy nhược, cần cấp tốc hành Ấn vận để phá kỳ Thương Quan, hành Tài vận để tư nhuận cho nhật chủ, chỗ này là mệnh có bệnh, được dược cứu cũng là nhiều phú quý. Lại như nhật chủ sinh vượng, Tỉ kiên quá nhiều, Tài thần suy nhược, thì Thương quan lấy Tài làm dụng thần vậy. Chính là lại thấy Quan tinh để chế Tỉ Kiếp, mà lấy sự tồn tại cho Tài tinh vậy. Sao lại hỉ thấy Quan, trước sau tiến thoái mà nói vậy. Bởi vì bản thân ta nếu Huynh Đệ quá nhiều, nhưng Quan tinh lại đến chế huynh đệ ta, lấy tồn tại Tài tinh của ta, chỗ này Quan tinh là phúc cho Ta, không đến gây họa cho Ta vậy.

        Cho nên sách nói:
        "Mộc hỏa thấy Quan Quan cần vượng,
        Kim Mộc thương hỉ lại thấy Quan."
        Người lập ra lời nói này trái lại làm cho người ta càng nghi ngờ, hoàn toàn không nói rõ thuyết tiến thóai, chẳng phải là cố chấp hay sao? Sao vậy? Cái Mộc Hỏa Thương Quan cách, giống như Giáp Ất mộc sinh ở tháng Dần, thấy hỏa là Thương Quan, hỏa này là hư hỏa, ánh sáng chưa mạnh, mà khí mộc cứng cần đẽo gọt, tuy thấy hỏa mà tính chất mộc là chân thực không bị đốt cháy. Lại nếu mộc vượng, thì hỉ Canh kim Quan tinh vượng tướng, để khắc chế mộc vậy. Thì kim mộc có mặt mà nói là vật dụng, thì mộc hỏa thấy Quan Quan cần phải vượng, là lý lẽ phù hợp vậy. Nếu Giáp Ất mộc đến sinh tháng Tị Ngọ, viêm hỏa cướp khí Giáp Ất mộc, thì gọi là Thương Quan chân chính vậy. Gốc lại tiết mộc tinh anh quá nhiều, lại thêm Canh Tân Quan Sát, chế khắc nhật chủ, chỗ này thì mộc hỏa Thương Quan cũng sợ thấy Quan vậy. Nếu nhật chủ vượng, Thương Quan nhiều, thấy Quan Sát trái lại là quyền sát thuộc về ta, cũng nhiều phú quý.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 3/18 đầuđầu 1234513 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 0
        Bài mới: 05-06-13, 16:33
      2. Dụng thần Tứ trụ và Phong thủy???????????
        By athaiathai in forum Tử bình
        Trả lời: 0
        Bài mới: 18-01-13, 20:37
      3. Kỳ môn phong thủy khẩu quyết
        By thoitu in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 15
        Bài mới: 02-08-12, 09:29
      4. Thần Khảo Âm Trạch
        By hoa mai in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 15
        Bài mới: 11-05-11, 01:18
      5. Xin các bác mách cho em địa chỉ thầy xem phong thủy
        By morality in forum Tư vấn phong thủy
        Trả lời: 2
        Bài mới: 18-08-10, 22:40

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •