Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 2/5 đầuđầu 1234 ... cuốicuối
    kết quả từ 11 tới 20 trên 42
      1. #11
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        905
        Cảm ơn
        801
        Được cảm ơn: 898 lần
        trong 448 bài viết

        Default

        Ở diễn đàn tuvilyso.net, bác VDTT đã trở lại và đưa cho mọi người cách ứng dụng Thái Tuế nhập quái ở Đài Loan:

        Ông Trần Thế Hưng (Đài Loan) thuộc thế hệ 5x, là lớp nổi lên sau ông Tử Vân (Đài Loan). Theo lời tự thuật thì ông bắt đầu với khoa Tử Bình, từng theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian và có qua lại với Liễu Vô cư sĩ, nhưng sau nhờ một thầy khác mới được “mở hai mạch nhâm đốc”, mạnh dạn vừa làm thầy xem Tử Vi vừa viết sách Tử Vi dương danh thiên hạ. Các sách của ông Hưng nhắm vào những lá số người thật có cùng nét đặc biệt như “Vi hà bất hôn thiên” (vì sao không lập gia đình), “hôn ngoại tình thiên” (những kẻ ngoại tình). Bài sau đây được chọn vì có xử dụng cả hai kỹ thuật sau:

        -Phép mượn cung: Phép này khá thông dụng ở Đài Loan, được nhiều người xử dụng từ lâu. Thí dụ: Ông X đang ở cung Tí thì cung thê của Tí (tức cung Tuất) ứng với vợ hoặc tình nhân của ông X. Giả như ông X ngoại tình với một người đã có chồng là bà Y trong hạn này thì bà Y ứng cung thê của hạn nên ứng cung Tuất (thê của Tí). Lại nữa, vì bà X ứng cung Tuất nên chồng bà X ứng cung Thân (là cung phu của Tuất). Đại khái như thế.

        -Phép “Thái Tuế nhập quái” : Phép này nhờ ông Tử Vân mà trở thành hết sức phổ biến ở Đài Loan, dù chỉ mới nổi lên trong vòng hơn hai mươi năm nay thôi. Như trường hợp ông X ngoại tình với bà Y như ở trên nếu dùng lá số của ông X để xem diễn biến ra sao thì coi cung có địa chi của bà Y ứng với bà Y, lại thêm các sao hóa theo năm sinh của bà Y vào; rồi phối hợp dữ liệu mà đoán tốt xấu. Nói chung chung nhiều lộc tụ tập thì tốt, bị kị sát tụ tập thì xấu nhưng đi vào thực tế thì có thể hết sức phức tạp.

        Định nghĩa vài thuật ngữ:
        Tiên thiên (ứng toàn bộ): Tiên thiên mệnh là cung mệnh, tiên thiên phu là cung phu v.v…

        Hậu thiên, hạn (ứng đại hạn 10 năm): Hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh là cung đại hạn. Từ cung đại hạn lùi lại 2 cung thì được hậu thiên phu hoặc hạn phu. Thí dụ đại hạn ở cung Hợi thì gọi Hợi là hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh, gọi Dậu là hậu thiên phu hoặc hạn phu.

        Lưu (ứng một năm): Lưu mệnh là cung chứa lưu Thái Tuế. Từ lưu mệnh lùi lại hai cung được lưu phu. Như năm xem hạn là năm Tí thì Tí là lưu mệnh, Tuất là lưu phu.

        Chú ý về cách xem nhân duyên của ông Trần Thế Hưng :

        Chỉ xem chính tinh tứ hóa Lộc Tồn lục cát lục sát Khốc Hư Hình Riêu Đào Hồng Hỉ. Các sao còn lại bất luận lớn (như Tuần Triệt song Hao) hoặc nhỏ (như Giải Thần, Âm Sát) đều không xem.
        An Hỏa Linh thuận theo giờ cả, không phân nam nữ âm dương như VN.

        Trích sách “Hôn ngoại tình thiên” (dịch nghĩa “Các lá số ngoại tình”), 1994, nxb Tiêm Đoan, Đài Bắc.

        Trường hợp 11: Cô Dương, Ất Mùi 1955, âm lịch tháng 3 ngày… (3 hoặc 13, hỏa lục cục, mệnh cư Sửu vô chính diệu, phu Tử Sát cư Hợi) giờ Mão

        http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/0...55/1/Duong.jpg

        Nguồn : tuvilyso.net
        thay đổi nội dung bởi: htruongdinh, 17-10-10 lúc 10:57
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "htruongdinh" về bài viết có ích này:

        macchulan (18-10-10),mannamdinh (08-01-12),Yen Binh (26-06-11)

      3. #12
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        905
        Cảm ơn
        801
        Được cảm ơn: 898 lần
        trong 448 bài viết

        Default

        http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/0...55/1/Duong.jpg

        Cô D làm nghề phục vụ, việc không ổn định. Năm Quý Hợi quen ông M sinh Mậu Tý (1948), năm Ất Sửu 1985 sinh đôi. Năm Tân Mùi 1991 quen ông R (Kỷ Mão 1939) đã có vợ.

        Mệnh Kỷ Sửu VCD Linh độc thủ (dịch giả chú = dgc: Cách tiêu chuẩn của Đài Loan là Hỏa Linh an thuận theo giờ cả), xung có Vũ Tham Xương Khúc, tam hợp Phủ Tướng.

        Mệnh: VCD, hai cung giáp cung VCD nên mệnh ở vị trí rất yếu. Khi một mình đối diện chính mình không khỏi có cảm giác cô độc lo sợ, cho nên thành tính lệ thuộc ngoại cảnh, không thích một mình. Tự tin không đủ nên không hợp các công việc khó khăn phải tự quyết định nhiều, tốt nhất là có liên hệ với người. Cô D làm nghề phục vụ vậy là thích hợp cá tính.

        Linh Tinh độc thủ khó tránh nóng vội, vì VCD tính nóng vội thường khiến mình phiền lụy mệt mỏi, may không gặp Kình Đà bằng không thì như người xua nói “khó tránh hình khắc”.

        Mệnh VCD, di là lốt giả, Vu Tham Xương Khúc thành nhiều cách cục Xương Tham, Khúc Tham, Linh Tham, LXĐV (trong luu niên). Cô D bản tính bất ổn, có suy nghi khác thường, khả năng học hỏi cao, cũng dễ tẩu hỏa nhập ma. Thuộc týp dễ lên dễ xuống. Làm việc sáng kiến chẳng dở, công việc nhiều biến đổi.

        Người xưa nam mệnh thích Xương Khúc, như “Văn Khúc Văn Xương Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân”, “Tuấn nhã Văn Xương, mi thanh mục tú; lỗi lạc Văn Khúc, khẩu tài tiện ngụy…”, “Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng”… (nhưng) nữ mệnh gặp Xương Khúc thì e bất cập, như “Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn”, “Dương phi háo sắc tam hợp Văn Xương Văn Khúc” vân vân… Thời đại ngày nay nam nữ mệnh giống nhau, ưu điểm là khả năng học tốt, ngoại hình khá; khuyết điểm là dễ chuốc phiền toái, khôn quá hóa dại; nhất là hai sao Vũ Tham rất kị Xương Khúc. Sinh giờ Mão, Dậu rất dễ gặp hai sao này cùng chỗ.

        Tại sao Tham Vũ không thích gặp Khúc Xương?

        1) Vũ Tham gặp Xương Khúc thành cách ác Xương Tham, thêm Linh Tinh lại thành cách LXĐV, một đời khó tránh lên xuống gập ghềnh.

        2) Đại hạn luu niên dễ gặp Kị. Kỉ Tân Nhâm Quý 4 năm đều có Kị, cơ hồ thành cách “liên Kị“. Đại hạn có may tránh đuợc thì lưu niên cũng chẳng thoát qua, khiến con người bất ổn hoặc vận hạn gập ghềnh.

        Theo kinh nghiệm của người viết (dgc: tức ông Trần Thế Hưng), diễn viên và quảng cáo viên nhiều người có số thế này. Bởi vì đời họ hoặc công việc của họ phù hợp với tính nhiều biến đổi, hay là vì làm các nghề ấy mà sinh ra nhiều biến đổi?

        “Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân” thời xưa có thể phù hợp bởi người Vũ Tham phải có tuổi mới ổn định, mà (xưa) cá tính ổn định mới mong có tiền đồ. Ngày nay đời sống biến đổi, cá tính bất ổn có khi hợp trào lưu; nên anh hùng xuất thiếu niên chưa chắc là việc khó, miễn là vận hạn tốt, cá tính ngoại hình không quá khó thương. Người xưa ắt nói đúng, nhưng thời đại biến đổi, theo người viết phải uyển chuyển không thể quá câu nệ; phải dựa vào các ngành nghề (phù hợp hay không) mà dụng lẽ biến thông.

        Thân (thiên di): Thân cư thiên di nên rất chú ý lời bình luận của người khác, lại nữa mệnh VCD nên tình hình càng nghiêm trọng. Có lúc tỏ ra cứng cỏi vì sợ người khác biết là mình “rỗng” và bất an. Di có thể nói là mạnh nên khả năng giao tế, tiếp xúc khá, lắm bạn và nhiều loại (Tả Hữu). Cho người ta ấn tượng tốt.

        Phúc: Liêm Phá trái phải có Kình Đà giáp chế, hai bên đều VCD, khó thoát cảnh tâm sự trùng trùng không khai mở được. Tinh thần thiếu chỗ nương tựa. Tương đối coi trọng tiền tài.

        Phu thê: Tử Sát một thuộc thổ một thuộc Kim đều không đủ linh động, xử lý tình cảm không khỏi quá lí tính, là loại ngoài nhiệt tâm mà trong lãnh đạm, tự nhiên bất lợi cho phương diện tình cảm.

        Tam phương không thấy Tả Hữu, là kết cấu “cô quân”. Lúc khởi sự có thể hứng thú, sau thành thực tế. Loại người này chẳng phải là không thích hợp kết hôn, nhưng phải tìm bạn đời có tính độc lập, ai lo chuyện người nấy, không can thiệp người kia. Sống rất thực tế thì lại có thể lâu dài. Giả như gặp người tính lãng mạn, thích gần gũi thì lại có thể chịu không nổi. Loại người này, cổ nhân liệt vào dạng “cô khắc”.

        Chẳng phải là người ta không thích được yêu, chỉ là mỗi ngưòi thích được yêu một cách khác nhau, chẳng thể lấy cái nhìn của mình để xét ngưòi khác.

        Tiêu chuẩn chọn đối tượng của cô Dương khá cao. Không được đóng ấn phê chuẩn thì đừng hòng làm khách vào được vòng trong.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "htruongdinh" về bài viết có ích này:

        macchulan (18-10-10)

      5. #13
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        905
        Cảm ơn
        801
        Được cảm ơn: 898 lần
        trong 448 bài viết

        Default

        Giải thích các đại vận

        Kỷ Sửu (6 đến 15 tuổi): Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.

        Mậu Dần (16 đến 25 tuổi):Tham Lộc nhưng Cơ chuyển Lộc ra Kỵ, thành thử mệnh đắc Lộc còn hạn bị song Kỵ. Hạn lại VCD bị Không Kiếp Đà thủ chiếu, là vận yếu nhất trong đời. Nhà bi phá sản, kinh tế khốn quẫn mà cô Dương tranh thủ học được đại học là tại sao? (Trần Thế Hưng chú: Xem Lộc Quyền ở đâu).

        Cô Dương hạn tài, quan đều có Kỵ, khi đối diện chính mình tất khổ không thể nói được; nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười, lại nghĩ được biện pháp kiếm tiền để tiếp tục học hành; tại sao thế, bạn có xem ra không?

        Kỷ Mão (26 đến 35 tuổi): Tứ hóa như hạn Kỷ Sửu, chỉ khác là bây giờ (Lộc Quyền Kỵ) ở hạn quan thay vì hạn di. Ba hạn liên tiếp bản mệnh đắc Lộc, hạn mệnh đắc Quyền nên trong gian khổ cô Dương vẫn đi đến trước. Hạn quan của cô Dương hình thành nhiều cách cục nên đổi việc khá nhiều lần; nhưng mặc dù công việc khác nhau vẫn có điểm chung là cơ bản dựa trên tiền thưởng, tiền hoa hồng.

        Tiên thiên phu (chú: tức phu nguyên thủy) cũng ba hạn hội Lộc, cô Dương chẳng phải bỏ qua chuyện ái tình, chẳng qua hạn Mậu Dần binh hoang mã loạn, chẳng có thời giờ để bàn tính yêu đương; huống chi tiên thiên phu bị song Kị giáp chế (dịch giả chú: theo phái Tử Vân, một Kị của Âm từ Ngọ chiếu vào cung Tí VCD, Kị kia là Cơ ở Tuất hạn Mậu), nào phải dễ đâu!

        Vận Kỷ Mão thì khác. Hạn thê có Lộc (Vũ) chiếu, thêm Linh thành cách Linh Tham, dễ nói chuyện yêu đương. Nhưng bị Khúc Kỵ thành cách Khúc Tham và Linh Xương Đà Vũ, sinh hoạt ái tình khó tránh trở ngại, muốn gặp đối tượng hôn nhân thích hợp có phần khó, huống chi hạn phu chính là bản mệnh là vị trí vừa bất ổn vừa yếu đuối, giả như kết hôn thì có thể sinh biến.

        Người viết từng nhấn mạnh nhiều lần. Mười hai cung đều là ta cả. Cách cục đều sẽ gặp, chỉ khác là khi gặp thì hóa Lộc hoặc hóa Kỵ mà thôi. Như trường hợp cô Dương tiên thiên mệnh yếu nhược như thế, lại hình thành quá nhiều cách cục: Cơ Lương Kình Dương hội, Cự Hỏa Kình, Xương Tham, Linh Tham, Khúc Tham, Linh Xương Đà Vũ v.v… hành vận quả là khó khăn, trở ngại hơn người ta nhiều.

        Kế tiếp chúng ta xét đoạn tình giữa cô Dương và ông M.

        Năm Quý Hợi cô Dương 29 tuổi, lưu phu ở Dậu có lưu Lộc (Phá Quân) và Linh Tinh hội chiếu. Đại vận phu có Vũ Lộc Khúc Kỵ và Tham Kỵ xung chiếu là một kết cấu “cát xứ tàng hung” (Lộc phùng xung phá, phát động các cách xấu, đi đường dài thì gặp trở ngại.) Tiên thiên phu cũng hội chiếu song Lộc và song Kỵ. Cô Dương nội tâm không bài xích ái tình, lưu niên lại có cơ hội dẫn động, tự nhiên dễ sinh chuyên tình cảm, chỉ là vận phu kết cấu quá yếu, nên một là gặp đối tượng rồi có vấn đề, hai là cố duy trì nhưng gặp trở ngại trùng trùng.

        Coi cung phu của lưu niên như cung mệnh của ông M thì Mùi là thê của ông này; lắm cách cục như thế, lại hiện đủ Lộc Kỵ xem ra mặt tình cảm của ông M phức tạp biến động nhiều. Nói cách khác, không dùng điều kiện du nhập thêm đã thấy năm này cô Dương muốn gặp đối tượng tốt thật chẳng dễ gì.

        Ở đây có vấn đề trong vòng bàn cãi: Cùng lá số, vận phải giống y nhau hay sao? Cho nên người biết lô gích khoa học bài xích Tử Vi, bảo là phi lí, mê tín. Ông Liễu Vô có đề xướng rằng phải du nhập thêm dữ liệu mới mong luận mệnh, đừng hòng dùng lá số chung mà đoán cho trường hợp riêng (dgc: Liễu Vô đây là ông Liễu Vô cư sĩ, từng đề xướng nhu cầu thêm dữ liệu trong loạt sách Hiện Đại Tử Vi. Thực ra, đây là luận điểm của thầy ông Liễu Vô cư sĩ, tức ông Tử Vân, ông Liễu Vô cư sĩ chỉ làm việc tường thuật. Sau này ông Liễu Vô có một số chủ trương khác với ông Tử Vân, nhưng đó là chuyện khác). Luận điểm này xét ra hợp lý, nhưng rốt ráo thì mệnh lý thuộc triết học không phải khoa học, không thể lập lại thí nghiệm, cũng có những tính chất không giải thích bằng khoa học được. Ta không thể nói cái gì khoa học không giải thích được thì không tồn tại (bởi) chúng ta biết rằng khoa học vẫn không giải thích được hết mọi hiện tượng và sự thật.
        Cùng một lá số nhất định có điểm giống nhau, nghĩa là có (một số) tiềm năng, cá tính, khuynh hướng tương tự; nhờ đó mà chúng ta có thể chỉ bằng lá số mà đoán cá tính và kể ra những đặc trưng về nhân cách, khiến người ta không thể hoài nghi về độ chuẩn xác (của lá số). Vận hạn lên xuống, chuyển ngắt vì chịu ảnh hưởng hoàn cảnh mà là phương diện có tính cá biệt hơn hết. Tuy nhiên, chỉ cần cùng lá số là phải có điểm tương tự. Chẳng hạn một người lên đỉnh cao thì không thể nào người khác xuống vực thẳm. Giá trị tuyệt đối có thể khác nhau, nhưng nội tâm cảm thấy thế nào (tâm thái) thì phải tương tự.

        Du nhập điều kiện chẳng qua là tùy người, sự, vật đặc thù mà quan sát, phân tích, so sánh; hy vọng từ đó suy ra sự phát triển hỗ tương (giữa các yếu tố). Nói rộng hơn chút là hy vọng dùng lá số của mình để đoán ra trạng thái của đối phương mà thôi.

        Các sao trong lá số đã định thì có thể đoán các vận tốt xấu thế nào. Người có kết cấu thế này thì dễ xảy ra diễn biến thế kia; việc này khi phát sinh thì dễ có kết cục như thế kia v.v… Bởi vậy người luận mệnh theo cách truyền thống không du nhập thêm dữ kiện mà vẫn thường đoán ra hoàn cảnh của bạn.

        Về việc luận hạn không đúng, thường tùy thuộc kinh nghiệm tu dưỡng của người đoán. Như người không tiêu hóa cái cũ, không uyển chuyển biến thông thì nhất định đoán không đúng; người biết phân tích khách quan, chịu vận dụng các điều kiện được du nhập để quan sát thì có thể tăng độ chính xác; nhưng đừng nghĩ đến việc chính xác trăm phần trăm vì khi xét đại hoàn cảnh của con người thì xã hội hôm nay phức tạp hơn hẳn ngày xưa, chỉ qua một đêm đảng cộng sản giải thể (dgc: Sách này in năm 1994, nhiều đảng cộng sản Đông Âu giải thể năm 1989, có lẽ đây ám chỉ việc ấy), qua một đêm sẽ còn chuyện lớn nào xảy ra nữa? Khó mà dự liệu. Độ chính xác con người có thể đạt tới khó mà biết được.

        Hóa Lộc tăng độ tự tin và khả năng phán đoán của ta. Hóa Kị khiến ta lòng động tâm biến, thậm chí tạo hành vi sai lầm. Nhìn từ một góc độ khác hóa Lộc là “động năng” có ích cho thực tế mưu danh cầu lợi, hóa Kị là “tĩnh năng” (dịch giả chú: Ở đây soạn giả dùng chữ “vị năng”, vị đây là vị trí, ý nghĩa chính xác nhưng tiếng Việt dễ bị hiểu lầm, bởi vậy dịch giả mạn phép đổi thành “tĩnh năng”, tĩnh đây phản lại nghĩa động, thiếu chính xác hơn so với “vị năng” nhưng khó hiểu lầm hơn) thích hợp cho việc tiềm ẩn tích lũy, lợi cho việc phản tỉnh, kiểm thảo, tập luyện. Hóa Lộc thì phải phát huy tinh lực, xung kích đạt mục tiêu; hóa Kị thì phải suy tư, lo nghĩ, cẩn thận trong công việc. Như thế Lộc Kị đều là đời sống con người, có gì phải sợ? Sợ chăng không biết tiến thối mà thôi!

        Hệ thống giáo dục của chúng ta dạy chúng ta phải “hóa Lộc” như thế nào, nhưng ít nói đến khi “hóa Kị” phải cư thể nào cho đúng; có nói chúng ta phải cắn răng cố vượt qua khổ ải, đừng táng tâm thối chí, không thành công thì thành nhân v.v… Đời người chỉ là tranh chức quán quân hay chăng? Quán quân chỉ có một người, cũng chẳng có “thường thắng tướng quân” (ông tướng thắng hoài), vậy những người còn lại chẳng có tiền đồ hay sao? Học mệnh lý phải nhìn rộng, lòng cũng phải mở rộng, tâm phải có sự thiện, bằng không càng học càng phiền, càng không thoải mái; chẳng bằng không học biết gì về mệnh lý.

        Nói lan man vậy quá đủ. Chúng ta hãy trở lại với liên hệ hỗ tương giữa cô Dương và ông M.

        Ông M sinh năm Mậu Tí, thành ra Lộc (Tham) chiếu hai cung phu nguyên thủy và hậu thiên (của cô Dương), lại tam hợp lưu niên, cho nên cô Dưong dễ động lòng vì cái tình của đối phương. Từ cung Tí là cung trọng điểm của ông M mà xét thấy có Âm Hỏa Kị thành cách “thập ác”, nhưng cung Tuất lại có Lộc (Cơ) Quyền (Lương) nguyên thủy của cô Dương, ý là ông M cùng cô Dưong có tình không duyên, lâu rồi cô Dương sẽ bỏ ông, nhưng vì lưu niên dẫn động quá mạnh, đại vận phu lại có kết cấu như thế mới tạo thành mối tình lẽ ra không nên có như vậy.

        Bất luân dùng lưu niên hoặc thái tuế nhập quái, cung thê của ông M đều hiển nhiên có vấn đề to. Lưu niên thê ở Mùi tựa hồ là vị trí đa tình và bất ổn; còn Tuất thì có Kị (Cơ) nguyên thủy của ông M, lại thành cách cô khắc “Cơ Lương Kình”. Ông M năm ấy 37 tuổi, có gia đình rồi mới phải, nhưng vẫn độc thân (Kình của ông M ở Ngọ cũng chiếu vào Tuất).

        Năm Giáp Tí 1984 cô Dương có thai, chuẩn bị lấy ông M thì phát hiện ông M bề ngoài văn nhã mà thực ra có đi lại với băng đảng, vả tính tình bất định, ở càng lâu càng chịu không nổi, không biết thời khắc tới là vui hay giận. Trong cảnh bạn với người như bạn với hổ đó, cô quyết định bỏ đi, bạn thử đoán xem tại sao?

        Lưu niên tam kỳ gia hội (Liêm Phá Vũ) tái cát hóa Hợi và Dậu; nhưng Nhật kỵ dẫn động Âm Kị xung Tí, lại khiến Mùi thành song Kị giáp Kị. Mùi đại biểu gì? Lại xung Sửu có ý nghĩa gì? Xin độc giả suy nghĩ. Chẳng phải là người viết “bán cái” mà là để quí vị tự xem mình đã luyện đến đâu.

        Năm Ất Sửu Lộc Quyền ở bản mệnh tử và lưu niên tử, nhưng đại hạn tử không tốt. Cô Dương sinh hai trai, trao cho người khác nuôi nấng.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "htruongdinh" về bài viết có ích này:

        macchulan (18-10-10)

      7. #14
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        905
        Cảm ơn
        801
        Được cảm ơn: 898 lần
        trong 448 bài viết

        Default

        Hạn Canh Thìn (36-45 tuổi):

        Đại hạn VCD có Kình Hỏa không khỏi lao khổ. Được Nhật hạn Lộc và Cơ nguyên Lộc chiếu nên (thành quả) tốt. Hai Lộc này giáp Dậu nên sự phát triển của hạn này dựa trên cái nền có sẵn của hạn Kỷ Mão (dịch giả chú: Ấy bởi vì song Lộc ứng với cái tốt của hạn Thìn lại làm lợi Dậu, mà Mão tức đại hạn trước xung Dậu, nên cái tốt của hạn này có liên hệ với hạn trước, tức là những liên hê của hạn cũ có biến chuyển tốt đẹp trong hạn này).

        Hạn quan của cô Dưong 20 năm tọa Lộc là cơ hội tốt, sự nghiệp phải có một thành tựu nào đó. Nhưng hạn Kỷ Mão Lộc Kỵ cùng thủ tạo nhiều cách ác thành thử khó ổn định. Hạn Canh Thìn tốt hơn, dù có sát tinh nhưng chỉ có Lộc không gặp Kỵ trở ngại tương đối ít. Thế nhưng muốn việc suôn sẻ từ đầu đến cuối e chẳng dễ dàng; rốt ráo thì vì nguyên mệnh và hạn mệnh đều vô chính diệu khó tránh ảnh hưởng của hoàn cảnh, phải đổi thay cho phù hợp khó mà giữ được lập trường, phương hướng.

        Hạn phu ở Dần VCD Đà La Địa Kiếp thủ là vị trí bất ổn. Tam phương tuy được song Lộc chiếu nhưng cũng bị song Kị ở hạn phúc chiếu (chú: Âm Kị nguyên thủy và Đồng hạn Kị); vậy là Lộc phùng xung phá, không tốt.

        Nếu coi cung Dần (hạn phu) là đối tượng, thì cung thê của đối tượng ở Tí VCD lại bị Hỏa Âm (thập ác) và Kình Âm (nhân li tài tán) chiếu. Cô Dương có nhiều cơ hội được người theo đuổi, chỉ là những người ấy cảm tình có vấn đê.

        Năm Tân Mùi cô Dương 37 tuổi, lưu niên ở di nguyên thủy, cách cục to, nhưng Xương lưu Kị thủ, cô Dương có xác xuất cao hành xử sai lầm.

        Bản mênh phu có cách ác Xương Tham chiếu, nội tâm đối với hôn nhân có khuynh hướng làm trái lẽ thường, tuy không nhất định kết hôn nhưng có thể dính líu đến một đoạn “kỳ tình”.

        Đại vận phu đắc 3 Lộc hội chiếu, tăng độ ổn định rất nhiều, nhưng cung VCD rốt ráo vẫn là VCD, có mối nguy chìm nổi bất thường.

        Lưu phu có Thiên Phủ là một sao ổn định, ngưởi gặp điều kiện có lẽ chẳng dở (cung quan Dậu có hai Lộc giáp phù), cung phu Mão bị Kình Đà giáp chế (cho nên) cẩn thận trong việc hôn nhân, nhưng gặp Xương Kị (cho nên) năm ấy cảm tình, hôn nhân có vấn đề.

        Ông R sinh năm Kỷ Mão 1939, hơn cô Dương 16 tuổi, mệnh Lôc (Vũ) và Kỵ (Khúc) đều ở lưu niên mệnh (Mùi) cũng là cung thân của cô Dương, lại chiếu tiên thiên phu (ở Hợi) nên năm Tân Mùi cô Dương cảm sự chiếu cố của ông R.

        Mão là cung trọng điểm của ông R, hai cung giáp đều VCD. Nhật Lộc (hạn Canh) xung đến Dần, Cơ Lộc (mệnh Ất) xung đến Thìn, khiến Mão được tính ổn định của song Lộc giáp, chỉ là ảnh hưởng tương đối nhỏ (chú: vì đều do xung cả). Cô Dương ắt có ấn tượng tốt với ông R, và có một loại duyên phận khó diễn tả thành lời được.

        Sửu ứng cung thê của ông R, chính là bị cách Linh Xương Đà Vũ, quan hệ giữa cô Dương và ông R. có tính “đảo điên”, lẽ ra không nên có lại có (chú: Vì cách Xương Tham, Khúc Tham là “li chính vị nhi đảo điên”). Ông R. sự nghiệp đã thành, vợ con đều đã di cư ra nước ngoài chỉ còn mình ông trong nước, mới có cơ hội trồng nhân cho đoạn tình này.

        Cô Dương và ông R tương lai phát triển thế nào?
        Nếu xét đại vận phu thì Tân Tị, Nhâm Ngọ hai hạn Lộc đều chiếu đến Dần (chú: Cự hóa Lộc và Lương hóa Lộc), tựa hồ tình chưa hết; nếu xét Sửu (chú: coi là cung thê của ông R sinh năm Mão) thì ba vận sau Kị đều chiếu cả, tựa hồ tình đã dứt; vậy giải thích làm sao?

        Cô Dương không thể thành vợ của ông R, nhưng liên hệ giữa hai người có thể tiếp tục phát triển, chỉ là từ hạn Tân Tị trở đi thì tình cảm cô Dương dành cho ông R càng lúc càng nhạt đi. Nhanh thì năm Bính Tí (42 tuổi ta) Liêm Kị nhập Mão tình cảm phai mờ, chậm thì năm Nhâm Ngọ (48 tuổi ta) vì Vũ Kị xung kích Mão.

        Các hạn về sau:

        Ba hạn Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi Kỵ đều ở Mùi, phá hoại mệnh, thân và ảnh hưởng tiên thiên phu, khiến cô Dương tâm tình khó ổn định, chuyện muốn kết hôn khó xảy ra, mà nếu kết hôn thì chẳng tốt đẹp được.

        Ngoài ra cô Dương hạn Canh Thìn, Tân Tị phúc đức đều hóa Kị, thành các cách ác Âm Hỏa, Linh Xương Đà Vũ v.v… ngoài cái lo mất tiền ra, trạng thái tâm lý cũng cần đề phòng, nhất là hạn Tân Tị (dịch giả chú: Vì phúc ở Mùi cách cục rất rõ nét).

        Lời kết:

        Cô Dương cảm tình không thuận lợi, có thể cả đời không thành hôn, nguyên nhân có thể quy về:

        Một: Mệnh vô chính diệu, hai cung giáp cũng vô chính diệu, hội họp có nhiều cách ác; khiến cá tính bất an, hành sự thiếu chín chắn, phán đoán dễ sai lầm.

        Hai: Tiên thiên phu sao quá cương, lại vào cách cô quân, trừ tiêu chuẩn cảm tình quá cao, xử lý tình cảm quá cương nghị, thiếu cái dịu dàng của nữ giới. (Nhưng) cũng có thể vì đó mà phù hợp với sinh hoạt cảm tình độc lập như vậy.

        Ba: Các hạn trong tuổi thích hợp thành hôn cung phu đều bị Kị xâm phạm, gây trở ngại trong cảm tình, không dễ gặp đối tượng tốt, lại là cung VCD thiếu ổn định.

        Hạn Mậu Dần, Tí VCD bị tiên thiên Kị xung, thành cách Âm Hỏa.

        Hạn Kỉ Mão, Sửu VCD bị Khúc Kị xung, thành cách Linh Xương Đà Vũ.

        Hạn Canh Thìn, Dần VCD bị song Kị (Âm nguyên Kị, Đồng hạn Kị) chiếu.

        Rồi đến hạn Tân Tị lại bị Xương Kị; rõ là bị Liên Kị nên trên đường tình ái bị cảnh gập ghềnh khó đi.

        Ngoài ra bốn vận Kỷ Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn Lộc hoặc Quyền đều ở tiên thiên di khiến cô Dương hiếu thắng, đòi tranh đấu với số mệnh.

        Tóm lại, lá số như cô Dương một đời nhiều xung động biến hóa, chuyện gì sẽ xảy ra chẳng dự liệu được nhưng chẳng đáng ngạc nhiên.


        Nguồn : tuvilyso.net
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "htruongdinh" về bài viết có ích này:

        macchulan (18-10-10),vân từ (18-10-10)

      9. #15
        Tham gia ngày
        Mar 2010
        Bài gửi
        371
        Cảm ơn
        7
        Được cảm ơn: 797 lần
        trong 281 bài viết

        Default

        Trích Nguyên văn bởi htruongdinh Xem bài gởi
        Tuổi Canh thì được Tam Hóa Liên Châu. Nghiệm lý các lá số tuổi Canh mà Đồng hóa khoa, Âm hóa Kỵ thì đều đắc cách Tam hóa liên châu.

        Theo như một người kể lại :

        Trong "tử vi đẩu số" của cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang xuất bản năm xưa , xảy ra cái sơ xuất nói rằng hóa kị tuổi canh an theo Thiên Đồng là do những người làm bên in ấn thời bấy giờ , sau khi những bản in hoàn tất , cụ VĐTTL mới phát hiện ra , và cảm thấy rất áy náy về điều này . Vì vậy đã in thêm 1 tờ đính chính về sai sót này và kẹp vào trang cuối của từng quyển sách, nhưng cuối cùng lại một lần nữa do sự tắc trách của những ng bên chế bản, mà có những quyển đc kẹp đến 2 tờ , trong khi có những quyển lại chẳng có tờ nào , vì vậy âu cũng là cơ duyên đối với huyền học của mỗi người khác nhau vậy.

        Nguồn : tuvilyso.net
        Lời giải thích này xem ra rất hợp lý về mặt thường lý . Cũng vẫn rất thường lý, có thể có một lời phản biện lời giải thích trên. Có thể trình bày như sau: Nếu đúng là VDTTL có sai sót, khi phát hiện ra, thay vi in thêm tờ đính chính, việc sửa bản in không khó và in lại chính trang đã có sai sót đó. Nếu như việc in ấn và đóng sách đã hoàn tất, nhưng chưa đưa ra thị trường, ngoài việc in thêm bản đính chính, người ta vẫn phải có những đính chính hay lưu ý trên phương diện khác. Bởi sách in vào 1956 hoặc muộn nhất cũng vào năm 1957. Lý do vì VDTTL viết lời nói đầu hoàn tất sách vào năm Bính Thân. Trong khi chế độ miền nam thọ tới năm 1975. Đồng thời trên bản in thêm đã đính chính, thế tất phải có những dấu hiệu đã được đính chính bởi chính tác giả, để tránh tam sao thất bản, làm dối. Vì vậy, cho dù sách có sai thì vẫn có những văn bản hợp pháp để đối chứng, xác thực việc đã có sửa chữa. Đến khi việc tranh luận đồng âm hay âm đồng xảy ra trong giới lý số, thế tất cái bản in và những biện pháp thông báo việc sửa chữa đó phải được công bố chứng minh người thực việc thực, chứ không phải là chứng minh theo kiểu kể lại. Ngay bản in mà không có xác chứng của chính tác giả, thì cái bản in thêm đó cũng khó có thể tin tưởng.
        Ngày nay, nếu thực sự có việc đó thì cái việc công bố bản in thêm có sự chứng thực của chính tác giả trên mạng truyền thông, hơn ai hết, chính công ty sách DAINAMCO phải làm cái việc này.
        Nhưng chúng ta đã thấy. Chỉ có lời kể không hà !.
        Hay là vì ... vạn lý do, chung quy chẳng coi cái sự này ra cái gì nên chẳng ai quan tâm, chẳng có ai có trách nhiệm làm cái việc minh định đó. Thế là cái áy náy của VDTTL trở nên vô duyên chăng ?.
        Đấy là nói thường lý. Mà ở đời, chả ai dùng cái thường lý rất ư là tắc trách đó để biện minh cho một vấn đề thuộc về kiến thức. Đó chỉ là chuyện của kẻ CHỢ mà thôi. Muốn kiểm định kiến thức, phải dùng chính kiến thức minh định. Đó là điều bắt buộc như về nguyên tắc. Bất di bất dịch.
        Thân ái.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "vuivui" về bài viết có ích này:

        vân từ (18-10-10)

      11. #16
        Tham gia ngày
        Mar 2010
        Bài gửi
        371
        Cảm ơn
        7
        Được cảm ơn: 797 lần
        trong 281 bài viết

        Default

        Nếu như có điều kiện, chúng ta sẽ kiểm chứng bằng thực tiến trên vài lá số người thực việc thực.
        Xin lưu ý. Không nên dùng lá số danh nhân, người nổi tiếng đã chết, hoặc chúng ta chỉ biết qua các phương tiện truyền thông. Bởi những thông tin đó đa phần bị méo mó không mấy đáng tin khi đi tìm sự cụ thể, chi tiết để biết bản chất của sự việc. Nên dùng, ví dụ, nếu là cha mẹ thì dùng lá số của con cái mình, hoặc dùng chính lá số của mình thì đáng tin cậy và dễ xác quyết hơn.
        Thân ái.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      12. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "vuivui" về bài viết có ích này:

        macchulan (18-10-10)

      13. #17
        Tham gia ngày
        Mar 2010
        Bài gửi
        371
        Cảm ơn
        7
        Được cảm ơn: 797 lần
        trong 281 bài viết

        Default

        Nay chúng ta thảo luận mấy bài htruongdinh post từ TVLS sang đây, tác giả là một tử vi gia nổi danh của xứ Đài, Trần Thế Hưng. Do ông VDTT dịch và loan tải bằng tiếng Việt.
        Trước hết, chúng ta hãy xem xét cách xác định vận của ông TTH. Ông ta xác định như sau:
        Vận Kỷ Sửu (6-15). Vận Mậu Dần (16-25). Vận Kỷ Mão (26-35). Vận Canh Thìn (36-45) sau đó viết thêm Tân Tị, Nhâm Ngọ, Quí Mùi. Ý hẳn là vận Tân Tị (46-55). Vận Nhâm Ngọ (56-65). Vận Quí Mùi (66-75).
        Khoan nói đến cách tính vận có đúng hay không. Mà nói đến chuyện ông ta có tính đúng hay không cái đã. Đại vận đầu tiên ông ta xác định là Kỷ Sửu, tiếp theo là Mậu Dần, theo nữa lại là Kỳ Mão. Từ đó đi tiếp đến Canh, Tân, Nhâm, Quí. Có lý do gì để ông ta xác định Can của vận hết ngược lại xuôi. Từ Kỷ Sửu đến Mậu Dần là ngược về Thiên can, thuận về Địa chi, nhưng tiếp theo từ Mậu, Kỷ, Canh ... đều thuận về thiên can, địa chi cũng thuận. Vậy thì vận Kỷ Sửu, phải chăng ông ta tính sai. Đáng lẽ ra vận 6-15 phải là Đinh Sửu, chứ không phải là Kỷ Sửu.
        Nhưng nếu bảo đó là do sơ xuất thì không hợp lý, mà rõ ràng là ông ta đã xác định như vậy. Cho nên, Kỷ mới có Tứ hóa là Vũ hóa Lộc, Tham hóa Quyền, Lương hóa Khoa, và Khúc hóa Kỵ đúng như ông ta đã sử dụng để giải đoán. Trong khi đó, nếu là Đinh thì tứ hóa phải là Nguyệt Đồng Cơ Cự. Khi ấy, giải đoán sẽ hoàn toàn khác, chứ đâu có dùng theo kiểu:
        Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.
        Bằng chứng này minh xác ông ta đã bói dựa, cố gọt chân cho vừa giày. Nhưng phương pháp giải đoán là cố định. Xem xét các giải đoán vận sau, chúng ta vẫn thấy ông ta không thay đổi phương pháp luận giải. Có nghĩa là phương pháp ấn định. Vậy thì khi có một mắt xích sai lạc, chúng ta hoàn toàn có thể nghi ngờ về chính phương pháp giải đoán của ông ta. Cho dù, phương pháp lưu tứ hóa và thái tuê nhập quái là tồn tại. Nhưng kỹ thuật sử dụng phương pháp của ông ta rõ ràng là không đúng.
        Thân ái.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      14. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "vuivui" về bài viết có ích này:

        macchulan (18-10-10),vân từ (18-10-10)

      15. #18
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        905
        Cảm ơn
        801
        Được cảm ơn: 898 lần
        trong 448 bài viết

        Default

        Trích Nguyên văn bởi htruongdinh Xem bài gởi
        Tuổi Canh thì được Tam Hóa Liên Châu. Nghiệm lý các lá số tuổi Canh mà Đồng hóa khoa, Âm hóa Kỵ thì đều đắc cách Tam hóa liên châu.

        Theo như một người kể lại :

        Trong "tử vi đẩu số" của cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang xuất bản năm xưa , xảy ra cái sơ xuất nói rằng hóa kị tuổi canh an theo Thiên Đồng là do những người làm bên in ấn thời bấy giờ , sau khi những bản in hoàn tất , cụ VĐTTL mới phát hiện ra , và cảm thấy rất áy náy về điều này . Vì vậy đã in thêm 1 tờ đính chính về sai sót này và kẹp vào trang cuối của từng quyển sách, nhưng cuối cùng lại một lần nữa do sự tắc trách của những ng bên chế bản, mà có những quyển đc kẹp đến 2 tờ , trong khi có những quyển lại chẳng có tờ nào , vì vậy âu cũng là cơ duyên đối với huyền học của mỗi người khác nhau vậy.
        Câu chuyện do một người ẩn danh kể lại, HTD copy từ tuvilyso.net sang huyenkhonglyso.com .


        Trích Nguyên văn bởi vuivui Xem bài gởi
        Lời giải thích này xem ra rất hợp lý về mặt thường lý . Cũng vẫn rất thường lý, có thể có một lời phản biện lời giải thích trên. Có thể trình bày như sau: Nếu đúng là VDTTL có sai sót, khi phát hiện ra, thay vi in thêm tờ đính chính, việc sửa bản in không khó và in lại chính trang đã có sai sót đó. Nếu như việc in ấn và đóng sách đã hoàn tất, nhưng chưa đưa ra thị trường, ngoài việc in thêm bản đính chính, người ta vẫn phải có những đính chính hay lưu ý trên phương diện khác. Bởi sách in vào 1956 hoặc muộn nhất cũng vào năm 1957. Lý do vì VDTTL viết lời nói đầu hoàn tất sách vào năm Bính Thân. Trong khi chế độ miền nam thọ tới năm 1975. Đồng thời trên bản in thêm đã đính chính, thế tất phải có những dấu hiệu đã được đính chính bởi chính tác giả, để tránh tam sao thất bản, làm dối. Vì vậy, cho dù sách có sai thì vẫn có những văn bản hợp pháp để đối chứng, xác thực việc đã có sửa chữa.
        Vân Đằng Thái Thứ Lang là một nhân vật đặc biệt, không ai biết rõ thân thế và mặt mũi của ông. Ông chỉ xuất hiện một lần duy nhất khi đưa xuất bản Tử Vi đẩu số toàn thư rồi sau đó biến mất. Tất cả sách in lại sau này đều căn cứ bản in năm 1956.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      16. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "htruongdinh" về bài viết có ích này:

        macchulan (18-10-10)

      17. #19
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        905
        Cảm ơn
        801
        Được cảm ơn: 898 lần
        trong 448 bài viết

        Default

        Diễn đàn tuvilyso.net là nơi ngọa hổ tàng long. Có rất nhiều người tài giỏi, nhưng đa phần họ ẩn danh, chỉ xuất hiện vài lần nhưng những điều của họ viết rất bổ ích. Còn những người huyênh hoang, hay khoác lác thì kiến thức chẳng là bao. Vì vậy, vuivui không chịu nổi nên bỏ đi.

        Trong tuvilyso.net , có nhiều cuộc cọ xát và quả thật nhiều bài viết bổ ích. Kiến thức tử vi của HTD tăng lên nhờ tuvilyso.net .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      18. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "htruongdinh" về bài viết có ích này:

        macchulan (18-10-10)

      19. #20
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        905
        Cảm ơn
        801
        Được cảm ơn: 898 lần
        trong 448 bài viết

        Default Mệnh cung thiên can

        MỆNH CUNG có Địa chi và Thiên Can , xưa nay chúng ta thường sử dụng Địa chi để luận đoán mà nhiều khi quên mất Tính cách của Thiên can . Nay xin phụ bổ 1 ít Tính chất của Thiên Can của Mệnh cung ( MC ) .
        Như vậy , chỉ cần biết MC Thiên can của 1 người là ta có thể đoán sơ được vài Cá tình căn bản của họ mà chưa cần phải nhìn vào lá số .

        Làm thế nào để biết Mệnh cung Thiên can là gì ?

        Dùng Lịch của Năm sinh mà truy , ví dụ sinh năm 1980 , Mệnh cung tại THÌN thì Mệnh Can ( Mệnh cung Thiên Can ) là CANH .
        Can Chi của Mệnh cung như vậy là Canh Thìn , Canh Thìn có Nạp Âm là KIM , và Kim ở đây chính là CỤC số .
        Nếu không thì dùng Ngủ Hồ độn :

        GIÁP KỶ chi niên BÍNH tác đầu .( BÍNH là Thiên can Tháng Giêng )
        ẤT CANH = MẬU ( Mậu là Thiên can của Tháng Giêng , từ đó suy ra những tháng tiếp theo )
        BÍNH TÂN = CANH
        ĐINH NHÂM = NHÂM
        MẬU QUÝ = GIÁP .

        Mệnh Can còn có những đặc tính sau :

        MỆNH CUNG là GIÁP =

        Là người có cá tính độc lập , độc lai độc vãng , không thích ai bao che cho mình , giúp ai thì giúp nhưng cũng không muốn vướng bận .

        ÂT =

        Thường được phái nữ chung quanh bao che và ủng hộ , nhưng vẫn thích tính cách độc lập , cuộc sống thường dễ chịu , có thể khắc Mẹ/ Vợ .

        BÍNH =

        Đàn ông thường được Mẹ/ Vợ / Tình nhân / bạn bè nữ giới / nữ chủ nhân giúp đỡ .Nhưng dễ bị hiềm khích .

        ĐINH =

        Có tính cách độc lập , dám làm dám chịu , không sộ hậu quả cũng như hậu hối .

        MẬU =

        Giúp đỡ, che chở cho người thì nhiều , mà thọ lãnh sự giúp đỡ của người thì ít ,hay nể/sợ đàn bà , cá tính ổn trọng thâm trầm , nhiều cao vọng .

        KỶ =

        Cũng thường bao che người khác , người khác thường làm hao phí tiền bạc của mình .hoặc dễ bị lường quịt tiền bạc .

        CANH =

        Thích tư thế độc lập , giúp người mà không mong người giúp .

        TÂN =

        Thích thể diện , trọng tình cảm , có tâm hồn nghệ thuật .

        NHÂM =

        Tính cách độc lập và tự phụ rất cao , nắm được Thiên thời nên dễ chiếm tiện nghi .

        QUÝ =

        Dễ bị hao tổn , thích biến động , bỡi Quý là Can duy nhất không muốn dựa vào thế lực của Thiên / Địa / Nhân mà chỉ trông mong vào sư nổ lực của chính mình , cho nên ưa thích những ngành nghề tự do , khởi phục cao độ .

        ***TAM TÀI phối với MC THIÊN CAN :

        Các Lý Thuyết về TAM TÀI lâu nay bị bưng bít , 1 vài Trưởng lão thủ đắc được chiêu Tam Tài cứ lâu lâu đem ra HÙ 1 tiếng làm bọn Hậu bối giựt mình , chơi như vậy là không công bằng , nên hôm nay tui xin được công bố , vì thế Quý vị không nên xem thường Chiêu này , nếu không có chỗ dùng tại sao người ta lại dấu kỹ như vậy ???

        GIÁP ẤT BÍNH = Thiên .

        ĐINH MẬU KỶ = Địa

        CANH TÂN NHÂM = Nhân .

        Thiên Địa Nhân

        QUÝ là chỗ Vị trí không dựa vào thế lực của THIÊN / ĐỊA / NHÂN ( TAM TÀI ).

        Ví dụ muốn biết GIÁP là gì , ta thấy theo chiều NGANG thì GIÁP = Thiên .
        Từ chữ GIÁP nhìn theo chiều DỌC xuống dưới cùng ta thấy chữ Thiên .
        Như vậy GIÁP = Thiên chi Thiên .

        KỶ , theo chiều Ngang = Địa / theo chiều Dọc = Nhân .
        Vậy KỶ = Địa chi Nhân .

        THIÊN = Thiên thời
        ĐỊA = Địa lợi
        NHÂN = Nhân hòa

        Cứ dựa theo ý của 3 chữ trên mà diễn đạt .

        HÀNG NGANG LÀ CẤP SỐ .
        HÀNG DỌC LÀ BẢN VỊ

        * HÀNG DỌC = BẢN VI :


        1/ GIÁP ĐINH CANH = THIÊN THỜI

        2/ ẤT MẬU TÂN = ĐỊA LỢI

        3/ BÍNH KỶ NHÂM = NHÂN HÒA


        GIÁP ĐINH CANH nắm được THIÊN THỜI vì có BẢN VỊ là chữ THIÊN .

        ẤT MẬU TÂN nắm được ĐỊA LỢI vì BẢN VỊ là chữ ĐỊA .

        BÍNH KỶ NHÂM nắm được NHÂN HÒA vì BẢN VI là chữ NHÂN .


        * HÀNG NGANG = CẤP SỐ .

        Chữ THIÊN/ ĐỊA / NHÂN theo hàng NGANG có thể hiểu là THƯỢNG / TRUNG / HẠ , VÌ ĐỂ CHỈ CẤP SỐ .

        *** ĐIỂM CHÍNH YẾU LÀ HÀNG DỌC / HÀNG NGANG CHỈ LÀ CẤP SỐ .



        Như chữ ĐINH , Bản vị là THIÊN cho nên nắm được THIÊN THỜI , và có Cấp số là ĐỊA ( TRUNG ) Nên gọi là ĐỊA chi THIÊN = Có được Thiên thời , nhưng chỉ ở mức TRUNG ĐẲNG . Chưa phải là Cao nhất vì cao nhất là Thiên chi Thiên .

        Như chữ TÂN = ĐỊA LỢI ,
        Nhưng Địa lợi ở CẤP ĐỘ nào thì xem HÀNG NGANG = NHÂN ( HẠ ĐẲNG ).


        Ví dụ MC TC có NHÂM = Nhân ,
        Có nghĩa là người này nắm được , sở hữu được tính Nhân hòa , tức là được lòng người chung quanh ( Bà con, hàng xóm .. tuy rằng ở Mức độ không cao vì chỉ có Cấp số là NHÂN ( HẠ đẳng ).

        Nếu QUAN có chữ NHÂM = Được cấp trên đề bạt / đồng nghiệp giúp đỡ ..v.v

        TÀI có chữ NHÂM = Tiền bạc làm ra là nhờ yếu tố nhân sự, nhân hòa , chẳng hạn như mở Quán Phở , tài nghệ nấu nướng thì dưới trung bình ,quán lại ở trong hẻm nhưng vẫn sống được vì cả xóm đa số đều ủng hộ.

        Như vậy khi MC TC = NHÂM , tức đương sự nắm được yếu tồ Nhân hòa .

        NHÂN chi THIÊN = Nắm được THIÊN THỜI , nhưng ở Mức THẤP NHẤT ( chữ NHÂN ) .

        TAM TÀI ỨNG DỤNG TRONG ĐẠI/ TIỂU HẠN :

        Ví dụ :

        LƯU ĐẠI HẠN QUAN có TC = ĐINH , Tức L.QUAN được hưởng Thiên thời , nhưng nếu Tiểu Hạn là các năm NHÂM / QUÝ thì Thủy sẽ khắc Hỏa của ĐINH làm cho GIẢM / hoặc MẤT Thiên thời .

        Như LƯU ĐẠI HẠN TÀI có TC = ẤT , tức L.TÀI hưởng được Địa lợi , nếu Tiểu hạn là năm TÂN , Kim khắc Mộc ,làm giảm mất phần Địa lợi trong Cung Tài .

        Cũng vậy , Tiểu Hạn tại Cung Dần có chữ BÍNH , tức được Nhân Hòa , nhưng nếu đó là năm 1992 = Nhâm Thân , thì Nhâm sẽ khắc Bính làm mất đi lợi thế Nhân hòa . ( Phải an Thiên Can theo Năm sinh, bắt đầu từ Cung Dần chạy Thuận vòng cho đến cung Sửu )

        Ngược lại , những năm nào SINH cho Tam Tài thì Tốt , cứ theo lý Ngũ Hành sinh khắc mà suy .

        NGUỒN GỐC CỦA TAM TÀI :

        THIÊN Khai tại TÝ
        ĐỊA Khai tại SỬU
        NHÂN Khai tại DẦN

        Tý Sửu Dần 3 Cung là nơi khai thủy của Tam Tài , Tử vi là môn nghiên cứu về Nhân sự , mà Dần là cung khởi thủy của Nhân , do đó lấy Dần làm Chính cung để định Thân/ Mệnh .

        CHỖ SỞ CƯ CỦA TAM TÀI :

        THIÊN cư tại TÝ NGỌ MÃO DẬU = ứng với Thượng Hào .
        NHÂN cư tại DẦN THÂN TỴ HỢI = Ứng với Trung Hào .
        ĐỊA cư tại THÌN TUẤT SỬU MÙI = Ứng với Hạ Hào

        Do vậy , cứ theo Đia chi mà nói thì nói thì cứ mỗi TAM HỢP đều có đủ Tam Tài .

        ỨNG DỤNG CỦA TAM TÀI :

        MC Tam Tài dùng xem xét số phận 1 người được hưởng Thiên thời / Địa lợi / Nhân hòa như thế nào , cao thấp ra sao , nhằm giúp quyết đoán Cách cục của 1 lá số .

        Tại Vận trình ( Đại / Tiểu Hạn ) Tam Tài dùng để xem xét Thời Thế như thế nào , có nên lộ mặt ra ( làm ăn , hoạt động ..) hay không hay nên ẩn nhẫn , nên làm gì trong Đại/ Tiểu Hạn này , mức độ thành công cao thấp như thế nào .v.v

        Tác giả : ma y cung
        Nguồn : tuvilyso.net
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      20. Có 4 Hội viên đã cảm ơn đến "htruongdinh" về bài viết có ích này:

        hỏa linh tử (10-02-11),macchulan (18-10-10),phươngmai06 (26-10-10),thienphuckiti (22-06-12)

      Trang 2/5 đầuđầu 1234 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Huyenkhong cafeteria
        By PALOMA in forum Nghệ Thuật - Triết Lý
        Trả lời: 301
        Bài mới: 31-07-14, 20:53
      2. Trả lời: 86
        Bài mới: 18-06-13, 15:20
      3. Bát tự khẩu ứng
        By PhieuDieu in forum Tử bình- Manh Phái
        Trả lời: 48
        Bài mới: 21-02-12, 10:08
      4. Trả lời: 0
        Bài mới: 08-09-10, 21:56

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn có thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn có thể sửa bài viết của mình
      •