Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 1/9 123 ... cuốicuối
    kết quả từ 1 tới 10 trên 83

    Ðề tài: Phong thủy luận

      1. #1
        Tham gia ngày
        Jan 2010
        Bài gửi
        857
        Cảm ơn
        6
        Được cảm ơn: 632 lần
        trong 425 bài viết

        Default Phong thủy luận

        PHONG THỦY LUẬN
        mến chào ACE diễn đàn nhận thấy các bài viết về phong thủy của anh DIENBATN rất có ít cho các bạn bước vào nghiên cứu phong thủy dinhquy xin đưa lên để ace cùng ngâm cứu.Xin cám ơn anh HÙNG
        PHONG THỦY LUẬN

        Thân gửi các bạn trên Diễn đàn Phong thủy.
        Từ trước tới nay,phần lý thuyết Phong thủy được viết rất nhiều,hằng hà sa số cuốn sách đã được in hoặc lưu truyền trong dân gian.Tuy viết rất nhiều,nhưng vấn đề lý thuyết của bộ môn Phong thủy,vì không được dựa trên một căn bản Lý thuyết thống nhất và triệt để nên tùy theo điều kiện cụ thể mà phát triển ra rất nhiều Môn phái Phong thủy,có lý luận và cách thực hiện nhiều khi trái ngược lẫn nhau,khiến người đời sau không làm sao hiểu được và tính chất Thần bí cứ dần dần xen vào và từ đó Thuật Phong thủy trở nên một cái gì đó Huyền bí,khó hiểu và được coi là Mê tín dị đoan.
        Việc tìm lại cội nguồn Lý thuyết của bộ môn Phong thủy nói riêng và Lý thuyết của Dịch lý Đông phương nói chung,là một vấn đề rất thiết yếu.Công việc này đòi hỏi rất nhiều thời gian nghiên cứu,sưu tầm,nhận định ,tập hợp và sắp xếp lại.dienbatn không dám có tham vọng làm việc đó,chỉ xin làm viên đá nhỏ lót đường cho sự nghiên cứu của các bạn.Nếu thành công thì thành quả đó xin tặng lại các bạn ,hoặc nếu chẳng đi đến đâu cả thì âu cũng là số Trời,và những gì có được xin các bạn cứ dùng làm tư liệu để tiếp tục những bước sau này.Mọi việc đều phải có sự khởi đầu và như người xưa nói :"VẠN SỰ KHỞI ĐẦU NAN ".Trong bài viết này dienbatn xin được công bố,những bài viết,những ý tưởng của một số Cao nhân ẩn danh,không muốn xuất hiện. Đúng hay sai còn phụ thuộc nhiều yếu tố, song dienbatn xin kính cẩn cảm ơn các vị Tiền bối đã chỉ giáo. dienbatn chỉ là người trích dẫn,sắp xếp lại cho thứ tự và mạch lạc hơn,ngoài ra do sự kém cỏi thô lậu, không có ý tưởng gì hay nên xin các bạn cũng đừng chấp.Nào ,bây giờ chúng ta bắt đầu khởi hành.
        1/LỜI NÓI ĐẦU :

        Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
        THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
        ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
        NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
        Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.
        THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
        ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.
        NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.
        Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.
        Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc.
        NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ.
        Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1.000 huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc như Đại Vũ trụ bên ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt được đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ",là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể.
        Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên đất,nước,âm,dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do vậy,các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm Long ,trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng.
        Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như:
        -Cảm xạ các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nước.
        -Thần giao cách cảm.Tương tác giữa người này và người kia.
        -Sử dụng tâm năng Tiên đoán,thấu thị.
        -Hóa giải theo ý muốn.
        -Biết được Thiên vận,Địa thế,Nhân cơ,các nguồn thông tin,dữ liệu từ Vũ trụ.
        -Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu,giải phẫu...
        -Trị liệu bằng Trường Sinh học.
        Ngày xưa ở Trung quốc,Việt nam và các nước Chấu Á đều có Kỹ thuật xây dựng,kiến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố :HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ.
        1/KHÍ :là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ,vật thể,Đất,Nước,con người..
        2/LÝ :Là quy luật vận động,vận chuyển ,tạo tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa.Gồm ba nguyên tắc :
        a/Trời chưởng quản Địa,Nhân.
        b/Trời,Đất đều tác động đến Vật chất và con người,nên phải biết vận dụng ảnh hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống.
        c/Vận mạng ,hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người chết,tức là Âm trạch.Do vậy người xưa có câu :"Người sống thì xem cái nhà ,người chết thì xem cái mồ ".
        3/SỐ :Là những tượng số của Dịch lý(Nghi,Tượng,Quái,Hào).
        4/HÌNH :Là hình thể vùng đất,dòng nước,cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hưởng tốt đến mạch khí.
        Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau.Yếu tố được xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của Đất hay còn gọi là sóng điện từ.Chính hai lực này chi phối,ảnh hưởng đến hoạt động của Trường Sinh học con người,nếu hai lực này tương phản thì đem lại kết quả xấu cho con người trong cuộc đất này hay Dương trạch họ đang ở,hoặc Âm trạch táng tử thi.Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con người sẽ tốt,sức khỏe dồi dào,kinh tế phát triển lên mãi.
        Do vậy,Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của Âm -Dương-Ngũ hành -Bát quái,là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình trải nghiệm trên 5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ căn cứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định.
        PHONG THỦY.
        Phong : Là Gió.
        Thủy :Là nước.
        Hỏa :Là Lửa.
        Là tinh túy của Đất,sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Như vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói :Một Âm,một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một động là Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dương hay thuần Dương,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm.
        Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long môn đến Lã Lương Sơn,Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ Nam chuyển hướng lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt tộc ).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng :"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu,mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nước ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa".
        Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,ông cha truyền khẩu,bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "dinhquy" về bài viết có ích này:

        banghuynh78 (14-10-13),tranduyquang (12-11-13)

      3. #2
        Tham gia ngày
        Jan 2010
        Bài gửi
        857
        Cảm ơn
        6
        Được cảm ơn: 632 lần
        trong 425 bài viết

        Default

        TT
        TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT.
        Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".
        Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khícủa chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm.
        Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế Vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?
        Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An nam Tiết độ sứ đô hộ nước ta,thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long,sau đó xưng Vương.Cao Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nước Việt chúng ta,nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát ,làm hư hại rất nhiều Long mạch.Nhưng ý người muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi,phải bỏ thành Đại La.Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt,nối tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm,giành chiến thắng cho dân tộc.
        HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn bản.Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí.Khí là hình thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ trụ),luôn cảm ứng cùng Tâm khí con người.Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ".
        Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.
        Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.Trường hợp như thân Phụ của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát được 9 đời Chúa và 9 đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu tập được Nhân -Quả,được Trời -Đất cho hưởng Phúc,đâu phải tầm Long trích Huyệt mới được.
        Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa dạy quả không sai.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "dinhquy" về bài viết có ích này:

        banghuynh78 (14-10-13),tranduyquang (12-11-13)

      5. #3
        Tham gia ngày
        Apr 2011
        Đến từ
        GA, USA
        Bài gửi
        33
        Cảm ơn
        51
        Được cảm ơn: 7 lần
        trong 6 bài viết

        Default

        long_dong xin chân thành cám ơn bài viết của bác Dienbatn và công sức sưu tầm của bác Dinhquy, là người đang mon men làm quen với thuật phong thủy, nếu không hiểu cái chi thì long_dong có thể nhờ bác hướng dẩn hay giải thích thêm cho long_dong được không ạ. Mong được bác post thêm các bài "căn bản" như thế
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #4
        Tham gia ngày
        Jan 2010
        Bài gửi
        857
        Cảm ơn
        6
        Được cảm ơn: 632 lần
        trong 425 bài viết

        Default

        chào long-dong sẵn sàng giúp đỡ trong sự hiểu biết của mình,chúc bạn tinh tấn
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "dinhquy" về bài viết có ích này:

        tranduyquang (12-11-13)

      8. #5
        Tham gia ngày
        Jan 2010
        Bài gửi
        857
        Cảm ơn
        6
        Được cảm ơn: 632 lần
        trong 425 bài viết

        Default

        TT
        PHẦN TẦM LONG -CẮM HUYỆT :
        Phong Thủy Sư quan sát Thiên văn,xem tinh tú trên trời.Sao Tử vi ở phương Bắc;Sao Thiên thị ở phương Đông;Sao Thiếu vi ở phương Nam;Sao Thái vi ở phương Tây,nhìn địa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phương.Lấy tứ chánh vị Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dương Long,và bốn cung Chấn -Tốn -Đoài -Cấn làm âm Long (Tiên Thiên ).Một ngọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi làng nào đó,thấy cảnh vật xung quanh xinh đẹp,trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa ,dị thảo thì phải biết đó là Long,phải biết phân biệt đầu ,đuôi,Can,Chi,Triền,Giáp,Hộ vệ sơn chạy đến đâu.Đối chiếu xem vì sao nào chủ chiếu cuộc đất này,xem cục thế lớn,nhỏ,tốt xấu.Sau cùng quan sát xem tính tình,ăn ở của dân địa phương nơi đây thì ta mới nhận biết được đó là Chân Long hay giả Long.
        Kinh Thư có viết :"Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn tương hỗ với nhau,Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành...Dương đức sẽ hình thành từ thân thể của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện hạnh của ta ".Tóm lại thuật Sư Phong thủy phải tiến hành tính toán,nhìn thấy những điểm then chốt thỉ việc tầm Long mạch ắt phải sáng tỏ.
        MINH SƠN BẢO GIÁM chia Long ra làm 12 loại :SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG,UỔNG LONG,SÁT LONG,QUỶ LONG,KIẾP LONG,DU LONG,BỆNH LONG,TUYỆT LONG,TỬ LONG.Các tên này nhằm chỉ vào sự tán tụ của chân Khí mà gọi.SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG là bốn loại Chân Khí hội tụ,còn tám loại Long kia là tán Chân Khí;hình thể của Long ngắn,gấp khúc ít lần đi lên,xuống hoặc đi lên mà không đi xuống,xuống mà không lên,cho nên nó làm cho mạch Khí thế đi xuống.Còn tụ Chân Khí thì trải dài ,lên xuống theo hình thể nhiều lần.
        Tổ tông sơn là nơi xuất phát Long mạch,theo đường hướng mà đi xuống,đoạn ẩn ,doạn hiện hay mọc thêm chân tay nhập thủ đoan chính thì gọi đó là SINH LONG.
        Loại có thêm hoành án hai bên như có cánh dơi thì gọi là PHÚC LONG.
        Loại Mạch này mà không có Hoành án mà chạy hai bên,ôm vòng trở lại thì gọi là ỨNG LONG.
        Long mạch ôm vòng trở lại nhiều lần,khí trùng điệp,hình dáng giao đầu lẫn nhau gọi là ẤP LONG.
        Long mạch hình thế hiểm ác,gấp rút,trùng điệp,nhưng không đối xứng chỉnh tề gọi là UỔNG LONG.
        Loại này mà trái phải nhô lên cạnh nhọn gọi là SÁT LONG.
        Loại phân chi,chia cắt mạch gọi là QUỶ LONG.
        Loại chia nhiều tay gọi là KIẾP LONG.
        Loại mà Khí lưu ly,tán loạn khắp nơi gọi là DU LONG.
        Mạch Khí không lên,xuống,không chuyển động gọi là BỆNH LONG.
        Mạch không phát tán hay tụ khí gọi là TỬ LONG.
        Mạch nằm riêng biệt không hộ,giáp,triền và không có Khí lực gọi là TUYỆT LONG.
        Các Long mạch ứng chuyển thuận khí theo THIÊN -ÐỊA -NHÂN thì tác động cho những âm phần táng trong cuộc đất như :
        SINH LONG thì con cháu ðược hưởng Phúc ,Thọ.PHÚC LONG thì con cháu Phú quý.ỨNG LONG thì con cháu giầu có,hiếu thuận.ẤP LONG thì con cháu Lễ ðộ ,nhường nhịn,thuận hòa.
        SÁT LONG và KIẾP LONG thì con cháu bị tai họa,chết chóc.QUỶ LONG và BỆNH LONG thì con cháu bị bệnh tật,không an cư,nghèo khổ.DU LONG thì con cháu hoang đàng,dâm loạn.TỬ LONG và TUYỆT LONG thì con cháu bị tử thương,tuyệt tự,không có người nối dõi Tông đường.
        12 Long mạch có Linh khí ứng chuyển cát hung cho các âm phần,quan hệ đến người còn tại tiền,nên vì thế khi mai táng cho người chết,không thể không lựa chọn đất cắm Huyệt.
        Ngoài ra còn những thế đất của Tứ Linh và có 5 thế núi căn cứ vào hình dáng,tư thế mà chia ra làm 9 RỒNG :
        1/XUẤT DƯƠNG LONG.
        2/SINH LONG.
        3/GIÁNG LONG.
        4/PHI LONG.
        5/HỒI LONG.
        6/NGỌA LONG.
        7/ẨN LONG.
        8/ÐẰNG LONG.
        9/LĨNH QUẦN LONG.
        Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU :"Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ,lấy Long Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem Phong thủy chính là quan sát sự thuận ứng nghịch phản của Sơn và Thủy,Khí cứng rắn nhu hòa của Âm Dương,lý Phân ly,hội hợp của tụ và tán.
        Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao,vượt lên,hướng đi của Ðịa mạch hoạt bát như Long,nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại nối liền.Ðịa mạch xuất hiện ở giữa,xung quanh có Sa trướng trùng trùng.Sa trướng của nó có gần có xa,có nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi hiệp cốc xuất hiện ,chúng đều thu giữ Ðịa Khí, tựa Phong yêu (Lưng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc ) vậy,có nơi tạo ra thế cử đỉnh,có chỗ tạo ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của Ðịa mạch không bị đứt đoạn,khi Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc ,thì Ðịa mạch lại tựa như hai bên mạn thuyền song song mà ra.Nơi đỉnh và hai bên của Ðịa mạch sáng sủa lại cùng tương ứng với Tinh thần,tựa hồ như sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi này.Triều sơn ở xa thì đẹp đẽ,muôn hình vạn trạng.Minh đường rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu giao kết ,uốn lượn xung quanh,bốn phương tám hướng không có nơi nào bị khuyết hãm.Ðịa Huyệt hạ lạc kết Huyệt ở nơi này,khí Âm Dương phân biệt cùng tiếp,chỗ cao chỗ thấp,lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên như hai cánh tay giang rộng,trên phân ra,dưới hợp lại,Ðịa thế tròn và nhọn cùng đối ứng với Thiên quan Ðịa quỷ.Thủy trong ,Thủy ngoài đều ôm ấp,bao quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng tụ hội.Nơi được như vậy được xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy."
        Trong phần trên chúng ta đã phân tích mối quan hệ giữa tam tài THIÊN -ÐỊA -NHÂN ,mối quan hệ giữa Long mạch,Huyệt vị....vv.Từ ðây chúng ta lần lượt xem xét đến hai nhánh chính của Phong thủy là ÂM TRẠCH VÀ DƯƠNG TRẠCH.
        Phần ÂM TRẠCH rất phức tạp và còn nhiều rối rắm,dienbatn sẽ viết ở phần sau.Bây giờ chúng ta đi vào địa hạt thứ nhất của Phong thủy là DƯƠNG TRẠCH -Tức là nơi sinh sống của người tại tiền.Theo định nghĩa : Dương trạch là nơi sinh sống của người tại tiền (đang sống ),nó không chỉ bao gồm nhà cửa,cơ sở làm ăn,buôn bán mà xét rộng ra nó còn bao gồm cả các Thành phố,Tỉnh lỵ....
        Trong thuật Phong thủy hiện nay,có rất nhiều Trường phái,đang bàn cãi lung tung cả và ai cũng cho rằng Trường phái của mình là đúng nhất.Tạm thời người ta có thể chia ra các Trường phái chính như sau :
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "dinhquy" về bài viết có ích này:

        banghuynh78 (14-10-13),Long_Dong (16-10-13),tranduyquang (12-11-13)

      10. #6
        Tham gia ngày
        Jan 2010
        Bài gửi
        857
        Cảm ơn
        6
        Được cảm ơn: 632 lần
        trong 425 bài viết

        Default

        TT
        1/PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH -Hiện nay do Thái Kim Oanh đang chủ xướng.
        2/PHÁI DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU (Còn đi theo nó là Dương cơ chứng giải ) của Triệu Cửu Phong chủ xướng.
        3/PHÁI HUYỀN KHÔNG HỌC .
        4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY.
        5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.
        Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác ,nhưng dienbatn chỉ xét đến những Trường phái nổi bật nhất hiện nay.
        Bây giờ người viết xin đi vào chi tiết cụ thể từng môn phái một.Tất nhiên chỉ có thể nêu những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất,sau cùng xin chia sẻ với các bạn một số kiến thức Phong thủy còn chưa được phổ biến rộng như PHONG THỦY LẠC VIỆT,CẢM XẠ PHONG THUỶ VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.
        Trước hết chúng ta phải bắt đầu từ những khái niệm cho về sau khỏi cần phải tranh luận về vấn đề này.
        1/TRẠCH :Là một cuộc đất,có ranh giới hoặc không ,được sử dụng vào công việc chôn cất, làm mồ mả,nhà mồ hay xây cất nhà cửa ,Làng mạc,Thành phố..Cũng có một số người coi Trạch là dải đất,giống như con lươn trên đê.Riêng người viết chỉ quan niệm đơn giản Trạch là một cuộc đất,vùng đất.Trong Trạch lại được chia ra làm Âm Trạch và Dương Trạch.
        2/ÂM TRẠCH :Là cuộc đất dùng để chôn người chết , còn gọi là Mồ mả.Phong Thủy cho rằng,nếu người chết được chôn vào một cuộc đất tốt về Phong thủy thì sẽ truyền được Phúc ðức cho con cháu đời sau.
        3/DƯƠNG TRẠCH :Là cuộc đất được dùng vào mục đích làm nhà cửa,Ðình ,Chùa,Miếu mạo,Thôn xóm,làng mạc,Thị trấn,Thành phố.Dương trạch phải hài hòa với Thiên nhiên,có môi trường tốt đẹp,làm cho con người thấy vui tươi ,mạnh khỏe,hạnh phúc.Dương trạch tốt tức là môi trường tốt.
        4/LONG MẠCH :Mạch là nguồn gốc,là đường dẫn máu đi nuôi cơ thể người ta;Long là con Rồng. Nhưng trong Phong thủy,người ta gọi Long mạch là những dải Núi,dải đất, Dòng sông,dòng nước chảy,nhấp nhô,uốn khúc như Rồng,thoắt ẩn,thoắt hiện.Long mạch có thể chỉ vài chục cây số,nhưng cũng có thể là vài ngàn cây số.
        Long mạch lại được chia ra SƠN MẠCH VÀ THỦY MẠCH.
        SƠN MẠCH :Là những dải Núi,dải đất đi từ Tổ Sơn đến Huyệt.Tổ Sơn là Núi cao,nơi xuất phát Sơn mạch.Dải Núi đi ra khỏi Tổ Sơn gọi là Hành Long.Hành Long lại được chia ra làm CÁN LONG :Là dải Núi chínhđi ra từ Tổ Sơn và BÀNG LONG :Là chi nhánh đi ra từ Cán Long.Long mạch lúc nổi lên thành Núi,đồi ,gò ,đống,lúc lại chìm sâu vào lòng đất,có khi vượt qua cả những dòng sông.
        THỦY LONG ]:Là các mạch nước dòng sông bắt nguồn từ các Tổ Sơn,chảy theo các Sơn Long.Thủy Long cũng có Cán Long và Chi Long,đổ vào Minh đường rồi thoát ra ở Thủy khẩu tiêu Thủy.
        Sơn Long đi thuận theo chiều nước chẩy gọi là Thuận Long.Ði ngược chiều nước chẩy gọi là Hồi Long,đi ngang qua chiều nước chảy gọi là Hoành Long.
        Theo cấu tạo Ðịa chất nước Việt nam ta,nói chung Núi sông chạy từ Tây Bắc xuống Ðông Nam (Trục CÀN -KHÔN ),do vậy Long mạch thường đi theo trục CÀN -KHÔN,hoặc CÀN -LY là chính.Long đi theo hướng này là thế chính có tính chất rất bền vững,dài lâu.Long thuận thì nước chầu xuống,Long ngược thì nước chầu lên.Thuận nước chầu lên là thế thuận,nước chầu xuống là thế nghịch.
        6/THỦY KHẨU :Thủy khẩu là nơi mà nước chẩy vào Minh đường.Chẩy đến gọi là Thủy lai, chẩy đi gọi là Thủy khứ.Nơi nước chẩy vào gọi là Thiên môn,nơi nước chẩy ra gọi là Ðịa hộ.Dòng nước chẩy đến,chẩy đi tại vị trí Huyệt rất quan trọng,riêng về nó người ta có hẳn một mục là THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH,xét đến sự tốt xấu của hướng các dòng nước đối với Huyệt vị.
        ÐIỂM HUYỆT :Sau khi đã tìm được địa thế hội đủ các tiêu chuẩn của Long mạch,Thủy khẩu,Minh đường, Long -Hổ,Sơn,Chu tước,Huyền vũ...,các phương vị sinh ,Vượng thì cần phải chọn nơi tụ khí để xác định chính xác vị trí Huyệt.Làm như vậy được gọi là Ðiểm Huyệt.
        Ðiểm Huyệt là công việc vô cùng khó ,là việc phải tổng hợp tất cả các kiến thức về Ðịa lý Phong thủy,các Kinh nghiệm ,các pháp của Huyền thuật,cảm giác của Phong thủy sư,kết hợp với La kinh để chọn được vị trí cát lợi nhất cho việc xây cất nhà cửa hay táng Mộ. Cãn cứ vào địa hình,Ðịa thế có thể lấy đúng giữa Huyệt,lấy ở Huyệt nhánh hay bên cạnh Huyệt.
        7/MINH ÐƯỜNG :Theo danh từ ,Minh đường là nơi ngày xưa Vua,Chúa tiếp các Bá Quan,Văn -Võ triều bái.Trong Phong thủy,Minh đường là vùng đất phía trước của Huyệt vị.Minh đường cũng được chia ra làm Nội Minh đường,Trung Minh đường và Ngoại minh đường,gọi chung là Tam đường.Minh đường ở trước Huyệt gọi là nội Minh đường. Minh đường được bao bọc bởi hai tay Long -Hổ gọi là Trung Minh đường.Minh đường ở ngoài Án Sơn gọi là ngoại Minh đường.
        8/HUYỆT VỊ :Nghĩa gốc của từ Huyệt là hang ổ,sào Huyệt,là ngôi nhà bằng đất,là chỗ châm cứu trên cơ thể con người.Trong Phong thủy ,Huyệt là nơi tập trung Khí của Long mạch.
        9/ÁN SƠN :Án có nghĩa là cái bàn làm việc của các cụ Ðồ Nho ngày xưa (Án Thư ).Án cũng co nghĩa là che chắn trước mặt.Án Sơn là núi nhỏ chắn trước Huyệt như cái bàn làm việc trước mặt người ngồi,Án Sơn không được quá cao.Huyệt có Án như Chủ có Khách,Vua có Tôi.
        10/TRIỀU SƠN :Triều có nghĩa là đối diện như Chủ với Khách.Triều Sơn là núi to ở phía xa hơn Án Sơn.Triều Sơn mà hai bên có Thủy lưu kèm theo Triều vào Huyệt là Triều Sơn quý.Như vậy tính chất của Triều Sơn và Án Sơn tương tự như nhau ,nhưng khác nhau ở độ cao và tầm xa.
        11/SA SƠN :Là Núi ở xung quanh Huyệt.Trong Ðịa lý chia ra các Sa (Sơn ) như sau :Án sơn,Triều sơn,Thanh long,Bạch hổ,Tả phù,Hữu bật,La thành viên cục,Lạc sơn,Hạ thủ sa,Thủy khẩu sa,Cản môn sơn,Hoa biểu sơn,Bắc Thần tinh,La tinh sơn,Quan tinh sơn,Quỷ tinh sơn,Diệu tinh sơn...
        12/THANH LONG (TAY LONG ):Thanh long là Núi hay dải đất nằm bên TRÁI Huyệt.Có khi Sơn mạch chạy đến Huyệt rồi phân ra hai nhánh như hai cánh tay ôm lấy Huyệt tạo nên Thanh long,Bạch hổ.Thanh long chủ DƯƠNG,CON TRAI,KHÍ DƯƠNG.
        13/BẠCH HỔ :Là Núi hay dải đất bên Phải Huyệt.Bạch hổ chủ Âm,Con Gái,Khí Âm.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      11. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "dinhquy" về bài viết có ích này:

        Long_Dong (16-10-13),tranduyquang (12-11-13)

      12. #7
        Tham gia ngày
        Jan 2010
        Bài gửi
        857
        Cảm ơn
        6
        Được cảm ơn: 632 lần
        trong 425 bài viết

        Default

        TT
        Thanh long - Bạch hổ đối với Huyệt giống như chúng ta ngồi trên chiếc ghế có hai tay tựa vậy,hai tay này phải cân đối mới tốt.
        14/TẢ PHÙ HỮU BẬT :Là hai trái núi nằm hai bên tả hữu của Huyệt vị.Tả phù hữu bât cần phải cân xứng về cả độ cao,xa gần,lớn nhỏ.Nếu không xứng lứa vừa đôi là Huyệt không quý.Người ta gọi tả phù - Hữu bật là Nhật Nguyệt giáp chiếu,hay Văn võ thị vệ.Tả phù hữu bật dịch về phía sau của Huyệt gọi là Thiên ất,Thái ất.Dịch về phía trước một chút gọi là Thiên hồ,Thiên giác.Nếu dịch về phía trước một chút nữa và chụm đầu vào nhau gọi là Kim ngô,Chấp pháp.Nếu nằm ở hai bên Minh đường Gọi là Thiên quan,Ðịa trực.Nếu nằm ở hai bên Thủy khẩu gọi là Hoa biểu,Cản môn.
        15/LA THÀNH VIÊN CỤC :Là thế núi bao bọc xung quanh Huyệt vị như tường thành bao quanh trùng trùng điệp điệp,lên xuống nhấp nhô bảo hộ Huyệt vị,tựa như cánh sen ôm lấy nhị hoa.Nếu có điều đó là Huyệt quý.
        16/HẠ THỦ SA :Còn gọi là hạ quan,Hạ tư.Núi nằm bên cạnh dòng nước chảy ra ở bất kỳ phương nào của Huyệt đều gọi là Hạ thủ sa.Hễ có Hạ thủ sa là có sự kết phát.Dòng chảy trước Huyệt rẽ về bên nào thì bên đó Hạ thủ.Hạ thủ sa cần trùng điệp,dày đặc,liên tiếp,không được mỏng,nhỏ.
        17/BẮC THẦN SA :Là núi đá dựng đứng ở giữa Thủy khẩu mà có hình thù kỳ quái. Núi Bắc Thần sa rất quý hiếm,thường đi với Huyệt Công hầu ,Khanh tướng.Bắc Thần sa càng hùng vĩ càng cát lợi.
        18/LA TINH :Là núi nhỏ hoặc gò nổi lên ở giữa Thủy khẩu giống như Bắc Thần sa.La tinh có thể là núi nhỏ,gò đá hoặc đất,nếu là đá thì tốt hơn là đất.La tinh tròn trặn hay nghiêng vát là tốt.La tinh có bốn bề la mặt nước là tốt.Ðịa thế Huyệt có La tinh là địa thế Huyệt quý.
        18/QUAN TINH :Là núi nhỏ đằng trước Huyệt ở phía ngoài đối diện với Thanh long,Bạch hổ,kéo sơn mạch ra đằng trước.
        20/DIỆU TINH :Là tảng đá lớn nhô lên ở hai bên tả hữu của Huyệt.Diệu tinh to lớn và đẹp thì sẽ tạo phú quí lâu dài.
        21/QUỶ TINH :Là sơn mạch ở đằng sau Long Huyệt mọc ra hai cánh,để cho Huyệt trườn gối lên.Chỉ có Hoành long kết Huyệt mới có Quỷ tinh.Quỷ sơn không nên qua cao,lớn vì sẽ đoạt mất chân khí của Long Huyệt.Huyệt có Quỷ tinh đẹp là Huyệt quý.
        22/CẦM TINH :Là sơn thạch (Núi đá ) ở giữa Thủy khẩu ,còn gọi là Hỏa tinh Hà Lạc.Hình dạng của Cầm tinh giống như cái bút lông,con cá đang bơi,hay Rùa,rắn,dài,nhọn,vuông tròn,cao thấp,tụ hay tán.Huyệt có Cầm tinh là Huyệt quý.
        23/HUYỀN VŨ :Là sơn mạch đằng sau Huyệt.Huyền vũ là nơi mà từ đó Mạch chẩy vào Huyệt.Huyền vũ cao đầy thì có nhiều khí mạch dự trữ.Huyền vũ cúi đấu,bằng phẳng,vuông tròn là quí.Tôn nghiêm có bút nhọn,thanh tú thì quý.Thấp,mỏng bị gió thổi,thô bạo lấn át Huyệt là xấu.
        24/CHU TƯỚC :Là các sa sơn ở trước Huyệt,là các gò đống ở trước Huyệt.Nó múa lượn,chầu đón Huyệt,tốt tươi,sáng sủa,vòng cung ôm lấy Huyệt là quý.Sơn chạy tán loạn,lởm chởm ,âm u là xấu.
        Ghi chú :Những định nghĩa trên dienbatn viết theo KS.TRẦN VĂN TAM trong cuốn XÂY DỰNG NHÀ Ở THEO PHONG THỦY.
        Phong thủy: Tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là phong thủy không hợp. Sách Táng thư viết: "Mai táng phải chọn nơi có sinh khí. Kinh viết : Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nước (thủy) ngăn thì dừng. Cổ nhân
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      13. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "dinhquy" về bài viết có ích này:

        tranduyquang (12-11-13)

      14. #8
        Tham gia ngày
        Jan 2010
        Bài gửi
        857
        Cảm ơn
        6
        Được cảm ơn: 632 lần
        trong 425 bài viết

        Default

        TT
        làm sao cho khí tụ chứ không tán, nước chảy có chỗ dừng". Do vậy mà có tên là Phong thủy.
        Hai chữ Phong thủy còn chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi trú ngụ hoặc mai táng cát tường phú quí, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong thủy.
        Phong thuỷ thuật: Học thuyết cổ đại Trung Quốc hướng dẫn người ta lựa chọn nơi trú ngụ và mai táng cùng trình tự xây dựng các nơi đó, với một hệ thống lý luận và phương pháp mang màu sắc thần bí. Thuật Phong thủy cho rằng môi trường tự nhiên của một vùng đất và công trình kiến trúc của con người có thể ảnh hưởng đến con cháu của người đã khuất hoặc đến vận mệnh của những người sinh sống tại đó. Thuật này đề xuất lý luận và phương pháp hướng dẫn người ta chọn cát tránh hung, cầu phúc tránh họa. Thuật Phong thủy có nguồn gốc xa xưa, thời thượng cổ con người đã chú ý đến ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên đối với nơi cư trú của loài người, nên đã tiến hành lựa chọn một cách có chủ đích. Khi loài người bắt đầu có hoạt động xây dựng một cách tự giác, việc tìm kiếm cho được nơi trú ngụ an toàn, thích hợp, tiện lợi đã trở thành một trong những nhu cầu cơ bản. Khi việc chôn cất người chết trở thành phương thức chủ yếu, do ảnh hưởng của quan niệm sùng bái linh hồn và tổ tiên, người ta cố tìm cách mai táng sao cho có thể giữ gìn lâu dài thi thể người chết. Thời kỳ Tiên Tần, do trình độ khoa học còn thấp, các hình thức bói toán dự đoán cát hung thịnh hành trong xã hội gắn liền với hoạt động xây dựng nhà ở và mai táng. Các Văn hiến như Bốc trạch, Bốc cư, Bốc lạc phản ánh tình hình đương thời. Đồng thời các học thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái Chu Dịch, Thiên văn Hà Lạc cũng phát triển mạnh, áp dụng vào lĩnh vực Bốc trạch, Bốc cư, (bói chọn nhà ở và mồ mả). Thuật Phong thủy nhờ đó có được cơ sở tư tưởng triết học cần thiết. Thời Lưỡng Hán , đã xuất hiện các trước tác về Phong thủy như Cung trạch địa hình, Kham dư kim quí. Các học thuyết Hình pháp gia, Kham dư gia cũng mang nội dung Phong thủy. Mối quan hệ giữa nhà ở và mồ mả với cát hung họa phúc của con người đã trở nên rất mật thiết, đồng thời xuất hiện những người chuyên thực hiện hoạt động Phong thủy. Điều này gắn liền với vô số sấm vĩ (câu sấm) và hàng loạt điều cấm kỵ mang tính chất mê tín đang thịnh hành trong xã hội đương thời. Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, quan niệm nhà ở và mồ mả gắn với cát hung họa phúc của con người được tầng lớp sĩ đại phu tiếp nhận rộng rãi, thậm chí vua chúa cũng hoàn toàn tin vào thuật Phong thủy. Các sách Phong thủy xuất hiện nhiều chia ra 2 loại : Dương trạch và âm trạch. Thuyết "Tứ Linh" cũng bắt đầu hình thành. Các quan niệm âm dương ngũ hành, bát quái can chi, Thiên văn hà lạc, âm luật quý hậu được áp dụng vào thuật Phong thủy. Đến thời kỳ Tùy Dường, thuật Phong thủy về cơ bản đã hình thành chắc chắn. Các sách Phong thủy ra đời hàng loạt, trong đó Trạch Kinh có đến mấy chục loại, Táng thư có trên trăm loại. Sách Trạch kinh, Táng thư đời Đường là 2 trước tác chuyên về Phong thủy sớm nhất của Trung Quốc còn đến nay, những điểm chủ yếu về lý luận Phong thủy đại thể đã hoàn bị, làm cơ sở lý luận cho 2 trường phái lớn là Lý pháp và Hình pháp trong học thuyết Phong thủy sau này. Nhất là Táng thư đề xuất "thuyết sinh khí" đã trở thành lý luận căn bản nhất của học thuyết Phong thủy. Sách này mượn tên Quách Phác biên soạn, nên Quách Phác được tôn là người sáng lập học thuyết Phong thủy. Một nhân vật trọng yếu khác trong lịch sử thuật Phong thủy là Dương Quân Tùng cũng là người đời Đường, được tôn là tổ sư. Cuối đời Đường, xuất hiện la bàn là công cụ tất yếu của các Phong thủy sư. Thời kỳ Tống Nguyên Minh Thanh, thuật Phong thủy càng được hoàn thiện và phát triển về lý luận và phương pháp, đồng thời chia thành nhiều trường phái khác nhau. Phái Lý pháp đặc biệt thịnh hành, song chứa đựng quá nhiều điều huyền bí. Ảnh hưởng của thuyết Phong thủy trong xã hội cũng ngày một gia tăng, thâm nhập vào mọi tầng lớp xã hội; đồng thời được Lý học đời Tống Minh và giai cấp thống trị phong kiến ra sức ủng hộ, có tác động vô cùng mạnh mẽ tới đời sống xã hội Trung Quốc cổ đại.
        Điểm cơ bản của lý luận học thuyết Phong thủy là Thừa khí, Tụ khí, Đắc khí. Nội dung gồm 2
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      15. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "dinhquy" về bài viết có ích này:

        tranduyquang (12-11-13)

      16. #9
        Tham gia ngày
        Jan 2010
        Bài gửi
        857
        Cảm ơn
        6
        Được cảm ơn: 632 lần
        trong 425 bài viết

        Default

        TT
        loại lớn là Phong thủy dương trạch và Phong thủy âm trạch, trong đó Phong thủy âm trạch có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng. Nội dung của Phong thủy âm trạch bao gồm : khảo sát hình dạng núi non sông nước trong một phạm vi khá rộng, xác định địa chất địa mạo, lựa chọn vị trí và phương hướng của huyệt mộ, cảnh vật xung quanh, tính chất thổ nhưỡng, thước tấc huyệt mộ, cây cỏ trên mặt đất, cách thức và thời gian mai táng, các vật kiến trúc phụ bên trên huyệt mộ; ngoài ra còn bao gồm nội dung dùng sức người cải tạo địa hình. Nội dung của Phong thủy dương trạch thì gồm có: chọn địa điểm nhà ở, thôn xóm, thành phố, khảo sát môi trường kiến trúc xung quanh chúng, địa thế cao thấp, hình dáng và bố cục bên trong nhà ở cùng thị trấn, chọn ngày giờ khởi công và trình tự xây dựng, hướng mở cổng cửa, kích thước cổng cửa, các loại cây trồng và phương vị sở tại còn phải khảo sát vận mạng của chủ nhà phối hợp nhà ở tính thống nhất giữa nhà ở với các công trình xây dựng xung quanh. Bết kể dương trạch hay âm trạch cũng đều có Hình pháp và Lý pháp khác nhau; Hình pháp lấy hình thế sông núi làm chính; Lý pháp thì lấy nguyên lý suy diễn thuật số làm chính; hai "pháp" có chỗ mạnh chỗ yếu, nên về sau người ta theo xu thế kết hợp cả hai.
        Thuật Phong thủy là một nội dung của văn hóa cổ truyền Trung Quốc, hiển nhiên chứa đựng nhiều yếu tố thần bí, cần được gạn đục khơi trong. Đồng thời thuật Phong thủy cũng bao gồm những kinh nghiệm quí báu mà con người tích lũy hàng ngàn năm trên cơ sở quan sát tự nhiên và phát triển xã hội, rồi mới được phát hiện và tổng kết, học giả thời nay đề xuất : thuật Phong thủy thực tế là lý luận qui hoạch thiết kế xây dựng cổ đại mang tính thống nhất và tổng hợp các khoa địa chất học, sinh thái học, cảnh quan học, kiến trúc học, luân lý học, tâm lý học, là tinh hoa của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại, cùng với Doanh tạo học và Tạo viên học hợp thành 3 cột trụ của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại. Tuy thuật Phong thủy có giá trị không thể xem nhẹ, nhưng vì nó khoác bộ áo huyền bí và lối diễn đạt dung tục, nên khó hiểu và có khi bị chê cười; hơn nứa quan niệm cho rằng vị trí mai táng có thể quyết định cát hung họa phúc của con cháu chưa hề có tư liệu khoa học nào xác minh, ngày nay hình thức mai táng dần dần bị thay thế (chẳng hạn bằng hỏa táng) âm trạch không còn nhiều ý nghĩa nữa.
        Kham dư: Ban đầu là tên một vị thần, sau chỉ Phong thủy, Hán thư. Dương Hùng truyện viết: "Kham dư là tên gọi chung trời đất, còn là thần sáng tạo đồ trạch thư". Văn tuyển. Cam tuyền phú viết : "Hoài Nam Tử nói Kham dư "hành hùng (đực) để biết thư (cái). Hứa Thận nói Kham là đạo trời, dư là đạo đất vậy". Hán thư. Nghệ văn chí chép 14 quyển "Kham dư kim quí". Lũng Xuyên cho rằng sách Sử ký khảo chứng là "sách viết về phương vị Phong thủy". Sử ký. Nhật giả liệt truyện . "Thời Hiếu Võ đế, có triệu tập các nhà chiêm bốc hỏi ngày nọ có thể cưới vợ ? Các nhà ngũ hành đáp có thể; các nhà kham dư đáp không được". Tùy thư. Kinh tịch chí có chép "Kham dư lịch chú", "Địa tiết kham dư", bàn về cách chọn ngày giờ. Đủ biết kham dư thoạt đầu không phải là chuyên bàn về Phong thủy. Theo khảo chứng của các học giả thời nay, kham dư thoạt tiên chỉ tên 12 vị thần. Các nhà kham dư căn cứ 12 vị thần ấy mà dự đoán cát hung. Do dùng cách quan sát tượng trời để phán đoán cát hung dưới đất, nên Hứa Thận thời Đông Hán nói kham dư là đạo trời và đạo đất và có bao hàm nội dung Phong thủy. Từ thời Tùy Đường trở đi, người ta dần dần coi Tướng trạch và Tướng mộ là kham dư. Đời Thanh, Tiền Đại Hân trong sách Hằng ngôn lục viết : "Các nhà Kham dư thời cổ tức là các nhà "tướng trạch đồ mộ" thời cận đại, các nhà địa lý ngày nay"; chứng tỏ về sau người tá mới đưa nghĩa Phong thủy vào khái niệm Kham dư. Ngoài ra, các văn nhân sĩ đại phu quen dùng thuật ngữ Kham dư, còn dân gian thì gọi là Phong thủy.
        Địa lí : Tức Phong thủy. Vương Tịch Chi đời Tống trong Mãnh thủy yên đàm lục viết : "Văên Ấu Bạc có tài làm thơ, giỏi âm dương địa lý". Cố Viêm Võ đời Thanh trong Xương Bình sơn thủy ký, quyển thượng, viết " Hoàng hậu họ Từ qua đời, Lễ bộ thượng thư Triệu Hồng được lệnh mời thầy địa lý Liêu Quân Khanh tới, chọn đất tốt ở núi Hoàng thổ, phía đông huyện Xương Bình".
        Địa lí học: Chỉ thuật Phong thủy. Sách Trí giả tự hưng tạo ký của Lục Du đời Tống: "Kỷ Thực Trượng nhìn bốn phía hỏi, "Ai biết ngôi chùa kia là do trời đất tạo dựng nên.. Mà nhân sự không thể hiểu nổi, cho nên trời mới sai ta chọn địa dư này chăng?" Tức là khi hỏi ý kiến các nhà địa lí học, thì họ nói gần giống như Kỷ vậy".
        Địa học: Tức thuật Phong thủy. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 viết : "Đời sau khi nói đến nhà địa học, đều coi Phác (Quách Phác) là tổ sư".
        Âm trạch : Đất mồ mả. Lễ ký. Tạp ký thượng viết: "Đại phu bói về nhà ở và ngày mai táng". Sớ : "Trạch, nghĩa là đất mồ mả". Đời sau người ta thêm nghĩa nhà ở, nơi trú ngụ vào chữ "trạch", nên gọi mồ mả là âm trạch. Thủy hử truyện, hồi 120 : "Nếu ta chết ở chốn này, thì đây là âm trạch". Còn bao hàm nội dung chọn đất mai táng, tức Phong thủy âm trạch.
        Dương trạch: Nhà ở, cũng bao hàm thôn xóm, thành thị. Thời cổ, chu "trạch" vừa có nghĩa mồ mả, vừa có nghĩa là nơi trú ngụ. Để phân biệt, Phong thủy gọi mồ mả là âm trạch, còn nhà ở là dương trạch. Sách Hoàng đế trạch kinh khuyết danh đời Đường : "Phàm dương trạch tức là có khí dương ôm âm, âm trạch tức là có khí âm ôm dương". Còn bao hàm nội dung chọn đất làm nhà, xây dựng nhà cửa, tức phong thủy dương trạch.
        Âm dương trạch: Mồ mả và nhà ở. Là cách gọi vắn tắt Phong thủy âm trạch và Phong thủy dương trạch, bao gồm toàn bộ nội dung thuật Phong thủy, tức đại diện cho Phong thủy.
        Thanh ô thuật: Tức thuật Phong thủy. Đời Hán có Thanh Ô Tử soạn Táng kinh, nên các nhà Phong thủy coi đó là thủy tổ của Phong thủy, mới gọi thuật Phong thủy là thuật Thanh ô, người chuyên hoạt động Phong thủy là "Thanh Ô đồ" .
        Thanh nang thuật: Tức thuật Phong thủy. Tấn thư. Quách Phác truyện : "Phác giỏi chử nghĩa cổ văn, tính toán lịch âm dương tài tình. Có ông thày họ Quách ẩn cư ở Hà Đông, tinh thông bói toán. Phác bèn theo học. ông thày đem 9 quyển sách chứa đựng thuật ngũ hành, thiên văn, bốc phệ (phép bói cỏ thi) trong thanh nang (chiếc túi vải xanh) tặng Phác". Nhờ đó phác giỏi xem tướng đất. Đời sau lại có Thanh nang kinh, tức Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh chuyên nói về Phong thủy, mượn tên Quách Phác viết lời tựa. Dần dần thuật Phong thủy được gọi là thuật Thanh nang.
        Trạch tướng: Tướng Phong thủy của nhà cửa. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : "Thư mồ côi từ nhỏ , được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển. Bà ngoại thấy Ngụy Thư còn bé mà thông minh dĩnh ngộ, đoán là câu trên ứng vào cậu. Thư nói : Họ ngoại có được trạch tướng tốt vậy".
        Về sau người ta dùng hai chu "ngoại sanh" (cháu ngoại) thay cho chu "trạch tướng". Sách Phụng thiên lục, quyển 4, của Triệu Nguyên Nhất đời Đường viết : "Vương Mãng
        làm Thị lang, chuyên về trạch tướng, chí khí hào hùng, rất giống người cậu của mình".
        Gia tướng : Tức Phong thủy dương trạch. Vì nó gắn liền với họa phúc của gia đình, hình tướng của gia trạch, nên gọi là Gia tướng (tướng nhà).
        Địa tướng: Tức Phong thủy âm trạch. Vì nó gắn liền với hình thế của sông núi, hình tướng của mồ mả, nên gọi là Địa tướng (tướng đất).
        Bốc triệu: Triệu, nghĩa là mồ mả. Chỉ việc lựa chọn đất lành để mai táng. Quản thị địa lý chỉ mông. Sơn nhạc phối thiên đệ nhị : "Bốc triệu dinh thất gồm 2 việc; một là luận sơn (núi), hai là luận hướng, là điểm mấu chốt của nhà kham dư".
        Bốc cát : Chiêm bốc để chọn ngày lảnh hoặc đất tốt. Sách Huy chủ hậu lục, quyển 1, của Vương Minh Thanh đời Tống, viết : "Vĩnh Xương Lăng bốc cát, lệnh cho Tư thiên giám Miêu Xương đi xem tướng đất ở Tây Lạc". Về sau "Bốc cát" được dùng để chỉ việc chọn đất mai táng.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      17. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "dinhquy" về bài viết có ích này:

        tranduyquang (12-11-13)

      18. #10
        Tham gia ngày
        Jan 2010
        Bài gửi
        857
        Cảm ơn
        6
        Được cảm ơn: 632 lần
        trong 425 bài viết

        Default

        TT
        Chiêm sơn: Chiêm nghĩa là nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm sơn nghĩa là tiến hành quan sát hình thế sông núi để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch.
        Chiêm táng: Chiêm nghĩa lả nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm táng nghĩa là tiến hành quan sát hoàn cảnh tự nhiên để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Hoàng đế trạch kinh : "Chiêm táng là nhìn cảnh sông núi xem lành hay dữ, địa điểm chính hay tà, quỉ thần an hay nguy, con cháu phát đạt hay tuyệt tự".
        Tướng sơn: Tức là quan sát hình thế của núi non để xác định mức độ cát hung tọa hướng của vị trí mộ phần, là tên gọi thay cho thuật ngữ Phong thủy âm trạch. Tống sử.
        nghệ văn chí có chép âm dương tướng sơn yếu lược, 2 quyển.
        Tướng mộ: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần, xác định tọa hướng của huyệt mộ, ngày mai táng cùng những việc liên quan.
        Tướng địa: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần hoặc nhà cửa, xác định vị trí và tọa hướng tốt nhất của huyệt mộ, nhà cửa, tức là thuật Phong thủy. Thường dùng để chỉ riêng việc chọn đất làm mộ phần, tức Phong thủy âm trạch. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 : "Những thứ mà Hình pháp kể ra, kiêm cả việc xem tướng người, tướng vật, thì không phải chỉ là tên gọi riêng của tướng trạch, tướng địa".
        Tướng thổ: Tướng, nghĩa là quan sát. Chỉ việc quan sát chất đất, để xác định cát hung của một vùng đất nào đó Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : "Nơi sông núi mỹ lệ, cây
        cỏ tốt tươi, "Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị".
        Phép tướng thổ, nếu thấy đất bị sương gió xâm thực, tơi tả như tro, quá khô cứng, hoặc bị nước xói lở, nhiều cát, quá ẩm thấp, là đất hung; còn thấy chắc chắn, tươi nhuận, cây
        cỏ tươi tốt là đất lành. Lại qui định, phàm đất chưa bị đào bới, thấy chắc chắn dày dặn, rễ cây không sâu mà lá nhỏ, gọi là "Uất thảo", cũng là đất lành. Cho nên phàm đất đã canh tác thì không thể làm nhà cửa và mộ phần. Trong thuật Phong thủy đây là nội dung bảo vệ đất canh tác, có ý nghĩa tích cực.
        Bốc lạc: Đời nhà Chu dùng phép chiêm bốc để xác định đất của lạc ấp nào sẽ được xây dựng kinh đô. Thượng thư. Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau gọi kiến trúc đô thành là Bốc lạc.
        Văn tuyển của Lương Tạ Chiêm thời Nam triều, có câu thơ: "Bốc lạc dịch long thế, Hưng loạn võng bất vong" .
        Bốc thục: Thời thượng cổ dùng phép chiêm bốc để xác định đất xây dựng kinh đô. Khi bói, lấy mực vẽ lên mai rùa, đem nướng mai rùa, nếu sau khi nướng, mai rùa có những đường hằn nứt xóa hết vết mực, thì là cát. Thượng thư Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau liền gọi việc chọn đất xây dựng kinh đô là Bốc thực. Tổ khảo tụng của Lục Vân đời Tấn : "Bốc thực Đông Hạ, nguyên quy khái tập". Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : "Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị" .
        Bốc địa: Chọn lựa đất lành để cư trú hoặc dựng nước. Ngô Việt xuân thu. Câu Tiễn qui quốc ngoại truyện của Triệu Diệp đời Hán : "Đường Ngu bốc địa, Hạ ân phong quốc, cổ công doanh thành Chu Lạc". Cũng dùng đó để chỉ riêng việc lựa chọn đất làm phần mộ. Bắc nguyên tình của Lưu Ngôn Sử đời Đường có câu thơ "Bốc địa khởi cô phân, Toàn gia tống táng khứ". Đời sau bèn dùng để thay cho hai chữ Phong thủy.
        Bốc trạch: Chữ "trạch" có 3 nghĩa : l) Nơi trú ngụ 2) Phần mộ 3) Lựa chọn. Cho nên bốc trạch cũng có 3 nghiã. l) Chiêm bốc để quyết định đất xây dựng kinh đô. Thượng thư. Chiếu cáo: "Thái bảo triều chí ư Lạc, bốc trạch, quyết khái đắc bốc, tắc kinh doanh", ngụ ý Chu Công bốc trạch ở Lạc để xây dựng kinh đô. 2) Chọn đất cư trú. Bài thơ "Vi nông của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Bốc trạch tòng từ lão Vi nông khử quốc xa". Thơ Di cư Hoàng Tân kiều của Phan Phi Thanh có câu : "Đào Tiềm ái bốc trạch, Thẩm ước phú giao cư ". 3) chiêm bốc hoặc quan sát địa hình để chọn đất làm phần mộ. Lễ ký. Tạp ký thượng: "Đại phu bốc trạch và ngày mai táng". Sớ của Khổng Dĩnh Đạt : "Trạch là đất mai táng". Thơ Tống qui cao sĩ chi hoài thượng của Cố Viêm Vũ đời Thanh : "Bốc trạch dĩ an vương khảo triệu, Huề xuất hoàn qui cố nhân trai". Đời sau bèn gọi Phong
        thủy là Bốc trạch.
        Bốc cư : Vốn dùng để chỉ việc chọn đất lành xây dựng kinh đô. Sử ký. Tần bản kỷ. "Đức công nguyên niên, bốc cư Ung". Sau chỉ việc chọn đất định cư. Nghệ văn loại tụ, quyển 64, dẫn bài thơ "Hành trạch" của Tiêu Tử Lương nước Tề thời Nam triều : "Phỏng vũ bắc sơn a, Bốc cư tây dã ngoại". Bài thơ Ký đề giang ngoại thảo đường của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Thị tửu ái phong trúc, Bốc cư tất lâm tuyền".
        Bốc thất : Thất, nghĩa là nhà ở. Chỉ việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở. Bài thơ Phụng tống thế mỹ qui dương tiễn của Thẩm Liêu đời Tống có câu : "Phiêu phiêu số niên như nhất mộng, Nhĩ lai bốc thất tề Sơn Tây". Minh sử. Trương Khả Đại truyện : "Khả Đại ước thúc kỳ úy, quyên bổng trợ chi, bốc thất xứ kỳ thê tử".
        Bốc vũ : Vũ, nghĩa là nhà cửa. Chỉ việc chọn nhà ở. Tề tư không khúc giang công hành trạng của Nhiệm Phưởng, người nước Lương thời Nam triều : "ái nái bốc vũ Kim Lăng, doanh đới lâm hách" .
        Bốc trúc : Chọn đất xây dựng nhà ở để định cư. Lương thư. Lưu Hứa truyện chép rằng Lưu Hứa cùng người anh họ quyết chí tìm đất xây dựng ngôi đền Tống Hy ở khe suối phía đông. Minh sử. Đường Thuận chi truyện : "Bốc trúc dương tiễn sơn trung, độc thư thập niên dư"
        Bốc lân : Chỉ việc chọn láng giềng mà cư trú. Tả truyện. Chiêu công tam niên : "Thả Ngạn nói : Phi trạch thị bốc, duy lân thị bốc. 'Nhị, tam tử tiên bốc lân hề". Đỗ Dự chú giải: "Bói láng giềng tốt". Bài thơ Ký tán thượng nhân của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Nhất tạc bồi tích trượng, Bốc lân nam sơn u". Thực ra chỉ việc chọn đất cư trú, đồng thời biểu thị với người khác ý muốn cư trú ở bên cạnh nhà họ.
        Bốc lão : Chọn nơi ở để dưỡng lão cho đến khi chết, tức ngụ ý định cư. Tịnh danh trai ký của Mễ Phất đời Tống: Mễ Phết người Nang Dương, tự Nguyên Chương, bốc lão ở Đan Đồ".
        Chiêm trạch : Chiêm, nghĩa là nhìn điềm triệu mà biết cát hung. Chiêm trạch tức là quan sát nhà cửa để đoán cát hung. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Hoàng đế trạch kinh : " Chiêm trạch là nhìn hình thế khí sắc, sự biến đổi của cỏ cây mà dự đoán tình hình họa phúc cát hung"
        Tướng trạch : Tướng, nghĩa là quan sát, chọn 1ựa, Tướng trạch nghĩa là tiến hành quan sát, lựa chọn, phán đoán cát hung đối với hình dạng, phương vị tọa hướng cùng hình thế xung quanh nhà ở theo học thuyết Phong thủy, đồng thời xác định trình tự và ngày giờ xây dựng nhà cửa cùng hình thức bố trí bên trong ngôi nhà. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : "Thư mồ côi từ nhỏ, được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển" . Tùy thư. Kinh tịch chí có chép " Tướng trạch đồ" 8 quyển. Tống sử. Nghệ văn chí có chép " Tướng trạch đồ" 1 quyển.
        1) Sinh khí : Khái niệm cơ bản nhất trong thuật Phong thủy, trung tâm của toàn bộ hệ thống lý luận. Theo cách giải thích của thuật Phong thủy, hai khí âm dương tràn ngập trời đất, hô hấp ắt thành gió, bốc lên ắt thành mây, rơi xuống ắt thành mưa, còn vận hành tiềm ẩn dưới lòng đất tức là sinh khí. Sinh khí vận hành tùy theo lòng đất, hình thức biểu hiện là các ngọn núi của mạch núi nhô cao trên mặt đất. Cho nên nói "Đất có khí tốt, đất tùy khí mà lên, thành hình ở bên ngoài vậy" (Táng kinh dực). Bởi thế tìm sinh khí trước tiên phải quan sát địa hình. Đất là mẹ của khí, có đất ắt có khí. Sinh khí tùy đất mà vận hành, gặp nước thì dừng, gặp gió thổi ắt tản mác ra bốn phía. Cho nên điều quan trọng nhất là tìm được nơi hội tụ sinh khí, có sơn thủy bao quanh, để
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      19. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "dinhquy" về bài viết có ích này:

        tranduyquang (12-11-13)

      Trang 1/9 123 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Phong Thủy theo luận điểm khoa học
        By athienloc in forum Phong thủy II
        Trả lời: 158
        Bài mới: 15-03-16, 11:13
      2. Luận về khí trong phong thủy
        By annhien in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 12
        Bài mới: 14-10-13, 09:02
      3. Luận về PHONG THỦY và CAN-CHI-HÀNH-LỘC-MÃ
        By hausinh in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 13
        Bài mới: 13-07-13, 10:54
      4. Thông báo mở phòng thảo luận PHONG THỦY
        By administrator in forum Thông báo
        Trả lời: 0
        Bài mới: 14-09-12, 07:00
      5. Trả lời: 11
        Bài mới: 08-04-11, 21:47

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •