Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 2/9 đầuđầu 1234 ... cuốicuối
    kết quả từ 11 tới 20 trên 82
      1. #11
        Tham gia ngày
        Jun 2013
        Đến từ
        Japan
        Bài gửi
        529
        Cảm ơn
        204
        Được cảm ơn: 340 lần
        trong 222 bài viết

        Default

        TƯỚNG BẤT ĐẮC KỲ TỬ


        Đặng Diễn Đạt quê quán ở Mai Huyện, tỉnh Quảng Đông. Thời kỳ Quốc Cộng phân liệt, Đạt là một trong những lãnh tụ Quốc Dân Đảng bèn tách rời Đảng để tổ chức lập Đảng thứ ba, tự tôn mình làm Đảng trưởng. Lúc ấy Đạt mới có ba mươi tuổi.
        Dân Quảng Đông không mấy người biết mặt Đạt vì ông ta xuất ngoại du học từ thuở nhỏ. Về nước giữa khi Tưởng Giới Thạch hoàn thành Bắc phạt lật đổ Viên Thế Khải. Đặng Diễn Đạt được giữ chức chủ nhiệm tổng chính trị bộ kiêm giáo dục trưởng trường Võ bị Hoàng Phố.
        Một hôm Đặng Diễn Đạt cùng Borodine ngồi xe song mã đi chơi phố ở tỉnh Vũ Xương. Borodine là trưởng phái đoàn Xô Viết sang Tầu để giúp đỡ Cộng sản Trung Quốc hoạt động cho nên thiên hạ thấy hai người dừng xe ở đâu là xúm lại xem đông đảo. Có những người liên hệ với trường Hoàng Phố chỉ bảo xầm xì cho dân chúng biết đó là Đặng Diễn Đạt, nhân vật chính trị quan trọng. Đây là lần đầu họ trông thấy mặt họ Đặng.
        Trong đám quần chúng có thầy tướng trứ danh tên Dã Hạc đạo nhân. Với dân chúng và con mắt tục thì ai ai cũng trầm trồ khen ngợi Diễn Đạt khí vũ hiên ngang, mặt to tai lớn, có oai xứng đáng bậc yếu nhân của chính phủ.
        Chỉ riêng Dã Hạc đạo nhân lắc đầu than tiếc: Hung tướng 38 tuổi bất đắc kỳ tử. Có người hỏi lý do. Dã Hạc đạo nhân cười mà rằng:
        - Tướng cục họ Đặng thuộc quý cách đã đành nhưng đi đôi với quý cách ấy còn tướng đoản mệnh bất đắc kì tử. Cái tướng ấy nằm ở đôi mắt, mắt như mắt heo mà lại đầu lớn, má to như đầu heo tránh sao cho khỏi hung tử.
        Đảng thứ ba của Đặng Diễn Đạt có nhiều người ủng hộ nên thế lực chính trị của ông không phải nhỏ. Ít lâu sau, Đạt qua Âu Châu. Đi theo Đạt là người họ Chương. Có người biết chuyện đoán tướng của Dã Hạc đạo nhân, khuyên họ Chương chớ theo Đạt. Họ Chương không tin tướng số chỉ tin vào sự thành công của đệ tam Đảng.
        Khi Đạt ở Bá Linh thì tại Mạc Tư Khoa, Staline chú ý đến Đạt nên đánh điện mời Đạt qua Nga. Đạt dự tính chuyến đi này ngoại giao với Điện Cẩm Linh sẽ qua đường Tây Bá Lợi về nước. Trước khi đi, nhân uống rượu vui mừng, Đặng Diễn Đạt thấy Chương nói chuyện Dã Hạc đại nhân nên mới chứng minh với bạn, Đạt rủ Chương đến thăm một cụ già Trung Quốc ở Bá Linh đã lâu đời, giỏi xem tướng tên là Thượng lão nhân hỏi tướng cách mình, chuyến đi thành công hay không? Hỏi cho vui chứ thiệt Đạt chẳng tin. Thượng lão nhân cho biết chuyến đi vô ích và Đạt phải trở lại Bá Linh. Đạt và Chương nhìn nhau cười.
        Qua Mạc Tư Khoa ăn chực nằm chờ gần một tháng, Đạt mới gặp Staline. Mục đích của Staline là dùng Đặng Diễn Đạt thay thế cho Trần Độc Tú, lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng khi gặp mặt thì Đạt nói cho Staline hay rằng mình không phải là đảng viên Đảng Cộng sản nên Staline đổi ý lập tức và ra lệnh cho các cơ quan an ninh trục xuất Đạt ra khỏi nước Nga ngay. Do đó, Đạt không qua Tây Bá Lợi Á về nước mà phải quay lại Bá Linh đúng như lời Thượng lão nhân.
        Thâm tâm Đạt có ý thầm phục lão đoán tướng số. Thượng lão nhân nói:
        - Cái lý của tướng học tương tự như tâm lý học, trong lòng vui nét mặt vui, trong lòng buồn nét mặt buồn.
        Đặng Diễn Đạt cãi:
        - Đấy là hiện tượng tâm lý chứ không phải hiện tượng tướng lý.
        Thượng lão nhân vốn ít ưa tranh luận nên bảo người nhà đưa cho Đạt gương soi mặt nói:
        - Ông hãy soi gương rồi cho tôi hay mặt ông có những điều gì đáng chú ý.
        Đặng Diễn Đạt nhìn gương hồi lâu nói:
        - Tôi chỉ thấy đầu tôi lớn quá mà mắt tôi nhỏ quá.
        Thượng lão nhân nói:
        - Chẳng những mắt nhỏ, nó còn hơi đục. Hậu vận của ông tùy thuộc đôi mắt. Riêng tôi e khó lòng thiện chung. Đảng thứ ba của ông chắc chẳng thành cơm cháo gì đâu. Ông nên học hai chữ tri mệnh là hơn.
        Đạt trả lời:
        - Làm chính trị hơn nữa là một lãnh tụ, trách nhiệm ở chỗ xung phá khó khăn trở ngại. Tôi đã nghĩ kỹ, khi về nước tất phải gặp nhiều nguy hiểm, nếu tôi không vượt qua thì ai vượt qua cho tôi, cho nên tôi quyết làm cho đến cùng, bất quá ngồi tù. Tù còn có nghĩa là một hành động, chứ chẳng làm gì cả nghe không được.
        Thượng lão nhân nói:
        - Tôi chỉ nhân danh nhà tướng số mà khuyên ông thôi. Mắt ông thuộc loại mắt hung tử. Nếu ông không ở lại ngoại quốc, tướng ông thuộc loại Nam nhân Bắc tướng. Nếu ông không ẩn thân về phương Nam, chỉ ba năm nữa nhất định ông chết thảm.
        Đặng Diễn Đạt không nói gì. Về Trung Quốc, Đạt trương cờ đệ tam Đảng hoạt động. Nhờ bà Tống Khánh Linh, vợ của Tôn Trung Sơn ủng hộ, Đạt thiết lập đại bản doanh tại Thượng hải chiêu tập hội nghị toàn quốc.
        Trong khi ấy, phe Quốc Dân Đảng thế lực ngày mỗi lớn. Tưởng Giới Thạch từ bỏ chính sách liên hiệp với C. S. của Tôn Văn bằng cách dùng vũ lực bắt giết phe Cộng sản luôn thể cả những lực lượng chính trị không theo đường lối Quốc Dân Đảng.
        Thấy Đặng Diễn Đạt có Tống Khánh Linh hỗ trợ, Tưởng Giới Thạch càng thấy cần phải đập nát Đảng thứ ba trước khi nó thành trưởng. Đằng sau Tưởng là những thế lực tư bản ngoại quốc nên việc thỏa thuận với nhà đương cuộc Tô Giới Thượng Hải dễ dàng. Chờ đúng ngày đại hội nghị toàn quốc, Tưởng Giới Thạch xua mật vụ quét một mẻ. Đạt bị giải về giam trong nhà ngục Nam Kinh. Mặc dầu có lời xin của Tống Khánh Linh nhưng Tưởng Giới Thạch vẫn ngầm sai người mang Đặng Diễn Đạt ra vùng ngoại ô bắn chết. Nơi Đạt bị bắn là Vũ Hoa Đài.
        Hung tử có nhiều cái chết khác nhau: chết trận, chết vì trúng gió, chết treo hay bị tử hình, chết do đánh nhau đâm chém, chết tai nạn, chết vì ngộ độc, tự sát, chết vì gái v. v...
        Xem tướng chỉ thấy những dấu hiệu hung tử, nhưng hung tử ra sao thì khó lòng đoán ra. Còn phải tuỳ tính, tuỳ môi trường xã hội mỗi người. Tỉ dụ: tính tình mê gái, mãn diện đào hoa nên đoán là chết vì gái. Tính tình hiên ngang, bộ vị anh hùng nên đoán là chết trong lao ngục hoặc ám sát chính trị. Tính tình keo kiệt, tham lam nên đoán chết vì thù oán hoặc cướp bóc. Cùng hung tử nhưng phải phân biệt anh hùng tiểu nhân để luận đoán cho tường. Qua các sách tướng pháp như: Tướng lý hành chân, Thuỷ Kính, Liễu Trang, Thiết Quan Đạo nhân Luân Đại Thống, Ngọc Quản Chiếu Thần thì những tướng hung tử như sau:
        - Diện hữu sát khí, trên mặt có sát khí, thông thường ta gọi là mặt sát nhân. Ai trông thấy cũng ghê sợ mà chẳng phải oai nghiêm. Sắc diện sam sám, mắt dữ, răng sám khô, đại khái như thế. Sát khí cảm thấy nhiều hơn nhìn rõ được hình thù.
        - Nhãn tướng hung tử gồm chín loại:
        a) Mắt tam giác (Tam giác nhãn).
        b) Mắt chữ nhất chảy thẳng một vệt nhỏ như ti hí mắt lươn.
        c) Mắt cá vàng (kim ngư nhãn) lồi ra, con ngươi nhỏ.
        d) Quỷ nhãn, đuôi con mắt không xếch lên mà quặp xuống.
        e) Lộ quang, mắt long lên sòng sọc hoặc sáng quá.
        f) Tẩu quang, (Tôi chưa biên nhận được quang ánh này nên không dám nói, chỉ ghi nguyên văn trong sách để quý vị độc giả xem tẩu quan là mục quan tiết ư nhãn ngoại).
        g) Tán quang, ánh mắt đã tan rã trông mắt như mất hồn (Mục vô thần).
        h) Có gân máu chạy ngang con ngươi.
        i) Tứ bạch, bốn phía lòng trắng.
        - Hàm bạnh, đứng đằng sau trông thấy xương quai hàm bạch ra, xương càng khô không có thịt càng ác liệt. Tỉ dụ: hàm tổng thống Abraham Licoln, thủ tướng Mussolini, Rudolph Hess; tướng ngữ gọi bằng hàm long, hàm chắn.
        - Trán hãm mũi nguy, trán hãm thế nào?
        Một là lồi lõm không đều, bên nhô bên lõm.
        Hai là trán lệch vẹo không ngay ngắn.
        Ba là trán quá thấp, tóc xâm chiếm phần nửa trán.
        Mũi nguy thế nào? Có 6 loại:
        1) Sống mũi cong gẫy khúc.
        2) Mũi tẹt dí xuống.
        3) Mũi vẹo.
        4) Mặt quá to mũi quá nhỏ.
        5) Mũi thật cao mà lưỡng quyền quá thấp.
        6) Quyền quá cao mà mũi quá thấp.
        - Đứng ngồi không yên: Đứng ngồi nhấp nhổm không yên lúc nào cũng như có lửa đốt trong tâm can. Con gái là tiện tướng, con trai là hung tướng.
        Tuy nhiên, nếu cách cục thuộc tướng khỉ thì lại phải hiếu động mới tốt. Nên lưu ý:
        - Khí bạo, tính cấp, kiêu ngạo và kinh bạc, lạnh lùng, tàn nhẫn là nói về tâm tướng của hung tử.
        Phá cách: Thường thấy tài tử, trung thần, hiếu tử, chân nhân tướng mạo thanh kỳ tú lệ mà bất đắc kỳ tử là do một cách phá cách nào đó (xin xem ở những chương khác).
        Ngoài ra, cần phải biết những câu phú sau đây:
        Hình như trư tướng tử tất phân thi
        (Hình giống con heo, chết thây bị mổ xẻ).
        Si lộ thần hân tu phòng dã tử
        (Răng lộ môi cong, đề phòng chết đường).
        Mã diện xà tinh tu tạo hoành tử
        (Mặt dài mặt ngựa, mắt con rắn chết bất kỳ).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "tienhaiutc" về bài viết có ích này:

        huycoisyro (11-01-17),thaihoa (17-06-13)

      3. #12
        Tham gia ngày
        Jun 2013
        Đến từ
        Japan
        Bài gửi
        529
        Cảm ơn
        204
        Được cảm ơn: 340 lần
        trong 222 bài viết

        Default

        CÁI MŨI VÀ ĐỜI NGƯỜI

        Thi sĩ Cao Bá Quát đọc thơ của Vua Tự Đức cùng nhóm triều thần trong thi xã của vua đã phê bình rằng:

        Ngán cho cái mũi vô duyên,
        Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An.

        Ý chê là thối như thuyền nước mắm. Chính vì cái mũi vô duyên đó mà Cao Bá Quát mới rơi vào cảnh tù ngục chết chém.

        Ba hồi trống giục mồ cha kiếp,
        Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời.

        Tướng con người ta kỵ nhất cái mũi vô duyên (dĩ nhiên là không phải theo cái nghĩa mà Cao thi sĩ nói), vì xem tướng trước hết phải xem cái mũi. Mũi tốt mới xem thêm, mũi xấu khỏi nói chuyện.
        Bất cứ con trai hay con gái, về tướng mặt mày đều lấy mũi làm chủ. Về tướng mũi chia ra làm hai loại: Thượng cách và hạ cách.

        Thuộc về thượng cách chia ra làm ba hạng:

        - Thiện tướng - thiện nhân đây là nói về phẩm cách.

        - Quý tướng - quý nhân đây là nói về quyền vị.

        - Phú tướng - phú nhân đây là nói về tài phú.

        Người thiện không nhất định phải giàu nhưng suốt đời vui sướng và khi chết cũng an toàn.

        Người quý vị tất đã giàu, người giàu không chắc đã thiện. Cho nên hai loại người này không chắc đã được vui sướng và thiện chung. Cho nên khi cổ nhân luận bàn về phúc tướng thường lấy thiện làm tốt và quý là thứ nhì, sau cùng mới đến phú. (Hiện tại là thời đại tư bản, phú luôn đi với quý nên người xem tướng cần phải thẩm định lại cái lý, chẳng nên giữ mãi quan niệm hủ lậu ngày trước).

        Tướng quý thiện, phú đều phân thành ba đẳng cấp: Đại, trung, tiểu. Tỉ dụ: Đại quý, trung quý, tiểu quý. Đại phú, trung phú và tiểu phú.

        Mũi thuộc tướng quý thế nào?

        Phải “thông thiên hữu thế” nghĩa là dài thẳng suốt lên đến giữa hai mắt như ống mũi ăn sâu vào trong óc, tỉ như ta gọi là mũi dọc dừa, phải có thế trông mạnh mẽ oai vệ.

        Phải “phong mãn tàn khổng” nghĩa là đầy đặn, to lớn, hai lỗ mũi ẩn kín.

        Lúc Tôn Văn còn bôn ba, có một vị thầy tướng đã bình phẩm cái mũi của nhà cách mạng đó rằng: Đại thiện kiêm đại quý đản vô phú (Mũi rất mực thiện, rất mực quý nhưng không giàu).

        Quả nhiên, Tôn Văn suốt đời khó nhọc vì tiền, kể cả lúc lấy bà Tống Khánh Linh giàu sụ bên Mỹ.

        Trong đời chỉ có tướng mũi vừa thiện vừa quý nhưng không bao giờ có tướng mũi vừa thiện vừa quý lại vừa phú. Quý dễ đi đôi với phú, có thể đi đôi với thiện. Nhưng phú ít đi với thiện.

        Về tướng ác của mũi được phân biệt như sau: Ác, tiện, bần.

        Ác, tiện, bần chia làm ba đẳng cấp:

        - Nhưng tướng mũi ác là tối kị. Vì người tướng mũi ác sẽ chết bất đắc kỳ tử, thậm chí cả nhà sẽ bị thảm tử.

        - Ác, không nhất định phải kiêm cả bần. Bởi vì tướng mũi ác đa số dễ giàu có.

        - Bần không nhất định phải kiêm cả tiện. Tuy nhiên ở xã hội thì tướng bần, tướng tiện rất nhiều và tướng ác tương đối ít hơn. Chẳng qua vì nhiều người nghèo nên ăn chẳng vay bữa mà mang tiếng ác thôi. Chứ ác không phải vậy.

        Theo truyền thống của tướng pháp Trung Hoa thì cái mũi ảnh hưởng lớn nhất đến vận mạng và tính cách con người, nam cũng như nữ.

        Đối với đàn ông, mũi chủ tài tinh (tiền bạc).

        Đối với đàn bà, mũi chủ phu tinh (chồng con).

        Sách “Tướng lý hành chân” dạy rằng:

        Mũi là cơ quan thẩm biện của cơ thể. Nên đầy đặn, cao lớn có thịt như mũi sư tử, mũi hổ như trái mật treo, ngay ngắn không lệch lạc, không thô, không nhỏ. (Xin các bạn lưu ý là to lớn nhưng không thô tục). Như vậy là thẩm quan tốt, không giàu cũng sang.

        Nếu nó giống mũi chó, mũi diều hâu, mũi dao nhọn, gồ ghề, gẫy, lỗ mũi hếch, lệch và yếu ớt, sống mũi lộ, cao và cô đơn như ngọn núi. Như vậy là thẩm biên quan hư, con người có sống mũi này phải chịu lao đao, vất vả, tâm tính gian tham.

        Tướng học nhận mũi là thổ tinh. Nếu thổ tinh hãm, vạn vật không có đất nuôi nấng sẽ chết khô héo. Mũi hỏng tất nhiên lục phủ ngũ tạng hư. Đến tuổi trung niên tất vì bệnh tật mà hết nghiệp.
        Trên thế gian không có giai nhân nào mũi lệch (có thể miệng lệch vẫn là giai nhân) cũng như không có vị anh hùng hào kiệt nào mũi hin, mũi nhỏ và mũi hãm, mũi tẹt dí mà thành công.

        Người nào mũi thẳng, đầu mũi tròn trịa có da thịt thì tính tình nhân từ, bộc trực.

        Người nào mũi ngưỡng thiên thì vô nhân vô nghĩa.

        Người nào mũi nhọn, đầu mũi không có thịt thì tính tình xảo trá.

        Người nào mũi khoằm như lưỡi câu thì tính tình hiểm độc.

        Sống mũi có đốt lộ ra ngoài là vợ chồng lục đục, đôi khi khắc, sát. (Dân Tàu đi hỏi vợ bao giờ cũng trông tướng mũi trước).

        Tại Hương Cảng có một vị phú ông tên là Phó Lão Dung rất nổi tiếng về tiền bạc và về một chuyện kể dưới đây:
        - Lão Dung vào đời rất nghèo khổ, sau nhờ thông minh kiên nhẫn nên chẳng bao lâu trở thành đại phú thương. Nhưng dân Hương Cảng không chỉ nể ông vì tiền mà còn kính trọng ông vì đức. Ông là người khinh tài trọng nghĩa. Được giúp ai việc gì ông rất vui vẻ. Giàu thiên ức vạn tải, nhưng trên mặt chẳng bao giờ lộ ra vẻ ngạo mạn khinh khi.

        Có lần ông bị bọn cướp bắt cóc. Chúng bịt mắt ông mang xuống thuyền đẩy ra giữa dòng sông để tra khảo. Trước hết chúng cắt một miếng tai ông. Ông vẫn bình thản.
        Hôm sau chúng mang đến một bát thuốc độc để trước mặt ông và bắt ông phải chọn hai điều, hoặc uống hết bát thuốc, hoặc viết thư về nhà lấy tiền chuộc mạng. Ông thản nhiên cầm lấy bát thuốc độc uống cạn một hơi. Bọn cướp ngạc nhiên hết sức, mặc dầu bát thuốc độc chúng mang lại chỉ là bát chè “bát bảo lường xà”. Sau cùng bọn cướp chịu thua.
        Tại sao Phó Lão Dung lại hành động như thế? Ông là con người bần tiện coi tiền hơn sinh mạng chăng?
        Chuyện này thiên hạ bàn tán xôn xao, nhưng khi ông còn sống vẫn chẳng ai tìm ra giải đáp xuôi xoả. Mãi tới lúc ông chết, câu chuyện mới vỡ lẽ. Hấp hối trên giường, ông bắt người nhà mang tới một tờ giấy hoa tiên ông cất giấu trong chiếc hộp bằng ngọc thạch cẩn kim cương. Đó là tờ giấy đoán tướng. Ông đọc xong mỉm cười rồi chết.

        Người nhà đọc tờ giấy kia thì thấy những dòng chữ như sau:
        “Tướng mũi người này tất phát đại phú vì nó đã đầy đặn lại còn nhiều khí lực, thêm vào đấy lại hai gò má rất phối hợp với mũi. Đến trung vận thì sẽ như rồng gặp mây. Hiềm đôi mắt hơi có chút phá cách, bởi tại ác nhãn. Như nếu biết tâm tướng mà chữa phần tướng, khi nào giầu phải biết làm việc nghĩa ngay thì giàu có mới bền vững. Bằng không e chết chẳng toàn mạng”.

        Phó Lão Dung đã triệt để vâng theo lời đoán tướng trong sự đối xử hàng ngày với cuộc sống. Do đó ông đã thoát rất nhiều tai nạn. Cái lòng tin tưởng vào tâm tướng của ông lớn đến nỗi có thể cầm cả bát thuốc độc uống một hơi mà tâm hồn ông không một chút hoảng kinh kể cũng lạ.
        Khi người ta cậy dỉ mũi, vắt nước mũi với lòng tục và mắt tục làm gì có ai nghĩ rằng cái mũi quan trọng đến nhường ấy. Hàng ngày, người ta thường nói với nhau thằng ấy, con ấy bị tao bóp mũi mà cái miệng tục chẳng bao giờ để ý rằng chính mình đã công nhận cái mũi là quan trọng.

        Cái mũi trên mặt người ta, khi nó đi với tai, mắt, miệng được ví như sông ngòi, khi nó đi với lưỡng quyền, trán, cằm được ví với núi non mà tiếng chuyên môn gọi là tứ độc và ngũ nhạc. Cho nên mũi với đời người rất quan trọng.
        Mũi là trung nhạc (núi đứng giữa), khí linh của phổi. Phổi tốt, mũi đẹp và có lực (hữu khí). Mũi mà chảy xệ, người mắc chứng ho lao hoặc suyễn, che khuất nhân trung sống không quá 40 tuổi.
        Theo Thần Tướng Toàn Biên, xem tướng mũi phải chia ra hình với sắc. Sắc của mũi luôn luôn quang nhuận, da dẻ mịn màng, màu hồng vàng ong ong dưới làn da (nếu đỏ như mũi người nghiện rượu lại vất vả) mũi đen như tro than làm lấm lưỡi vẫn không đủ ăn.
        Về hình tướng, có 4 loại mũi tốt nhất:
        - Huyền đởm tị: (Mũi trái mật treo) đầy đặn, kín lỗ mũi, sống mũi cao không lộ cốt chạy lên đến sơn căn (giữa hai con mắt), phú quý nhiều may mắn.
        - Tài đồng tị: (Mũi như ống tre vát) sống mũi cao thẳng, bóng bẩy, đầu mũi và cánh mũi chắc chắn dầy dặn, phú quý.
        - Sư tử tị: (Mũi sư tử) to nở đầy, lỗ mũi kín nhưng không được sần sùi, phú bất quý.
        - Long tị: (Mũi rồng) là cả ba hình mũi trên cộng lại, mũi này thuộc loại vua chúa, phú gia địch quốc hiếm có. Nó từa tựa như mũi nhà tỉ phú Onassis.
        Loại mũi xấu gồm có:
        - Lộ khổng tị: (Hai lỗ mũi rộng toác) nghèo khổ, túng bấn.
        - Tam khúc tị: (Mũi gãy) cô độc.
        - Cô phong tị: (Mũi như mỏm núi chon von) tự cao tự đại, dễ bị ghét nên nghèo khổ.
        - Cẩu tị: (mũi chó) mũi gầy guộc lộ sống mũi, hình dung thô tục, loại hèn hạ.
        - Ưng chuỷ tị: (Mũi chim ưng hay mũi con két) gian tà ác tâm.

        Tóm lại, mũi tốt trên nguyên tắc chung, về hình thái phải kín lỗ mũi, ngay ngắn, đầy đặn, sống mũi cao nhưng không lộ cốt. Xấu thì lỗ mũi lộ, mũi hếch, cốt lộ mỏng, lệch.
        Tướng mũi cần phải phối hợp với lưỡng quyền, mũi lớn đẹp mà quyền thấp không ăn to. Tướng mũi còn phải đi với tướng mắt. Mũi lớn đẹp mà tướng mắt hỏng dù có giàu cũng không thể sang được.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "tienhaiutc" về bài viết có ích này:

        Codai (07-07-13)

      5. #13
        Tham gia ngày
        Jun 2013
        Đến từ
        Japan
        Bài gửi
        529
        Cảm ơn
        204
        Được cảm ơn: 340 lần
        trong 222 bài viết

        Default

        TỨ ĐỘC - NGŨ NHẠC - NGŨ QUAN

        Bất cứ một học khoa nào, một nghề nghiệp nào cũng có chuyên môn.

        Tứ độc khoa tướng mệnh dùng để chỉ tai, mắt, mũi và miệng.

        Ngũ nhạc để chỉ trán, lưỡng quyền, cằm, mũi.

        Ngũ quan dùng để chỉ tai, mắt mũi miệng và lông mày.

        Tại sao trong bộ tứ độc có tai mắt mũi miệng như ngũ quan?

        Sở dĩ phải phân ra như vậy là vì tai mắt mũi miệng được xem tướng trên hai bộ phận: hình bên ngoài và khoảng trống bên trong, khoảng trống ấy ví như lòng sông, lòng ngòi, lòng suối mà thông thường gọi là lỗ tai, lỗ mũi, lỗ miệng và lòng mắt. Phần ngũ quan ngoài tai mắt, mũi miệng còn có lông mày khác với ngũ quan, cửu khiếu của khoa cơ thể học vì lông mày theo tướng học, liên hệ đến công danh phú con người.

        Trên nguyên tắc tướng tốt của tứ độc là sâu và rộng (thâm khoát) có thành, bờ chắc chắn, tối kỵ phá khuyết. Tứ độc: Tai, mũi, miệng, mắt là tượng trưng cho thủy. Nếu phá khuyết, nước sẽ tràn gây hoạ.

        Tai có thành (vành tai), quách (chỗ gồ lên gần vành tai), lỗ tai lớn và sâu, vị trí ở cao trên mắt càng hay, dái tai đầy đặn, tai dầy màu trắng sáng hay hồng nhuận là tai đẹp tướng. Tuy nhiên lúc xem phải phối hợp với mắt. Có hảo nhĩ vô hảo nhãn sẽ kém đi 80%.

        Qua kinh nghiệm đa số thành công nhân vật thường có tướng mắt cực tốt hơn tai tốt.
        Mắt, bộ vị quan trọng nhất của nhân thân.

        Mắt phải sáng trong, lòng trắng, lòng đen phân minh, mắt to con ngươi lớn, đuôi mắt hướng thượng (mắt xếch), ngoạ tầm (thịt nằm dưới mắt đầy đặn), mắt không lộ quang là loại mắt kim bất hoán (vạn lượng vàng không đổi).

        Mũi (xin xem chương trên).

        Miệng cần lớn và vuông, đôi môi kín đáo không để lộ răng, góc miệng nên cong lên đừng chảy xuống (chảy xuống là miệng cá). Sách tướng có những câu về miệng như: Thần nhược đồ chu thực lộc nhị thiên thạch (Môi tựa son hồng, bổng lộc nhiều). Nam tử khẩu đại thực tứ phương (Đàn ông miệng lớn ăn cơm thiên hạ đi đâu cũng có ăn). Khẩu trung tự hữu hoàng kim ốc (trong miệng tựa như có nhà vàng).

        Tứ độc là sông ngòi, ngũ nhạc là núi non.

        Trán là núi phía Nam tức Nam nhạc.

        Cằm là núi phía Bắc tức Bắc nhạc.

        Lưỡng quyền là núi phía Đông, phía Tây tức Đông nhạc và Tây nhạc.

        Mũi ở giữa là Trung nhạc.

        Theo lối nhìn bản đồ bây giờ, phía Bắc ở trên, Nam ở dưới, nhưng tướng học thì Nam ở trên, Bắc ở dưới, vì căn cứ vào ngũ hành, Nam phương thuộc hỏa mà mỗi khi hỏa phát đều tụ vào trán (người ốm sờ vào trán nóng nhất).
        Núi non tất phải cao, hùng vĩ, khí thế. Bộ vĩ nhạc cũng vậy, cần khí thế, có khí thế mới cao sáng lớn chắc kiên cường.

        Sách “Thạch Thất Thần Dị” viết:

        Muốn hỏi tiền trình thì xem khí, cục và hình dung. Ngũ nhạc là căn cốt của hình dung. Ngũ nhạc triều quy, kim thế tiền tài tự vượng (Ngũ nhạc đẹp, tiền tài thừa thãi). Tướng nhạc triều quy có nghĩa là cả năm nhạc cao, nở, chầu vào mũi. Thời buổi tao loạn rất hiếm, bởi tình thế xoay chuyển luôn sinh nhiều khuyết hãm cho tướng số nên mới tạo nên cảnh lên voi xuống chó. Còn ngũ nhạc triều quy thì tất cả đã có đều bền bỉ. Xem tướng người làm chính trị nên chú ý Ngũ nhạc. Trước khi đi vào chi tiết ngũ nhạc, ta hãy nói về tam đình. Tam đình là gì?

        Là danh từ khoa tướng mệnh dùng để phân mặt con người làm ba đoạn:

        - Từ chân tóc xuống đến Sơn căn (gốc mũi giữa hai mắt) là Thượng đình.

        - Từ sơn căn đến chuẩn đầu (đầu mũi) là Trung đình.

        - Từ chuẩn đầu đến địa các (hàm và cằm) là Hạ đình.

        Trán thuộc Thượng đình. Mũi lưỡng quyền thuộc Trung đình. Cằm thuộc Hạ đình.

        Thượng đình chỉ thời thiếu niên. Trung đình chỉ thời trung niên và Hạ đình chỉ thời lão niên.

        Trán tức Nam nhạc ứng vận từ 15 đến 28 tuổi, cần hình thế nở rộng, cốt khí sung thực. Không vết không sẹo, không lấm tấm, không phá hãm, không đen rám lại như trái bưởi bị rám nắng. Có trán như vậy thời thiếu niên sung sướng, con nhà khá giả, học hành đỗ đạt được nhiều người giúp đỡ. Nếu trán hẹp, thiên lệch, thuở thiếu niên truân chuyên.

        Sách “Ma Y” nói: “Thiên đình cao tủng, thiếu niên phú quý khả tì” (Trán cao rộng hy vọng có phú quý sớm).

        Xem gia thế con nhà, dòng dõi hay phúc thiện hay chú ý tướng trán.

        Trung nhạc tức cái mũi là vận tuổi 40 đến 50 tuổi để lập sự nghiệp. Đức Khổng Tử bảo rằng: Bốn mươi, năm mươi tuổi đầu mà chưa tăm tiếng gì, kẻ đó không đáng sợ. (Tứ thập ngũ thập nhi vô căn yên, tư nhân bất túc uý dã hỉ).

        Từ 40 đến 50 nếm trải mùi đời đã quán đạt, sức khỏe còn mạnh. Nếu quá 50 mà chưa có nền móng chi cả thì sức đâu. Lực bất tòng tâm là một điều khốn khổ trong cõi nhân gian. Bởi vậy cho nên cái mũi mới quan trọng cho vận mệnh người ta. Mũi nở nang hữu lực, cánh mũi đều sơn căn dày. Cộng thêm với lưỡng quyền phối hợp, hai tai ứng hữu tình như ông vua có văn võ quan, quần áo uy nghiêm đứng chầu là tướng mũi hoàn hảo.

        Nếu lưỡng quyền thấp hãm, hai tai mỏng manh mà mũi cao, mũi lớn đứng một mình gọi là độc tủng cô phong tượng trưng cho sự cô khắc, dù có giàu có mà cô độc khắc cha mẹ, anh em, bạn bè, vợ con thì đời sống làm gì còn hứng thú nữa. Con gái có mũi độc tủng cô phong sát phu, mười lần lấy chồng vẫn hoàn quả phụ.

        Đông Nhạc Tây nhạc lưỡng quyền quan hệ mật thiết với cái mũi, vận hạn cùng thời với mũi.

        Tính chất của lưỡng quyền là quyền uy, tự tin và tài năng lãnh tụ.

        Sách “Vạn Kim Bí Ngữ” nói:

        “Hình thế lưỡng quyền là phải nổi lên như hai trái trứng gà, hoặc độn má lên như hai khối bạc vuông mới thành cách”.

        Xương với thịt lưỡng quyền tương xứng, không thiên lệch, nếu to lớn chạy suốt thiên sương (gần thái dương) đó là bậc đại trượng phu trên đời. Các quân nhân cần lưỡng quyền thật tốt mới có thể lên chức tướng được. Tuy nhiên chớ nên quên sự phối hợp của lưỡng quyền với mũi.

        Bắc nhạc tức là cái cằm thuộc lão niên 55 đến 60 tuổi trở đi, tuổi kết cục của cả một đời.

        Quá khứ cao sang, giàu có, phú quý, vinh hoa, oanh liệt, hiển hách, mà lúc tuổi già thân bại danh liệt, vợ bỏ, con lìa, ốm đau khổ sở, chết đường chết chợ thì thật là một cảnh bi ai nhất cho kiếp nhân sinh. Cảnh bi ai đó là kết quả của tướng cằm, Bắc nhạc tước bạc, vát cằm nhọn yếu.

        Tóm tắt lại, ngũ nhạc nên nở nang, cao tủng, đầy khí thế. Trên thực tế khó kiếm ra người tướng ngũ nhạc lý tưởng như sách vở, nếu có chăng thì chỉ đếm bằng đầu ngón tay các vua chúa, các nhà tỉ phú, các trọng thần mà thôi.

        Ngoài ra, đa số ngũ nhạc ở tình trạng khuyết hãm. Thấy khuyết hãm thì đoán theo khuyết hãm. Giả như Nam nhạc yếu, bốn nhạc kia tốt, tất thời thiếu niên lao đao vất vả, từ trung niên mới khá. Giả như Trung nhạc yếu thì mọi sự nghiệp 45 tuổi về trước nên coi như giấc mộng đêm xuân. Còn Trung nhạc khí tuyệt nơi sơn căn thì dù Bắc nhạc có tốt chăng nữa cũng phải lìa đời...

        Ngũ quan là tai mắt mũi miệng và lông mày. Đưa lông mày vào bộ vị ngũ quan không rõ là nguồn gốc từ đâu, nó đã gây một thời kỳ tranh luận sôi nổi. Sau cùng, lập luận các sách như: Thông Tiên Kinh, Bạch Vân Từ, Ngọc Quản Chiếu Thần, Nguyệt Ba Động, Đại Thanh Thần Giám, Băng Giám, Ma Y, Liễu Trang, Thuỷ Kính lập thành phe đa số chấp nhận lông mày thuộc ngũ quan.

        Các sách đều đưa ra một nguyên tắc chung cho ngũ quan bằng câu: “Ngũ quan dục kì minh như chính” (Ngũ quan phải ngay ngắn sáng sủa).

        Minh là ưu điểm nội tại. Chính là ưu điểm ngoại biểu.

        Cổ nhân định nghĩa chữ Minh: Minh là một khí thế quang khiết, lãng huy, thanh tân sống động không trầm trệ, nếu chữ minh ấy đem áp dụng vào con người thì minh là biết nhiều, hiểu rộng, khí anh hùng bột bột, quyết đoán và dũng cảm, tượng trưng cho đa năng đa tài.

        Cổ nhân định nghĩa chữ Chính: Chính là ngay ngắn, thẳng thắn.

        Minh phải đi với Chính, có cả tài lẫn đức. Có đức mà vô tài là hạng xoàng. Có tài mà vô đức là hạng tồi.

        Minh để xét năng. Chính để xét đức độ. Thiếu minh, con người hay ngu si làm việc hay đổ vỡ.

        Thiếu Chính, con người vong ân bội nghĩa khắc bạc quả ân.

        Phương ngôn có câu voi chéo ngà, đàn bà lác mắt. Ngà chéo, lác mắt là bất chính. Lù rù như chuột chù phải khói là bất minh.

        Riêng về lông mày (mi) “Thần tướng toàn biên” viết: “Mi là cái lọng che cho mắt, biểu nghi của diện, dùng để phân biệt anh hoa cho tướng mắt và hiền ngu của tinh thần”.

        Lông mày cần chạy dần đến quá đuôi con mắt (mi trường quá mục), thanh tú mềm mại, bóng bẩy chủ thông tuệ, thô đậm mọc ngược chủ hung hãn, ngoan cố. Lông mày thô đậm áp đảo mắt thì cùng khổ, nếu thêm mắt nhỏ nữa suốt đời lao ngục, tù tội.

        Lông mày mọc ngược, bất lương.
        Lông mày giao nhau, bần khổ, khắc anh em.
        Lông mày lưa thưa, giảo quyệt, nịnh nọt.
        Lông mày cao, quý tướng.
        “Thần Tướng Toàn Biên” phân định ra làm nhiều loại lông mày kể dưới đây:
        - Quỷ mi: Thô và đàn áp mắt, tâm bất thiện, giả nhân, giả nghĩa, ăn cướp, ăn trộm.
        - Bát tu mi: Đầu thưa, đuôi tán loạn, cô độc.
        - La hán mi: Nhạt như người cạo để đi tu, cô độc.
        - Kiếm mi: Hình lưỡi kiếm, giỏi giang, uy quyền.
        - Long mi: Thanh tú, cong như cánh cung, đại phú quý.
        - Hoàng bạc mi: Thưa, màu vàng, rất xấu, nghèo khổ, các bộ vị khác có tốt cũng không bền lâu.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #14
        Tham gia ngày
        Jun 2013
        Đến từ
        Japan
        Bài gửi
        529
        Cảm ơn
        204
        Được cảm ơn: 340 lần
        trong 222 bài viết

        Default

        LỤC PHỦ - THẬP NHỊ CUNG

        Lục phủ đây không phải là lục phủ ngũ tạng nói trong cơ thể học. Lục phủ của tướng mệnh học là sáu khu vực trên mặt con người.
        Gốc của lục phủ là xương mặt, phủ có nghĩa là kho chứa, nó gồm có hai xương hàm, khu vực lưỡng quyền, hai xương trán kể từ giữa mắt rộng ra giữa thái dương. Lục phủ nói thâu tóm lại là vùng ven biên của mặt, bảo vệ cho ngũ quan, ngũ nhạc tứ độc. Ta nói mặt người có góc cạnh là nói đến những xương cốt thuộc lục phủ.
        Tướng tốt của lục phủ là đều đặn, nở nang, liên lạc mật thiết với nhau như đà móng dằng co của nhà cửa, da thịt trên mặt lục phủ tương xứng với xương để xương không lộ. Nếu xương lộ hoặc lệch kể như một cái đà, một chân móng đã lìa sườn nhà, rất kỵ. Tỉ dụ: xương hàm bạnh ra, hàm long, hàm chắp là tướng hung tử. Nếu lục phủ quá chìm, mặt thiếu góc cạnh, người nhu nhược bần hàn vì kho chứa trống trơn.
        Ngũ quan, ngũ nhạc, lục phủ gộp lại trong lời đoán của Hứa Phụ như sau: Đầu nhỏ là nhất cực, ít may mắn, thiếu tinh thần tranh đấu, yếu hèn.
        Trán nhỏ là nhị cực, lúc nhỏ truân chuyên.
        Mắt nhỏ là tam cực, tâm địa hẹp hòi, học hành khó đỗ đạt.
        Mũi nhỏ là tứ cực, túng bấn vất vả.
        Miệng nhỏ là ngũ cực, không đủ bát ăn.
        Tai nhỏ quắt lại là lục cực, sống chết bất thường, sống nay chết mai.
        Lại có những câu phú rằng:
        Đầu tuy lớn mà trán bạt không có góc cạnh. Mắt tuy to mà thiếu tinh thần. Mũi tuy nở mà sống mũi yếu. Miệng tuy rộng mà nói lắp bắp. Tai tuy đại mà không thành quách: Vẫn khốn khổ.
        Đầu nhỏ mà bằng phẳng ngay ngắn. Mắt tuy nhỏ mà sáng, thanh khiết. Mũi tuy nhỏ mà sống mũi khoẻ, sáng đẹp. Miệng tuy nhỏ mà nói văn hoa, âm thanh dễ nghe: Không lo đói nghèo.
        Phép xem tướng số phải lấy huyền diệu của con tâm mới có thể quán triệt, gỡ những mối rối ẩn kín bên trong.

        Mặt con người ta chia làm 12 cung:
        1. Mệnh cung: Nằm tại giữa trán, giữa hai đầu lông mày, còn có danh từ khác gọi là ấn đường nổi lên, sáng, mịn màng, tốt, vết phá ám hãm xấu.
        2. Tài bạch cung: Là cái mũi.
        3. Huynh đệ cung: Là đôi mày.
        4. Điền trạch cung: Nằm ở dưới lông mày đến mi mắt, càng rộng rãi sáng đẹp càng nhà cao cửa rộng. Có người nghèo mà vẫn ở nhà lớn là nhờ cung điền trạch cực đẹp, tức khí nhiều.
        5. Tử tức cung: Ở dưới hai mắt, giữa quyền và mắt, nên bằng phẳng, kỵ sâu, đen tối và có tì vết.
        6. Nô bộc cung: Ở khu địa các, (hàm, cằm) lẹm, khuyết, bạc nhược dễ bị bạn bè lừa lọc hoặc chỉ đi làm cho người khác hưởng mà không ai làm cho mình hưởng.
        7. Thê thiếp cung: Còn gọi là hiên môn nằm từ đuôi mắt ra tóc mai đầy đặn, sáng tốt, lõm, khuyết ám xấu.
        8. Tật ách cung: Gốc mũi tức sơn căn.
        9. Thiên di cung: Kể từ đuôi mắt lên chân tóc sát thái dương, nở sáng, xuất ngoại làm ăn phát đạt, thiên di cung ám hãm, xuất ngoại cực khổ hoặc chết tha hương.
        10. Quan lộc cung: Ở ấn đường cùng một chỗ với mệnh cung.
        11. Phúc đức cung: Ở trên mắt, sát thiên sương dưới thiên di cung.
        12. Còn cung thứ mười hai là toàn diện mạo, khác với lá số nó không có cung phụ mẫu vì phụ mẫu với phúc đức là một.
        Tại sao phải chia ra từng cung như thế?
        Chia ra để xem một việc, tỉ dụ xem hiên môn, tức cung thê thiếp để biết vợ chồng, xem cằm, hàm để biết bạn (hay?) là người dưới.
        Chia cung rất cần thiết cho xem tướng, khí, sắc. Tỉ dụ: khí sắc đen hiện lên ở cung tử tức báo hiệu con cái ốm đau, chết chóc (sẽ nói ở dưới).
        Nhận thức các cung đòi hỏi sự tinh tế, sai một li đi một dặm, các cung phúc đức, thiên di dễ lẫn (xin xem hình vẽ cho cẩn thận).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "tienhaiutc" về bài viết có ích này:

        htruongdinh (09-01-15),nanashi1993 (15-06-13),thaihoa (17-06-13)

      8. #15
        Tham gia ngày
        Jun 2013
        Đến từ
        Japan
        Bài gửi
        529
        Cảm ơn
        204
        Được cảm ơn: 340 lần
        trong 222 bài viết

        Default

        Thôi hãy post đến đây để xem nhân tình thế thái thế nào đã.Các bác có đọc thì em mới dám post tiếp, chứ không lại bảo qua mặt bề trên thì em tổn thọ mất.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. Có 4 Hội viên đã cảm ơn đến "tienhaiutc" về bài viết có ích này:

        Codai (07-07-13),htruongdinh (15-06-13),kieuhuy_bmt (09-01-15),tiennguyenhuu (07-08-16)

      10. #16
        Tham gia ngày
        Jun 2013
        Đến từ
        Japan
        Bài gửi
        529
        Cảm ơn
        204
        Được cảm ơn: 340 lần
        trong 222 bài viết

        Default

        VÀI TÍCH CHUYỆN XƯA

        Cảnh ngộ cá nhân sở dĩ thịnh suy, vinh nhục là do vận mạng lúc thế này, lúc thế khác. Vận mạng cát hung hiện lên bộ vị tướng mạo.
        Huyện Lư Sơn, đất Giang Tây, là nơi nghỉ mát có nhiều phong cảnh đẹp. Cuối đời Thanh có thư sinh Tôn Chấn Khiêm khi chưa đỗ đạt gì từng cất nhà đọc sách ở động Bạch Lộc. Một hôm Khiêm nhàn hứng đi vòng quanh cổ miếu gặp một vị đạo sĩ tiên phong đạo cốt cùng đàm thoại, đạo sĩ tinh thông nho y lý số, đoán việc như thần. Khiêm mới hỏi tương lai mình ra sao? Đạo sĩ từ chối không nói.
        Một hôm khác, Khiêm cũng qua cổ miếu, lại gặp đạo sĩ, cụ bảo Khiêm:
        - Cậu đến vừa đúng lúc, chậm sợ không gặp.
        Khiêm hỏi:
        - Tại sao?
        Đạo sĩ trả lời:
        - Tôi sắp đi xa, hôm nay biết cậu đến đây tôi chờ để nói vài lời từ biệt.
        - Cụ đi đâu? - Khiêm hỏi:
        Đạo sĩ đáp:
        - Tôi đi thăm núi non, hang động để tìm những kỳ công của tạo hoá.
        Khiêm khẩn khoản:
        - Nay chia tay chẳng biết bao giờ gặp, vậy xin cụ chỉ dạy cho những điều quan hệ đến tướng mệnh.
        Đạo sĩ nói:
        - Tôi với cậu quen nhau ngoài đường thật không có duyên nợ, nhưng nay vì sắp viễn hành, chẳng nên câu nệ nữa. Cậu có tướng mạo anh kỳ, hình cốt thanh tú, nhưng cậu không phải thuộc loại người công danh mà thuộc loại người như chúng tôi. Sang năm tới, cậu sẽ đỗ cao, tuy nhiên, nhìn tướng mạo thanh mà ẩn chứa hàn (ta nói hàn nho, nhà nho nghèo), chỉ có danh không có lợi. Phú quý là do thiên định bất khả cưỡng cầu. Vả lại, gia cảnh thanh hàn dễ thiện chung, thế sự thương tang chớp mắt vạn biến, đỗ đạt cao sang rồi ngày nào sẽ mắc vào cái họa chủ nhục thần tử, danh làm tội đời thà qui ẩn còn hơn.
        Tôn Chấn Khiêm nói:
        - Được nghe cao luận như hồi chuông buổi sớm. Tướng mệnh của tôi vô duyên với quần áo triều đình thì tôi cũng đâu có tiếc cái công mười năm đèn sách, sẵn sàng qui ẩn theo thầy học đạo được chăng?
        Đạo sĩ xua tay mà nói rằng:
        - Ấy không được, vạn vạn bất khả, nhân sinh mọi sự như thiên định, không thể làm trái. Tướng mạo của cậu, cốt cách tốt, mi cao, quyền cao, cậu sẽ phải nếm trải cho hết nghiệp trần rồi mới có thể xuất nghiệp nhập đạo. Tôi xin tặng cậu cuốn sách dưỡng sinh chi thuật, cậu hãy giữ gìn cẩn thận. Chắc chừng 30 năm nữa, chúng ta sẽ tái ngộ.
        Tôn Chấn Khiêm trúng kỳ thi Hương. Người nhà đều giục giã học hành để vào triều đình thi Hội tiến bước công danh. Qua năm, Khiêm trúng tiến sĩ. Nhớ lời đạo sĩ, Khiêm không có mưu đồ công danh, chỉ muốn qui ẩn nơi rừng sâu, suối mát nên mới xin chức giảng tập ở thư viện Lô Châu, vừa dạy học trò, vừa học thuật dưỡng sinh.
        Ba mươi năm trôi đi. Chiều ấy, Tôn Chấn Khiêm đang ngồi dạy học trò thì thấy đạo sĩ đến. Hai người trò chuyện thân mật cả mấy ngày.
        Trước khi đi, đạo sĩ dặn Khiêm hãy rời Lô Châu đi nơi khác, nơi đây sắp gặp nạn binh hoả.
        Quả nhiên Lô Châu tan nát, người chết như rạ sau một trận chiến tàn khốc giữa Quốc Cộng.
        Từ đấy không ai biết Tôn Chấn Khiêm đi đâu.

        Đời nhà Đường có tôn sư tướng học Viên Thiên Cương tinh tường những bước vinh nhục cùng thông của đời người.
        Có lần ông gặp mẹ của Vũ Tắc Thiên, ông bảo:
        - Bà tất sinh quý tử.
        Bà mẹ dắt con gái cho ông coi tướng nó, nhưng bà lại giả dạng đứa nhỏ thành con trai. Thiên Cương nhìn mắt và dáng đi của nó, ngạc nhiên mà nói rằng:
        - Mắt rồng cổ phượng, cực kì quý hiển, nếu nó là con gái nhất định sẽ làm thiên tử.
        Về sau Vũ Tắc Thiên làm vua.
        Thứ sử họ Vương nhờ Viên Thiên Cương chọn chồng cho con gái.
        Trông khắp mọi người mà thứ sử định chọn, Cương đều lắc đầu bảo chẳng có ai đáng mặt cả. Rồi đề nghị người con trai họ Diêu. Thứ sử ưng thuận. Thiên hạ đều cười vì Diêu Tử Sùng suốt ngày múa gậy, đánh đao, năm nay 23 tuổi chưa biết sách vở là gì. Thế mà từ khi làm rể thứ sử, Sùng học đâu biết đấy nhanh gấp mười người khác lại thêm sức vóc khoẻ mạnh. Gặp thời thế, Diêu Tử Sùng nhờ nhúng tay vào ít nhiều âm mưu, phe Sùng thắng thế giúp vua Huyền Tôn lên ngôi. Huyền Tôn phong Sùng làm chức Quốc Công. Chừng bảy năm sau, Diêu Tử Sùng lên chức vị tể tướng.

        Quan đại thần Bảo Cưu lúc còn khổ ở Kiến Nam, gặp Viên Thiên Cương lúc ấy cũng đang ba đào. Đồng bệnh tương lân nên họ chơi với nhau rất thân. Một hôm, Viên Thiên Cương nói với Bảo Cưu rằng:
        - Bác có tướng mạo anh kỳ, đầu có phục tê quán đỉnh (sống mũi cao chạy thẳng tới trán) và ngọc trẩm (xương gồ sau gáy). Trán phẳng mà cao. Mười năm nữa bác sẽ phú quý, đại hiển công danh. Bác nhớ là tướng thuật của tôi chẳng mấy khi sai.
        Bảo Cưu nói:
        - Nếu đúng như lời bác, tôi chẳng bao giờ dám quên ơn.
        Mấy năm sau, Bảo Cưu nhờ thời thế mà đổi thay, mà có nhiều may mắn, ngày càng quyền cao chức trọng lên tới chức Bộ Xạ, Cưu cho mời Viên Thiên Cương đến cộng hưởng phú quý. Trông thấy Bảo Cưu, Viên Thiên Cương nói:
        - Tướng cách và khí sắc ông nay vẫn như xưa chỉ hiềm đôi mắt chuyển màu đỏ, tiếng nói hư phù, mặt đỏ. Ông làm tướng đa sát, xin từ tâm lại mới hay.
        Bảo Cưu nghe lời Cương bỏ tính hiếu sát, đối đãi với dân chúng rất khoan hoà, nhân ái.
        Lúc vua Đường Cao Tổ vời Bảo Cưu về triều, Cưu hỏi Thiên Cương chuyến đi này lành dữ thế nào?
        Cương nói:
        - Tất được ân mưa móc, lên bậc trọng thần.
        Lần ấy, Bảo Cưu được vua phong chức đô đốc.

        Lý Kiều lúc nhỏ đã năng thi phú, anh em họ Lý thường chết yểu. Bà mẹ đón Viên Thiên Cương về coi tướng cho Lý Kiều.
        Cương bảo: Lý Kiều tinh thần tuy thanh khiết nhưng khí đoản sợ không thọ.
        Bà mẹ nghe lấy làm lo lắng. Còn Lý Kiều chẳng cho lời Cương là đúng. Bà mẹ thương con, vật nài xin Cương xem kỹ cho và tìm cách nào chữa cho, nếu không dòng họ Lý sẽ tuyệt tự. Cương nể tình ở lại quan sát Lý Kiều mấy ngày.
        Một đêm, Cương nằm ngủ say mà Lý vẫn chưa ngủ. Đến canh ba, Cương tỉnh dậy nhìn Lý ngủ, không hề nghe thấy tiếng thở, sờ vào chân tay thân thể nóng ấm điều hoà. Để tay vào tai, hơi thở như chui ở lỗ tai ra. Viên Thiên Cương hoảng nhiên tỉnh ngộ biết mình nói sai. Sáng sớm Cương bảo bà mẹ rằng:
        - Lý Kiều là quý thọ chi tướng, sau này sẽ hiển đạt vì Kiều ngủ êm tĩnh như con rùa thuộc tướng Qui tức (rùa ngủ). Tuy nhiên Kiều không bao giờ giàu.
        Sau Kiều làm quan to dưới triều Vũ Tắc Thiên, tính thanh liêm nên nhà cửa thanh bạch.
        Vua nghe tiếng đến tận nhà coi thấy chiếu màn Lý nằm bằng vải xấu xí đã cũ, thở dài mà nói:
        - Quan tướng quốc nghèo đến thế sao?
        Rồi vua truyền mang chiếc màn của chính mình cho Lý Kiều.
        Từ khi nằm cái màn rồng phượng của vua ban, chẳng đêm nào ông ngủ yên giấc. Ông bèn viết sớ xin vua cho nằm chiếc màn cũ và nói lời thầy tướng đoán mình không được hưởng giàu sang.

        Huyện Đài Sơn có người bán thịt tên là Trần Đại Niên quanh năm ngày tháng nấu nước sôi cạo lông heo, chọc tiết, xả thịt và chán ngấy cái đời đó. Nghe thiên hạ đồn đại vùng Lạc Thuỷ đang buôn bán thịnh vượng, đến đấy làm công cũng nhiều tiền. Niên muốn đi lắm nên mới nhờ làng nói với Viên Thiên Cương coi tướng dùm cho, Cương nói:
        - Cung dịch mã (Thiên di) động sắc, năm nay 30 tuổi đang thuận vận đi được. Làm ăn có khá hơn ở quê nhà, sang vận mà phát đạt có vốn. Nhưng tướng chú thuộc cách xuân thuỷ hồi trào đến năm 49 tuổi lại trắng tay trở về nghề bán thịt.
        Qua năm, Niên đi Lạc Thuỷ giặt thuê cho xưởng nhuộm. Nhờ thực thà, chăm chỉ, ông chủ yêu cho coi sổ sách. Xưởng nhuộm phấn phát, ông chủ cho Niên một số vốn riêng. Có tiền rồi Trần Đại Niên “vinh qui” trở về làng. Tại Đài Sơn, cơ sở thương mại của Niên khá lắm. Đúng năm 49 tuổi, bỗng dưng phát hoả thiêu rụi mất hết. Niên đành phải trở lại nghề cũ kiếm ăn cho đến chết.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      11. #17
        Tham gia ngày
        Jun 2013
        Đến từ
        Japan
        Bài gửi
        529
        Cảm ơn
        204
        Được cảm ơn: 340 lần
        trong 222 bài viết

        Default

        TƯỚNG ANH HÙNG

        Anh mâu ánh ánh hề chế điện
        Hào khí hề thổ hồng
        (Ánh mắt sáng như điện
        Hào khí đẹp như cầu vồng).
        Nói đến cùng nghĩa của chữ Quý, tướng anh hùng là quý nhất và thế gian hiếm có. Anh hùng thất bại hay hào kiệt thành công đều đáng sùng bái quý trọng, người ta thường nói giai nhân và anh hùng thường khó kiếm. Thực ra chỉ có anh hùng mới khó kiếm, chứ giai nhân thì đầy rẫy.
        Tứ hải giao du hào kiệt thiểu
        Bán sinh tri kỷ mỹ nhân đa
        Tướng anh hùng chỉ ở hai mắt và hoà khí trong người. Mắt đen phải có hào khí mới là anh hùng. Thế gian thiếu chi người mắt đẹp nhưng mắt đẹp đi đôi với hào khí thì hãn hữu.
        Nhiều kẻ mục quang ánh sáng mà ưa làm anh hùng thì chỉ là phường khoác lác, hoa dạng thôi không có thực. Tướng mắt sáng đồng ý thông minh hơn người, nhưng không có hào khí thì thông minh dễ thành học lỏm học mót chạy theo hầu hạ người.
        Nói anh mâu (con ngươi sáng quắc) là chỉ hai mắt thần thái mạnh. Nói hào khí là nói khí tiết trong sạch chí lớn nguy nga. Khí tiết trong sạch và chí lớn nguy nga ấy làm gì có hình tượng, vậy phải coi tướng ở đâu? Coi ở ngôn từ lỗi lạc, thanh âm đầm ấm, phong thái điềm đạm, quảng đại.
        Nói như trên quá lý tưởng. Lý tưởng quá làm sao thấy anh hùng. Vậy nên xuống thấp một bậc để cho cõi nhân hoàn có thể nhiều anh hùng hơn. Sách “Nhân Luân Thống Phú” đưa ra ba loại:
        - Loại thứ nhất, mắt sáng phóng thần quang. Loại này đa số hình dài vuông vắn, người tròn rất ít, nhưng da thịt phải kiên thực (chắc chắn khoẻ mạnh). Về phong độ thường nhật đối với mọi người bất phân phú quý bần tiện, bất phân tân tri cựu vũ (bạn mới bạn cũ), ai cũng như ai. Đầy tình cảm nghĩa khí mà không bị mê hoặc bởi nịnh nọt. Nhất đán định làm gì can đảm kiên trì đem hết sức lực, lời nói nặng ngàn vàng.
        - Loại thứ hai, nhãn thâm trầm hơn, trạng mạo quật cường. Trước mỗi việc chưa quyết thường tâm tư mặc lự suy nghĩ chín chắn. Không bị động tâm bởi lời chê tiếng khen. Ý chí cực kiên cường. Nhẫn được tất cả những gì mà người đời không nhẫn nổi. Đảm đương gánh vác. Gan dạ hào sảng, khí độ thâm trầm. Vì chí lớn nên thường chịu khổ. Cho nên hình mạo phần lớn gầy và dài, khí sắc xanh trắng như thiếu máu, lao bác phong sương.
        - Loại thứ ba, lông mày rộng, mắt lớn, thần cường cốt tráng, thể phách hơi thô không biết đầu cơ thủ sảo, không biết xu phụ, cái gì cũng thẳng mực tàu. Tư tưởng đơn giản, ghét rườm rà văn vẻ, không thích bị câu thúc, giận hay cười, trực xuất quên hẳn hình hài. Mọi qui củ của thế tục đều ghét. Sớm chiều cần phải làm điều nghĩa dù cho phải nhẩy vào lửa cũng chẳng từ.
        Nếu lấy mẫu người điển hình thì:
        - Trương Lương thuộc loại thứ nhất.
        - Hàn Tín thuộc loại thứ nhì.
        - Hạng Võ thuộc loại thứ ba.
        Dĩ nhiên loại thứ ba nhiều hơn hai loại trên.
        Một cuộc dấy nghĩa, một cuộc cách mạng phải đủ cả ba loại anh hùng mới thành công. Nếu chỉ có anh hùng loại ba thôi thì phong trào tuy mạnh nhưng dễ bị tan vỡ kiểu như Spartacus, Pugatchev, Commune de Paris, Lý Tự Thành v. v...
        Đại sự trong lịch sử, điểm quan trọng nhất là con mắt biết anh hùng. Trương Lương không tìm đến Hàn Tín mà bán kiếm thì làm gì có trận Cai Hạ.
        Coi tướng Quý cần phân biệt với Hiển. Hiển không phải là Quý. Nếu phải đánh đổi chữ Hiển lấy chữ Quý, đổi ngay thế mới là chân quý. Lấy Hiển mà làm Quý là giả quý.


        TƯỚNG KẺ ÁC

        Thế thượng ác nhân đa.
        Trên đời lắm kẻ ác. Lắm kẻ ác mà nhìn thấy không ra nên thế sự mới sinh lắm chuyện. Tại sao nhìn không ra? Tại vì hễ đã là kẻ ác thì thường nó phải cố tạo ra cử chỉ khiêm cung để che giấu tâm địa rắn rết. Rất may ác nhân hay lộ trên hình tướng. Sách cổ nhân để lại ghi tướng ác như sau:
        - Đứng đằng sau gáy trông thấy hàm (hàm gồ lên bạnh ra).
        - Đi chân nhển lên không đụng tới đất.
        - Trán hôn ám.
        - Con ngươi đục như mắt cá.
        - Hình giống con heo.
        - Tóc vàng, con ngươi đỏ.
        - Mắt như mắt gà, tròn, trợn trừng, lơ láo.
        - Mắt trông thấy bốn phía lòng trắng.
        - Gò mắt cao mà ăn lấm nhấm như chuột ăn.
        - Đầu thật lớn mà mắt nhỏ.
        - Mắt ba cạnh.
        - Quang mắt lấm lét như mắt chuột.
        - Mặt tro than.
        - Mũi gẫy gồ lên ba khúc, hoặc lồi lõm ba khúc.
        Tướng kẻ ác thường đi đôi với tướng hung tử. Trông thấy những người mang tướng ấy dù có nói khéo thế nào cũng chớ có gần. Cộng tác sẽ bị lừa, bị phản, đi chơi chung sẽ bị tai nạn.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      12. #18
        Tham gia ngày
        Jun 2013
        Đến từ
        Japan
        Bài gửi
        529
        Cảm ơn
        204
        Được cảm ơn: 340 lần
        trong 222 bài viết

        Default

        LUẬN VỀ LÝ THUYẾT TƯỚNG DO TÂM SINH

        Cái lý thuyết do tâm sinh khiến cho nhiều người chán ghét tướng số. Định mệnh là định mệnh, nay tâm đổi được mệnh thì nói định mệnh làm quái gì. Có người lý luận cho rằng lý thuyết tướng do tâm sinh cốt để hù người ta khuyên nên cải ác vi thiện vì sợ rằng thiên hạ khi đã biết số mệnh mình như thế rồi thì cứ tạo ác càn phứa đi vô cấm kỵ. Số căn cứ trên ngày giờ tháng năm sinh làm sao đổi?
        Lý luận quá khích thì nó đến chỗ cùng và khó trả lời. Tuy nhiên, tướng do tâm sinh có phần đúng. Vì cả tướng lẫn số đều có đổi, biến tướng và biến số. Như đã nói ở trên, ông trời của khoa tướng số là ngũ hành chứ không phải là ông trời quyền sinh quyền sát, là âm dương vận chuyển chứ không phải là Thượng Đế vạn năng định đoạt.
        Số mệnh có đổi là thế nào?
        Tỉ dụ: Nói số mệnh này ở phương Nam tốt hơn phương Bắc. Kẻ vào Nam sống khá, kẻ lên Bắc bần hàn. Vào Nam lên Bắc phải có phần nào nhận định, tạo nên sự thay đổi của số. Biến tướng cũng vậy, có đôi mắt ác mà tâm hiền dần dần mắt sẽ bớt ác. Mắt càng bớt ác bao nhiêu càng tránh được sự hung tử bấy nhiêu.
        Đổi theo định luật tướng số mà thôi chứ không đổi tuyệt đối ở Bắc ăn mày, vào Nam làm vua.
        Tướng ác hay đi với bần (nghèo). Giảm tướng ác (nghèo) đỡ đi chứ không thể giầu lên.
        Mệnh căn và tướng căn vẫn còn ví như hạt giống tốt, tâm với nhân định ví như chất bón và khí hậu. Dĩ nhiêu, khí hậu và chất bón không thể làm hạt giống đã bị đun sôi mọc thành cây lúa.
        Tướng do tâm sinh. Tướng tòng tâm diệt là vì vậy. Nó có tác dụng đối với số mệnh và tướng cách đủ điều kiện tiếp nhận lẽ sinh diệt ấy mà thôi.
        Ngoài ra, con tâm người ta vẫn còn để chọn lựa. Cùng một tướng hung tử nhưng có kẻ chết trong quán rượu, cao lâu, có kẻ chết nơi sa trường, có kẻ chết ở pháp trường. Khí chất tạo thành sự khác biệt cho tướng số hung tử.
        Còn cái chuyện như ông Bùi Độ lúc đi thầy tướng bảo Độ tướng ăn mày, khi về thầy tướng bảo Độ tướng đại thần chỉ vì cái tâm nhân hậu của Độ đã bắc cầu cho lũ kiến thoát chết khỏi vũng nước, là chuyện hoang đường để nhấn mạnh cái lý tâm sinh tướng.

        Tâm con người ta, nho gia gọi là Linh Đài, đạo gia gọi là Linh Quan và Phật gọi là Linh Sơn. Lục phủ ngũ tạng tâm làm chủ coi hồn phách, lo cho sự động tĩnh của tinh, khí, thần.
        Tâm là chỗ tính trú ngụ, không có tâm tính không tồn tại. Tính với tâm chú ngụ một thể, nói tâm tốt hay tính tốt cũng vậy.
        Tâm tính ảnh hưởng đến đời người nhiều lắm. Người đời có cả trăm tâm tính.
        Tính trung lương, từ thiện, cao thượng, cương trực, thủ phận, cẩn thận, đại độ, chừng mực, tham lam, quái quắt, keo bẩn, hồ đồ v.v… đều có thể hiện ra tướng mạo. Do tướng mà biết tâm thì ngược lại, do tâm có thể chuyển tướng.
        Tướng thanh cao thường đi đôi với tâm thanh cao, đồng thời số cũng thanh cao.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      13. #19
        Tham gia ngày
        Jun 2013
        Đến từ
        Japan
        Bài gửi
        529
        Cảm ơn
        204
        Được cảm ơn: 340 lần
        trong 222 bài viết

        Default

        Sách xưa kể:
        “Cao Hiếu Toàn và Cao Hiếu Tích là hai anh em sinh đôi ra đời cùng một giờ khắc. Lớn lên, cả hai tướng mạo giống hệt như nhau từ cử chỉ đến ngũ quan lục phủ như hai giọt nước. Cùng học một thầy, văn chương tinh thông, chẳng kém ai hết. Cùng đỗ cử nhân. Cùng lấy vợ, cha mẹ sợ vợ không phân biệt nổi có thể xảy ra sự lầm lẫn nên bắt cả hai anh em ở riêng và mặc quần áo màu riêng.
        Một hôm hai anh em gặp tướng sư Trần Hi Di, tiên sinh nói:
        - Tướng hai anh em phong thần tú dị, mi thanh mục tú, mũi thẳng môi hồng, tai trắng, tất nhiên đỗ cao, đồng mệnh, đồng vận, đồng tướng thật lạ.
        Đến mùa thu, hai anh em cùng vào kinh ứng thí, ở trọ nhà họ bên ngoại. Cạnh nhà có người đàn bà goá chồng trông thấy hai anh em Toàn và Tích tài mạo tốt đẹp động lòng dục tình tìm cách quyến rũ. Tâm tính Toàn yêu học hơn khoái tình nên kế hoạch của goá phụ bất thành. Trở qua Hiếu Tích thì Tích bị ngay với goá phụ vẫn còn mơn mởn đó. Chuyện thông gian có người biết mách cho nhà chồng hay, goá phụ xấu hổ gieo mình xuống sông.
        Thi xong, hai anh em về gặp lại Trần Hi Di tiên sinh để coi xem liệu có đỗ không.
        Hi Di quan sát cẩn thận, ngạc nhiên nói:
        - Lạ thật, hai anh em tướng mạo đại biến, anh tốt em xấu, tương lai sẽ khác nhau như mây với bùn. Hiếu Toàn sắc mặt hồng hào, mắt sáng tựa ngôi sao nhất định sẽ đỗ cao. Hiếu Tích đôi mày ám hãm, môi thâm, mũi có sắc đen sắc đỏ, tai xám, thần sắc khô hại chẳng những không đậu mà còn yểu thọ nữa.
        Ngày coi bảng, quả nhiên Hiếu Toàn đậu tiến sĩ còn Hiếu Tích không có tên, buồn phiền uất ức mà chết.
        Toàn sau làm quan to, nhân ngày ăn thượng thọ 70, nhớ tới người em mới gọi con cháu kể cho nghe vụ Hiếu Tích.
        Ghi chép việc Hiếu Tích, Trần Hi Di tiên sinh nói:
        - Tướng mạo người ta dễ thấy, nói mệnh lại rất khó. Mệnh do trời, tướng ở người. Ứng với thiên thời hợp việc người, đời đời sung sướng. Tinh thần con người ta chợt tụ chợt tán, chí khí lúc kiên lúc lỏng. Có bên trong tất thành hình ra bên ngoài không thể che giấu được.
        Tạo vật mang cái tâm đại công vô tư, phúc sẽ mất đi bởi gây ác nghiệt, tội có thể giảm nhờ vun xới thiện căn. Sinh ở trong tâm tất phát ra ngoài mặt. Cho nên hoạ phúc trên đời hoàn toàn do người gọi đến. Hậu sinh nên suy ngẫm.
        Tôn sư tướng học Ma Y dạy về tướng tâm rằng: “Hữu tâm vô tướng, tướng tuỳ tâm sinh, hữu tướng vô tâm, tướng tuỳ tâm diệt”. (Tâm là tiên thần của ngũ quan, nguồn gốc của trí lực, thiện tâm được phú, ác tâm gặp họa).
        Sách có câu thơ:
        Nhân luân hà xứ định khô vinh
        Tiên tướng tâm điền hậu tướng hình
        Tâm phát thiện đoan chư phúc tập
        Thời tàng độc hại họa tùng sinh
        nghĩa là: Đoán định bước vinh nhục của người đời trước hết hãy xem tâm sau mới đến hình. Tâm thiện thì phúc tụ tập, lòng độc hại thì hoạ kéo đến.
        Người trồng cây cảnh người chơi
        Ta trồng cây đức để đời về sau.
        Câu ca dao bình dân ấy không phải vô căn cứ. Đời về sau chưa thấy, nhưng chắc chắn không có thể nhờ cậy đức mà thoát được vận xấu để lại tiếp tục mệnh. Mệnh tốt, vận xấu mà tâm ác thì vận xấu và tâm ác sẽ cắt đứt luôn mệnh. Điều này rất có lý chứ không mê tín. Vận đã xấu nay lại do tâm ác mà người ghét thì còn tồn tại làm sao được. Cho nên nói tâm cứu cho mệnh chẳng sai chút nào. Cái chìa khoá của tướng tâm nằm ở vận đó. Ác tâm tạo nghiệt, mình đợi tới lúc vận xấu nó mới sinh hoạ như vi trùng đợi lúc sức yếu mới hoành hành. Vì đã nói mệnh tất phải nói vận. Thế gian hiếm thấy lá số nào mệnh tốt mà suốt đời không có vận xấu.
        Tam phần nhân sự thất phần thiên, nói tâm tướng phải nói chí khí con người.
        Hạng Võ có tướng song mục trùng đồng, thân thể khôi vĩ thế mà chết thảm ở Ô Giang là bởi chí khí hẹp hòi. Hạng Võ đốt thành Hàm Dương ba tháng chưa cháy hết, người bị thiêu kể cả vạn, tiếng khóc oán vang trời đất không phải là nhu yếu chính trị mà do ác tâm, chí khí không khoáng đạt.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      14. #20
        Tham gia ngày
        Jun 2013
        Đến từ
        Japan
        Bài gửi
        529
        Cảm ơn
        204
        Được cảm ơn: 340 lần
        trong 222 bài viết

        Default

        Lã Vọng nói:
        Khí vũ hiên ngang hữu dung nạp
        Chí khí thâm viên hữu cơ mưu
        Động tác sử lệnh bất khả liệu
        Thời thông diệc vi công dữ hầu
        nghĩa là:
        Khí vũ hiên ngang mà biết bao dung
        Chí khí sâu xa mà có cơ mưu
        Hành động sai khiến khó ai liệu trước
        Thời vận tới sẽ đáng mặt công hầu
        Sách “Nguyên Đàm” viết:
        “Phong tư dị, cốt cách kỳ, tái quan tài khí thiết thi vi.
        Tài tế biến, ý hữu tư tiểu nhân quân tử bất đồng quy”
        nghĩa là:
        “Phong thái dị thường, cốt cách kỳ lạ, phải nên xem lại chí khí và tài năng.
        Tài thì có tài nhưng có ý tư lợi, đấy là chỗ không cùng một điểm giữa tiểu nhân và quân tử”.
        Kinh nghiệm cổ nhân về tâm tướng ghi nhận như sau:
        - Tâm là gốc của hình mạo. Xét tâm thấy hình mạo ác thiện. Hành động có thể biết hoạ phúc. Tâm tính không công bình con cháu hư, ngôn ngữ nhiều phản phúc chính là con người quỷ quyệt. Cúi đầu nói nhỏ, loại gian tham. Hùng hùng hổ hổ, chẳng phải là người anh kiệt. Tâm khí hòa bình, con vinh cháu quý. Tài thiên tính chấp, dễ gặp họa cùng khốn. Trọng giàu khinh nghèo, bất nhân. Có mới, quên cũ, bất lương. Kính già thương trẻ, đáng tin cậy. Nói bừa nói bãi, không sống lâu. Quên ơn nhớ tiểu oán, công danh khó thành tựu. Mới có tiền, chức nhỏ đã câng câng tự mãn sao làm lớn giàu to. Đại phú, đại quý mà tâm hồn vẫn bình thản, phúc thọ vô cương. Lừa đảo, dối trá dù vinh hoa cũng chẳng bền. Công bình chính trực chết không con nối dõi cũng được phong thần. Mở miệng ra là nói không sợ chết, lúc cần phó tử tựu nghĩa sẽ co vòi. Gặp ai cũng coi làm tri kỉ, chơi thân là giở giọng. Làm việc lớn không than mệt nhọc, không oán giận mới xứng đáng tài lương đống. Mê gái, ham rượu, phường hại nhân lợi kỷ. Ngu lỗ mà còn nói lời bạc bẽo vừa nghèo vừa chết yểu. Thông minh mà khoan dung thong thả, danh hiển yên lành.
        Xem tướng Tâm ở đâu?
        a) Quan sát ngôn ngữ: Chính nhân quân tử nói điềm đạm, tiếng mạnh. Nói nhanh và lớn như ngựa phi, người hào sảng. Người cố chấp nói như cắt sắt nghe lạnh mà vô tình. Nói bầy hầy như người đi trong bùn là người yếu mềm, bạc nhược. Người đa nghi, hay thiếu tin tưởng, hay nói quanh co. Nói hỗn độn, ậm ừ, sự bất thành.
        b) Quan sát thái độ: Quân tử chính nhân, thái độ lớn, vuông vắn, đứng đắn. Bọn tiểu nhân ưa nói khéo ưa làm mặt thân. Lão thành kinh lịch, thái độ tròn trịa. Người trung dung, thái độ cẩn thận. Người sáng trực, thái độ hào phóng, không câu nệ tiểu tiết.
        c) Quan sát lối làm việc: Thấy hoạn nạn hay giúp đỡ là người chuộng nghĩa. Thấy lợi tranh giành là bọn hẹp hòi. Nay phải, mai trái, hồ nghi bất quyết là bọn gian trá. Quân tử thường an vận thủ kỷ. Kẻ ngu xuẩn lúc nào cũng sinh sự.
        d) Quan sát con mắt: Thông minh linh hoạt. Gan dạ mắt sáng quắc. Chính nhân quân tử mắt ôn hoà. Hung ác mắt ba góc có sát khí. Dung tục nhãn quang trầm trệ. Kiêu ngạo mắt ưa nhìn lên. Ích kỷ hại nhân mắt ưa nhìn xuống. Tâm có âm mưu mắt có tà thị.
        e) Quan sát tướng mạo: Người ôn hoà ngũ quan chính trực. Kẻ thủ đoạn mặt xanh xanh, quyền cốt cao. Bọn thế lợi đầu nhọn mắt nhỏ. Đứa gian giảo đầu mũi nhọn không có thịt. Nhãn quan đưa đẩy lưu lộ thuộc loại phản trắc vô tình. Mặt đen xịt vô tình vô nghĩa. Da mặt mỏng dễ thay lòng đổi dạ.
        Có hai loại người mà cả khoa tâm lý Tây phương lẫn khoa tướng mạng Đông phương đều có nhận thức in hệt nhau.
        Thứ nhất: Người gầy, chân thật cao, vai nhỏ cổ dài, đùi nhỏ, đít lép, sống mũi thật cao.
        Loại này thường có hai mặt: bên ngoài thường dễ mắc cỡ, nhạy cảm nhưng trong lòng kiêu ngạo vô tình. Lúc thì muốn thoát ly hiện thực để sống trong ảo tưởng. Lúc thì lại thích lý luận thực tiễn. Khi làm việc gì cứ ngoan cố theo ý mình, bất chấp ý kiến người khác. Loại này có thể có tiếng tăm nhưng nhạt nhẽo ít gây được thiện cảm như Henry Ford, Bertrand Russel...
        Thứ hai: Người mập mạp, thịt chắc chân tay, cổ ngắn, mặt vuông chữ Quốc, sáng sủa dễ gây cảm tình quần chúng, giỏi thu thập những tài của kẻ khác để dùng vào việc của mình, giỏi biện thuyết như Churchill, Krouthchev hay nhà văn Hemingway.
        Tâm thần liên hệ với tướng mạo như thế đó. Vậy thì cái chuyện tướng do tâm sinh chẳng qua là cái lý luận quanh co của khoa tướng mệnh.
        Ví không đủ sức thành công nghiệp
        Thì phá cho tan chí vẫy vùng
        Mượn thú văn chương khuây thế lụy
        Lấy tài nghiên bút đo đạo cung
        Thân thế mang oán sầu tủi nhục
        Tài hoa trơ lại tập văn chương
        Đã già thân thế cùng nông nổi
        Mà vẫn bồng tang với đoạn trường
        Những câu thơ của TCHYA chính là tâm tính của một số người tài hoa ta thường gặp, do tính khinh bạc mà mệnh mỏng, hay nói khác đi, đây là tâm tướng của những người bất đắc chí.
        Theo tướng pháp, người tài hoa thông minh có ba điều kỵ:
        - Anh hoa phát tiết.
        - Tâm tính khinh bạc.
        - Thân thể yếu đuối.
        Điều kỵ thứ ba đã nói ở chương trên. Anh hoa phát tiết sẽ nói sau.

        Chương này chỉ nói đến tâm tính khinh bạc.
        Thời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh, một trong tám đại tài tử là Kim Thánh Thán, đại phê bình gia của văn học Trung Quốc nổi danh thiên hạ về văn chương cũng như về tâm tính khinh bạc. Lời phê bình của ông như dao cắt vào da thịt, khiến cho kẻ bị phê bình chết đi mà vẫn còn đau xót ân hận.
        Văn ông làm rất nhanh, cầm bút viết thao thao đủ lối tục có, nhã có. Nhưng tâm hồn ông sớm chán đời. Nguyên do bởi đâu, chính thức không ai rõ, chỉ theo truyền thuyết nói rằng:
        Lúc Thánh Thán còn là học trò, tên Trương Thái, có đến Trung Tiêu Tự cầu mộng. Đêm ấy ông nằm mơ thấy một cây rất cao không có lá chỉ trơ cành, trên cành có một con cú đậu cô độc thê lương. Tỉnh dậy, ngẫm nghĩ điều mộng tương lai sẽ là một kẻ sĩ cố cùng chua chát và bất đắc dĩ mà thôi. Từ ấy, ông từ bỏ mọi tham vọng cầu quan tước và sống phóng đãng giang hồ. Cũng từ đấy tài hoa của ông mỗi ngày một nảy nở để trở thành tên Thánh Thán.
        Trên bước giang hồ, ngày ấy tháng ấy, Thánh Thán có gặp một thầy tướng bảo ông rằng:
        - Tướng tiên sinh có ba độ loạn văn, ấn đường, mũi và địa các. Nay nhãn thần đã thoát, nhân trung khí sắc xanh đen, nội trong một trăm ngày tới hoạ sẽ tới, xin tiên sinh cẩn thận.
        Thánh Thán nghe lời về nhà đóng cửa đọc sách, ngâm thơ, uống trà. Được 98 ngày rồi, ông mới mở cửa đứng xem phố xá, thì chợt có một đám đông kéo đến. Đám đông ấy toàn là nho sinh, họ trông thấy Thánh Thán bèn tụ tập trước nhà ông. Thánh Thán hỏi nguyên do. Họ kể việc huyện lệnh họ Ngô cam kết với học quan bán bằng cấp trong khoá thi vừa qua. Nay họ định đến dinh học quan để biểu tình tố cáo. Thán nói:
        - Hãy đem tượng Khổng tử ra khỏi nhà Văn miếu mà đem thần tài vào đấy mà thờ.
        Đám đông nghe nói làm theo y lời Thánh Thán. Tất cả kéo đến Văn Miếu. Viên huyện lệnh sợ phong trào lan rộng nên đem hết quan binh đàn áp. Bọn học trò chạy hết chỉ còn Thánh Thán đứng đấy, bị quan binh trói bắt.
        Để che đậy tội tham nhũng, huyện lệnh lập kế vu cáo Thánh Thán xúi giục dân chúng làm loạn.
        Cho có bằng cớ, huyện lệnh chép hai câu thơ mà Thánh Thán làm trong bữa tiệc để vịnh hoa mẫu đơn màu đen:
        Đoạt chu phi chính sắc
        Dị chủng dã xưng vương.
        nghĩa là:
        Màu đen không phải là sắc chính của hoa mẫu đơn
        Thế mà tuy giống khác cũng xưng vương.
        Ý ông muốn chửi bọn Mãn Thanh khác giống vào xưng vương ở Trung Quốc.
        Triều đình kết tội Thánh Thán làm loạn bắt chết chém ngang lưng.
        Cái chết của Thánh Thán cũng giống như cái chết của thi sĩ Cao Bá Quát.
        Chết vì tâm tướng khinh bạc.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 2/9 đầuđầu 1234 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Mục giảng sư 《 kim khẩu quyết 》
        By thoitu in forum Phong thủy II
        Trả lời: 20
        Bài mới: 19-04-16, 01:44
      2. Luận Ngũ hành Sanh Khắc Chế Hóa
        By kimcuong in forum Tử bình
        Trả lời: 17
        Bài mới: 13-08-12, 13:46
      3. Nhờ luận giải lá số
        By cuongleviet in forum PHÒNG GIẢI SỐ TỬ VI
        Trả lời: 0
        Bài mới: 07-06-12, 13:48
      4. Mời các bạn luận quẻ Tĩnh-Khảm
        By adhoc in forum Dịch Số
        Trả lời: 5
        Bài mới: 09-12-11, 13:17
      5. Trả lời: 13
        Bài mới: 27-02-11, 03:49

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •