Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối
    kết quả từ 11 tới 20 trên 23
      1. #11
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        25, Cướp mộc tuyệt khí ở Bính Đinh. Nhật can Giáp Ất, sinh mùa hạ, trùng trùng thấy hỏa hoặc thành hỏa cục, mộc đến đất hỏa, tan thành mây khói, "Mộc hóa thành tro", chủ là yểu mệnh, trụ nhật chủ có kim khắc càng ứng nghiệm.
        26, Ngũ hành sinh tử, xem bình việc người. Gặp sinh sợ tử, đã tử sợ sinh; chỗ sinh gặp vượng, xứ diệt thì tử; chỗ sinh gặp tử, chỗ thoát tất vượng.
        27, Vận Thương quan nếu thấy hình xung, mộng nhập vào cõi u minh. Trong trụ gặp vận Thương quan xung hình, chủ họa không rõ, tất phải tử vong.
        28, Sinh địa gặp nhau, thanh niên mất lộc. Kiếp Ấn trùng trùng mà hành đất trường sinh, chủ tử.
        29, Ngày gặp Quan Quỷ thấy hình trọng, ác tử là rất rõ ràng.
        30, Dương Nhận cùng Sát Thương hình nhau, tất chủ đến pháp trường.
        31, Thân suy, chi ngày tọa Thất Sát, vận Sát chết vì hình ngục.
        32, Quyền Nhận lại hành Quyền Nhận, giải phẫu mà chết.
        33, Ngày gặp Nhận Sát mà hình xung, vợ tất vì sinh sản mà chết.
        34, Đào Hoa hội Lộc chết vì tửu sắc, hung Sát hợp năm đề phòng đao chém chết.
        35, Hàm trì tọa vượng mang Nhận, vì sắc vong thân.
        36, Quý nhân trên đầu mang Nhận kiếm, đa số là chết hung.
        37, Ngày Mậu tháng Dần, thấy Thân Dậu, là thập tử nhất sinh.
        38, Canh Tân hướng phương Thân Dậu, chết do cướp binh quyền. Trụ có 4 chữ Canh, Tân, Thân, Dậu, có họa đổ máu, họa tổn thương tứ chi thân thể tàn tật, chém nhau đổ máu, ứng chỗ này, là trong trụ có hỏa nhiều hoặc nạp âm hỏa nhiều càng ứng nghiệm.
        39, Khi sinh tứ trụ có Tài tinh, gặp lúc Dương Nhận định là khắc hình, tuế vận thường gặp vợ cắt đứt nhớ thương, hàng năm thê cung thường thấy tổn hại. Tuế vận hành vận đất Tài tinh tử mộ tuyệt, ở tuế vận này là hại vợ, hoặc ly hôn, hoặc tang vong.
        40, Thân nhược, Tài sinh Sát vượng khắc thân, lại hành Tài vận tất chết.
        41, Thương quan nhập mộ, âm sinh dương tử.
        42, Tài gặp Kiếp hết tận, Tài trọng phá Ấn, Kiếp trọng thấy Tài, đều là vận chết.
        43, Thủy thịnh mộc phiêu, cuối cùng thành quỷ bên ngoài, chết không có quan tài.
        44, Thực thần gặp Kiêu, chết trong lao ngục.
        45, Tòng Tài tòng Sát, vận chợt vứt căn, không chịu tòng khí, là mệnh quy tiên.
        46, Thương quan Dương Nhận, thiết kị cùng thấy nhiều, nếu như đầy đủ, quyết chết do đổ máu.
        47, Dương Nhận xuyên đảo, tất làm quỷ không đầu.
        48, Bốn sao Nhận nặng, chết ở dưới Tài.
        49, Khúc trực Nhân Thọ, sợ nhất Bạch Đế ( mộc sợ kim).
        50, Viêm thượng kị Thổ, thủy xung thì chết.
        51, Tòng cách kim cục, phải cần hỏa luyện, Bính Đinh nhiều Ngọ, gặp mộ thì chết.
        52, Chỗ kị Nhuận Hạ, là hình xung tử tuyệt, mộc hại đê ngạn, phương Đông là chết.
        53, Giá Sắc cách, một mộc là tốt, mộc nhiều thổ hư, lại hành vận Đông phương mộc thì chết.
        54, Kim bạch thủy thanh, thiết kị sinh mùa Hạ, hỏa hại thổ chế, xin nhớ lệnh tháng.
        55, Mộc hỏa cùng sáng, kim thủy phá hại, vận hành Tây Bắc, là lúc chết.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #12
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        ( Bốn ) Phép xem vị trí vết sẹo trên thân thể

        Mệnh lý đối với phép xem vết sẹo, chính là chỉ vì các loại tai họa, thủ thuật giải phẫu, sưng mủ lở loét ở trên thân thể mà lưu lại vết sẹo.
        Thông thường trong tứ trụ gặp:
        1, Thiên can người có Quan Sát hoặc người có mộc khắc thổ, nửa phần trên thân thể dễ dàng lưu lại vết sẹo;
        2, Người có địa chi Quan Sát hoặc có Mộc khắc thổ, nửa dưới thân thể dễ dàng lưu lại vết sẹo;
        Cụ thể là nói:
        Một, Can năm:
        1, Can giờ khắc can năm, vết sẹo ở bên phải trên thân thể;
        2, Can ngày khắc can năm, vết sẹo ở chính giữa trên thân thể lệch về vị trí bên phải;
        3, Can tháng khắc can năm, vết sẹo ở trên vị trí bên trái thân thể;
        Hai, Can tháng:
        1, Can năm khắc can tháng, vị trí vết sẹo ở bên phía trái thân thể hiện ra rất rõ;
        2, Can ngày khắc can tháng, vết sẹo ở trên vị trí bên phải thân thể rất rõ ràng;
        3, Can giờ khắc can tháng, vị trí vết sẹo ở bên phía trái thân thể hiện ra rất rõ;
        Ba, Can ngày:
        1, Can giờ khắc can ngày, vị trí vết sẹo ở giữa thân thể thiên về vị trí bên phải;
        2, Can năm khắc can ngày, vị trí vết sẹo ở phía bên trái thân thể;
        3, Can tháng khắc can ngày, vị trí vết sẹo ở chính giữa trên thân thể lệch về bên trái;
        Bốn, Can giờ:
        1, Can tháng khắc can giờ, vị trí vết sẹo ở chính giữa thân thể lệch về bên trái;
        2, Can năm khắc can giờ, vị trí vết sẹo ở bên trái thân thể là rất rõ;
        3, Can ngày khắc can giờ, vị trí vết sẹo ở bên phải thân thể rất rõ.
        Cụ thể lúc vận dụng, tất cần xem thêm hạn vận.

        (Hết)
        trích từ kimtubinh.net
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #13
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Tiếp theo phần xem mệnh
        Khẩu quyết xem mệnh


        Xem mệnh nói chung, trước tiên xem Chi tháng có hay không có Tài Quan, mới xem cái khác, Nguyệt lệnh là mệnh vậy. Tháng lấy chi, năm lấy Can, Ngày lấy thiên can, lưu niên thái tuế lấy thiên can, đại vận lấy chi, năm là gốc, ngày là chủ. Như tháng có Chính Quan cùng Thiên Quan, mà giờ lại nhập cách khác, chỉ lấy trong tháng mà thủ cách, không dùng cách khác. Như nguyệt lệnh hoàn toàn không có thể dụng, mới xem cách khác.
        《 Cổ ca 》nói:
        "Tam cung đới cách hỗn nan tường,
        Bất hiểu bằng thùy thị quý phương.
        Nhất nhậm tam cung giai đới cách,
        Trừ phi chỉ đắc dụng đề cương"
        Tạm dịch:
        “ Ba cung mang cách tạp khó tìm,
        Không hiểu dựa ai là phương quý.
        Cho dù ba cung đều mang cách,
        Loại ra chỉ được dụng đề cương”
        ( Đề cương là Nguyệt lệnh, là Chi tháng). Là vậy.
        Nguyệt lệnh dụng địa chi, giả như có Quan tinh, trên dưới cần phải có can chi thấu ra mới tốt; hoặc can thấu ra, trong chi không thấu, cơ bản chỉ là thông minh tuấn tú. Kỵ năm cùng giờ xung nhau, còn chi tháng chi ngày tự xung thì không ngại, đại vận cùng Tuế quân đến xung chi tháng thì gặp họa.
        Phàm Chính Quan có một vị, chính là người quân tử, là quý nhân, trung hậu thuần túy, cương trực liêm minh; năm và giờ có Ấn lại càng tốt, nhiều thì trái lại chủ thành bại. Bốn vị trí đều thuần Quan, làm quan hư danh. Phàm Thất Sát một vị, thông minh linh lợi, hai vị, ba vị thì trước trong sau đục. Tứ trụ thuần Sát, có chế là quý, không có chế thì bần.
        Phàm Tài có một vị, việc phải được thời, phú quý thành gia, tính tình nóng vội; hai vị, tính khí giảm nửa; ba vị, bốn vị, hao khí mà thân suy. Nếu thân quá vượng thì có thể thành lập, suy nhược thì nhận sự lao khổ.
        Phàm Ấn, không luận một vị, hai vị, bốn vị cũng tốt, trong cách không nên thấy Tài phá Ấn.
        Thông thường hành vận tốt, nhật can gây tổn thương can đầu lưu niên, tuế quân thì họa nhẹ. Hành vận không tốt, nhật can tổn thương can đầu Tuế quân thì họa nặng, nếu đã qua phát thì chết.
        Thìn Tuất Sửu Mùi, tất cả có ba phần dư khí. Ví dụ như hành Ngọ vận tới Mùi có ba phần hỏa khí, hành Tý tới Sửu có ba phần thủy khí, không thể hoàn toàn lấy thổ mà luận.
        Phàm Dương Nhận cách, Tuế Vận sợ nhất xung hợp. Can Thái Tuế hợp can ngày giờ, gọi là Hối khí Sát; Can chi ngày giờ cùng can chi lưu niên giống nhau, là Chuyển chỉ Sát. Như loại ngày Canh Thân thấy Thái tuế là Canh Thân hoặc là Canh Dần, nhẹ thì chuyển đi xa, nặng thì phá gia bại sản.
        Phàm năm, tháng, ngày có cát thần, yêu cầu giờ dẫn quy về xứ sinh vượng; có hung thần, yêu cầu giờ dẫn quy về nơi chế phục. Nếu ở trên trụ giờ mang theo cát thần hoặc hung thần, cũng cần năm, tháng, ngày ở trên có cát thần sinh cho, hung thì chế. Trụ tháng có dụng thần thì được lực của tổ tông, trụ giờ có dụng thần thì được lực của con cháu, trái lại chỗ này thì không được lực.
        Phàm xem mệnh, lấy can ngày dụng là Thiên nguyên, vậy can là Lộc; chi ngày, chi tháng dụng là Địa nguyên, vậy chi là mệnh. Ví dụ ngày Nhâm Quý, tháng Kỷ Mùi, ở chi thấu ra Tài Quan là vậy.
        Luận Tài Quan gốc có gốc không có, gốc địa chi có Tài Quan, thiên can không lộ ra thì không xét; nếu địa chi không có Tài Quan, nhưng thiên can thấu ra, dù là hành vận tốt, cũng không được việc.
        Xem Lưu niên Tuế quân, chỉ sử dụng Thiên nguyên. Như hành vận dù có xem trọng ở địa chi, cũng phải xem thêm thiên nguyên. Trong trụ mệnh hoặc có Quan tinh, hoặc có Thiên quan, có chế phục thái quá, mà vận thấy ở Quan Sát, thì có thể phát; Chi vận không có Tài, mà Can vận thấy Tài, cũng có thể là phúc vận; chi không có Sát mà can vận thấy Sát, cũng có thể là họa.
        Nhân mệnh nên lấy tháng sinh là gốc vận, rất sợ đại vận cùng Tuế quân đến xung là gặp họa. Nên dùng gốc Lộc là sinh Quan tinh, rất sợ xung phá. Như ngày sinh là Đinh, lấy Nhâm là Quan, mà sinh tháng Hợi, trong Hợi có Nhâm là lộc của Đinh, nếu năm và giờ có chữ Kỷ thì xung phá gốc Lộc.
        Nên lấy gốc Mã là sinh Tài tinh, rất sợ bị Kiếp (cướp) đoạt, như người sinh ngày Canh, lấy Giáp Ất mộc là Tài, mà sinh tháng Dần Mão, trong Dần có Giáp mộc là Thiên Tài, trong Mão có Ất mộc là Chính Tài, nếu năm giờ có chữ Tân, thì có họa tranh đoạt. Tuế vận cũng luận giống vậy.
        Phàm ở trên can năm ngày có Quan tinh, phúc khí rất dày; ngày có Thất Sát, thì cả đời không thể loại trừ.
        Quan tinh là Lộc, Tài tinh là Mã. Hành Quan tinh thì phát quan, hành Tài tinh thì phát tài, cả hai không thể thiếu một, tất cả đều có chỗ dùng.
        thay đổi nội dung bởi: quangvinhn, 17-09-14 lúc 20:44
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #14
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Trên năm tháng có Tài Quan, nhất định sinh ra ở nhà phú quý, có căn cơ tổ phụ, thiếu niên hành vào vận Quan Lộc, phần đa nhận chức ở thiếu niên, sớm phát công danh; năm tháng không có Tài Quan, mà ngày giờ có, thì bản thân tự lập.
        Nhân mệnh lấy Tài Quan làm gốc, trong trụ chỉ có một, cũng có thể phát phúc;
        Nếu tứ trụ gốc không có Quan tinh, không nhập cách khác, can chi năm, tháng, ngày, giờ có Tài nhiều, lại hành vận Tài vượng, cũng có thể thành tựu công danh. Lấy Tài vượng tự có thể sinh Quan, cần thân vượng mới có thể được. Năm tháng không có Tài phú, thiếu niên lại hành vận không tốt, phần đa là xuất thân nơi thấp hèn, phá tổ mà còn tổn hại cha. Phúc không thành.
        Phàm xem mệnh, có Quan Sát hỗn tạp, Thương quan lại là hợp thần, nam mệnh phạm thì đam mê tửu sắc; nữ mệnh phạm thì không có người làm mai mối để lấy chồng.
        Phàm xem mệnh, chuyên lấy Nhật can làm chủ, lấy chỗ Đề cương vật sử dụng làm sinh mệnh. Thí dụ Nguyệt lệnh lấy kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là dụng, nhưng có phân biệt, lấy tiết khí trước sau, khinh hay trọng, ít hay nhiều, thành cục hay bị xung phá, càng phải tinh tế khảo cứu. Viết Quan, viết Ấn, viết Tài, viết Sát, viết Thực, viết Thương, lấy 6 phép này làm tiêu chí.
        Gặp Quan xem Tài, gặp Sát xem Ấn, gặp Ấn xem Quan. Cả bốn vị này lấy không nên thiên lệch, sinh khắc chế hóa là trên hết; gặp phá hại hưu hồi, là thấp; có sinh có khử là phúc, có trợ có cướp là họa. Cũng có hợp chi năm, ngày, giờ thành cách cục, nhưng đều lấy Nguyệt lệnh làm dụng. Ví dụ như lệnh tháng dụng kim chỉ dụng kim, dụng hỏa chỉ dụng hỏa, bên trong 18 cách lấy 6 cách làm trọng.
        Dụng tương sinh để định cách, hợp cục, nhưng dụng dưới năm, ngày, giờ để suy khinh trọng, nông sâu. Như dụng Quan dụng Ấn không sợ Sát, là Sát Ấn cục, thân Ấn cục vẫn thủ làm thượng cục; Gặp Ấn xem Sát, nhưng có Quan Sát ở mệnh, hành đất Quan Sát, cũng lấy quý luận.
        Trong trụ Nguyệt lệnh thông quan gặp Tài, Tài vượng sinh Quan chính là phú quý. Trong trụ thấy Tài, phải vào vận Tài vượng mới phát phúc. Nhưng thấy một Sát, thì lấy Sát làm trọng không thể dụng Tài; nếu hành vận Tài vượng chính là Tài sinh đảng Sát, thì là mệnh bần tiện.
        Phàm cách lấy Sát làm trọng.
        Phàm mệnh, trước tiên xem Can thần có hay không có khắc chế, Chi thần có hay không có hình xung, nạp âm can chi có hay không có khắc chiến, hàng phục. Như Giáp lấy Dần là lộc, mà ở trên Dần có can gì? Giáp lấy Tân là Quan, mà Tân được gì? Can không xâm phạm, thì chính là tôn trọng trời. Chi không phạm Can, thì chính là cúi chào đất; Ngũ hành không cướp trộm, thì chính là thuận theo người; Tứ Mạnh không tương hại, thì chính là Mã có thể phi nhanh. Nếu can xâm phạm chi, là ngũ hành cướp trộm.
        Lại cần phân biệt Chủ Bản có hay không có khí, hữu dụng hay vô dụng, có cứu hay không có cứu, thành cách hay không thành cách?
        Can chi thì phức tạp, ngũ hành biến hóa, tạo hóa ở trong đó vậy!
        Lý Thuần Phong nói: Ngũ hành sinh vượng, xem phúc khí đến; Ngũ hành tử tuyệt, nhờ cát thần cứu trợ. Ngũ hành đắc địa, nạp âm tương sinh, cát thần không có trợ giúp thì cũng vinh; ngũ hành vô khí, nạp âm gây trở ngại nhau, thì dù có cát thần cũng vô dụng.

        Phàm mệnh, Thiên nguyên hỷ Địa nguyên có lộc:
        Như Giáp Kỷ hỷ tứ quý, Ất Canh hỷ Thân Dậu, Bính Tân hỷ Hợi Tý, Đinh Nhâm hỷ Dần Mão, Mậu Quý hỷ Tị Ngọ.
        Địa nguyên hỷ Thiên nguyên có hợp:
        Như Tý Sửu hỷ Mậu, Dần hỉ Kỷ, Mão Thìn hỷ Canh, Tị hỉ Tân Quý, Ngọ hỷ Giáp Nhâm, Thân hỷ Ất, Dậu Tuất hỷ Bính, Hợi hỷ Đinh.
        Thiên nguyên, Địa nguyên đều có, phúc khí cả đời cao lớn; còn tất cả đều không có, thì danh lợi không thành.
        Phá hư Thiên nguyên thì trước 39 tuổi danh lợi khó phát; phá hư Địa nguyên thì sau 40 tuổi phúc không bằng trước.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #15
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Nếu Thiên nguyên tọa lộc tú khí, ví dụ như Quý được Tý, Giáp được Dần, thì không quý cũng phú.
        Địa nguyên kỵ Thiên nguyên tương khắc:
        Như Tý Sửu sợ Kỷ, Dần sợ Canh, Mão Thìn sợ Tân, Tị sợ Giáp Nhâm, Ngọ Mùi sợ Ất Quý, Thân sợ Bính, Dậu Tuất sợ Đinh, Hợi sợ Mậu.
        Lại xem hỷ kị như thế nào, không thể chấp nhất mà luận.
        Phàm mệnh, can chi thủ cùng nạp âm giống nhau:
        Nhâm Tý Nhâm Ngọ là chân mộc, Kỷ Dậu Kỷ Mão là chân thổ, Bính Tý Bính Ngọ là chân thủy, Mậu Tý Mậu Ngọ là chân hỏa, Ất Sửu Ất Mùi Canh Thìn Canh Tuất là chân kim.
        Như ngày Ất Dậu giờ Canh Thìn là kim tinh, ngày Đinh Tị giờ Bính Ngọ là hỏa tinh, ngày Quý Hợi giờ Nhâm Tý là thủy tinh, ngày Kỷ Sửu giờ Mậu Thìn là thổ tinh, ngày Giáp Dần giờ Tân Mão là mộc tinh, nếu gặp ở trên đều chủ phú quý.
        Như người mệnh hỏa có ngày Bính giờ Tân, ngày Tân giờ Bính; mệnh mộc có ngày Giáp giờ Kỷ, ngày Kỷ giờ Giáp; mệnh thổ cp1 ngày Mậu giờ Quý, ngày Quý giờ Mậu; mệnh thủy có ngày Nhâm giờ Đinh, ngày Đinh giờ Nhâm; mệnh kim có ngày Canh giờ Ất, ngày Ất giờ Canh, dù là ngũ hành chân quý, phạm nặng thì giảm phúc.
        Phàm mệnh, có ngũ hành giao hỗ chân khí:
        Như mệnh Tân Hợi kim được Đinh Tị thổ, có Đinh Nhâm qua lại hợp chân mộc, có Bính Tân qua lại hợp chân thủy;
        Mệnh Đinh Tị thổ được Quý Hợi thủy, có Mậu Quý qua lại hợp chân hỏa, có Đinh Nhâm hợp qua lại chân mộc;
        Như tạo: Mậu Tuất, Quý Hợi, Đinh Tị, Tân Hợi, đầy đủ giao hỗ chân khí, là mệnh của Tể tướng vậy.
        Mậu Ngọ hỏa được Nhâm Tý mộc, trong có Đinh Nhâm là chân mộc, Mậu Quý là chân hỏa.
        Bính Thân hỏa được Ất Dậu thủy, trong có Bính Tân là chân thủy, Ất Canh là chân kim.
        Canh Dần được Kỷ Mão thổ, trong có Giáp Kỷ là chân thổ, Ất Canh là chân kim.
        Như Canh Dần, Kỷ Mão, là đầy đủ giao hỗ, chính là mệnh lưỡng phủ vậy.

        Phàm mệnh, trước tiên luận hóa khí.
        Kiểm tra lại 《 Chương Ngũ vận 》, lấy Giáp Bính Mậu Canh Nhâm hợp ngũ âm can gọi là thái quá, Ất Đinh Kỷ Tân Quý hợp ngũ dương can gọi là bất cập. Giữa thái quá và bất cập, là có quyền tồn tại ở chỗ này.
        Kiểm tra 《 Sách Thiên nguyên biến hóa 》, lại phân ra ngày và đêm. Như:
        Người Lục Giáp, sinh ban ngày là mộc, sinh ban đêm là hóa thổ, cho nên người có Lục Mậu được Giáp sinh ban ngày là Quỷ, sinh ban đêm là dụng Quan;
        Người Lục Ất sinh ban ngày là dụng kim, sinh ban đêm là dụng mộc, cho nên người Lục Kỷ sinh ban ngày là Quan, sinh ban đêm là Quỷ.
        Riêng người có Lục Kỷ, Lục Canh là bất biến, là lấy can ngũ dương sinh ban ngày là bản thể, sinh ban đêm là lấy hóa xem; can ngũ âm sinh ban đêm là bản thể, sinh ban ngày là lấy hóa xem.
        Loại lục dương, mệnh nam phạm Lộc Quỷ Đảo Thực, cần thủ sinh ban đêm, thì phản hung thành cát. Hô Quỷ thành Quan, Đảo Thực thành Hỷ thần, lại lấy sinh ban ngày là thuận;
        Loại lục âm, mệnh nam phạm Lộc Quỷ Đảo Thực, cần thủ sinh ban ngày, thì phản hung thành cát. Còn lại giống như trước, lại lấy sinh ban đêm là thuận.
        Mệnh nữ thì ngược lại chỗ này.
        Chỗ này là khí tượng ngày và đêm, là phối hợp âm dương, cương nhu, thể dụng vậy.
        Phàm mệnh, ngũ hành ở dưới sinh trên viết là Trợ khí (giúp khí), chủ cả đời tự nhiên hưởng phúc. Trên sinh dưới viết là Đạo khí (cướp khí), chủ cả đời cung phúc cho cho người. Trên khắc dưới viết là Thuận, chủ có uy thế mà quản thúc con người; dưới khắc trên viết là Nghịch, chủ phần nhiều trì trệ và khó phát, tử tuyệt thì càng nhanh, sinh vượng thì chậm hơn.
        Tứ trụ nạp âm nhiều Quỷ, Chủ Bản nắm thời, gọi là ngày Quan tinh thừa vượng; nạp âm Tài nhiều, Chủ Bản vô khí, gọi là Tài đa hại thân.
        Phàm mệnh, ngũ hành quý ở âm dương bằng nhau, như: loại hai kim thấy hai mộc, hoặc hai hỏa hai thổ hai thủy, từng loại thành tượng mới cát;
        Như thái quá, bất cập, như loại ba thủy một mộc, một thủy ba mộc, đều không là phúc. Như người mệnh kim thấy ba kim một mộc, kim khắc mộc là Tài, ba kim tranh một mộc, thì phúc bị phân đoạt, phần đa chủ tài vật không thành. Nếu một kim ba hỏa, hỏa nhiều kim ít, bị nung thái quá, cả đời chủ không nhàn.
        Lại như người Giáp, gặp ba Nhâm ba Kỷ, nói là ba phối ba đoạt, chủ không cát. Nếu gặp hai Kỷ, hai Canh, gọi là trọng ngẫu trọng thương, nếu là ba thì càng hung, không bần thì yểu. Còn lại theo đó mà suy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #16
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Phàm xem mệnh, có Thương quan kiến Quan mà chết sớm, Thất Sát kiến Tài thì yểu vong, Tài gặp Kiếp phải chết, trọng Tài phá Ấn là hung. Thủy thịnh mộc lưu, cuối cùng là quỷ; Thực thần phùng Kiêu, chết trong lao ngục. Kiếp trọng thấy Tài là chết, Sát vượng thì căn dừng. Vong Thần Thất Sát xung hình, không phải kẻ xấu thì cũng chết. Dây trói buộc Thương quan, Dương Nhận đều trọng, dù thây thể còn nhưng chết bởi cảnh đổ máu. Tài tinh thấy Nhận, thì tài tán người chết. Sinh vượng tử ở khố mộ, khố mộ tuyệt ở sinh vượng. Về sau hành vận tốt, không vào hung vận, vì sao lại chết đột ngột? Có hung vận đến mà cát vận chưa đến vì sao lại phát phúc? Nên nghiên cứu nguyên do Tiến khí Thoái khí, lại suy xét nghĩa chưa phát hay đã phát. Tương lai mà tiến nhanh, thành công thì đã quy tiên.
        Cả đời tuế vận đều hung, thiếu niên sẽ chết sớm; cuối đời mệnh tinh đắc địa, thọ lão càng cao. Già thì sợ sinh vượng, mà ít sợ tử tuyệt; Dương Nhận phùng sinh phần đa chết dữ, Sát vượng có căn cuối cùng định là hung.
        Xuân vượng hỏa nhiều, đượng nhiên Tây Bắc là quy về khố; Hạ mờ kim vượng, lợi Đông Nam đất quỷ là đất thọ.
        Tứ Nhận tinh trọng, chết ở dưới Chính Tài; Một Quan ít quý, cuối cùng hướng về Dương Nhận.
        Tứ trụ đều là Thương là tự chết, Kim thần nhập thủy thì gặp họa.
        Dương Nhận Đảo Qua, làm quỷ không đầu; Sát tinh thay Nhận, còn nửa thân.
        Chế phục trung hòa, Sát đầy cực điểm mà khí tử.
        Sinh phù thái quá, Ấn quá vượng thì chết.
        Thương quan nhập mộ tử, rất cần nhìn cục về sau.
        Dương sinh mà âm tử, âm tử mà dương sinh.
        Sát gặp tam hợp thái quá tất phải đổ ngã, trong ngũ cần nên thẩm xét tiêu tường. Cần phải nghiên cứu cẩn thận.
        Phàm xem mệnh, ngũ hành thái quá hay bất cập, là nguyên nhân không thành phúc, trong đó cũng có khác nhau. Như thủy thổ không sợ tử tuyệt, vì ở giữa trời đất đều đầy thủy thổ, không phân ra bốn mùa, sao lý có Tử Tuyệt? Chỉ phân biệt khinh trọng, như ở trong thổ chỉ có một chút thủy thì khô, trong thủy nhiều tụ lại làm úng thổ thì tan rã ra, cần phải luận nhiều ít, mà phân ra khinh trọng vậy.
        Kim không thổ thì không sinh, mộc không thủy thì không lớn, cho nên kim mộc muốn sinh vượng thì sợ thấy tử tuyệt. Như kim tử thì bị chìm, mộc tử thì thành tro bụi, cùng với thủy thổ khác nhau.
        Hỏa tàng ở mộc giữ lại ở thổ, cho nên không muốn vượng, vượng thì đốt cháy; cũng không muốn tử, tử thì diệt, duy chỉ được cân bằng thì tốt.
        Ngũ hành đều dựa vào thủy thổ, phàm mệnh mộc kim hỏa, càng cần có vậy.
        Phàm thủ tượng ngũ hành, bản tượng thủ bản tượng, như loại Giáp Ất Bính Đinh là tượng mộc hỏa. Hóa tượng thủ hóa tượng, như Mậu Quý, Đinh Nhâm, cũng là loại tượng mộc hỏa.
        Tượng kim thủy không thể thấy thổ, gọi là thổ tạp thủy hỗn, thì kim sẽ không thanh. Tuế vận gặp thổ cũng trì trệ, duy chỉ có kim thủy là không tạp, sinh ở mùa thu là rất quý.
        Như mệnh Minh Thần Tông: Quý Hợi, Tân Dậu, Quý Hợi, Tân Dậu, có can chi đều là thuộc kim thủy không tạp, tháng kim sinh thủy, là kim trợ thủy thanh, thành tượng hai thủy hai kim, gọi là kim bạch thủy thanh, đặc biệt không có xen tạp, lại hợp có Lưỡng Can bất tạp, cho nên tôn làm thiên tử.
        Như tạo: Quý Dậu, Quý Hợi, Canh Tý, Tân Tị, là kim sinh tháng thủy, kim lại bị thủy tiết khí, chìm ở trong Hợi Tý, cho nên không tránh khỏi họa về nước.
        Tượng kim thổ không thể thấy mộc, là mộc khắc thổ, thì thổ không thể sinh kim, là không thành tượng vậy.
        Thổ tích trữ thành kim, thổ nhiều kim ít, là phúc thật dày. Kim trọng thổ khinh, phúc đầy vất vã.
        Tượng kim hỏa không thể thấy thủy, thấy thủy thì hỏa diệt kim chìm mà không thể thành khí.
        Kim trọng hỏa khinh, phát trễ mà lợi thọ; kim khinh hỏa trọng, phát sớm mà thoái nhanh, hoặc chủ thọ giảm.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #17
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Tượng kim mộc không thể thấy hỏa, vì Hoạt mộc sợ kim thấy hỏa thành tú, Tử mộc được kim mới thành tạo hóa;
        Kim trọng mộc khinh, thì bệnh đau xương cốt; Mộc trọng kim khinh, chủ tổn hại tiền tài hoặc đánh nhau mà phế tật, duy kim mộc thích hợp thì cát.
        Tượng thủy mộc tú mà thanh cao, không thể thấy Mão Tị, vì thủy tử tuyệt;
        Tượng mộc hỏa tú mà phong phú, không thể thấy kim, vì mộc bị khắc. Lưu niên mà gặp thì có họa.
        Tượng thủy hỏa thành Ký tế là rất tốt, hoặc là Vị tế cũng được, không thể thấy thổ, tính hỏa nhiều thì táo khô, thủy nhiều thì bệnh mắt. Hỏa sợ Tý thủy sợ bị tắm, nhập Dậu thì hỏa tử thủy tắm, chủ gian nan mà chết. Tuế vận giống vậy, tượng ngày kị ngày giờ.
        Tượng thủy thổ không thể thấy hỏa, thổ trọng thủy khinh, tú mà không thực; thủy trọng thổ khinh, lại có khoa danh.
        Tượng hỏa thổ không thể thấy thủy, hỏa hư thổ tụ không thành vật, nếu cùng thủy lưu thì chủ chìm không còn.
        Như Mậu Tý Mậu Ngọ Kỷ Sửu Kỷ Mùi, Đinh Tị Đinh Hợi Bính Thìn Bính Tuất. Bính Đinh cùng Mậu Kỷ kẹp nhau, chính là hỏa hư thổ tụ.
        Lý Cửu Vạn Mậu Tý Kỷ Sửu Mậu Ngọ Kỷ Mùi, Bính Thìn Đinh Tị Bính Tuất Đinh Hợi, đều là tượng hỏa thổ hỗn tạp, không thể vì liên châu là quý.
        Thời thượng ( trụ giờ) gặp Nhâm Quý thủy, là thổ trệ hỏa diệt, cả đời gặp trở ngại.
        Lại nói:
        Hỏa hỏa thấy thì thì ám, thổ thổ thấy hỏa thì hư.
        Thổ khinh hỏa trọng thì táo khô, là ngày Kỷ Mão thấy giờ Nhâm Dần vậy.
        Hỏa khinh thổ trọng không sáng, là ngày Đinh Dậu thấy giờ Mậu Thân vậy.
        Như Hàn Học sĩ: Mậu Tuất, Đinh Tị, Mậu Tuất, Đinh Tị, thành tượng hỏa thổ, lại là Phượng Hoàng can chi cách, cho nên quý.
        《 Kinh 》nói:
        Kim thủy đa thanh, kim thổ đa hậu, là tương sinh; Kim hỏa đa cương, kim mộc đa chính, là tương khắc. Hỏa thổ nhiều là hại, hỏa mộc nhiều là thông, hỏa thủy nhiều là mê muội; hỏa kim nhiều là cương trực. Mộc hỏa là văn chương tài hoa, mộc thủy là trong sạch; mộc kim là phương thẳng, mộc thổ là độc hại, thủy hỏa trí tuệ, thủy mộc là trí nhân, thủy kim là tú lệ, thủy thổ nặng đục, đều lấy ngũ hành mà suy.

        Phàm mệnh sợ cùng loại tương phá:
        Như Kỷ Mùi thấy Giáp Thìn, Giáp Thìn thấy Kỷ Sửu, Kỷ Sửu thấy Giáp Tuất, Giáp Tuất thấy Kỷ Mùi.
        Phàm ở đất tứ xung, nạp âm cùng loại, lần lượt đếm nghịch hai vị. Dần Thân Tị Hợi, Tý Ngọ Mão Dậu, cũng thủ lấy chỗ này, chủ cả đời không đủ, đa số không thành khí.
        《Đạo kinh 》nói: Tỉnh Lan hỗ phá, giống như có bác sĩ mà không có thuốc, gần giống như gặp Không vong, tuế vận cũng kị.

        Phàm mệnh, Chủ Bản gặp Tuế Vận, không thể gặp Tử địa. Như Bính Dần hỏa sợ Ất Mão thủy, Tân Tị kim sợ Đinh Dậu hỏa, Giáp Thân thủy sợ Kỷ Mão thổ, Mậu Thân thổ sợ Nhâm Ngọ mộc, Kỷ Hợi mộc sợ Giáp ý kim. Cùng đồng nghĩa với người sống sợ chết. Chủ Bản sinh tử giống như Đồ tắc bất kị.
        Phàm mệnh rất sợ Quỷ khắc mà tổ Quỷ là tối độc.
        Như loại Bính Tý thủy thấy Canh Tý thổ, Đinh Sửu thủy thấy Tân Sửu thổ.
        Trong tổ vào vị trí tương khắc, cho nên nói là tối độc.
        Có Quý trong mộ, như loại Nhâm Thìn thủy thấy Bính Thìn thổ, Bính Thìn thổ thấy Mậu Thìn mộc;
        Có Cách bích Quỷ ( kề Quỷ), như loại Canh Tý thổ thấy Quý Sửu mộc;
        Có Không vong Quỷ, như Giáp Tuất thấy Giáp Thân Ất Dậu, đều là có hại.
        Ở trong Quỷ mộ thì nhẹ có Tổ Quỷ, Cách Bích Quỷ nhẹ hơn mộ Quỷ, Không Quỷ nhẹ hơn Bích Quỷ.
        Nếu người mệnh mộc được tháng là hỏa, ngày giờ là kim, có hỏa khắc kim, kim không được hại mộc, là Ngự Quỷ vậy, quỷ không làm hại.
        Như người mệnh thủy, tứ trụ có hỏa thổ, thổ khắc thủy, hỏa lại sinh thổ, là trợ giúp Quỷ vậy, thì Quỷ càng hung.
        Can chi thông suốt, nạp âm là tối khẩn, Ngự Quỷ thì lúc lập thân là gian nan, còn trợ quỷ thì cốt nhục đa số phát sinh đấu phá.
        Nếu trong quỷ có quỷ, gọi là Quỷ Khiếu ( Quỷ gọi). Như người mệnh thổ sinh tháng mộc, có ngày giờ là kim, lấy mộc khắc thổ, kim khắc mộc, căn cơ xấu nhược thì hung, Chủ Bản mà cường kiện thì không kị.
        Như một mệnh: Kỷ Mùi, Ất Hợi, Bính Dần, Tân Mão, gặp tam hợp sinh, lại gặp Dần Mão là Kỷ nhập đất Quan, Bính và Tân hợp, là đại quý; là vì Kỷ âm thổ gặp Ất mộc là Quỷ, lại gặp Tân là quỷ của Ất mộc, biến Quan Dần Mão làm Quỷ của Kỷ thổ, ở vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi, là thông cho Quỷ khắc, phạm Quỷ Khiếu vậy, cho nên chủ chết hung.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #18
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        《 Kinh 》 viết:
        Trên ngũ hành thiết kị hạ tặc,
        Cả đời không đủ việc vòng quanh.
        Lại viết:
        Quỷ Khiếu phân minh cách cục ác,
        Lại thêm hình sát họa không sai.
        Dẫu có khiến tiền đồ phú quý,
        Định biết ngày sau ghét cảnh già.

        Phàm xem mệnh thủ Thai Sinh Vượng Khố là Tứ Quý, Tử Tuyệt Bệnh Bại là Tứ Kị, còn lại là Tứ Bình. Lấy can Thái tuế làm chủ, phối với ngũ hành, thủ vị trí Tứ Quý, Tứ Bình, Tứ Kị mà phân ra quý tiện, gặp quý nhiều thì quý, gặp kị nhiều là tiện. Trong Tứ Quý lại phân ra tứ vượng, khố là cao, Thai là thứ. Nếu Thai nhân mệnh gặp tháng ngày giờ có ba Quý, can đều có phụ trợ hoặc có Chính lộc, Chính Quan, Chính Ấn, là mệnh tam công vậy.
        Mang đúng Thiên Ất: Như người sinh Sửu Mùi, tháng ngày giờ được loại Giáp Mậu Canh;
        Mang gốc Lộc: Như người sinh Dần, tháng ngày giờ có Giáp, gọi là hội phúc hoặc là Thiên Ất Quý hợp coi trọng cả hai, cũng là mệnh tam công vậy.
        Ba quý hợp kèm theo trên dưới, hoặc có một Quan, một Ấn cùng một Chính Thiên Ất, hoặc là một vị gốc Lộc, hai ba vị hợp quý nhân, là mệnh quan Tể phụ vậy.
        Nếu ở trên ngày giờ gặp hai quý và kèm theo như ở trên thì cũng vậy.
        Nếu ở trên một vị gặp các thần Tai Sát, Địa Sát, Vong Kiếp, Dương Nhận, kiêm chủ nắm binh quyền, địa vị như Tư Mã Tiết Việt.
        Nếu sinh tháng Thai, trên tháng và ngày giờ gặp một quý khố Thai, lại kem theo chính Thiên Ất, trên dưới hợp hoặc Thiên Ất quý hợp gốc Lộc Chính Quan, Chính Ấn, nhưng gốc Lộc có khí, hoặc trên Quý nhân cũng mang trước ở can Lộc, cũng là mệnh Tể Phụ, Cửu Khanh vậy.
        Nếu tháng ở kị thần, mà ngày gặp quý, hoặc ngày ở kị thần, mà giờ gặp quý thì không hại, là chức đi hầu vua; nếu ngày giờ đều có quý, mà giờ gặp kị thần, chỗ này thường là người hay bị điều động tuyển chọn vậy.
        Tứ Kị là chủ bần tiện, cũng có khinh trọng, tử bại tuyệt là trọng, bệnh là khinh. Ở mổi ngũ hành có ba vị, như người Bính Đinh gặp Dần Ngọ Tuất thành hỏa là quý, cùng giống như có ba vị Tứ Quý. Duy có khuyết Thai một vị Quý, phúc là chủ quý, cũng giống như tứ quý.
        Dương Lộc quý ở Lâm quan, Âm Lộc quý ở đế vượng, nếu Dương Lộc gặp vượng, Âm Lộc gặp lâm quan, tuy là bản vị, nhưng phúc giảm nửa.
        Nếu vượng mà không có lộc, như Bính Dần gặp ngày giờ Mậu Ngọ, càng khắc bản mệnh, lại kèm theo hình sát, chủ ngu tiện dâm đãng. Có gặp 1,2 vị quý, lại thành hung sát, hình hại phá gặp càng nặng, cũng chủ không có lộc.
        Thẩm Chi nói: Ngũ hành lấy sinh vượng là vua, lâm quan là tướng, nếu nạp âm là mộc, tháng ngày giờ gặp hai vị Dần Mão, kim gặp Thân Dậu, thủy gặp Hợi Tý, hỏa gặp Tị Ngọ, thổ gặp Thìn Tuất Sửu Mùi, đều lấy quý luận.

        Phàm xem mệnh, phân ra ngũ hành sinh vượng tử tuyệt, như:
        Giáp Thân, Bính Dần, Kỷ Hợi, Tân Tị, Mậu Thân, đều là ngũ hành tự Trường Sinh. Không luận tứ thời, lý lẽ tách ra nhưng tự được sinh, bẩm tính nhân mệnh thông minh trí tuệ siêu quần, được quý thì từ tứ tiến lên. Được phú quý, cũng cầm hướng vinh cho nên mà được sinh vậy.
        Bính Tý, Mậu Ngọ, Tân Mão, Quý Dậu, Canh Tý, đều là ngũ hành tự Vượng. Không đợi tứ thời, mà vẫn có thể dẫn đến vượng, phúc lực phấn phát, không có cần so sánh qua lại.
        Quý Mùi, Nhâm Thìn, Bính Thìn, Giáp Tuất, Ất Sửu, đều là ngũ hành tự Mộ vậy. Chính là lúc quy căn phục mệnh, phàm chỗ ở khố tất vật muốn tụ thì khố đầy đủ, như Nhâm Thìn thủy, muốn được nhiều thủy tụ trở về, sau đó là vượng. Lại có kim lui tới tương sinh, nên được trọng quyền. Nếu thủy chế hỏa, hỏa chế kim, lại đến không trung, thì gọi là phụ Ấn không khởi, chủ bần tiện.
        Ất Mão, Đinh Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Tý, Kỷ Mão, chỗ này là ngũ hành tự Tử vậy. Sinh chính là nhọc, Tử chính là ngừng, lý là tự nhiên. Đất không có tửa, vật tự không có chỗ mà quay về, chỗ nói là tự tử , lý chỗ này là được chân quy. Phàm mệnh gặp chỗ này, là đặc biệt thông minh siêu quần, đa tuệ thì thiếu phúc, lấy thân thể yên tĩnh, mà có đầy bất lợi. Là lấy việc đạm bạc, mà dấy lên sự bất lợi, duy chỉ có thể học đạo mà gặp thần tiên, cửa đầu thai kiếp khác vậy.
        Quý Tị, Ất Hợi, Canh Thân, Nhâm Dần, Đinh Tị, chỗ này là ngũ hành tự Tuyệt vậy. Thiên đạo không có thể tuyệt chỗ này, can chi đã tuyệt thích hội thì lại sinh. Phàm gặp chỗ này, vui buồn không định, như Quý Tị là thủy tuyệt, được Quý Dậu vượng kim sinh phù. Là nói thủy tuyệt phùng sinh, càng là cát khánh.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #19
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Phàm mệnh kèm theo tử tuyệt, sinh vượng, khố mộ, thì không thể liền mang lấy mà nói, cần phải xem nguyệt lệnh để biện thanh trọc.

        Thanh, gọi là có chế phục, như thủy bệnh thấy thổ thì đục, lại không có thổ đê phòng thì không thể ngừng nghĩ. Đã ngừng nghĩ thì tức là dần dần có thanh vậy.
        Trọc, là nói không có chế phục, như thủy nhiều không có thổ thì chảy tràn lan không có chỗ quy về, mà thủy cực sinh mộc, cực thì biến, biến thì thông vậy.
        Bởi vì ngũ hành thường thay đổi mà thường không còn, ẩn là quý mà không quý là hiển, Tử tuyệt có cứu, thì gọi là Hoàn hồn, đa số là lấy quý luận; Sinh vượng có khắc, thì thành Tán khí, trái lại là chủ phúc ít. Nếu nó và ta cùng tương sinh, thuận thì có ích cho ta, nghịch thì đoạt khí. Nó cùng ta tương khắc, thuận thì thế cường, nghịch thì bị thương.

        《 Kinh 》nói: Lấy nhỏ phạm lớn, tự lấy hại; lấy nhược thắng cường, tự gây ra họa.
        Một thủy khắc ba hỏa, là lấy nhược thắng cường, lấy âm thắng dương, dù họa cũng không mạnh; lấy dương thắng âm, là hại không đậm. Hai dương chống nhau, hung họa rất tức thời; hai âm địch nhau, là chỗ không yên.
        Như Ất Tị hỏa khắc Nhâm Thân kim, là lấy âm thắng dương; Nhâm Thân kim khắc Kỷ Tị mộc, là lấy dương thắng âm, là âm dương hữu tình, cho nên không có hại lớn. Như Đinh Mão thấy Quý Dậu, là hai âm đối địch nhau; Mậu Ngọ thấy Giáp Tý, là hai dương chống nhau. Dương cương âm nhu tất thắng mà sau đó rước họa.
        《 Thái Ất 》nói: Mấu chốt của âm dương trời đất biến hóa, không phải là không lấy âm mời dương, dương mời âm, thì trời đất hợp chính, khí ngũ hành hòa hợp, chính là vì dương theo ở dương, âm theo ở âm. Thì âm dương thiên lệch, động tĩnh mất thứ tự, cho nên có hai đường họa phúc vậy. Đại để âm dương thiên lệch, tạo hóa không thành ngũ hành, như hỏa nhiều kim ít, tụ tán không thành hình được; hỏa ít kim nhiều, vừa không thể nung chảy, lại có họa dập tắt vậy, còn lại lấy ví dụ mà tự suy.

        Phàm xem mệnh, trước tiên luận ngũ hành, thể diện, thế cục, sau đó khảo sát hỷ kị, tốt xấu, vượng tướng, hưu tù.
        Như người mệnh kim được Canh Tân hoặc Thân Dậu gọi là Thể diện, được Tị Dậu Sửu tam hợp gọi là Thế cục, hỷ hỏa chế thổ phù, kị kim hàn thủy lạnh, sinh mùa thu tứ quý là vượng tướng, xuân hạ là hưu tù. Còn lại mộc hỏa thủy thổ tự lấy ví dụ mà suy.
        Người mệnh Kim gặp Canh Thân, Tân Dậu gọi là Ngũ Ly Sát, nếu sinh mùa thu, gặp thủy thì độc hóa kim, gọi là Kim bạch Thủy thanh; gặp hỏa thì chế cương kim ( cương kim là mài kim), là nung thành khí sắc bén; trụ không hỏa không thủy, thì gọi là Ngoan kim, chủ trước kia vì tửu sắc mà thân ốm bệnh chết; Nếu được ngày giờ là Mậu Dần, thì là xứ cương phùng sinh, chủ phú mà thọ.
        Người mệnh Mộc gặp thổ, thì gốc rể mượn để vui bồi; được thủy thì càng lá mượn mà rữa tắm; được kim, đẽo gọt mà thành vật dùng vậy. Mộc gặp Dần Mão, lại sinh ở mùa xuân, là rất tốt. Như có tam hợp hội đủ mộc cục, thì không cần sinh mùa xuân, đa số là chủ nhân thọ. Mộc gặp kim chế, có hỏa phục nung kim, thì thành cương nhu tương chế; nếu hỏa quá nhiều, thì thiêu cháy; kim quá nhiều, thì tổn hại; Thổ hư, thì không thể vun bồi; thủy phiếm lạm, thì không thể tư nhuận, kỳ diệu là ở trung hòa.
        Người mệnh Thủy lấy Hợi Tý là gốc, lấy Dần Mão Thìn Tị là nạp, can gốc từ Bắc, quay về hướng Đông, cho nên mệnh thủy hỷ gặp Đông phương, thì sóng ngừng sóng phẳng lặng; thủy dựa vào thổ làm đê phòng, nếu sinh Hợi Tý, thổ nhiều thì cát; đã ở Đông phương, gặp thổ cũng cát. Thổ không nên nhiều, lại có Quý nhân, Tài Lộc, thì quý; nếu ngày giờ gặp Canh Thân, Tân Dậu, thủy kị chảy về Tây, e sợ thọ không cao; sinh ở thu đông, sinh vượng thanh trong, lúc này Nhâm Quý mà gặp Hợi Tý, chủ có văn học; lại nạp âm là thủy, thì thủy thái quá, trụ không có thổ đê phòng, là đoán ít con, duy chỉ làm nghệ thuật hoặc đi tu là cát; lại trọng phùng Cách Giác, định chủ hình khắc. Tháng màu Xuân can khát mà khô, mùa hạ nước đục mà chảy tràn lan, trụ không có thủy trợ thì không quý.
        Hỏa cư ở Dần Mão, sinh ở mùa xuân, là mộc tú hỏa minh, vinh hoa phú quý; sinh ở mùa hạ thì thái viêm, trong trụ không có thủy, định là mệnh yểu, có thủy hơi quý; sinh ở mùa thu, hỏa tử kim thành, ẩn chiếu ánh sáng bên trong, ngày giờ là gặp vượng khí thì cát. Bởi vì thủy hỏa không sợ tử tuyệt, chỉ có không màng danh lợi; sinh ở mùa đông, trong trụ lại được hỏa trợ giúp, thì sương tuyết biến mất, núi sông ấm áp. Cổ nhân nói: Mùa Đông đáng yêu, mùa Hạ đáng sợ, là chỗ này vậy.
        Thổ gặp đủ tứ quý, là Thượng quý. Như nạp âm toàn là thổ, trong trụ lại được chữ Dần là Cấn sơn, cũng quý. Thổ có thể tải dày, sinh sôi vạn vật, kim mộc thủy hỏa đều không có thể thiếu, cho nên bốn hành này, tất cả đều dựa vào thổ vậy.
        Nói luận dụng ngũ hành, nhiều thì thái quá, ít thì bất cập. Khí, số, quá dư, không đủ, đều có thể dẫn đến hung; ức dương quy trung, mà sau đó nhận phúc. Công thành thì nên thoái tàng, tương lai là quý ở quang vinh.
        Ngũ hành bẩm vượng là nói thành công; vượng mà có thể ngưng nghĩ, thì nói là Thoái tàng. Ngũ hành ở đất quan đới, thai dưỡng, khí thiếu mà chưa đầy, thì nói là Tương Lai. Cho nên muốn Mẫu Tử tương sinh, thì lấy kỳ ích khí, thì có đạo vinh tiến chấn phát.
        Như không phải thời kỳ mộc, Suy thì cành thằng, Tử thì héo khô.
        Kim vượng thái quá thì động lấy nhiều hung.
        Viêm viêm thì quý ở tắt, không tắt thì có họa thiêu đốt.
        Thao thao thì quý ở ngừng lại, không ngừng lại thì có họa bởi đắm chìm.
        Hỏa hành đất Nam mà hóa nhiệt, nhiệt thịnh thì đốt cháy mãnh liệt mà hại vật, tới Dậu Hợi thì ngầm có hòa thuận, sau đó mà có thể sưởi ấm vạn vật.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #20
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Thủy hành đất Bắc mà hóa hàn, hàn thịnh thì quá lạnh mà giết chết vật, tới Mão Tị thì có thể thông dương khí, sau đó mà có thể sinh sôi vạn vật.
        Lại có sinh mà không sinh, vượng mà không vượng, chỗ này là hung trước cát vậy; có tử mà không tử, tuyệt mà không tuyệt, chỗ này là cát trước hung vậy.
        Như thủy thấy Mậu Thân thổ, chỗ này là sinh mà không sinh; thấy Canh Tý thổ, vượng mà không vượng, gặp chỗ này đa số thành mà lại bại, bởi vì hỷ mà lại lo.
        Như thủy thấy Quý Mão kim, chỗ này là tử mà không tử; thấy Tân Tị kim, chỗ này là tuyệt mà không tuyệt. Ngũ hành khí tận mà được dức của phụ mẫu, để sinh ích lợi thì khí lại sinh, gặp chỗ này thì trong nguy mà có phúc, cùng mà thông, khuất mà thân vậy.
        Sinh vượng quá quá thì trong phúc tàng họa, tử tuyệt thái quá, thì phúc không thể nắm.
        Nếu nói Tử tuyệt phùng Sinh, họa có thể biến mất, trước hết là hỏa thổ, sau đó là kim thủy. Hỏa tuyệt được thổ viết là Duệ ( Là hỏa lấy thổ Tử, hỏa tuyệt ở Hợi mà thấy Đinh Hợi thổ vậy ); Thổ tuyệt được kim là Tử mà không mất, viết Thọ ( là thổ tuyệt ở Tị mà được Tân Tị kim vậy ); Kim tuyệt được thủy, thể lại được tinh (Là Kim tuyệt ở Dần, được Giáp Dần thủy vậy ); Thủy tuyệt được mộc, hồn lại lên trời ( Là thủy tuyệt ở Tị, được Kỷ Tị mộc vậy ). Mộc tuyệt được hỏa, hỏa xuất ra mộc thành tro bụi, tro bay lửa tắt, cho nên chỉ thành hung ( Là Mộc tuyệt ở Thân, được Bính Thân hỏa vậy ) Xà Mã vô đảm có nghĩa là: Xà Mã là ở vị trí Tị Ngọ, mộc qua Tị Ngọ mà tử, mộc ở tạng thuộc gan, ở phủ thuộc mật, làm bằng chứng mộc tử là hung vậy.
        Kinh nói: Mệnh thổ gặp hỏa sinh mà dần dần có lợi; mệnh thủy được năm kim sinh là sống thọ; Kim nhiều cần hỏa hoặc tòng cách để thành danh, mộc trọng được kim uốn mà nhận sai khiến Khúc Trực, thủy lưu không ngừng thì cần thổ để giúp đỡ, hỏa thịnh không có chỗ dựa duy chỉ có thủy để giúp đỡ.
        Ngũ hành dụng đắc thích hợp, tuy là tương khắc mà thành phúc. Nếu dụng không thích hợp, tuy có tương sinh mà vẫn có họa.

        Phàm ngũ hành sợ thái quá ngang ngược, như Lộc nhiều thì bần, Mã nhiều thì bệnh, Ấn nhiều thì , Khố nhiều thì bế tắc, sinh vượng nhiều không có chỗ quy về, tử tuyệt nhiều thì không có phấn chấn.
        Ngũ hành không thể quá tổn thương, không thể quá thuần túy.
        Quý nhân Mã nhiều, thì thăng chức; thường nhân Mã nhiều thì bôn ba ngược xuôi.
        Muốn phá thì họa hại, muốn không thì không hết.
        Chỗ thích thì không thể hủy, chỗ sợ thì không thể vượng.
        Trước sợ sau thích thì phúc, trước thích sau lo thì họa.
        Hợp nhiều không phát mà đẹp, Học Đường nhiều thì không thành;
        Quý nhân nhiều thì hèn yếu mà không có lập chí, Lộc Mã quá hiển thì không thể lấy quý nhân luận;
        Quý nhân trong ngoài có đủ, thì không thể lấy thường nhân mà luận;
        Tứ trụ đều dương, khẩu ác mà tâm thiện; tứ trụ đều âm, là hung ngoan trầm độc.
        Củng nên là Củng Mã, củng Lộc, củng Quý, củng Phúc thần, không nên củng Hình, củng Họa, củng Tuế, củng Thời, âm dương quý ở hợp nhau, bệnh thương phải có khắc chế.

        Phàm mệnh, Bính Tân Nhâm Quý thấy Mậu Tuất, chính là Nhận Thương nắm đường gãy đổ.
        Nhâm Tý, Bính Ngọ, Bính Ngọ, Nhâm Tý, chủ yếu là thủy mộc, là âm dương thuần túy, vị trí còn lại không có trợ giúp, cũng hết sức coi trọng; hơn nữa khí tú quý thì dung nạp đại đức là không có gì sánh bằng, là trượng phu vậy.
        Ngày Mão Dậu là đất xuất nhập; cung Tý Ngọ, mới phân ra âm dương, gặp thì mệnh lui tới vô định, tuế vận cũng vậy.
        Tị Hợi là đất lưỡng cực, trời đất hòa giải; Dần Thân là phương tam đình, gửi bước qua lại, như người gặp, đa số là không chấp nhất.
        Sửu Mùi thì chậm chạp, Thìn Tuất thì nhanh chóng, phương gặp thì người nắm giữ quản lý, tính không thông biến. Thìn Tuất có khí, lại có thể kiến lập đại sự.
        Người Bính Tý tứ trụ có Nhâm Dần, là Nhâm vào nhà Bính thì phá, không tốt.
        Canh Tý thấy Canh Ngọ, là Ngũ Quỷ lâm môn;
        Mậu Dần thấy Giáp Dần, Giáp khắc Mậu, Mậu Dần theo thế khắc Giáp Dần, là can chi nạp âm trên dưới bất hòa. Ngoại trừ có Phúc thần, mới thành lực phúc.
        Quý Dậu thấy Mậu Dần, Mậu thổ khắc Quý thủy, lại khí kim hướng đất tuyệt, chỗ ở của Kiếp Sát Nguyên Thần. Ngoại trừ được trong nguyệt lệnh tú khí, mới có thể thành dụng, cũng xấu mà không tốt.
        Canh Ngọ, Đinh Dậu là hỗ vượng hỗ phá, là vượng bị phá vậy, không thể hoàn toàn là phúc lực.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Ngọc Tỉnh áo quyết
        By quangvinhn in forum Tử bình
        Trả lời: 16
        Bài mới: 20-08-17, 17:00
      2. Trả lời: 6
        Bài mới: 09-10-14, 13:54
      3. Hà tri quyết
        By thoitu in forum Nhân tướng học
        Trả lời: 0
        Bài mới: 03-05-12, 11:41
      4. Bài ca quyết đoán giờ sinh
        By thoitu in forum Tử vi
        Trả lời: 1
        Bài mới: 08-12-11, 01:26
      5. Trả lời: 0
        Bài mới: 15-02-11, 15:46

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •