Giải mã tiên tri ”Càn khôn vạn niên ca” của Thái Công: Khương Tử Nha

Tề Thái Công, tên thật là Khương Thượng (姜尚), tự là Tử Nha (子牙), nên thường được gọi là Khương Tử Nha (姜仔呀), là khai quốc công thần nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là vua khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Hoa.
Khương Tử Nha được biết đến như một vị tướng tài vĩ đại và là người góp phần lập lên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Hoa. Ông cũng là nhân vật đứng đầu trong tác phẩm tiểu thuyết kinh điển Trung Hoa “Phong Thần”
“Bài thơ tiên tri thế giới 10.000 năm” (tiếng Hán là “Càn Khôn Vạn Niên Ca”) được cho rằng được viết bởi Khương Tử Nha .


[IMG]http://www.tindachieu.com/news/wp-content/uploads/2012/04/2007_2_16_picture4-ss.jpg[/IMG]

Cho đến nay, lịch sử Trung Hoa từ thời cổ đại cho đến nhà Thanh (1644-1911 Sau Công Nguyên) được tiên đoán vắn tắt bởi Khương Tử Nha đã chính xác 100% đối với sự hình thành và tiêu vong của các triều đại. Phần cuối cùng trong bài thơ tiên tri của ông, về những sự kiện sau năm 1911, được tin là đã được chủ tâm thay đổi trật tự đúng của các câu. Người viết bài này chỉ có ý thử giải nghĩa phần cuối của bài thơ, lượng sức hạn hẹp, mong các cao nhân có kiến giải cao minh vui lòng chỉ giáo những chỗ chưa đúng.

“Càn Khôn Vạn Niên Ca” tiên đoán từ năm 950 trở về sau:

Kim trư thử Mộc vi Hoàng đế – Vị kinh thập tái tao canh dịch.
Trong tiếng Hoa, “Thử” “Mộc” kết hợp thành chữ “Sài”. Còn “Kim Trư” nghĩa là năm Heo Vàng, nghĩa là năm Hợi tốt đẹp. Sài Vinh trở thành vị vua tiếp theo trong năm Tân Hợi 951 vào cuối triều đại Ngũ Đại (907-960). Họ Sài như thế cai trị Trung Hoa trong gần 10 năm. Họ được coi là người có tài năng, mang ý định cải cách tổ chức hành chính nhằm giảm nhẹ gánh nặng cho những người nông dân. Thời kỳ cai trị này là thời kỳ chính quyền được tổ chức và hoạt động có hiệu quả khá tốt.

Tiếu lang tẩu xuất tại Kim hầu – Ổn ổn thanh bình truyện ki thế.
“Tiếu” và “Tẩu” tạo thành chữ “Triệu”. Trong năm Canh Thân (Kim Hầu – khỉ vàng) 960 nhân việc vua Sài Vinh đột ngột băng hà, con là Sài Tông Huấn mới lên ngôi, tướng quân Triệu Khuông Dận đã dùng vũ lực để cướp ngai vàng từ một đứa trẻ 7 tuổi. Vì vậy nhà Tống (960-1279) thành lập hưởng được cảnh thanh bình.

Nhất biện nhị hàng sự bất xảo – Khước bị Hồ nhân thông chiêm liễu.
Thủ đô triều Bắc Tống là Biện Kinh và thủ đô Nam Tống là Lâm An (tức Hàng Châu) trước khi người Mông Cổ từ biên giới phía Bắc xâm lược và cướp nước, lập ra nhà Nguyên.

Tam bách niên lai miên Mộc chung – Tam lư hải nội khứ tiềm tung.
Vào cuối cùng của 319 năm cai trị, vị Vua bé nhỏ cuối cùng của nhà Tống được một cận thần mang theo đã nhảy xuống biển tự vẫn, nhà Tống diệt vong. (Chữ “Tống” là chữ “Miên” ghép với chữ “Mộc”).

Nhất ngột vi quân bát thập tái – Hoài nam hốt kiến hồng quang khởi.
Chữ “Nguyên” là chữ “Nhất” và “Ngột”tạo thành. Câu này đề cập đến sự thành lập và diệt vong của triều Nguyên (1280-1368) trong 88 năm cho đến khi ông Chu Nguyên Chương (chu nghĩa là “Hồng”, màu đỏ) bắt đầu cuộc khởi nghĩa Hồng Cân (có nghĩa là khăn đỏ) đánh đuổi Mông Cổ.

Bát chích ngưu lai lực lượng đại - Nhật nguyệt đồng hành chiếu thiên hạ.
“Chu” tạo thành bởi chữ “Bát” và chữ “Ngưu” trong tiếng Hán. Chu Nguyên Chương có biệt danh là Hồng Vũ (nghĩa là “đại lực lượng”). Ông thiết lập nên nhà Minh, gồm “Nhật” ghép với “Nguyệt” nghĩa là Sáng tỏ.

Thổ hầu nhất ngột tự tiêu trừ – Tứ hải y quan tân thải họa.
Vào năm Mậu Thân (Thổ Hầu) 1368,( “Nhất” “Ngột” chính là chữ “Nguyên”) nhà Minh bắt đầu một thể chế mới sau khi nhà Nguyên diệt vong.

Tam bách niên lai sự bất thuận – Hổ đầu đái thổ hà tu vấn
Vào năm Mậu Dần (Hổ đầu đới Thổ) 1638, vua Sùng Trinh treo cổ tự sát vì không kham nổi đại sự.

Thập bát hài nhi khiêu xuất lai – Thương sinh phương đắc tô nguy khốn.
Quân Thanh kéo vào đại lục để đánh đuổi quân nổi loạn Lý Tự Thành và giải thoát người dân khỏi cơn nguy khốn, người Trung Quốc hưởng cảnh thái bình trong nhiều thế hệ. (Trong tiếng Hán, “Thập bát” và “Hài nhi” tạo thành chữ “Lý”).

Tương kế Xuân thu nhị bách dư - Ngũ hồ vân nhiễu hựu phong điên.
Sau triều Thanh (1644-1911), tồn tại hơn 200 năm, 5 tộc người ở Trung Quốc (Ngũ Hồ) bắt đầu rơi vào cảnh loạn lạc.
Chú thích của cá nhân người biên soạn bài viết này – Khi lịch sử TQ phát triển lên, hệ thống chính trị dân chủ thay thế cho hệ thống hoàng gia. Từ lúc đó, người ta phải chịu đựng những thế lực nắm quyền và cuộc xâm lăng của Nhật Bản, cũng như ĐCSTQ cầm quyền phi nhân bản và phá hoại nền văn hóa truyền thống và tiêu chuẩn đạo đức “Thiên, Địa, Quân, Thân, Sư”. Nói về “hỗn loạn”, điều đó có thể ám chỉ rằng các câu thơ trong đoạn cuối là không theo đúng thứ tự. Theo đó tôi cố gắng chỉnh lại cho đúng và tái sắp xếp chúng theo đúng thứ tự.

Na thời tẩu xuất thảo điền lai – Thủ chấp Kim long bộ ngọc giai.
“Tẩu”, “Thảo” và “Điền” tạo thành chữ “Hoàng” nghĩa là màu vàng. Nó đề cập đến thực tế là một người dân bình thường được chọn làm người đứng đầu một nước (tổng thống).

Thanh bình hải nội trung hoa định – Nam Bắc đồng quy nhất thống bài.
Nó gợi ý rằng nhà Thanh diệt vong thì Trung Hoa thái bình, giờ đây nắm quyền cả nước gồm người Hán ở phía Nam và người Mãn ở phía Bắc được thống nhất trong Dân chủ Cộng hòa Trung Hoa

Thử thời kiến quốc hựu nhất nhân – Quân chính thần hiền thùy phủ phất.
Trong tiếng Hán, “Hựu”, “Nhất, “Nhân” kết hợp tạo thành chữ “Văn”. Điều này đề cập đến việc Tôn Văn (Tôn Trung Sơn, hay Tôn Dật Tiên) thiết lập ra Dân chủ Cộng hòa Trung Hoa.

Bình định tứ hải tức can qua – Nhị bách niên lai vi xã tắc.
Thượng thiên an bài quốc gia trường cửu trong 200 năm. Tứ Hải được chinh phục, và quốc gia được hưởng thái bình thịnh vượng 200 năm.

Thùy tri bất hứa kiền khôn cửu – Nhất bách niên lai thiên thượng khẩu
Thiên thượng bảo rằng ĐCSTQ không được phép trường cửu, chỉ có thể tồn tại khoảng 100 năm thôi.

Vương thượng hữu nhân kê thượng hỏa – Nhất phiên cánh biến bất tu thuyết.
Từ 1911 đến 2012, Thiên thượng xem thường, nói về lịch sử của triều đại đỏ bẩn thỉu của Mao như là lông (đọc là “Mao”) như là một con gà đang quay trên lửa đỏ và bảo nó không xứng đáng được đề cập đến khi 100 năm đã qua đi.

Nhân đinh khẩu thủ Giang Nam địa - Kinh quốc trùng tân hựu nhất thiên.
Trong tiếng Hán, “Nhân” (một người) và “Khẩu” (miệng) tạo thành chữ “Thạch” (đá) và “Đại Khẩu” cũng có nghĩa là “một đất nước trống không”. Câu này hàm ý tiên đoán việc Tưởng Giới Thạch thủ giữ Nam Kinh, và đã bỏ chạy từ Nam Kinh của Giang Nam đến Đài Loan, thủ đô Trung Quốc một lần nữa lại phải dời chỗ.

Lưỡng phân cương giới các bảo thủ - Cánh đắc tương an nhất bách cửu.
2 biên bị chia cắt để cùng chung sống hòa bình: Quốc dân đảng ở Đài Loan và ĐCSTQ ở đại lục là bị chia cắt và trong một trăm năm (1911-2012) 2 đảng cùng tồn tại hòa bình trong khoảng 90 năm.

Nhị bách ngũ thập niên trung hảo – Giang Nam tẩu xuất chiêu đầu mão.
Trong khoảng giữa 250 năm, sẽ có một người con gái “Tốt”, từ Giang Nam có tên là “Kim” “Đao” “Mao”. Có thể trong năm 2036 một người phụ nữ họ “Lưu” (trong chữ Hán cấu thành bởi 3 chữ “Kim” “Đao” “Mao”) từ miền Nam sẽ đứng đầu quốc gia.

Đại hảo sơn hà hựu nhị phân – Hạnh bất toàn vong mạc hiềm tiểu.
Theo người viết bài thì một người phụ nữ sẽ nắm quyền đứng đầu quốc gia, TQ sẽ chia cắt lần nữa.

Lưỡng nhân tương hòa bách mang trung – Trì thế năng nhân nhất ㄙcung
[bất quá lưỡng ngạn tảo ứng hữu trì thế năng nhân ,「nhất ㄙcung 」tính ]

2 miền đến tình trạng tốt, nếu có một người đứng đầu tài giỏi bởi một người TQ tên là “xxx” (các kí tự TQ sẽ không trình bày ở đây).

Giang Nam giang Bắc các bình định – Nhất thống sơn hà tứ hải đồng.
Nam và Bắc nhất định hòa bình và TQ sẽ thống nhất.

Nhị bách niên lai vi chánh chủ – Nhất độ điên nguy hầu thượng thủy
Trong vòng 200 năm vị Chủ thật sự của Càn Khôn sẽ xuất hiện, vào năm 2012 Ông sẽ vang danh và trong năm Nhâm Thân 1992 (Hầu Thượng Thủy), Ông ra công chúng để cứu độ thế nhân trong thời khắc nguy khốn.

Biệt chi khai hoa quả nhi hồng – Phục thủ giang sơn như cựu hứa.
Nhánh “riêng biệt” cho hoa nở rộ sinh trái “hồng”, và theo như sự an bài từ trước nó phổ truyền rộng rãi khắp các thành phố. Chữ “Hồng” trong “Hồng âm”, ứng với chữ “Hoàng” nghĩa là vua, và ứng với màu Vàng kim. Thực sự màu của hoa đúng ra là “Vàng Kim”. Một phương pháp cổ xưa được giới thiệu như một cái tên để phù hợp thời gian hiện nay, được giới thiệu rộng rãi ra các thành phố.

Nhị bách niên lai suy khí vận – Nhâm quân bảo trọng thành hà tể.
Trong vòng 200 năm là thời đại khí vận của Trung Quốc suy yếu, mặc cho những kẻ đứng đầu quốc gia (“Quân”) ra sức bảo vệ. “Tể” thuộc bộ “thủy”, có nghĩa là Sông, đồng nghĩa với chữ “Giang”, cùng bộ với “Hồ”, và “Ôn” đều thuộc bộ “Thủy”. Đến 2012 tất cả họ cũng không thể thay đổi thiên mệnh được.

Thủy biên điền thượng mễ lang lai – Trực nhập Trường An gia chỉnh đốn.
Chỉ có những ai nằm trong dòng chảy của phương pháp cổ xưa (những người chân chính tu học) trong dạng thể của x(mễ)y(điền) có thể về trung tâm và chỉnh đốn lại hoàn toàn.

Mộc biên nhất Thỏ tẩu tương lai – Tự tại vi quân bất động thủ.
Một vị thầy sinh năm Tân Mão 1951 (Tân=Mộc=gỗ -> Mộc Thỏ=Tân Mão) sẽ là lãnh đạo tinh thần tương lai, không tham gia mà ung dung tự tại hướng dẫn.