Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 2/18 đầuđầu 123412 ... cuốicuối
    kết quả từ 11 tới 20 trên 177
      1. #11
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Lục Thân thuyết

        Can năm lộ Tài Quan, chủ tổ tông vinh hiển; Can tháng lộ Quan Sát, chủ huynh đệ suy bại.

        Lại viết: Trụ năm xem sự việc tổ tông có hưng thịnh hay suy bại, mà suy ra trụ tháng phụ mẫu để xác định sự tồn tại. Nhưng mà trụ năm thuộc cung tổ tông, nếu đến đất Tài Quan chính là tọa đất Lộc Mã, lý đương nhiên là vinh hiển. Nhưng nếu tọa Tỉ kiên, Kiếp tài, không có đất của Tài Quan chính là tọa đất Lộc Mã, lý đương nhiên là vinh hiển vậy . Nhưng theo Tỉ kiên lại cần cùng đón nhận đất của tổ tông, đến trụ tháng là hai cung huynh đệ cùng chỗ ở mà tham khảo xem thế nào. Nếu năm tháng không có Tài Quan, đều chủ căn gốc suy nhược, tay trắng mà thành lập gia đình, đơn độc nguyệt lệnh có Quan Sát nắm quyền, đều chủ làm tổn thương huynh đệ. Tuy có huynh đệ mà chủ nhiều việc cải nhau, đánh nhau, là sao vậy? Tỉ kiên chính là huynh đệ, là Thọ tinh, thấy mặt Quan Sát là khắc nhau, làm sao yên ổn được mà không gây tổn thương anh em chăng? Cho nên viết: “Quan Sát bài môn huynh thọ yểu, Sát Quan ti hộ đệ thành hành” ( Quan Sát bày ra ở mộ hộ, thì anh trai bị tổn thọ, Quan Sát nắm lệnh thì em thành đạt). Do đó, Nguyệt lệnh chính là Môn Hộ vậy, lại như Nhật chủ thông Nguyệt khí, Tỉ kiên vượng, chủ có phúc mà thành danh, lý lẽ tuy như vậy nhưng cần biết biến quý biến thông. Hoặc là nhật chủ tùy tiện có căn gốc nhiều, Tỉ kiên thái vượng, cũng chủ không tham gia vào nghề mua bán được, nguyên nhân là do Tỉ Kiếp nhiều thì là Kiếp tài vậy, lúc này lại hỉ có Quan Sát mà được huynh đệ vậy.

        Thiên Tài là cha, Tỉ Kiếp trọng nặng thì làm tổn hại đến cha;
        Chính Ấn là Mẹ, nếu vượng xứ thì tổn hại đến mẹ, lấy Quan Sát là Tử (sao con), Thương Quan, Thực thần nhiều thì làm tổn hại con cái. Nếu Quan Sát thái trọng, khắc chế Nhật chủ, bản thân sớm giúp đỡ con mà không đầy đủ, sao có thể yên ổn mà sinh con ư? Nhất định cần Thực Thần, Thương Quan,để chế khứ Quan Sát, thì mới có thể sinh con vậy. Nam mệnh như thế, nữ mệnh cũng vậy. Nếu Tài Quan vượng mà nhật chủ nhược, thì gia đình chồng hưng thịnh mà gia đình mẹ thì thất vọng, Tài Quan là cái vượng cho Phu vậy. Nhưng Tài có thể làm tổn hại mẹ, Quan có thể khắc huynh đệ, là chủ phần nhiều cha mẹ, anh em suy bại.

        Cô loan nói: Mộc hỏa Xà vô mị, là nói ngày Ất Tị vậy. Nhưng Ất Tị tọa dưới có Canh là Phu tinh (chồng), Đinh Tị hội ở dưới có Canh là Tài, có Tài thì có thể sinh Phu vậy, không thể nói là giúp chồng vậy. Nữ mệnh sinh hai ngày này, phần nhiều là chủ vượng Phu, vượng Tử vậy; kim Trư khởi hữu lang, Tân khắc tọa ở dưới có Chính Tài, Tài cũng có thể chủ Phu, sao lại nói là không có chồng ư? Thổ Hầu trường độc ngộ, chính là nói ngày Mậu Thân vậy, tọa ở dưới có Canh kim, là nói có thể khắc phu vậy. Mệnh sinh ngày Mậu Thân rất khắc phu vậy. Mộc Hổ định cư sương, tức là nói ngày Giáp Dần vậy, là Phu tinh tuyệt ở Dần vậy, là không thể sinh con vậy, lại hỉ Ấn tinh để tổn hại Tử tinh, nuôi dưỡng tinh khí mà mới có thể sinh con vậy.

        Như Thực thần, Thương quan ít mà lại sợ Ấn tinh vì có thể làm tổn hại Thực thần, Thương quan là con vậy. Như có đủ bốn chữ Thìn Tuất Sửu Mùi, chỗ này là thiên địa tọa ở bốn ngục tù vậy, thì làm sao yên ổn mà có thể sinh ư? Nếu chỉ phạm có hai chữ, cũng không sợ, nếu phu tinh, tử tinh nhập mộ, cũng khó thành chồng con vậy, chỗ này nam nữ hai mệnh đều không thể phạm. Thê tinh, Phu tinh, Tử tinh mà nói thì cũng chỉ xem ở bát tự, có bệnh có thể khứ bệnh, tùy theo mà có vợ, hay có chồng con vậy.

        Luận Lục thân chỉ là phép chết, giải thích xem thêm đoạn văn ở trên nói về Ngũ tinh mậu thuyết.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #12
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Bệnh Dược thuyết

        Tại sao gọi là Bệnh? Gốc là bát tự bên trong có thần khắc hại vậy;
        Tại sao gọi là Dược? Như bát tự gốc có chữ hại mà được một chữ dùng để khứ mất, như Chu Tử nói là do nguyên nhân Bệnh mà có Dược vậy.

        Cho nên Thư nói: " Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ; cách trung như khứ bệnh, tài lộc lưỡng tương tùy." (Có bệnh phương thành quý, không có tổn thương thì không phải là bình thường; trong cách nếu như khứ bệnh, Tài Lộc cả hai đều thuận tiện).

        Mệnh thư có hàng vạn quyển, thì sử dụng bốn tên này là quan trọng bao quát. Cái tạo hóa con người, tuy quý ở trung hòa, nếu đồng nhất ở trung hòa, thì được yên ổn mà tìm tòi kỳ tiêu tức, mà luận kỳ hung dữ vậy? Như hiện nay nói về đến con người có phú, có quý, nhất định trước tiên"Lao kỳ cân cốt, ngạ kỳ thể phu, không phạp kỳ thân, nhiên hậu động tâm nhẫn tính, tăng ích kỳ sở bất năng, " ( tức là: lao động vất vã, thân thể đói khát, bản thân không có sức lực, về sau dù có nhẫn nại, cũng không thể tăng thêm ích lợi), mệnh người thật là kỳ diệu, giống như việc này ư! Trước kia đã từng ngu dốt chưa am hiểu thuyết về Bệnh Dược, nhiều lần lấy trung hòa mà làm ra việc cứu người, 10 phần không có được 1,2 lần ứng nghiệm.

        Lại lấy Tài Quan luận, cũng đều không có hứng thú trở về. Về sau sớm ngộ được ý nghĩa về thuyết Bệnh Dược, tiếp tục lấy Tài Quan, tham khảo mà xem trung hòa, thì mới hiểu biết được 8,9 phần của tạo hóa, cho nên đúng là mầu nhiệm.

        Sao lại nói vậy? Giả như trong bát tự con người, có tứ trụ thuần thổ thủy, quy tắc là xem Nhật can có Sát nặng hay nhẹ, như nhật can là kim, thì là thổ dày mà chôn vùi kim, nhật can là hỏa thì là Tỉ kiên thái trọng, mà thổ nhiều thì cách thành Bệnh, đều hỉ có mộc làm thành Y Dược, lấy để khứ kỳ Bệnh vậy. Như dụng Tài mà thấy Tỉ kiên là Bệnh, hỉ thấy Quan Sát là Dược vậy. Như dụng Thực thần, Thương Quan, lấy Ấn là Bệnh, hỉ có Tài là Dược vậy. Hoặc bản thân Bệnh nặng mà được Dược nặng, lại vừa cần hành vận đến để lấy sự trung hòa. Nếu Bệnh mà có Dược, là người đại phú quý vậy.

        Cứu giúp nhân mệnh, tại sao lại đem dò xét kỳ huyền diệu? Như trong bát tự xem kỹ ở Nhật can, thứ xem kỹ Nguyệt lệnh, mà như trong Nguyệt lệnh bên trong vốn thuộc là hỏa, trước tiên bắt đầu xem trong nguyệt lệnh có một chữ hỏa, lại xem can năm có hỏa, lại xem tiếp can tháng, giờ có hỏa, cần phải đem tất cả ở trên kết thành một chỗ ở hỏa để xem là Bệnh, hoặc không phải bệnh; lại vừa phải xem địa chi tuy là tàng có vật khác mà không nhất định xem, nếu tiếp tục xem vật khác thì do hỗn tạp mà không rõ ràng, cho nên viết: Tòng trọng giả luận. Lý này là phương pháp xem kém cỏi, nếu lấy hỏa luận, lại vừa tiếp tục có năm là thủy kim xem thổ, thì không phải là không biết tầm quan trọng của mệnh lý?

        Nếu Tài Quan Ấn thụ có bệnh, thì Y Dược trị Tài Quan Ấn kéo dài vậy. Như thân chủ có bệnh, thì thầy thuốc sẽ chữa bệnh cho thân chủ vậy. Như bát tự đúng thuần mà không vượng không nhược, nguyên Tài Quan Ấn đều không bị tổn thương, khí nhật can lại được trung hòa, đều không có cần phải xem, việc này là người bình thường vậy. Nhưng thuyết Bệnh Dược, này là quan trọng bậc nhất, vì thế là phương pháp thích hợp không thể không tinh thông xem xét kỹ càng vậy, thuyết minh thấy rõ ở ứng nghiệm.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #13
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Điêu khô vượng nhược tứ bệnh thuyết loại

        Sao gọi là Điêu vậy?
        Giống như Ngọc tuy là báu vật, có nhiều cao quý là nhờ có công điêu khắc; cũng là vàng kim dù có ở hoàn toàn trong ngân khố, mà có cao quý là nhờ có lực để nung luyện. Nếu như Ngọc không được mài giũa, dù có nói núi đẹp cao nhất, thì cũng là viên ngọc vô dụng vậy; kim không nung luyện, dù có nói là rất mỹ lệ, thì cũng là kim vô dụng vậy, Bát tự con người, đại khái giống chỗ này. Như thấy Quan tinh không có Thương quan, thấy Tài tinh không có Tỉ Kiếp, thấy Ấn thụ không có Tài tinh, thấy Thực thần Thương quan nói không thấy Ấn thụ, chỗ này nếu thuần mà không tạp, không có cũng như không mài giũa ngọc, không nung luyện kim sao? Đại để giống như trời sinh ra con người vậy, mấu chốt là đầy đủ hay hư nhược, tăng hay giảm, không phải là không ở chỗ này. Như bốn mùa có sinh trường vậy, nhất định có Xuân Hạ ở đây; như bốn mùa có thu tàng vậy, tất nhiên có Thu Đông chỗ này. Lại như cái khung phong thủy, vẻ đẹp của Sa thủy huyệt, mà lai mạch lại cao quý có Phong Hạc nhất định quyết định chỗ này là tốt đẹp. Con người, lý lẻ tạo ra tốt xấu, thọ yểu, cũng nên coi trọng có thư thả phối hợp còn hay mất, lấy thủ dụng chỗ này. Vốn dĩ Bát tự có coi trọng chữ Điêu vậy.

        Sao gọi là Khô vậy?
        Gió, sương, cây cối, thời gian xuân tới đáng xem thế nào. Mầm gặp khô hạn, cơ hội gặp mưa thì khó ngăn chặn. Cho nên lông chim mạnh mẽ xung lên bầu trời. Quý không phải ở ba năm, âm thanh hùng vĩ kinh người, quý ở không rõ ba năm. Vốn dĩ thời gian rõ ràng. Dẫn thân mãi mãi ở sức nóng mãnh liệt quá thừa. Hòa mùa ấm áp, thường sau đó là thu vào ở mùa quá hàn lạnh. Cho nên tạo ra con người, là Quan quý có kết lại vậy, hành quan vượng địa, quý không thể nói. Tài quý có kết, hành đất Tài vượng, tài khó kể hết. Nhưng lại cần hỉ là có căn rễ ở mầm là trước tiên, đầy đủ mà theo sau là hoa, nhưng mà quý có đủ căn mà kết vậy, không quý có mầm mà kết vậy. Nếu tùy tiện Quan tinh vô căn, Quan tòng xuất ở đâu? Tài tinh vô căn, Tài tòng sinh ở đâu? Vốn dĩ Tài có Ấn thụ, quý có căn mà kết thành bệnh vậy. Có thể nếu vô căn, mà tự lo kết chỗ này, thì cũng không phải hĩ. Quý có căn mà kết thành bệnh vậy.

        Sao lại gọi là Vượng vậy?
        Hàng loạt hoa cỏ phát triển mạnh mẽ, đáng xem là chân mộc quang minh, vạn vật điêu tàn, có thể biết là chân kim túc sát, vốn dĩ đều đủ chất, đều có hình. Nếu mộc không phải mộc mà kim không phải kim, vượng không phải vượng và nhược không phải nhược, thì chất ngũ hành có thiếu vậy. Do đó, nghiên cứu nhập họa phúc cũng vậy chăng? Như con người dụng mộc xuất ra vậy, thì nên tụ hội, giúp cho tính mộc đang hỗn tạp. Như con người dụng hỏa vậy, thì cần phối hợp, giúp cho tính hỏa không mãnh liệt. Như Xuân đến vượng, thấy thủy nhiều thì thần càng mạnh thêm. Mùa Hạ hỏa viêm, thấy mộc nhiều càng sinh mãnh liệt. Bởi vì dẫn tới điểm khác biệt, do đó thì biết vượng, cần biết vượng ở đâu, nên hành Tỉ Kiếp động để khứ tài tinh; Ấn tinh quá vượng nên hành Tài tinh vận để phá Ấn; Nhật can quá vượng thì nên hành Quan Sát vận để chế nhật chủ. Một lý như vậy, trăm lý đều đúng. Nếu vượng nhược cùng tham gia, vì thế là thấp vậy. Vốn dĩ bát tự quý có vượng là bệnh vậy.

        Sao gọi là Nhược vậy?
        Ân huệ chưa đủ, thì tính vật là quấy rầy. Tinh khí không đầy đủ, thì thân thể trở thành gầy còm. Thiên căn nhẹ đỡ bệnh, Lục Dương nhược có thể nghe ư, nơi chỗ tháng có thể dò tìm, Lục Âm là nhược cùng cực vậy. Vốn dĩ Lục Dương nhược, cuối cùng không tới nhược, mà có 《 Lâm 》《 Thái 》 thể thừa. Lục âm nhược, cuối cùng không tới nhược, mà có 《 Độn 》《 Bỉ 》 thế mất. Do mệnh con người, nhược không nhược mà vượng không vượng, thì làm sao lấy liệt kê ra họa phúc đây? Nhưng dù có quý mẫu, thì vẫn sợ cực nhược vô căn, cho nên thủy tuy tới để thành cực nhược, nhưng bản thân có Canh kim là gốc thủy vậy. Hỏa tuy tới Hợi thành cực mẫu vậy, nhưng Hợi có mộc là gốc của hỏa vậy. Tạo ra con người, có Tài Quan Ấn thụ, quý có nhược vậy. Nếu không thì chỗ này có vượng. Như Quan tinh quá nhược, cần hành đất Quan vượng; Tài tinh quá nhược, cần hành đất Tài vượng; Nhật chủ quá nhược, cần hành đất thân vượng. Nhưng do sợ nhược là vô căn, chỗ này là căn rễ ở mầm là trước tiên vậy. Như mà có căn, thì Quan tinh tuy nhược mà không đến nỗi vượng, Tài tinh tuy nhược mà không đến nỗi cường. Vốn dĩ bát tự quý có nhược là bệnh vậy
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #14
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Tổn, ích, sinh, trưởng, tứ dược thuyết loại

        Sao gọi là Tổn?

        Tổn là làm giảm đi kỳ có dư vậy. Như mộc sinh trưởng ở cung Chấn, khí chính mộc Đương quyền vậy. Kim sinh sản cạnh tranh cung, chính Kim thần là nơi Đắc vị.
        Đương quyền thì không cần có sinh trợ, Đắc vị thì nhất định phải sinh phù.
        Giả như thủy lại sinh thổ, thổ lại bồi cho kim, nếu mộc có dư là Bệnh, dụng kim để chế; khí kim có dư là Bệnh, dụng hỏa để khắc. Khí Quan tinh có dư, thì cần giảm đi kỳ Quan tinh; khí Tài tinh có dư, thì cần làm giảm đi kỳ Tài tinh. Giống như Bức tường thành gia tộc cuả nhân thân gốc thái vượng, đương nhiên lấy thuốc mát làm Dược để thông mà cứu giúp vậy.
        Bát tự quý ở dùng Dược để làm giảm bớt cái dư vậy.


        Sao gọi là Ích?

        Ích là làm tăng thêm cái chưa đủ ( bất cập). Như nói mộc tử ở Ngọ, như thủy tử ở Mão vậy. Không đủ thì cần sinh trợ, giống như mộc khí có gốc suy, lại có Canh Tân đến khắc mộc vậy; thủy khí có gốc suy, lại có Mậu Kỷ thổ đến khắc thủy vậy, thì thủy và mộc không đủ chính là Bệnh.
        Lý lẽ Ích là làm sao đây? Như mộc không đủ, có thể gặp hành thủy vận để lấy sinh cho là căn bản. Hoặc hành mộc vận lấy cho cành lá được tươi tốt. Như thủy không đủ, hoặc là hành kim vận để đào sâu mà lưu thông nguồn nước, hoặc hành thủy vận để nguồn nước dâng trào. Như cung sao khí chưa đủ thì hỉ đất Quan vượng; khí Tài tinh chưa đủ thì hỉ hành Tài vượng địa. Thí như khí huyết thân thể chưa đủ thì dụng ôn dược giúp đỡ để bổ túc vậy. Bát tự quý ở có Dược làm bổ ích vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #15
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Sao gọi là Sinh vậy?

        Lục Dương ở chỗ sinh, chân thực là sinh. Như Giáp mộc sinh ở Hợi, trong Hợi có Nhâm thủy, đến sinh cho Giáp mộc.
        Lục âm ở chỗ sinh, đều là nhược, như Ất mộc sinh ở Ngọ vậy, trong Ngọ có Đinh hỏa tiết mộc làm tinh hoa, có Kỷ thổ làm cho Ất mộc ngăn cản mà khuất phục.
        Lại như Lục Âm tử ở nơi sinh, như Ất mộc tử ở Hợi, Hợi có Nhâm thủy, trái lại đến sinh cho mộc vậy. Lục Dương tử ở nơi tử là chân tử, như Giáp mộc tử ở Ngọ, mà Ngọ trong có Đinh hỏa, tiết mộc là chân thực, Kỷ thổ là bị ngăn cản mà khuất phục. Mà như cái lý lẽ sinh, hình khí mới phân chia, trẻ sơ sinh chưa xa rời khỏi chăn mền, tinh hoa ban đầu bị rời lẻ, như đứa trẻ con ban đầu mới thoát khỏi bào thai. Như mộc sinh ở Hợi, căn khí vẫn còn kết cánh vậy, chưa có thể lấy mộc làm vượng vậy. Như hỏa sinh ở Dần, ngọn lửa vẫn còn bị hàn lạnh vậy, chưa có thể lấy hỏa vượng vậy. Lại như Tài Quan Ấn lâm ở sinh địa, chưa có thể lấy Tài Quan Ấn là vượng vậy. Phàm khí bất túc ( chưa đủ), cho nên quý ở nhờ Dược giúp mà có sinh trưởng vậy.

        Sao gọi là Trưởng vậy?

        Mùa Xuân Tầm làm kén, nói là phương của mộc khí.
        Mùa Hạ nóng thành lò lửa, làm nổi bật ánh sáng quá nóng.
        Như mộc đến ở cung Chấn, hỏa đến cung Ly. Giống như đất của Đế vượng, thực tế không giống như ở vị trí sinh trưởng. Vốn là lấy sinh là đầu của trưởng, trưởng là kế tiếp theo sinh. Như Tài Quan thuộc mộc, thì trưởng nuôi dưỡng ở phương Dần Mão Thìn, nói là phương của mộc khí vậy. Như thế thì cao quý ở hành kim vận để khắc thì cùng với mộc ở cung trường sinh thì lý không như nhau. Như Tài Quan thuộc hỏa, hỏa thì nuôi dưỡng lâu dài ở phương Tị Ngọ Mùi, khí hỏa này là phương lửa rực cháy. Thích hợp thì quý hành thủy vận để khắc thì cùng với hỏa ở cung Trường sinh là lý lẽ bất đồng vậy. Đến lấy hai chữ sinh trưởng, suy vượng là bất đồng, cho nên vận hành có hỉ sinh hỉ khắc là khác nhau. Bát tự quý ở có Dược làm cho tăng trưởng vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #16
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính Quan cách

        Nam viết: Chính Quan, tại sao lại nói vậy?

        Lấy dương thấy âm, âm thấy dương, cho nên viết Nhất Ấm Nhất Dương gọi là đạo, như con người có một chồng một vợ, là có phối hợp đối xử vậy.

        Sao lại gọi là Quan? Quan là báo đáp vậy. Như con người ở chỗ này, nhất định cần có Quan quản lý, sau đó theo quy tắc khuôn phép qui định, ở con người là Nghĩa, không dám buông thả mà vượt qua thành phạm pháp, cho nên là chế ta cung thân chủ vậy. Nhưng nguyệt lệnh đề cương có Quan, như bản thân ta dựa vào phủ Thái thú bản quan Huyện lệnh vậy. Nhưng cần chịu phục tùng sự quản lý, thì có thể khởi dụng. Cho nên phàm nguyệt thượng Quan tinh, lý không có thế dụng Quan, như thế mang đến thủ dụng? nhưng có thể chỉ có một điểm Quan tinh, nhật chủ lại vượng, thì Quan tinh khinh mà nhật chủ suy yếu, vận hành Quan vượng là tốt nhất. Ví như phủ Quan Huyện, là chủ của Ta vậy. Kim chủ Nhân yếu vậy. Nên lấy Tài sinh, hành Quan vận để trợ giúp. Nếu hành Ấn vận, thì lại bị tiết nhược khí Quan tinh. Như Quan tinh phạm nặng, nhật chủ căn nhược, là khắc chế nhật can quá nặng, thì không viết Quan tinh, mà viết Thất Sát vậy. Thất Sát khắc thân, thì Thương quan Thực thần, lấy chế Quan Sát vậy. Đại để dụng nguyệt thượng Quan tinh, cần Quan vượng, Quan vượng thủ dụng mới tốt. cần Quan tinh có bệnh, đều là do bệnh và dược, Quan vượng Quan nhiều, hỉ Thực thần để chế khứ, Quan tinh khí nhược, hỉ Tài thần để sinh, vận Quan vượng để trợ giúp. Nếu Nhật can và Quan tinh cả hai được thuần hòa không có bệnh, đều là người bình thường vậy. Nếu Tuế Nhật Thời thượng là hư Quan, dụng 10 thì có 9 là quý. Nhưng Quan là gốc phù thân, phu nhân không có Quan, thì vượt quá ở ngoài phép tắc, cho nên Quan tinh không nên phá tổn, mà cũng không thể dụng vậy. Duy chỉ có Quan tinh quá nhược hay quá vượng, mới là có bệnh, là do bệnh và dược, vì thế có thể lấy làm dụng thần mà luận họa phúc vậy.

        《 Kế Thiện Thiên 》nói: Hữu Quan hữu Ấn vô phá, tác Lang Miếu chi tài.

        Nam viết: Trước thời hiện đại, nói có Quan có Ấn, là chỗ tạp khí tàng chứa Quan Ấn vậy, là khiên cưỡng không thể theo.
        Hoặc viết: Có Quan có Ấn, mà nói trong mệnh con người có Quan Tinh Ấn thụ song toàn giả, lại không có vật hình xung phá hại, vật phá thương Quan Ấn quý khí, thì Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân, thì người đó nhất định là hiền tài ở Lang Miếu đại tài. Thuyết này cũng không thể nghe theo. Ất sinh tháng Tân, Đinh sinh tháng Hợi, Kỷ sinh tháng Dần, Tân Quý sinh tháng Tị, đều là Quan Ấn lưỡng toàn, sao nhất định đều ở tạp khí lưỡng toàn ư? Huống chi tạp khí hỉ xung phá, nói không có thể xung chăng?

        Cổ ca nói:
        Chính khí quan tinh nguyệt thượng thôi,
        Vô trùng vô phá thủy vi kỳ.
        Trung niên tuế vận lai tương trợ,
        Tương tương công hầu tổng khả vi.

        Chính khí Quan tinh suy nguyệt thượng,
        Không xung không phá mới thành kỳ,
        Trung niên tuế vận đến tương trợ,
        Lấy tướng công hầu có thể thành.

        Bổ túc: Chính khí Quan tinh, nói là dương thấy âm, âm thấy dương, như ngày Lục Giáp sinh tháng Dậu, ngày Lục Ất sinh tháng Thân Tị, ngày Lục Bính sinh tháng Tý, ngày Lục Đinh sinh tháng Hợi các loại, chính là tháng Chính Quan vậy. Trong trụ không xung hình phá hại, thì công danh hiển đạt, mới là đặc biệt, đoạn văn ở dưới nói: "Đăng khoa giáp đệ, quan tinh lâm vô phá chi cung" là vậy. Trung niên Tuế Vận gặp Tài tinh, Ấn thụ, trợ giúp thân vượng. Lại không có hình thương Sát tạp, thì có thể bước lên Thai Các.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #17
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Cổ ca nói:
        "Quan ấn tương sinh lâm tuế vận,
        Ngọc đường kim mã tác triêu thần"

        Quan Ấn tương sinh Tuế vận đến,
        Ngọc đường Kim Mã làm triều thần.

        Vốn là vậy.

        Ti Mã Quý chủ nói: Thời ngộ chân quan, tảo đăng kim tử chi phong. ( Mùa gặp chân Quan, sớm bước lên điện vàng)

        Bổ túc: Giờ gặp chân Quan là nói ngôi Quan tinh chân chính, gặp ở mùa sinh, là đúng.
        《 Uyên Nguyên 》chỗ nói mùa thổ vốn là Chính Quan cách vậy, nhất định sớm được địa vị là quan cao. Giải thích thời là lấy thời nguyệt lệnh, không phải thời là giờ sinh. Lại ở thời Chính Quan cách, loại ra mà khứ mất, thì không phải vậy. Như lấy chỗ này gặp thời là thời nguyệt lệnh, thì 《 Hỉ Kỵ Thiên 》nói: "Thiên quan thì ngộ, tạo vi luận chi thì", gặp Quan tinh ở ngôi sinh vượng, cũng có thể nói thời lệnh ư? Là khiên cưỡng không thể nghe theo.

        Cường Đô Hiến tạo: Tân Mùi, Ất Mùi, Đinh Mùi, Tân Hợi.
        Hợi trong có Nhâm thủy, Đinh hỏa được Chính Quan, thì gặp chân Quan là chủ giờ vậy, có chắc chắn vậy.

        《 Thông Minh phú 》nói: Lộc đắc thiên thì, kỳ hoa sinh vu kim đái.

        Bổ túc: Lộc đắc thiên thời chính là can giờ được Chính Quan, mà lại thấy nói đến Lộc, nhất định có Hoa kim đái mà vinh quý. Cùng đoạn văn ở trên là thống nhất mà có hơi khác chút ít. Giải thích nói lộc mã là Quan, thì nói là Thiên thời tức là can, thì không thực tế gần gũi. Viết thiên hạ, thì năm tháng cũng ở trong vậy, ở can can thời thì ẩn mà tối vậy.

        Đô Ngự Sử tạo: Quý Mùi, Ất Mão, Bính Tý, Quý Tị.
        Tạo này can giờ, lấy Quý thủy là Quan, mà thấy Lộc ở Tý, Quan Ấn tương sinh, thì thiên thời là can giờ, không thể phiếm ngôn mà nói thiên can cũng rõ ràng vậy.

        Giáp Ngọ, Đinh Sửu, Nhâm Thìn, Ất Tị.
        Nghi hoàng huyền lưu cảnh bát công phú mệnh, sinh hoạt ở Tị cách.

        Nam viết:
        Nhâm sinh sửu nhật thủy nguyên thâm,
        Điệp điệp tài quan cộng củng lâm.
        Thủy nhập tốn quan tầm quý cách,
        Đào Chu chi phú dị hồ nhân.

        Nhâm thủy sinh đến tháng Sửu, thủy ở căn nguyên, tứ trụ có Tài Quan Thất Sát thái vượng, tạo này vốn khó nghiên cứu. Cái được giờ Tị, thủy nhập Tốn cung, hợp khởi kim cục, cái Nhâm thủy có thể sinh Giáp Ất mộc vậy. Giáp Ất mộc không sinh Bính Đinh hỏa vậy. Mà lại tứ trụ thuần túy, cùng không có gián cách, trên dưới trợ thân, chính là lấy không sinh sôi Tị cách để xem. Do đó hành Đông Nam Tây Bắc đều tốt, nên là đệ nhất phú nhân của một thành phố vậy. Thọ cao Ngũ Phúc, được thời thượng có Canh kim Ấn tinh vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #18
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Quý Mão, Giáp Tý, Ất Tị, Quý Mùi.
        Nữ, Khắc chế Khắc tinh cách.

        Nam viết:
        Ất Mùi phùng canh tiện tác phu,
        Thương canh bính hỏa khí doanh dư.
        Hỏa thần vị thượng trọng tương kiến,
        Kiến hỏa thương canh thọ tất tồ.

        Ất mộc sinh ở tháng Tý, dụng Tị trong có Canh kim là phu tinh, thì Phu tinh được trường sinh ở Tị vậy. Do đó, giàu có vượt qua từng giai đoạn, gốc nhật chủ không nhược, có thể đảm nhận Phu tinh. Không hợp gặp vào vận Bính Dần, Phu tinh bị khắc chế quá nặng, tai họa do bệnh đau mà chết, là rõ ràng vậy.

        Tân Sửu, Ất Mùi, Mậu Tuất, Canh Thân.
        Nữ mệnh, bần mà yểu, kiến phu thụ chế cách.

        Nam viết:
        Phu tinh Tử túc lưỡng tinh kỳ,
        Tối thị khoa miêu thực bất thành.
        Khô mộc bất kham kim quá khắc,
        Tảo hành kim vận thọ tiên khuynh.

        Mậu sinh tháng Mùi, Ất mộc Phu tinh thấu xuất, thông tục nhà nho suy ra là Phu minh Tử tú, không biết là Ất mộc bị kim phá. Mùi có Ất mộc, bị Sửu có Tân kim phá, Phu tinh bị chế quá mức, tuy có Canh kim Tử tinh, Phu tinh đã chế, Tử sao mà có thể yên ổn để sinh chăng? Đại vận nhập Dậu, Ất mộc tổn thương nặng, tự vận mà chết vậy.

        Nhâm Tuất, Tân Hợi, Giáp Tý, Bính Dần.
        Quý mà sớm co đơn, kim khinh hỏa trọng.

        Nam viết:
        Phu minh Tử thấu thấu thiên can,
        Vận nhập tây phương phúc tự hoàn.
        Tối hận Nam phương kim thụ chế,
        Bất kham kính phá vũ cô loan.

        Giáp mộc sinh tháng Hợi, Phu Tử tinh thấu thiên can, nhật chủ có căn, hoan hỉ mà gánh vác vậy. Nói sao mà Phu tinh hơi nhược, vận nhập Tây phương tinh đết sinh vượng, Phu đăng khoa giáp, làm quan tới Ngự Sử. Vận nhập Nam phương, hỏa chế Tân Phu thái quá, nhập Mùi vận Phu chết mà ở góa vậy. Bính Ngọ, hỏa khí quá nặng, mang bệnh tật mà chết.

        Đinh Tị, Mậu Thân, Đinh Tị, Ất Tị.
        Nữ mệnh yểu, Quan khinh chế trọng.

        Nam viết:
        Đinh phùng mậu thổ thái trọng trọng,
        Nhâm thủy trọng tao khắc chế hung.
        Mậu vận bất nghi trọng kiến thổ,
        Trung gian tảo dĩ thất hành tung.

        Đinh hỏa, lấy Nhâm thủy là Phu vậy. Phu ở đâu mà Mậu thổ có 4 vị là nặng, khắc chế thái quá, tuy có Tị có Canh kim, cũng không thể sinh, đại vận nhập Tuất, lại thấy Mậu thổ, một thủy như cái muỗng nước, sao có công mà thắng cả quần thổ ư? Bệnh tật tê liệt mà chết, là do Đinh hỏa nhật chủ thân suy, thấy thổ tiết nhược hết tinh khí vậy.

        Đinh Dậu, Nhâm Dần, Tân Tị, Bính Thân.
        Nữ quý mệnh, khứ lưu Quan cách.

        Nam viết:
        Sát tinh đắc chế độc lưu Quan,
        Quan Sát tương đình lưỡng đắc an.
        Tối hỉ Nam phương quan vượng dã,
        Thời sư mạc tác đẳng nhàn khán.

        Tân kim sinh ở tháng Dần, vốn sợ Đinh hỏa là Sát, được Đinh Nhâm hợp hóa. Lại sợ Bính hỏa Quan tinh thái trọng, hỉ có Thân được Nhâm thủy, xung khứ thời thượng Bính hỏa, độc nhất tồn lại ngày Tị có Bính hỏa là Phu tinh. Gốc Phu tinh khí nhược, hỉ hành Giáp Ất Bính Đinh đất vượng phu. Phu làm quan Liêm Sứ, nên là quý vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #19
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Giáp Thìn, Giáp Tuất, Quý Mùi, Nhâm Tuất.
        Nữ cô đơn mà yểu, là thổ trọng mộc khinh cách.

        Nam viết:
        Quý sinh tuất nguyệt thổ trọng trọng,
        Giáp chế kiền đầu phản hữu công.
        Đại vận bất nghi trọng kiến thổ,
        Tái hành thổ vận thọ niên chung.

        Quý thủy sinh tháng Tuất, Phu ở đâu năm tháng ngày giờ đều có thổ vượng, thủy cường tiến khí, cũng không thể thắng quần thổ vậy. Sớm hành đất Nhâm Quý, thủy sinh mộc vượng khắc thổ. Mẫu phu gia đinh giàu có, nhưng tứ khố quá nhiều, sinh con bất lương. Vận nhập chữ Mùi, thổ thần quá trọng, nôn máu mà chết.

        Bính Ngọ, Tân Sửu, Giáp Tuất, Kỷ Tị.

        Nam viết:
        Giáp mộc phùng tân bản tác phu,
        Canh tân phu vượng mộc thần kết.
        Khởi nghi tái nhập tây phương vận,
        Cô khổ bần hàn thọ tảo tồ.

        Nhật chủ Giáp Tuất, tứ trụ Quan Sát quá thịnh. Vốn là lấy Quan tinh làm phu vậy, Phu tinh thái vượng, biến thành Sát khắc thân vậy. Vận nhập Tây phương, gặp lại Quan Sát, dâm tiện mà khắc chết phu, là do bản thân vậy, mà theo người vậy. Vận nhập Thân vận, Sát trọng mà chết. Đời người buộc vào không biết, lấy sai lầm là do Bát Bại mà trách là không tốt, riêng không hiểu vốn đúng là không tốt vậy.

        Quý Sửu, Kỷ Mùi, Mậu Thìn, Canh Thân.
        Nữ mệnh bần yểu, nói là khinh chế trọng.

        Nam viết:
        Mậu thổ phân minh lại mộc phù,
        Mộc tinh nhập khố lưỡng mô hồ.
        Bất kham tái nhập tây phương vận,
        Bần yêu ứng tri phú bẩm khô.

        Mậu thổ sinh tháng Mùi, phu tinh nhập mộ, lại thêm chữ Sửu xung, Thìn trong tuy cũng có Ất mộc, Canh Thân kim gần kề khắc mộc, thì làm sao mà tốt được? Vận nhập Tây phương, là bần nữ, phu xuất ra đi xa, nhập Dậu hội kim, tổn thương Ất mộc phu tinh uống thuốc mà chết, là thích hợp vậy.

        Canh Ngọ, Mậu Dần, Kỷ Dậu, Giáp Tý.
        Trước phú sau cô bần, phu nhược bị chế cách.

        Nam viết:
        Kỷ sinh dần nguyệt chính sơ tuần,
        Mộc nộn phùng kim thái tổn thần.
        Vận tảo bắc phương phu tử tú,
        Tây phương vận nhập thụ cô bần.

        Kỷ sinh tháng Dần, Giáp mộc phu tinh đắc lộc, sao mà không tốt vậy? Phu ở đâu sinh ở sau Lập Xuân 1, 2 ngày, Giáp mộc còn non nhu nhược, niên thượng Canh kim lộ xuất, Dậu trong lại có Tân kim, là mộc cực suy vậy. Sớm hành Bính Tý, Ất Hợi, Giáp vận, suy phu được sinh. Vượng Phu sinh Tử, phú đầy đủ kim châu. Vừa vào Tây phương vận, Phu tinh thụ chế, Phu Tử đều chết, mà cô bần vậy.

        Đinh Tị, Đinh Mùi, Ất Mùi, Canh Thìn.
        Mệnh vợ quan Bố Chính, là hỏa trọng kim khinh.

        Nam viết:
        Ất phùng canh vượng vượng phu tinh,
        Hỏa trọng thương kim lý tự minh.
        Tự tín trụ trung phu tử tú,
        Trọng trọng phong tặng khởi thường nhân.

        Ất mộc sinh tháng Mùi, Phu Tử lưỡng tinh rõ thấu. Lại nhật chủ có căn, thì Phu Tử lưỡng tinh có thể đảm nhận vậy. Vận nhập Tây phương, tướng Phu tướng Tử, đều bước lên đường mâyộ. Vận nhập Bắc phương, thấy thủy phá hỏa tồn phu, hưởng thụ bao phong, là lẽ đương nhiên vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #20
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Thời thượng nhất vị quý cách

        Nam viết: Thời thượng nhất vị cách, là lấy trụ giờ có một điểm Sát tinh. Nếu nhật can sinh vượng, thời thượng ( lộ trên can giờ) có Sát, thì dụng là thời thượng có một chức vụ quý. Nếu thân vượng Sát suy, hỉ Sát vượng vận, phú quý nhiều con, Sát chính là Tử tinh vậy, thân vượng có thể đảm nhận con vậy, nếu nhật can nhược, thời thượng có Sát vượng, sợ hành Sát vượng cùng Tài vận, chính là nói thời phùng Thất Sát cản trở thân suy, thì chủ bần tiện mà không có con. Sát có thể khắc thân, không thể sinh con, chính là nói thời phùng Thất Sát là gốc không có con cái. Nếu thời thượng có Sát, cũng cần trước tiên là bố trí Sát tinh, hoặc là chế khứ, hoặc là hợp khứ, phương có thể dụng nguyệt thượng là Dụng thần. Như chưa từng khắc chế Sát này thì buộc lấy thời thượng Sát làm dụng thần, nguyệt thượng tuy có Ấn tinh Tài tinh cũng không thể dùng. Cho nên cách cách nên nói rõ kỹ càng, lấy Sát làm trọng. Người xưa lập ngôn, thuyết không nói rõ ràng.

        Bổ sung: Thời thượng là Quan, tức là thời thượng có một địa vị là quý cách vậy. Như dương thấy can dương, âm thấy can âm, vốn là tương khắc vậy. Thấu xuất là tốt, chỉ có định một địa vị, tứ trụ không có chấp nhận gặp lại. Nếu trụ năm, tháng, ngày lại có nữa thì mệnh sẽ nhận lấy cả đời lao khổ cùng cực vậy. Bản thân cần phải tự vượng như Giáp Dần, tự sinh như Giáp Tý các loại, lại cần có chế phục, có chế thì là Thiên Quan, không có chế thì là Thất Sát. Lại cần có chế phục được trung hòa, một vị Thất Sát, thì không nên có 2-3 vị chế phục, gọi là thái quá. Tuy có học vấn, mà đường làm quan không có vinh hiển, chính là một lão nho bần hàn.

        Do đó 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: "Thiên quan thì ngộ, chế thượng phục thái quá, nãi thị bần nho." Tứ trụ chế phục nhiều, cần có hành Thất Sát vượng vận, hoặc tam hợp đắc địa, có thể phát. Nếu gốc không có chế phục, cần có hành chế phục vận, có thể phát. Như gặp Sát vượng, không có chế thì họa phát sinh. Nguyên tắc Thiên Quan là nhân tính thì nặng kiên cường, cố chấp không khuất phục, kiêu ngạo, tự kỉ, dũng khí, hào hùng. Tháng Thiên Quan cũng vậy.

        Lại bổ sung: Thực thần chế Sát, hóa Quỷ làm Quan, người thích hợp là quyền quý. Cái gọi là Thực ở trước, Sát ở sau, vốn bản thân là công danh lưỡng toàn. Dương nhận hợp Sát, biến hung thành cát, cũng có thể là quyền quý, cái gọi là Giáp lấy Ất muội gả cho Canh kim, hung thành cát vậy.

        Lại bổ sung: Thực thần chế Sát, không cần gặp thêm Kiêu thì mang họa, do đó ngày Thực thần chế Sát phùng Kiêu không bần thì cũng yểu, Dương Nhận hợp Sát, không cần Tài nhiều, nam nhiều tất gặp họa, do đó viết: Tài sinh Sát là bè đảng, lúc nhỏ chết yểu.

        Lại viết: Thực thần do có thể chế Sát, mà Thương Quan cũng có thể chế Sát, thường thì lực của Thương Quan không bằng Thực thần. Nói Dương Nhận do có thể hợp Sát mà Thương Quan cũng có thể hợp Sát, nhưng Thương Quan không như Dương Nhận thế lực rõ hơn. Dương nhật, Thương quan có thể chế Sát mà không có thể hợp Sát, như Giáp nhật thấy Đinh là Thương Quan, có thể chế Canh kim là Sát mà không có thể Canh của mình. Âm nhật, Thương quan không thể hợp Sát mà tự khắc chế Sát, như Ất nhật thấy Bính là Thương Quan khó hợp với Tân kim là Sát mà có thể tự chế Tân.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 2/18 đầuđầu 123412 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 0
        Bài mới: 05-06-13, 16:33
      2. Dụng thần Tứ trụ và Phong thủy???????????
        By athaiathai in forum Tử bình
        Trả lời: 0
        Bài mới: 18-01-13, 20:37
      3. Kỳ môn phong thủy khẩu quyết
        By thoitu in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 15
        Bài mới: 02-08-12, 09:29
      4. Thần Khảo Âm Trạch
        By hoa mai in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 15
        Bài mới: 11-05-11, 01:18
      5. Xin các bác mách cho em địa chỉ thầy xem phong thủy
        By morality in forum Tư vấn phong thủy
        Trả lời: 2
        Bài mới: 18-08-10, 22:40

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •