PDA

View Full Version : Trích thiên tủy



Ducminh
13-09-09, 09:01
TRÍCH THIÊN TỦY( nguồn Tuvilyso.net)
nguyên tác: luu ba on
Mục Lục
Phần I: Thông Thần Luận
chương 1: Thiên Đạo
chương 2: Địa Đạo
chương 3: Nhân Đạo
chương 4: Tri Mệnh
chương 5: Lý Khí
chương 6: Phối Hợp
chương 7: Thiên Can
chương 8: Địa Chi
chương 9: Can Chi Tổng Luận
chương 10: Hình Tượng
chương 11: Phương Cục
chương 12: Bát Cách
chương 13: Thể Dụng
chương 14: Tinh Thần
chương 15: Nguyệt Lệnh
chương 16: Sinh Thời
chương 17: Suy Vượng
chương 18: Trung Hòa
chương 19: Nguyên Lưu
chương 20: Thông Quan
chương 21: Quan Sát
chương 22: Thương Quan
chương 23: Thanh Khí
chương 24: Trọc Khí
chương 25: Chân Thần
chương 26: Giả Thần
chương 27: Cương Nhu
chương 28: Thuận Nghịch
chương 29: Hàn Thử
chương 30: Táo Thấp
chương 31: Ẩn Hiển
chương 32: Chúng Quả
chương 33: Chấn Đoài
chương 34: Ly Khảm


Phần II: Lục Thân Luận
chương 1: Phu Thê
chương 2:Tử Nữ
chương 3: Phụ Mẫu
chương 4: Huynh Đệ
chương 5: Hà Tri Chương
chương 6: Nữ Mệnh Chương
chương 7: Tiểu Nhân
chương 8: Tài Đức
chương 9: Phấn Úc
chương 10: Ân Oán
chương 11: Nhàn Thần
chương 12: Tòng Tượng
chương 13: Hóa Tượng
chương 14: Giả Tòng
chương 15: Giả Hóa
chương 16: Thuận Cục
chương 17: Phản Cục
chương 18: Chiến Cục
chương 19: Hợp Cục
chương 20: Quân Tượng
chương 21: Thần Tượng
chương 22: Mẫu Tượng
chương 23: Tử Tượng
chương 24: Tính Tình
chương 26: Tật Bệnh
chương 27: Xuất Thân
chương 28: Địa Vị
chương 29: Tuế Vận
chương 30: Trinh Nguyên

Ducminh
13-09-09, 09:01
Chương 1: Thiên Đạo
Dục thức tam nguyên vạn pháp tông, tiên quan đế tái dữ thần công

Nguyên chú:
Thiên hữu âm dương,cố xuân mộc,hạ hỏa,thu kim,đông thủy,quý thổ, tùy thời hiển kì thần công, mệnh trung thiên địa nhân tam nguyên chi lí, tất bản vu thử.

Dịch nghĩa:
Trời có âm dương ; cho nên mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim, mùa đông thủy, tứ quý thổ vậy; tùy theo thời lệnh mà hiển hiện sinh sát; trong mệnh có trời đất người tức lý tam nguyên, mọi thứ căn bản đều như thế cả.

Nhâm thị viết:
kiền vi thiên nguyên, chi vi địa nguyên, chi trung sở tàng vi nhân nguyên. Nhân chi bẩm mệnh, vạn hữu bất tề, tổng bất việt thử tam nguyên chi lý, sở vị vạn pháp tông dã. Âm dương bổn hồ thái cực, thị vị đế tái, ngũ hành bá vu tứ thì, thị vị thần công, nãi tam tài chi thống hệ, vạn vật chi bản nguyên.”Tích Thiên Tủy”thủ minh thiên đạo như thử.
Dịch nghĩa:
Can là thiên nguyên, chi là địa nguyên, trong chi tàng chứa nhân nguyên. Con người thụ mệnh, các khí không đồng đều, chung quy không vượt khỏi cái lý tam nguyên, nó chính là phương pháp tông vậy. Âm dương vốn là thái cực, mệnh danh vua nâng đỡ, ngũ hành đi khắp bốn mùa, là thần sinh sát, thống quản hệ tam tài, vạn vật bắt nguồn từ đó . “trích thiên tủy” chương thiên đạo tỏ rỏ như thế.
Lời người dịch:
Lời nói của người xưa thường ngắn gọn, súc tích đôi khi khó hiểu. Chương thiên đạo này, cổ nhân muốn bàn đến cái nguồn gốc âm dương mà kinh dịch đã nói đến. Hai khí âm dương này cọ xát nhau mà có bốn mùa, mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim, mùa đông thủy và bốn tháng cuối của bốn mùa là thổ khí (tháng 3, 6, 9, 12). Năm cái khí này tư lệnh bốn mùa, thuận thì sinh nghịch thì sát.
Con người bẩm thụ cái thiên khí âm dương, ngũ hành mà thành hình tượng. Tuy thụ mệnh không đồng như nhau, nhưng tựu trung lại thì không vượt ra khỏi lý tam nguyên thiên địa nhân vậy. Mệnh bẩm thụ khác nhau thì cát hung cũng không giống nhau, thế gian có vạn vật tất có vạn sự.
Thế cho nên người học đoán mệnh cái cần yếu nhất là hiểu được cái cơ động tịnh của âm dương, cái sinh vượng của ngũ hành trong tứ trụ có trong thiên can và địa chi được mệnh danh là tam tài thiên địa nhân. Cứ theo cái lẻ ấy mà luận đoán cát hung, đó là phương pháp chính tông vậy. Vì vậy mà cổ nhân mới khuyên chúng ta: muốn biết được lý tam nguyên thí trước phải xem sự động tịnh của âm dương sau đó mới xét đến cái lý của ngũ hành (Dục thức tam nguyên vạn pháp tông, tiên quan đế tái dữ thần công) là như thế đó.

Ducminh
13-09-09, 09:03
Chương 2: Địa Đạo
Khôn nguyên hợp đức cơ giam thông, ngũ khí thiên toàn định cát hung

Nguyên chú:
Địa hữu cương nhu, cố ngũ hành sanh vu đông nam tây bắc trung, dữ thiên hợp đức, nhi cảm kì cơ giam chi diệu. Phú vu nhân giả, hữu thiên toàn chi bất nhất, cố cát hung định vu thử.

Dịch nghĩa:
Đất có cương nhu, mà ngũ hành sinh ở đông nam tây bắc và trung ương, trời đất giao cảm nhau mà sinh ra cái khí diệu dụng. Con người do bẩm thụ cái thiên khí không đồng đều nhau , cũng vì vậy mà cát hung theo đó cũng khác nhau như thế.

Nhâm thị viết:
“Đại tai kiền nguyên, vạn vật tư thủy ”, “chí tai khôn nguyên, vạn vật tư sanh ”, kiền chủ kiện, khôn chủ thuận. Thuận dĩ thừa thiên, đức dữ thiên hợp; hú uẩn phúc dục, cơ giam lưu thông. Đặc ngũ hành chi khí hữu thiên toàn, cố vạn vật chi mệnh hữu cát hung.
Dịch nghĩa:
“cao lớn thay đức của kiền, vạn vật từ đó”, “cao lớn thay đức của khôn, vạn vật được sinh”, kiền chủ cương cứng, khôn chủ chủ nhu thuận. Cương nhu theo nhau, mạnh yếu trợ nhau; đắp đổi nhau, qua lại đóng mở. Chỉ do cái khí ngũ hành thiên lệch, mà cát hung của mệnh nhân đó mới phát sinh vậy.
Lời người dịch:
Âm dương cọ sát nhau mà sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Đứng đầu quẻ dương là kiền, đứng đầu quẻ âm là khôn. Kiền chủ cương kiện là cái tượng ban đầu của sự vật, nên thánh nhân mới bảo “đại tai kiền nguyên”. Khôn chủ nhu thuận là cái hình của sự vật, nên thánh nhân mới bảo”chí tai khôn nguyên”.
Hai khí kiền khôn này một cái cương một cái nhu cùng theo nhau, tương trợ nhau, cùng giao cảm nhau mà sinh ra sáu quẻ chấn tốn ly khảm cấn đoài. Vạn vật cũng từ đó mà tương sinh tương diệt.Thông cũng tượng cho quẻ Thái là thời mà âm dương tương giao tư sinh vạn vật. Giam cũng tượng cho quẻ Bĩ là thời mà hai khí âm dương bất tương giao vạn vật tất tương diệt.
Nhân sinh bẩm thụ mệnh, khí ngũ hành thiên lệch bất toàn mà họa phúc, cát hung cũng từ đó mà sinh ra. Vì thế cho nên, thánh nhân khuyên người học đoán mệnh cần hết sức quan tâm sự thông thuận của hai khí âm dương, sự lệch lạc của ngũ hành mà quyết định cát hay hung, thành hay bại, thọ yểu cùng thông (Khôn nguyên hợp đức cơ giam thông, ngũ khí thiên toàn định cát hung) ý là như vậy đó.

Ducminh
13-09-09, 09:05
chương 3: Nhân Đạo
Đới thiên phúc địa nhân vi quý, thuận tắc cát hề hung tắc bội

Nguyên chú:
vạn vật mạc bất đắc ngũ hành nhi đái thiên lí địa, duy nhân đắc ngũ hành chi toàn, cố vi quý. kì hữu cát hung chi bất nhất giả, dĩ kì đắc vu ngũ hành chi thuận dữ bội dã.

Dịch nghĩa:
Vạn vật sinh ra trong trời đất không có giống nào mà chẳng thụ cái khí ngũ hành, duy chỉ con người thụ được cái khí ngũ hành toàn mà quý vậy. Nhưng cát hung chẳng đồng nhau là do ngũ hành đi thuận hay nghịch đó vậy.


Nhâm thị viết:
Nhân cư phúc tái chi trung, đới thiên lí địa, bát tự quý hồ thiên can địa chi thuận nhi bất bội dã. Thuận giả tiếp tục tương sanh, bội giả phản khắc vi hại, cố cát hung phán nhiên. Như thiên can khí nhược, địa chi sanh chi, địa chi thần suy, thiên can phụ chi, giai vi hữu tình nhi thuận tắc cát; như thiên can suy nhược, địa chi ức chi, địa chi khí nhược, thiên can khắc chi, giai vi vô tình nhi bội tắc hung dã. giả như can thị mộc, úy kim chi khắc, địa chi hữu hợi tý sanh chi, chi vô hợi tý, thiên can hữu nhâm quý dĩ hóa chi; can vô nhâm quý, địa chi hữu dần mão dĩ thông căn; chi vô dần mão, thiên can hữu bính đinh dĩ chế chi, mộc hữu sanh cơ, cát khả tri hĩ.Nhược thiên can vô nhâm quý, nhi pảan thấu chi dĩ mậu kỷ; chi vô hợi tý dần mão, nhi phản gia chi dĩ thìn tuất sửu mùi thân dậu, đảng trợ canh tân chi kim, mộc vô sinh lý, hung khả tri hĩ.Dư khả loại suy. Phàm vật mạc bất đằc ngũ hành, đới thiên lý địa, tức vũ mao lân giới, diệc các đắc ngũ hành chuyên khí nhi sinh, như vũ trùng chúc hỏa, mao chúc mộc, lân chúc kim, giới chúc thủy.
duy nhân chúc thổ, thổ cư trung ương, nãi mộc hỏa kim thủy trung khí sở thành, độc thị ngũ hành chi toàn, vi quý. Thị dĩ nhân chi bát tựtối nghi tứ trụ lưu thong, ngũ hành sinh hóa, đại kị tứ trụ khuyết hãm, ngũ hành thiên khô.Ngụy thư vọng ngôn tứ mậu ngọ giả, thị thánh đế chi tạo, tứ quý hợi giả, thị trương hòan hầu chi tạo, cứu kỳ lý giai hậu nhân ngoa truyền. dư hành đạo dĩ lai, thôi quá tứ mậu ngọ, tứ đinh mùi, tứ quý hợi, tứ ất dậu, tứ tân mão, tứ canh thìn, tứ giáp tuất giả thậm đa, giai tác thiên khô luận, vô bất ứng nghiệm.
đồng ấp sử tính giả tứ nhâm dần giả, dần trung hỏa thổ trường sinh, thực thần lộc vượng, thượng hữu sinh hóa chi cấp, nhi thê tài tử lộc, bất năng toàn mỹ, chích nhân dần trung hỏa thổ chi khí, vô tòng dẫn xuất, dĩ chí ấu tao cô khổ, trung thụ cơ hàn; chí tam tuần ngoại, vận chuyển nam phương, dẫn xuất dần trung hỏa khí, đắc tế ngộ , kinh doanh phát tài, hậu cánh vô tử, gia nghệip phân đoạt nhất không. Khả tri nhưng tác thiên khô luận dã. Do thử quan tri,mệnh quý trung hòa, thiên khô chung vu hữu tổn; lý cầu bình chánh, kì dị bất túc vi bằng.
Dịch nghĩa:
Con người sống giửa trời đất, đầu tiếp giáp trời chân tiếp giáp đất, bát tự cần nhất là thiên can và địa chi thông thuận chớ nên nghịch thường. Thuận thì được tương sinh, nghịch thì bị khắc hại, thế cho nên cát hung cũng từ đó mà phân rẻ vậy.
Như thiên can khí nhược, được địa chi sinh, địa chi khí suy, được thiên can trợ chi, tức can chi thông thuận tất cát; giả như thiên can suy nhược mà còn bị địa chi ức chế, địa chi khí nhược mà còn bị thiên can khắc chế, tức can chi nghịch thường hung nguy vậy.
Thí như thiên can mộc rất sợ hành kim khắc thiên can mộc, địa chi có tý hợi hóa kim sinh can; nếu địa chi không có tý hợi, mà thiên can có nhâm quý có thể hóa kim sinh mộc; còn như thiên can không có nhâm quý mà địa chi có dần mão mộc, tức thiên can thông gốc (thông căn); bằng như địa chi không có dần mão mộc, thiên can có bính đinh hỏa khắc chế kim, thiên can mộc có sinh cơ, sự cát có thể biết được.
Nhược bằng thiên can không có nhâm quý, mà trái lại trên can còn hiển lộ can mậu kỷ; còn địa chi không có hợi tý dần mão, mà trái lại còn thấy xuất hiện thìn tuất sửu mùi thân dậu, thổ kim trùng trùng sinh trợ kim, thiên can mộc bị khắc vô sinh trợ, hung nguy có thể biết được vậy. Dư lại các loại cứ thế mà suy.
Đại phàm vạn vật không vật nào mà chẳng mang thuộc tính ngũ hành, trên tiếp giáp với trời dưới tiếp giáp với đất, như loài chim bay trên trời cá bơi dưới nước, cỏ cây muôn thú chạy trên bờ đều mang thuộc tính ngũ hành khí chuyên sinh của nó, như loài mang bộ lông vũ thuộc hỏa, loài cỏ cây thuộc mộc, loài cá bơi lội dưới nước thuộc kim, duy con người thụ đắc khí thuộc thổ, cư trung ương gồm nắm cả kim mộc thủy hỏa, kim mộc thủy hỏa thành từ thổ, vì vậy tuy ngũ hành nhất khí nhưng rất tôn quý. Thế cho nên bát tự tối cần tứ trụ lưu thông, ngũ hành sinh hóa hữu tình, đại kỵ tứ trụ khuyết hãm, ngũ hành thiên khô. Ngụy thư vọng ngôn cho rằng tứ trụ tứ mậu ngọ là mệnh thánh đế, tứ quý hợi là mệnh của hầu bá, nghiên cứu cận lý mới biết hậu nhân ngoa truyền.
Ta trong quá trình hành đạo, đã xem qua những tứ trụ có tứ mậu ngọ, tứ đinh mùi, tứ quý hợi, tứ ất dậu, tứ tân mão, tứ canh thìn, tứ giáp tuất và nhiếu hơn thế nửa, đều luận mệnh theo lẻ thiên khô, chẳng cái nào mà không ứng nghiệm.
Thí như Càn tạo mệnh tứ trụ tứ nhâm dần, địa chi dần tàng chứa hỏa thổ trường sinh, thực thần lộc vượng, trên có nhâm thủy sinh cho, mặc dù thê tài tử tôn ngộ lộc, nhưng chẳng toàn mỹ, nguyên nhân là do hỏa thố trong dần không có chi dẫn xuất, cho nên tuổi thơ cô khổ, trung vận cơ hàn, mãi quá 30 tuổi, hạn hành phương nam dẫn xuất hỏa trong dần, kinh doanh phát tài, tuổi già không con, gia nghiệp bị phân chia tranh đoạt, có thể biết được như vậy nhờ luận theo cách cục thiên khô. Do vậy nghiệm ra rằng, mệnh cục quý trung hòa, thiên khô chung quy có tổn hại; mệnh cục cần ngũ hành cân bằng đầy đủ, mệnh cục kỳ dị bất túc lấy chi nương tựa vậy.

Lời người dịch:
Trời đất có âm dương ngũ hành, nhị khí giao cảm nhau mà sinh ra vạn vật. Thế cho nên, dưới thế gian không có giống loài nào mà không thụ đắc cái khí âm dương ngũ hành của trời đất.
Con người là động vật chí linh, do bẩm thụ khí âm dương ngũ hành toàn vẹn. Nhưng do sự thụ khí bất đồng và sự lưu hành của khí âm dương ngũ hành thuận nghịch mà cát hung họa phúc không đồng nhau vậy.
Âm dương ngũ hành trong bản mệnh chính là can chi, cần nhất là trung hòa, bất túc, khiếm khuyết dù có phú quý chăng nữa cũng bất toàn. Thế cho nên, thánh nhân khảo mệnh cần sự trung hòa đầy đủ theo thường lý, chớ nên kỳ dị khác lạ nghịch thường chung cuộc hung hại (Đới thiên phúc địa nhân vi quý, thuận tắc cát hề hung tắc bội).

kimcuong
13-09-09, 15:10
Tích thiên tủy tập yếu lưu bá ôn trứ thanh.
Tương quốc hải xương trần chi lấn tố am thị tập.

AnhNgoc
13-09-09, 15:19
Cảm ơn Ducminh rất nhiều. Mong bạn cố gắng post hết cuốn Trích thiên tủy để mọi người có dịp nâng cao môn Tử Bình .

AnhNgoc
13-09-09, 15:22
Bạn nào có bản dịch cuốn Bát tự khí số xin đăng lên để mọi người cùng đọc. Cảm ơn nhiều

AnhNgoc
13-09-09, 15:31
Ducminh nên chú là trích từ Tuvilyso.net của vnn1269 nhé ! Để họ khỏi trách mình.

Ducminh
13-09-09, 21:51
Chương 4: Tri Mệnh
Yếu dữ nhân gian khai lung hội, thuận nghịch chi cơ tu lý hội
Nguyên chú: bất tri mệnh giả như lung hội, tri mệnh vu thuận nghịch chi cơ năng lý hội chi, thứ khả dĩ khai thiên hạ chi lung hội.
Nhâm thị viết: thử ngôn hữu chí lý, duy khủng hậu nhân học mệnh, bất cứu thuận nghịch chi cơ. Vọng đàm nhân mệnh, di ngộ bất thiển, hổn khan kì cách dị cục, nhất thiết thần sát, hoang đường thủ dụng, đào hoa hàm trì, chuyên luận nữ mệnh tà dâm, thụ trách quỷ thần; kim tỏa thiết xà, mậu chỉ tiểu nhi quan sát, ưu nhân phụ mẫu; bất luận nhật chủ chi suy vượng, tổng dĩ tài quan vi hỉ, thương sát vi tăng, định nhân chung thân; bất quản nhật chủ chi cường nhược, tẫn thực ấn vi phúc, kiêu kiếp vi ương, bất tri tài đẳng danh, vi lục thân thủ dụngnhi liệt, cánh nhân tác tài khả dưởng mệnh, quan khả vinh thân, hà kì ngu dã! Như taì khả dưởng mệnh, tắc tài đa thân nhược giả, bất chí yêu tiên, nhi thành hiển quý.
Dư tường khảo cổ thư, tử bình chi pháp, toàn tại tứ trụ ngũ hành. Sát kì suy vượng, cứu kì thuận bội, thẩm kì tiến thối, luận kì hỉ kị, thị vi lý hội. chí vu kì cách dị cục, thần sát nạp ạm chư danh mục, nãi hảo sự vong tạo, phi quan mệnh lý hưu cữu. nhược cư thủ luận mệnh, tất chí dĩ chính vi mậu, dĩ thị vi phi, ngoa dĩ truyền ngoa, toại sử cát hung chi lý, hôn muội nan minh hỉ. thư vân:” dụng chi vi tài bất khả kiếp, dụng chi vi quan bất khảthương, dụng chi vi ấn bất khả phối, dụng chi vi thực thần bất khả đoạt”. thử tứ cú nguyên hữu chí lý, kì yếu tại nhất “dụng” tự. vô tri học mệnh giả, bất cứu “dụng” tự căn nguyên, chuyên dĩ tài quanvi trọng, bất tri bất dụng tài tinh tẫn khả kiếp, bất dụng quan tinh tẫn khả thương, bất dụng ấn thụ tẫn khả phối, bất dụng thực thần tẫn khả đoạt. thuận bội chi cơ bất lý hội, dữ lung hội hà dị khởi năng luận cát hung, biện hiền phủ, nhi hữu công vu thế tai! Phản ngộ thế hoặc nhân giả đa hĩ!
Càn tạo mệnh:
tân mão đinh dậu canh ngọ bính tý
Đại vận: bính thân ất mùi quý tỵ nhâm thìn canh dần kỷ sửu mậu tý đinh hợi
Thiên can canh tân bính đinh, chánh phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, hựu phối khảm ly chấn đoài. Chi toàn tứ chính, khí quán bát phương, nhiên ngũ hành vô thổ, tuy đản thu lệnh, bất tác vượng luận. tối hỉ tý ngọ phùng xung, thủy khắc hỏa, sử ngọ hỏa bất phá dậu kim, túc dĩ phu chủ; canh diệu mão dậu phùng xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc bất trợ ngọ hỏa, chế phục đắc nghi. Mão dậu vi chấn đoài, chủ nhân nghĩa chi nhân cực; tý ngọ vi khảm ly, tể thiên địa chi trung khí. Thả khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, nhất thuận nhất nguyên, tọa hạ đoan môn, thủy hỏa ký tế. sở dĩ bát phương tân phục, tứ hải du đồng, kim mã chu diên, tinh hải bản đồ chi nội, bạch lang huyền thố, hàm quy phúc trù chi trung, thiên hạ hi trữ dã.
Càn tạo mệnh:
Canh thân canh thìn mậu thìn mậu ngọ
Đại vận: tân tỵ mậu ngọ quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi mậu tý
Đổng trung đường tạo, nhậ can mậu thổ, sinh vu quý xuân ngọ thời, tự hồ vượng tướng, đệ xuân thời hư thổ, phi bỉ lục cửu nguyệt chi nhật dã. Thả lưỡng thần súc thủy vi thấp, túc dĩ tiết hỏa sinh kim, can thấu lưỡng canh, chi hội than thìn, nhật chủ quá tiết, dụng thần tất tại ngọ hỏa. hỉ thủy mộc bất kiến, nhật chủ ấn thụ bất thương, tinh thần vượng túc, thunầ túy trung hòa. Nhất sinh hoạn hải vô ba, tam thập dư niên thái bình tương nghiệp, trực chí tử vậnhội thủy cục bất lộc, thọ dĩ bát tuần hĩ.
Càn tạo mệnh:
tân dậu tân sửu kỷ dậu bính dần
đại vận: nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ bính ngọ đinh mùi mậu thân kỷ dậu
thử tạo dữ thượng tạo dị khúc đồng công chi diệu, nhật can kỷ thổ, tuy đản sửu nguyệt, nhiên đông thổ hàn thấp, phi bỉ lục cửu nguyệt chi ôn hú. Thả sửu trung súc thủy hàm kim, can thấu lưỡng tân, chi hội sửu dậu, nhật chủ quá tiết, dụng thần tất tại bính hỏa. hỉ thời trung dần mộc, cửu hàn hồi dương, bính hỏa hữu căn. Nhân cực tiêm mĩ linh tú, tảo vận nhâm quý, thư hương hữu trở, tương lai tỵ ngọ mùi nam hỏa địa, tiền trình vị khả hạn lượng.(tân tăng).
Càn tạo mệnh:
nhâm thần nhâm dần giáp dần canh ngọ
đại vận :quý mão giáp thần ất tị bính ngọ đinh vị mậu thân kỷ dậu canh tuất
đồng ấp vuong tính tạo. tục dĩ thân cường sát thiển luận, thủ canh kim vi dụng, vị xuân mộc phùng kim, tất tác đóng lương chi khí, khuyến kì độc thư tất phát; chí tam tuần ngoại, bất đản độc thư vị thu, nhi thả gia nghiệp tiệm tiêu, chúc dư thôi chi. Quan kì chi tọa lưỡng dần, thừa quyền đương lệnh, can thấu lưỡng nhâm, sinh trợ vượng thần, niên chi chi thìn thổ, nãi thủy chi khố, mộc chi dư khí, năng súc thủy dưởng mộc, bất năng sinh kim, nhất điểm canh kim, hưu tù dĩ cực, thả ngọ hỏa địch chi, nhâm thủy tiết chi, bất duy vô dụng, phản vi sinh thủy chi bệnh. Đại phàm vượng chi cực giả, nghi tiết nhi bất nghi khắc, nghi thuận kì khí thế, phất bôi kì tính dã. Dĩ ngọ hỏa vi dụng, tương lai vạn chí hỏa địa, tuy bất quý vu danh, định đương phú vu lợi, như tái thủ vân song, chung thân ngộ hỉ. bỉ tức khí nho tựu kinh doanh, chí bính ngọ vận, khắc tẫn canh kim chi bệnh, bất mãn thập niên , phát tài thập dư vạn, tắc canh kim vi bệnh minh hĩ.
Càn tạo mệnh:
quý dậu giáp tý quý hợi tân dậu
đại vận: quý hợi nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ bính thìn
thử phúc kiến nhân bất tri tính thị, canh ngọ đông, dư thôi chi, đại thủ kim thủy vận, bất thủ hỏa thổ.bỉ viết: kim thủy vượng cực, hà dĩ hựu thủ kim thủy?tắc mệnh thư bất túc bằng hồ? thư viết:” vượng tắc nghi tiết nghi thương”, kim mãn cục kim thủy, phản thủ kim thủy, thị mệnh thư vô bằng hĩ. Dư viết: mệnh thư hà vi vô bằng? giai nhân bất năng thức mệnh trung ngũ hành chi áo diệu nhĩ. Thử tạo thủy vượng phùng kim, kì thế trùng bôn, nhất điểm giáp mộc khô phù, nan tiết thủy khí như chỉ kì lưu, phản thành thủy hoạn, bất nhược thuận kì lưu vi mĩ. Sơ vận quý hợi, trợ kì vượng thần, ấm tý hữu dư; nhất giao nhâm tuất, thủy bất thong căn, nghịch kì khí thế, hình háo tịnh kiến; tân dậu canh thân, đinh tài tịnh vượng; kỷ mùi mậu ngọ, nghịch kì tính, bán sinh sự nghiệp, tẫn phó đông lưu, hình thê khắc tử, cô khổ vô y. thử sở vị “côn lôn chi thủy, khả thuận nhi bất khả nghịch dã”. thuận nghịch chi cơ, bất khả bất tri dã.
càn tạo mệnh:
quý dậu quý hợi quý hợi tân dậu
đại vận: nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ bính thìn ất mão
nhược tư án, thượng tạo “tích thiên tủy” tác quý dậu/giáp tý/ quý hợi/ tân dậu, đản căn cư thôi toán, tư hồ yếu đáo đệ nhị thiên đích giáp tý nhật thần thơpì hậu phương tài giao tiết, na yêu kì bát tựu ứng cai vi quý dậu quý hợi quý hợi tân dậu . bỉ giác nhi ngôn, lưỡng tạo đô thị thủy thế vượng cực, cách cục pha vi tương cận, đại vận diệc tương soa bất quá sổ thập thiên, nhân thử tích thiên tủy đích luận đoán thị chính xác đích.
Hựu dĩ nhâm thiết tiều thị đích học lực, đương bất hội hữu thử chủng giác ngộ, tòng thượng diện đích văn tự khan, mệnh chủ bổn nhân diệc thong hiểumệnh ký học, đại khái thử bát tự nãi chúc tự báo, phi nhâm sư thôi đắc. hành văn chí thử, diêu tư đương thời, bất cấm tâm khoáng thần di, vi chi khuynh đảo.

Ducminh
13-09-09, 21:53
Dịch nghĩa:
Câu nói trên thật chí lý, chỉ sợ người học mệnh sau này chẳng nghiên cứu tường tận cái cơ thuận nghịch. Vội vàng đàm luận nhân mệnh, làm mê hoặc không ít, xem tạp cách hay cục lạ, hết thảy thần sát đem ra dùng một cách rất hoang đường, đào hoa hàm trì chuyên luận nữ mệnh tà dâm, cầu thọ quỷ thần, kim xà thiết tỏa sai lầm tiểu nhi quan sát, làm rối lòng cha mẹ; chẳng cần biết nhật chủ cường nhược đều cho ấn thực là phúc, kiêu kiếp là tai ương, mà không biết rằng tài quan ngang nhau, lấy lục thần ngang nhau, lại cho rằng nguồn tài có thể dưởng mệnh, quan có thể vinh thân thật là ngu muội quá thay!
Ví như nguồn tài có thể dưởng mệnh mà tài nhiều thân nhược chẳng là nhà giàu có ma bần tiện đó sao, quan có thể vinh thân mà thân suy quan vượng chỉ lá quý hiển mà chết yểu, đê tiện đó. Ta từng khảo xét cổ thư, phương phương pháp tử bình, họa phúc cát hung thọ yểu toàn tại tứ trụ ngũ hành. Xem xét sự suy vượng, nghiên cứu sự thuận nghịch, xét đoán sự tiến thoái mà luận hỉ kỵ, ấy thế mà lỉnh hội được. đến như cách hay cục lạ, lấy đó làm chính lý tất sai lầm lớn, ngoa dĩ truyền ngoa, nhân đó làm lý cho sự cát hung, thật là hôm muội khó sáng vậy. thư vân:”dụng thần tài tinh không nên gặp kiếp tài, dụng thần quan tinh không nên gặp thương quan, dụng thần ấn tinh không nên gặp tài, dụng thần thương thực không nên gặp kiêu”, bốn câu trên thật chí lý, cốt yếu ở một chử “dụng”. người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy tài quan làm trọng, mà không biết rắng:”dụng thần tài tinh có thể dụng kiếp, dụng thần quan tinh có thể dụng thương quan, dụng thần ấn tinh có thể dụng tài, dụng thần thương thực có thể dụng kiêu”. Cái cơ thuận nghịch không lĩnh hội được, mômg muội đến thế làm sao có thể luận cát hung, biện hiền ngu, làm mê hoặc kẻ hậu học như thế thật quá lắm vậy!
Càn tạo mệnh:
Tân mão đinh dậu canh ngọ bính tý
Đại vận: bính thân ất mùi quý tỵ nhâm thìn canh dần kỷ sửu mậu tý đinh hợi
Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. rất cần tý ngọ gặp xung , thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy(Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ).
Đổng trung đường tạo mệnh:
Canh thân canh th́n mậu th́n mậu ngọ
Đại vận: tân tỵ mậu ngọ quư mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi mậu tư
Nhật can mậu thổ, sinh vào tiết quư xuân vào giờ ngọ, tựa như vượng tướng, tháng mùa xuân thổ hư khí, không như thổ tháng 6, 9 là thực thổ. Vả lại hai chi th́n thấp thổ mộ khố của thủy, có thể tiết khí hỏa sinh kim, can thấu lưởng canh, chi hội thân th́n, nhật chủ bị tiết chế quá độ, nên chọn dụng thần là đinh hỏa tàng trong chi ngọ sinh phù. Rất cần không thấy thủy mộc, nhật chủ ấn thụ không bị thương, tinh thần sung túc, thuần túy trung ḥa. Một đời chẳng gặp hoạn nạn, hơn ba mươi năm hưởng thái b́nh sự nghiệp, măi đến vận mậu tư hội thân tư th́n thủy cục vượng thất lộc, hưởng thọ 80 tuổi vậy.
Càn tạo mệnh:
Tân dậu tân sửu kỷ dậu bính dần
Đại vận: nhâm dần quư măo giáp th́n ất tỵ bính ngọ đinh mùi mậu thân kỷ dậu
Giống như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại th́ cũng như thế, nhật can kỷ thổ, tuy sinh vào tháng sửu thổ vượng, nhưng thổ mùa đông hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh sửu hàm chứa kim thủy, can thấu hai tân, chi bán hội sửu dậu kim cục, nhật can bị tiết chế quá độ, dụng thần tất chọn bính hỏa. Rất may thời trụ dần mộc, hàn cực sinh dương, bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận nhâm quư thủy thi hương trắc trở, sang vận tỵ ngọ mùi hỏa địa, tiền tŕnh tốt đẹp không thể nói hết(Tân Tăng).
Càn tạo mệnh:
nhâm th́n nhâm dần giáp dần canh ngọ
Đại vận: quư măo giáp thần ất tị bính ngọ đinh vị mậu thân kỷ dậu canh tuất
Họ vương tạo mệnh, luận theo lẻ thường cho rằng thân cường sát thiển, lấy canh kim thất sát làm dụng thần, mùa xuân mộc vượng gặp kim, tất là khí lương đóng, cố gắng độc thư tất sau nên danh; măi quá ba mươi không thấy ứng nghiệm, gia nghiệp tiêu hết dần, nên nhờ ta suy đoán. Ta thấy rằng chi tọa lưỡng dần, nguyệt lệnh đương quyền, can thấu hai nhâm, sinh trợ vượng thần, chi năm th́n thổ là thủy khố, chứa thủy dưởng mộc, không thể sinh kim, một canh kim vừa hưu tù vô khí, vừa bị ngọ hỏa chế khắc, nhâm thủy tiết khí, không chỉ vô dụng mà c̣n trở lại sinh thủy. Đại phàm vượng cực, nên tiết khí không nên bị khắc, nên thuận theo thế thịnh, chẳng nên nghịch thế. Lấy ngọ hỏa làm dụng thần, tương lai vận hành hỏa địa, tuy chẳng hiển quư, nhất định giàu có, bằng như chờ đợi vận hội, tất có ngày như thỏa nguyện. Rời bỏ nho học chuyển sang kinh doanh, tới vận bính ngọ, khắc mất canh kim, không quá mười năm, phát tài hơn mười vạn, cho nên canh kim là khắc thần vậy.
[B]Càn tạo mệnh
quư dậu giáp tư quư hợi tân dậu
đại vận: quư hợi nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ bính th́n
Một người ở phúc kiến không tính danh, mùa đông năm canh ngọ, ta suy luận, đại loại lấy kim thủy làm dụng thần, chẳnng nên lấy hỏa thổ làm dụng. người ấy nói: kim thủy vượng cực, cớ ǵ lấy kim thủy làm dụng thần? Hay sách mệnh có thiếu sót gi chăng? Sách xưa thường viết:”vượng nên tiết nên thương”, kim vượng đầy tức cục kim thủy, trái lại lấy kim thủy làm dụng thần, tức mệnh thư không có khiếm khuyết hay sao? Ta nói: sách xưa không sai. Bởi do người học mệnh không thể hiểu hết cái ngũ hành ảo diệu trong mệnh cục. Thử tạo thủy vượng gặp kim, tất thành thế thủy thịnh, khô mộc bị trôi dạt, không tiết được thủy sinh mộc thủy vượng không nơi phát tiết tất thành thủy lưu, phản thành họa thủy, chẳng là điềm xấu hay sao. Sơ vận quư hợi, quư thủy sinh trợ dụng thần thủy vượng, sinh trợ có thừa; bước sang đại vận nhâm tuất thủy bất thông căn, khí thế nghịch hành, thủy bị h́nh phạt hao tán; tân dậu canh thân, đinh tài lưỡng vượng; kỷ mùi mậu ngọ nghịch khắc dụng thần, sự nghiệp trôi theo ḍng nước chảy, h́nh thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Ví như “ nước sông Côn Lôn, thuận chảy xuôi ḍng, không nên nghịch ḍng mà gây họa”. Thế cho nên, cái cơ thuận nghịch không nên không biết tường tận vậy.
Càn tạo mệnh:
Quư dậu quư hợi quư hợi tân dậu
Đại vận: nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ bính th́n ất măo
Theo “trích thiên thủy” chép cách tạo mệnh trên như quư dậu/giáp tư/quư hợi/tân dậu, căn cứ vào sự suy tính, tựa hồ sau ngày giáp tư mới là ngày giao tiết, những chi tiết nhỏ ấy nên suy ứng tựu chung ngày quư hợi, bát tự như trên. Ta so sánh, cả hai cách tạo mệnh trên đại khái thủy cục đều vượng, cách cục tương đồng, đại vận sai lệch không quá mười ngày, nhân đó mà sách luận mệnh luận đoán chính xác. Với lại, họ nhâm thiết tiều sở đắc học mệnh, chẳng lẻ không biết được những điều ấy sao, về phương diện văn tự mà thấy đựơc, mệnh chủ vốn người thông hiểu mệnh lư, đại khái bát tự thuộc loại h́nh dự báo tự nhiên, chẳng cần phải dụng tâm nhiều mới thấu hiểu được. Cách hành văn cao siêu, ư tứ sâu xa vựơt thời đại, chẳng kiềm hăm cái tâm sáng thần minh, làm nghiêng ngữa ḷng người vậy.

Lời người dịch:
Âm dương thuận nghịch luân chuyển không ngừng, thuận tiến tức khí vượng, nghịch thoái tức khí suy. Ví như hỏa mùa hạ sinh vượng khí tức hành khí thuận tiến, cũng là khí tử tuyệt nghịch thoái của mùa đông vậy. Thế cho nên người học mệnh cần nên lĩnh hội được cái cơ ảo diệu thuận nghịch tiến thoái của âm dương ngũ hành. Thế cho nên thánh nhân mới bảo “thuận nghịch chi cơ tu lư hội” vậy.

Ducminh
14-09-09, 21:21
Chương 5: Lư Khí
Lư thừa hành khởi hữu thường, tiến hề thoái hề nghi ức dương
Nguyên chú: hạp quan văng lai giai thị khí, nhi lư hành hồ kỳ gian. Hành chi thủy nhi tiến, tiến chi cực tắc vi thoái chi cơ, như tam nguyệt chi giáp mộc thị dă; hành chi thịnh nhi thoái, thoái chi cự tắcc vi tiến chi cơ, như cửu nguyệt chi giáp mộc thị dă. học giả nghi ức dương kỳ thiển thâm, tư khả dĩ ngôn mệnh dă.
Dịch nghĩa:
Cái khí đóng mở qua lại, lưu hành trong khoảng trời đất. Cái khí đó khi ban đầu th́ nó tiến, tiến măi cùng cực th́ nó thoái, như giáp mộc vào tháng 3; một khi cái khí này tiến đến cực thịnh th́ nó thoái, như giáp mộc sinh vào tháng 9 vậy. Người học mệnh nên b́nh lặng mà ḍ xét nông sâu, ấy có thể là ngôn mệnh vậy.
Nhâm thị viết: tiến thoái chi cơ, bất khả bất tri dă. phi trường sinh vi vượng, tư tuyệt vi suy, tất đương thẩm minh lư khí chi tiến thoái, thứ đắc suy vượng chi chân cơ hĩ. Phàm ngũ hành vượng tướng hưu tù, án tứ quư nhi định chi. Tương lai giả tiến, thị vi tương; tiến nhi đương lệnh, thị vi vượng; công thành giả thoái, thị vị hưu; thoái nhi vô khí, thị hưu tù. Tu biện kỳ vượng tướng hưu tù, dĩ tri kỳ tiến thoái chi cơ. Vi nhật chủ, vi hỉ thần, nghi vượng tướng, bất nghi hưu tù; vi hung sát, vi kị thần, nghi hưu tù, bất nghi vượng tướng. Nhiên tương diệu vu vượng, vượng tắc cực thịnh chi vật, kỳ thoái phản tốc, tương tắc phương trường chi khí, kỳ tiến vô nhai dă. hưu thậm hồ tù, tù tắc kư cực chi thế, tất tương tiệm sanh; hưu tắc phương thoái chi khí, vị năng cự phục dă. thử lư khí tiến thoái chi chính luận dă, viên cử lưỡng tạo vi lệ.

Đinh hợi - canh tuất - giáp th́ìn - nhâm thân
Đại vận: kỷ dậu- mậu thân- đinh mùi- bính ngọ -ất tỵ -giáp thín- quý măo- nhâm dần
Giáp mộc hưu khốn dĩ cực, canh kim lộc vượng khắc chi, nhất điểm đinh hỏa, nan dĩ tương đối, gia chi lưỡng tài sinh sát, tự hồ sát trọng thân khinh, bất tri cửu nguyệt giáp mộctiến khí, nhâm thủy thiếp thân tương sinh, bất thương đinh hỏa. đinh hỏa tuy nhược, thông căn thân khố, tuất năi táo thổ, hỏa chi bổn căn, th́n năi thấp thổ, mộc chi dư khí. Thiên can nhất sinh nhất chế, địa chi hựu ngộ trường sinh, tứ trụ sinh hóa hữu t́nh, ngũ hành bất tranh bất đố. Chí đinh vận khoa giáp liên đăng, dụng hỏa địch sát minh hĩ. Tuy cửu nhâm kinh quan, nhi hoạn tư phong tồn, giai nhất lộ quan phương vận dă.
Nhược tư án, thử sơ khán tự yếu dụng ấn, nhiên cục hữu ấn, tắc thân dĩ tư, tất dụng thương quan chế sát dă. diệu tại giáp mộc tiến khí, tắc túc dĩ nhâm tiết nhâm chế, phủ tắc bất kham.

ất hợi- canh thín- giáp -tuất -nhâm thân
đại vận: kỷ măo -mậu dần- đinh sửu- bính tư -ất hợi -giáp tuất- quư dậu-nhâm thân
thử dữ tiền đại đồng tiểu dị. dĩ tục luận chi, “giáp dĩ ất muội thê canh, hung vi cát triệu”, hàm hợp vong trùng, giác chi tiền tạo canh giai, hà bỉ tắc hàn uyển, thử tắc hàn thấp? bất tri ất canh hợp nhi hóa kim, phản trợ kỳ bạo. bỉ tắc giáp th́n, th́n năi thấp thổ, năng sinh mộc, thử tắc giáp tuất, tuất táo thổ bất năng sinh mộc; bỉ tắc thân th́n củng hóa, thử tắc thân tuất sinh sát; bỉ tắc giáp mộc tiến khí, nhi canh kim thoái, thử tắc canh kim tiến khí, nhi giáp mộc thoái. Suy thử lưỡng tạo, thiên uyên chi cách, tiến thoái chi cơ, bất khả bất tri dă.

Dịch nghĩa:
Cái cơ tiến thoái, không thể không biết. Trường sinh thì sinh vượng tử tuyệt thì suy, cần nên biện rỏ cái lý tiến thoái, sau đến xem xét cái chân suy vượng vậy. Đại phàm ngũ hành vượng tướng hưu tù, dựa theo tứ quý mà định. Tương lai giả tiến, tức vượng tướng; tiến mà đương lệnh nắm quyền tức vượng cực; sau khi khí vượng cực tức hưu; thoái mãi vô khí tức tù. Cho nên, cần biện rỏ hưu tù vượng tướng, biết được cái cơ tiến thoái vậy. Là nhật chủ, là dụng thần tối cần vượng tướng, chẳng nên hưu tù vô khí; là hung sát, là kỵ thần chẳng nên vượng tướng, mà nên hưu tù tử tuyệt. Như cái khí ban đầu hành vượng, khí vượng vật tất thịnh, vượng thịnh khí chậm thoái, tướng là phương hướng khí trường sinh, hành khí cấp mạnh mẽ vô cùng tận. Hưu quá tức tù khí, khí tù là cái khí đã cực vượng, nên khí sinh chậm; cư nơi phương vị thoái khí, đang tiềm ẩn chưa hiển lộ. Vì vậy luận khí tiến thoái là phương pháp luận chính mà học giả cần phải chú tâm vậy.

Viên cử lượng tạo mệnh:
Đinh hợi -canh tuất-giáp thìn- nhâm thân
Đại vận: kỷ dậu- mậu thân- đinh mùi- bính ngọ -ất tỵ -giáp thìn-quý mão- nhâm dần
Giáp mộc cực hưu tù, canh kim lộc vượng chắc can giáp mộc, can năm đinh hỏa khả dĩ chế sát hộ thân, tối hiềm thìn tuất hai chi tài sinh sát khắc thân, mệnh cục tựa chừng như sát trọng thân khinh, người thường không biết rằng giáp mộc sinh tháng 3 khí đang tiến, nhâm thủy cùng với thân kim tương sinh nhật chủ, bất thương đinh hỏa. Đinh hỏa tuy nhược nhưng thộng căn tuất thổ, thìn thuộc thấp thổ, mộc thuộc dư khí. Thiên can nhật chủ nhất sinh nhất chế, địa chi gặp trường sinh, tứ trụ sinh hóa hữu tình, ngũ hành bất tranh bất kị. hạn hành đinh hỏa vận khoa giáp liên đăng, dụng thần hỏa chế sát quá tỏ rỏ.

ất hợi- canh thìn -giáp tuất -nhâm thân
đại vận: kỷ mão- mậu dần-đinh sửu- bính tý- ất hợi -giáp tuất-quý dậu -nhâm thân
Cũng như cách tạo mệnh trên có khác đôi chút nhưng không lớn. Người thường luận”giáp là anh trai của ất, ất lấy canh làm chồng, biến hung thành cát”, tham hợp quên xung, tức canh kim làm cách cục tốt đẹp, văn chương quý hiển, cớ sao mệnh gặp cơ hàn? Do không biết rằng ất canh hợp hóa kim trở lại phù trợ khắc thần. Trên nhật chủ giáp thìn(tức mệnh của họ Viên trên-ND), thìn thuộc thấp thổ có thể sinh mộc, còn mệnh này nhật chủ giáp tuất, tuất thuộc táo thổ không thể sinh giáp mộc; trên thân thìn củng hóa, còn tạo mệnh dưới thân tuất bán hội kim cục sinh sát khắc thân. Trên giáp mộc đang tiến khí, tức canh kim thoái khí, còn dưới canh kim tiến khí, giáp mộc thoái khí. Chọn lấy hai cách tạo mệnh trên , cách cục tự nhiên, cái cơ tiến thoái, không thể không biết vậy.

Lời người dịch:
Ở chương tri mệnh này, thánh nhân muốn nói đến cái dụng của tạo mệnh. Con người sống giửa trời đất, không hiểu mệnh như người lạc lối không phương hướng, hiểu biết và vận dụng được nó không những có thể giúp cho mình sang suốt không lầm lạc mà còn giúp cho mọi người hay cho cả thiên hạ thoát khỏi mông muội vậy. Đồng thời người cũng nhấn mạnh đến cái lý tiến thoái của âm dương ngũ hành, tiến tức sinh vượng, thoái tức hưu tù. Thế cho nên,” Lý thừa hành khởi hữu thường, tiến hề thoái hề nghi ức dương” vậy.

kimcuong
14-09-09, 23:20
Chắc có lẽ ducminh nôn nao quá nên khi chuyển bài sang diễn đàn mà không để ý có đoạn dịch sai:


người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy tài quan làm trọng, mà không biết rắng:”dụng thần tài tinh có thể dụng kiếp, dụng thần quan tinh có thể dụng thương quan, dụng thần ấn tinh có thể dụng tài, dụng thần thương thực có thể dụng kiêu.

Câu trên đã được chính tác giả vnn1269 sửa lại như sau:


Người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy tài quan làm trọng, mà không biết rắng:”chẳng dụng tài tinh có thể dụng kiếp, chẳng dụng quan tinh có thể dụng thương quan, chẳng dụng ấn tinh có thể dụng tài, chẳng dụng thương thực có thể dụng kiêu”.

Và tiêu đề của Chương 5 là Lý Khí, không phải là Lư Khí.

Dịch giả vnn1269 cũng đã bỏ công dịch đến chương 9 mà thôi. Còn các chương sau thì "chưa đến thời" được chuyển ngữ.

Ducminh
15-09-09, 10:23
Ok , em sẽ để ý kỹ hơn

Ducminh
16-09-09, 10:45
Chương 6: Phối Hợp
Phối hợp chi cơ tử tế tường, đinh nhân phúc họa dữ tai tường
Nguyên chú: thiên can địa chi, tương vi phối hợp, tử tế suy tường kỳ tiến thoái chi cơ, tắc khả dĩ đoán nhân chi họa phúc tai tường hĩ.
Dịch nghĩa:
Thiên can địa chi tương phối tương hợp, người học mệnh cần phải tế tâm suy tường cái cơ tiến thoái, mà có thể đoán định được họa phúc tai ương vậy.
Nhâm thị viết: thử chương nãi tích chi mậu chi yếu lĩnh dã. Phối hợp can chi, tất tu chính lý sưu tầm tường suy, dữ suy vượng hỉ kỵ chi lý, bất khả tương tứ trụ can chi phất luận, chuyên tòng kỳ cách, dị cục, thần sát đẳng loại vọng đàm, dĩ trí họa phúc vô bằng, cát hung bất nghiệm. Mệnh trung chí lý, chích tồn dụng thần, bất câu tài , quan, ấn thụ, bỉ kiếp, thực thương, kiêu kiếp, giai khả vi dụng, vật dĩ danh chi mỹ giả vi giai, ác giả vi tăng. Quả năng thẩm nhật chủ chi suy vượng, dụng thần chi hỉ kị, đương ức tắc ức, đương phù tắc phù, sở vị khứ lưu thư phối, thủ tài xác đương, tắc vận đồ phủ thái, hiển nhiên minh bạch, họa phúc tai tường, vô bất nghiệm hĩ.

Giáp tý - mậu thìn - canh thân - nhâm ngọ
Đại vận: kỷ tỵ canh ngọ tân mùi nhâm thân quý dậu giáp tuất ất hợi bính tý
Thử tạo dĩ luận tục chi, can thấu tam kỳ chi mỹ, chi phùng củng quý chi vinh, thả hữu hội cục bất trùng, quan tinh đắc dụng, chủ danh lợi song thu. Nhiên canh thân sinh vu quý xuân, thủy bản hưu tù, nguyên khả dụng quan, hiềm kỳ chi hội thủy cục, tắc khảm tăng kỳ thế, nhi ly thất kỳ uy, quan tinh tất thương, bất túc vi dụng. dục dĩ cường chúng địch quả nhi dụng nhâm thủy, canh hiềm tam kỳ thấu mậu, kiêu thâm đoạt thực, diệc nan tác dụng. giáp mộc chi tài, bản khả tá dụng, sơ thổ vệ thủy, tiết thương sinh quan, tự hồ hữu tình, bất tri giáp mộc thoái khí, mậu thổ đương quyền, nan dĩ sơ thông. Túng dụng giáp mộc, diệc thị giả thần, bất quá dong lục chi nhân. Huống vận tẩu tây nam giáp mộc hưu tù chi địa, tuy hữu tổ nghiệp, diệc nhất bại nhi tẫn, thả bất miễn hình thê khắc tử, cô khổ bất kham. Dĩ tam kỳ củng quý đẳng cách luận mệnh, nhi bất khán dụng thần giả, giai hư mậu nhĩ.
Càn tạo mệnh:
Bính tý - kỷ hợi - ất sửu - nhâm ngọ
Đại vận: canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ bính ngọ đinh mùi
Thử sơ tạo khán, nhất vô khả thủ, thiên can nhâm bính nhất khắc, địa chi tý ngọ diêu trùng, thả hàn mộc hỉ dương, chính ngọ thủy thế phiếm lạm, hỏa khí khắc tuyệt, tự hồ sdanh lợi vô thành. Dư tế thôi chi, tam thủy nhị thổ nhị hỏa, thủy thế tuy vượng, hỉ vô kim; hỏa bản hưu tù, hỉ hữu thổ vệ, vị nhân năng cứu mẫu; huong61 thiên can nhâm thủy sinh ất mộc, bính hỏasinh kỷ thổ, các lập môn hộ, tương xinh hữu tình, tất vô tranh vô khắc chi ý. Địa chi tuy bắc phương, nhiên hỉ kỷ thổ nguyên thầmn thấu xuất, thông căn lộc vượng, hổ tương tư hộ, kỳ thế túc dĩ chỉ thủy vệ hỏa, chính vị hữu bệnh đắc dược. thả nhất dương hậu vạn vật hoài thai, mộc hỏa tiến khí, dĩ thương quan tú khí vi dụng. trung niên vận tẩu đông nam, dụng thần sinh vượng, tất thị giáp đệ trung nhân. Giao dần, hỏa sinh mộc vượng,vận đăng giáp bản, nhập hàn uyển, thị dĩ thanh vân trực thượng. do thử lưởng tạo quan chi, phối hợp can chi chi lý, kỳ khả hốt hồ?

Dịch nghĩa:
Nhâm thị viết: chương này cốt làm sáng tỏ những sai lầm ngụy tạo. Phối hợp can chi, cần sưu tầm nghiệm suy chính lý, cùng vượng suy hỉ kị của ngũ hành, không thể không luận can chi tứ trụ, chuyên lấy kỳ cách dị cục, thần sát các loậi mà vọng đàm, mới biết họa phúc lấy chi làm bằng cớ, cát hung không nghiệm. cái lý của mệnh, tồn đọng ở dụng thần, chẳng nên phân biệt câu nệ tài, quan, ấn thụ, kiêu kiếp, thương thực, mà điều có thể làm dụng thần, cho rằng đẹp thì tốt cát lợi, ác tức xấu, tăng đạo. Nên cần nhất xem xét nhật chủ cường vượng, dụng thần hỉ kị, cần đè nén, ức chế thì đè nén ức chế, cần sinh phù thì sinh phù, do cái sự phối hợp qua lại mà xác định nên bỏ hay nên lấy, từ đó biết được vận đồ bỉ thái, họa phúc tai ương, chẳng không ứng nghiệm vậy.
Càn tạo mệnh:
Giáp tý - mậu thìn - canh thân - nhâm ngọ
Đại vận: kỷ tỵ canh ngọ tân mùi nhâm thân quý dậu giáp tuất ất hợi bính tý
Luận theo thói thường, thiên can thấu tam kỳ thì cát, địa chi quý nhân củng hợp là vinh, vả lại, thân tý thìn tam hợp hội cục không gặp xung, quan tinh đắc dụng, chủ danh lợi song toàn. Tuy nhiên canh kim sinh vào trọng xuân, thủy vốn hưu tù, nguyên có thể lấy quan tinh làm dụng thần, hiềm vì chi hội thủy cục, tất khảm thủy khí thế cường vượng, tức ly hỏa khí thế suy nhược, quan tinh thụ thương, không thể dùng làm dụng thần được. muốn lấy nhâm thủy vượng cực đối địch khắc thần, chỉ hiềm canh kim đắc tam kỳ thấu mậu, kiêu vượng đoạt thực, cũng không thể lấy làm dụng thần. giáp mộc tài tinh vốn có thể phù trợ dụng thần, làm thông thổ bảo vệ thủy, tiết thương sinh quan, tứ trụ dường như hữu tình, mà không biết rằng giáp mộc thoái khí, mậu thổ đưong quyền, không thể thông thổ. Lấy giáp mộc làm dụng thần, cũng là giả dụng thần, chẳng qua cũng chỉ là người bình thường mà thôi. Huống chi đại vận hành phương tây nam, giáp mộc ở đất hưu tù, tuy được của cải tổ nghiệp truyền lại, cũng bằng không, còn hình thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Lấy cách tam kỳ củng quý nhân luận mệnh, chẳng xem dụng thần sinh vượng, thật hư ngụy quá lắm.
Càn tạo mệnh:
Bính tý - kỷ hợi - ất sửu - nhâm ngọ
Đại vận: canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ bính ngọ đinh mùi
Thiên can nhâm thủy khắc bính hỏa, địa chi tý thủy xung khắc ngọ hỏa, hàn mộc hỉ dương, chính ngọ hỏa thủy thế vượng thịnh, tất hỏa khí bị khắc tuyệt, tựa hồ danh lợi không thành. Ta suy nghĩ, ba thủy hai thổ hai hỏa, thủy thế tuy vượng, không có nguồn; hỏa vốn hưu tù cần thổ bảo vệ che chở, nhân đó mà dược cứu; huống chi thiên can nhâm thủy sinh ất mộc, bính hỏa sinh kỷ thổ, đều lập nên môn hộ, tương sinh hữu tình, không có cái ý tương tranh tương khắc. Địa chi tuy cư bắc phương, nhưng hỉ kỷ thổ nguyên thần thấu xuất, thông căn lộc vượng, hổ tương che chở giúp đở, cần nên ngăn thủy bảo vệ hỏa, chính là có bệnh mà được cứu vậy. Với lại khí nhất dương vạn vật bắt đầu sinh sôi, mộc hỏa tiến khí, do đó thương quan dụng thần tú khí. Trung niên vận tẩu đông nam, dụng thần sinh vượng, tuổi trung niên thi đậu. Giao vận dần, hỏa sinh mộc vựơng, đăng khoa giáp bản, nhập cung vua, thanh vân đắc lộ vận trình tiến tới. Từ hai cách tạo mệnh trên cho thấy, phối hợp can chi có lý, có thể xem xét qua loa được ư?

Ducminh
18-09-09, 21:02
Chương 7: Thiên Can

Ngũ dương giai dương bính vi tối, ngũ âm giai âm quý vi chí

Nguyên chú: giáp, bính, mậu, canh, nhâm vi dương, độc bính hỏa bỉnh dương chi tinh, nhi vi dương trung chi dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý vi âm, độc quý thủy bỉnh âm chi tinh, nhi vi âm trung chi âm.

Dịch nghĩa:

Giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc dương, duy chỉ bính hỏa mang khí thuần dương, dương trong dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý thuộc âm, duy chỉ quý thủy mang khí thuần âm, âm trong âm.

Nhâm thị viết: bính nãi thuần dương chi hỏa, vạn vật mạc bất do thử nhi phát, đắc thử nhi liễm; quý nãi thuần âm chi thủy, vạn vật mạc bất đắcdo thử nhi sinh, đắc thử nhi mậu.

Dương cực tắc âm sinh, cố bính tân hóa thủy; âm cực tắc âm sinh, cố mậu quý hóa hỏa. âm dương tương tể, vạn vật hữu sinh sinh chi diệu. Phu thập can chi khí, dĩ tiên thiên ngôn chi, cố nhất nguyên đồng xuất, dĩ hậu thiên ngôn chi, diệc nhất khí tương bao. Giáp ất nhất mộc dã, bính đinh nhất hỏa dã, mậu kỷ nhất thổ dã, canh tân nhất kim dã, nhâm quý nhất thủy dã, tức phân biệt sở dụng, bất quá dương cương âm nhu, dương kiện ạm thuận nhi dĩ. Thiết quái mệnh gia tác ca vi phú, bỉ nghĩ thất luận, cánh dĩ giáp mộc vi lương đống, ất mộc vi hoa quả; bính tác thái dương, đinh tác đăng chúc; mậu tác thành tường, kỷ tác điền viên; canh vi ngoan thiết, tân tác châu ngọc; nhâm vi giang hà, quý nhi vũ lộ. tương duyên dĩ cửu, lao bất khả phá, dụng chi luận mệnh, thành đại mậu dã. như vị giáp vi vô căn tử mộc, ất vị hữu căn hoạt mộc, đồng thị mộc nhi phân sinh , khởi dương mộc độc bẩm tử khí, âm mộc độc bẩm sinh khí hồ? luận đoán chư can, như thử chi loại, bất nhất nhi túc, đương tẫn tị chi, dĩ tuyệt tương lai chi mậu.

Dịch nghĩa:
Bính thuộc hỏa khí thuần dương, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà phát triển, thu liễm; quý thuộc thủy khí thuần âm, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà sinh ra, tươi tốt. Dương cực thì âm sinh, do vậy bính tân hợp hóa thủy; âm cực thì dương sinh, do vậy mậu quý hợp hóa hỏa. Âm dương tương giao, vạn vật khéo sinh sôi vậy. Đến như khí của mười can, theo tiên thiên mà nói thì khí đó đồng nhất khí (tức là do âm dương nhị khí sinh ra vậy-ND), theo hậu thiên mà luận thì khí đó cũng do hai khí tương hợp nhau mà thành. Giáp ất thuộc mộc, bính đinh thuộc hỏa, mậu kỷ thuộc thổ, canh tân thuộc kim, nhâm quý thuộc thủy cũng do phân biệt thể dụng mà ra, nhưng cũng không ngoài cái khí âm nhu thuận, cái dương khí cương kiện đó. Các mệnh gia nông cạn, làm ra các bài phú tạo mệnh, với cách nghĩ sai lệch, cho rằng giáp mộc làm lương đóng, ất mộc làm hoa quả; bính hỏa thuộc thái dương, đinh hỏa thuộc đèn đuốc; mậu thổ làm thành quách, kỷ thổ tức điền viên; canh kim thuộc sắt cứng, tận kim thuộc châu ngọc; nhâm thủy thuộc sông ngòi, quý thủy thuộc mưa móc. Luận theo đó đã lâu, bền chắc không thể phá được. Ví như giáp dương mộc không gốc rể gọi là tử mộc, ất âm mộc có gốc rể gọi là hoạt mộc, cũng đồng một thứ mộc mà phân ra sinh tử, chẳng là dương mộc chỉ thụ khí tử tuyệt, còn âm mộc chỉ độc thụ khí sinh vượng hay sao? Luận đoán thiên can các loại thiếu sót, bất nhất,xa vời thực tế như thế, làm sai lầm cho người sau vậy.

Ducminh
18-09-09, 21:09
Ngũ dương tòng khí bất tòng thế, ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

Nguyên chú: ngũ dương đắc dương chi khí, tức năng thành hồ dương cương chi thế, bất úy tài sát chi thế; ngũ âm đắc âm chi thế, tức năng thành hồ âm thuận chi nghĩa, cố mộc thịnh tất tòng mộc, hỏa thịnh tất tòng hỏa, thổ thịnh tất tòng thổ, kim thịnh tất tòng kim, thủy thịnh tất tòng thủy. vu tình nghĩa chi sở tại giả, kiến kỳ thế suy, tất kị chi hĩ, cái phụ nhân chi tình dã. như thử, nhược đắc khí thuận lý chính giả, diệc vị tất tòng thế nhi vong nghĩa, tuy tòng diệc tất chính hĩ.

Dịch nghĩa:
Ngũ dương do thụ cái khí dương, mà thành thế dương cương, chẳng sợ tài sát; ngũ âm do thụ cái khí âm, mà thành thế âm thuận, thế cho nên mộc thịnh thì tòng mộc, hỏa thịnh thì tòng hỏa, thổ thịnh thì tòng thổ, kim thịnh thì tòng kim, thủy thịnh thì tòng thủy. Do theo tình nghĩa mà nương náu, gặp thế suy yếu thời hung kị, như người con gái theo chồng vậy. Thế cho nên, khi đặng cái khí thuận chính, mà tòng thế bỏ nghĩa, tuy tòng nhưng cũng thuận chính đó.

Nhâm thị viết: ngũ dương khí tỵ, quang hanh chi tượng dịch quan; ngũ âm khí hấp, bao hàm chi uẩn nan trắc. ngũ dương chi tính cương kiện, cố bất úy tài sát nhi hữu trắc ẩn chi tâm, kỳ xử thế bất cẩu thả; ngũ ạm nhi tính nhu thuận, cố kiến thế vong nghĩa, nhi hữu bỉ lận chi tâm, kỳ xử thế đa kiêu siểm. thị dĩ nhu năng khắc chế cương, cương bất năng chế khắc nhu dã. đại để xu lợi vong nghĩa chi đồ; giai âm khí chi vi lệ dã; hào hiệp khẳng khái chi nhân, giai dương khí chi độc chung. Nhiên thượng hữu dương trung chi âm, âm trung chi dương, hựu hữu dương ngoậi âm nội, âm ngoại dương nội, diệc đương biện chi. Dương trung chi âm, ngoại nhân nghĩa nhi nội gian trá; âm trung chi dương, ngoại âm hiển nhi nội nhân từ; dương ngoại âm nội giả, bao tàng họa tâm; âm ngoại dương nội giả bỉnh trì trực đạo. thử nhân phẩm chi đoan tà? Cố bất khả dĩ bất biện. yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành đình quân, thứ bất thiên ỷ, tự vô tổn nhân lợi kỷ chi tâm. Phàm trì thân thiệp thề chi đạo, xu tỵ tất tiên tri nhân, cố vân”trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi”, tức thử ý dã.

Dịch nghĩa:
Ngũ dương khí tán, có cái tượng sáng sủa hanh thông; ngũ âm khí hợp, bao hàm ẩn dấu khó lường. Khí ngũ dương tính cương kiện, chẳng sợ tài sát nên có lóng trắc ẩn, xử thế không cẩu thả; khí ngũ âm tính nhu thuận, theo lợi quên nghĩa, nên có cái lòng bỉ lận, xử thế nhiều kiêu căng nịnh nọt. Cái khí âm nhu này có thể khắc chế cái khí dương cương, chứ cái khí dương cương đó không thể khắc chế cái khí âm nhu được. Nói chung lệ là: “âm khí là hạng người thấy lợi quên nghĩa; còn dương khí là hạng người hào hiệp khẳng khái”. Như trên trong dương có âm, trong âm có dương, lại có ngoài dương mà trong âm, ngoài âm mà trong dương, theo đó mà luận bàn. Như ngoài thì dương mà bên trong thì âm tức hạng người ngoài thì nhân nghĩa mà lòng thì gian trá, tất có cái họa ần chứa bên trong; còn ngoài thì âm nhu mà trong thì dương cương tức hạng người ngoài thì trông có vẻ gian trá nhưng lòng thì nhân nghĩa bao dung cương trực. Cứ theo đó chẳng lẻ nào mà không biết được nhân phẩm đoan chính hay gian tà sao? Cho nên không thể không biện biệt cho tường tận vậy. Thiết yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành bình hòa, không nên thiên lệch không có chổ nương tựa, không làm lợi mình hại người. Phàm con người muốn giử được cái đạo thiệp thế, xu cát tỵ hung trước hết phải biết người, xưa có câu”nên phân biệt được cái thiện để mà theo”, là như vậy đó.

Ducminh
18-09-09, 21:11
Giáp mộc sâm thiên, thoát thai yếu hỏa. xuân bất dung kim, thu bất dung thổ. Hỏa sí thừa long, thủy đãng kị hổ. Địa nhuận thiên hòa, thực lập thiên cổ.

Nguyên chú: thuần dương chi mộc, tham thiên hùng tráng. Hỏa giả mộc chi tử dã, vượng mộc đắc hỏa nhi dũ phu vinh. Sinh vu xuân tắc khi kim, nhi bất năng dung kim dã; sinh vu thu tắc trợ kim, nhi bất năng dung thổ dã. dần ngọ tuất, bính đinh đa kiến nhi tọa thìn, tắc năng quy; thân tý thìn, nhâm quý đa kiến nhi tọa dần, tắc năng nạp. Sử thổ khí bất can, thủy khí bất tiêu, tắc năng trường sinh hĩ.

Dịch nghĩa:

Giáp vốn là mộc thuần dương, [trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất ư hùng tráng. Hỏa nhiều mộc bị chết cháy, vượng mộc mà đắc hỏa càng phú quý trọn đầy. Sinh vào mùa xuân mộc vượng kim suy mà không thể dung kim được; sinh vào mùa thu mộc suy kim vượng đi trợ kim không thể dung thổ được. Thấy dần ngọ tuất, bính đinh nhiều nhật chủ tọa chi thìn thổ có thể quy về; thấy thân tý thìn, nhâm quý nhiều nhật chủ tọa dần có thể thu nạp. Gía khiến không có thiên can khí thổ, cái thủy khí không nơi nào tiêu đi, tức năng trường sinh vậy.

Nhâm thị viết: giáp vi thuần dương chi mộc, thể bản kiên cố, tham thiên chi thế, hựu cực hùng tráng. Sinh vu xuân sơ, mộc nộn khí hàn, đắc hỏa nhi phát vinh; sinh vu trọng xuân, vượng cực chi thế, nghi tiết kỳ tinh anh. Sở vị cường mộc đắc hỏa, phương hóa kỳ ngoan. Khắc chi giả kim, nhiên kim chúc hưu tù, dĩ suy kim nhi khắc vượng mộc, mộc kiên kim khuyết, thế sở tất nhiên, cố xuân bất dung kim dã. sinh vu thu, thất thời tựu suy, đãn chi diệp tuy điêu lạc tiệm hi, căn khí khước thu liễm hạ đạt, thụ khắc giả thổ. thu thổ sinh kim tiết khí, tối vi hư bạc. dĩ hư khí chi thổ, ngộ hạ công chi mộc, bất năng hồi mộc chi căn, tất phản tao kỳ khuynh hãm, cố thu bất dung thổ dã. trụ trung dần ngọ tuất tòan, hựu thấu bính đinh, bất duy tiết khí thái quá, nhi mộc thả bị phần, nghi tọa thìn, thìn vi thủy khố, kỳ thổ thấp, thấp thổ năng sinh mộc tiết hỏa, sở v ị hỏa khí thừa long dã. thân tý thìn toàn hựu thấu nhâm quý, thủy phiếm mộc phù, nghi tọa dần, dần nãi hỏa thổ sinh địa, mộc chi lộc vượng, năng nạp thủy khí, bất trí phù phiếm, sở vị thủy đãng kị hổi dã. như quả kim bất duệ, thổ bất táo, hoả bất liệt, thủy bất cuồng, phi thực lập thiên cổ nhi đắc trường sinh giả tai!

Dịch nghĩa:

Giáp mộc thuộc khí thuần dương, thế vốn kiên cố, [ trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất hùng tráng. Sinh vào tháng sơ xuân (tháng dần-ND), khí mộc còn non yếu hàn lạnh, đắc hỏa mà phát quý; sinh vào tháng trọng xuân (tháng mão-ND), mộc khí vượng cực, cần nên tiết khí vượng đắc dụng. Sở dĩ mộc vượng đắc hỏa, mà kim trở nên cứng dòn. Kim khí hưu tù khắc mộc sinh vượng, mộc cứng kim bị khuyết, lý lẻ đương nhiên là thế, cho nên mới nói mộc mùa xuân không dung kim được vậy. Sinh vào mùa thu, giáp mộc khí suy, cành khô lá rụng, nguyên khí thu tàng thông suốt, mà khắc chế được thổ khí. Thổ mùa thu sinh kim tiết khí nhiều nên rất bạc nhược. do cái thổ khí hư nhược mà còn bị khí mộc ở dưới công phá, chẳng những không thể tài bồi cho khí mộc suy được, mà còn trở lại che lấp cái mộc khí suy đó nữa, cho nên giáp mộc mùa thu không thể dung thổ vậy. trong trụ dần ngọ tuất đầy đủ, trên can lại thấu bính đinh, chẳng là do mộc tiết khí thái quá, nên mộc bị cháy khô, như nhật chủ tọa thìn, thìn thuộc thủy khố, khí thuộc thấp thổ, mà có khả năng sinh mộc tiết khí hỏa vượng nên mộc được cứu, thế nên hỏa khí thừa long là vậy. thân tý thìn đầy đủ trên can lại thấu nhâm quý, thủy nhiều mộc bị trôi dạt, như nhật chủ tọa dần, địa chi dần tàng chứa can hỏa thổ là đất trường sinh, giáp lộc tại dần, nên có thể dung nạp được thủy dư, mà mộc không còn phù phiếm nữa, thế nên thủy đãng kị hổ là vậy. ví như kim không bén nhọn, thổ không khô cứng, hỏa không mãnh liệt, thủy không cuồng thịnh, thì cái vốn có nghìn năm không thể lâu dài được!

Ducminh
18-09-09, 21:12
ất mộc tuy nhu, khuê dương giải ngưu. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu. Đằng la hệ giáp, khả xuân khả thu.

Nguyên chú: ất mộc giả, sinh vu xuân như đào lí, hạ như hòa giá, thu như đồng quế, đông như kỳ ba. Tọa sửu mùi năng chế nhu thổ, như cát tể dương, giải cát ngưu nhiên, chích yếu hữu nhất bính đinh, tắc tuy sinh thân dậu nguyệt, diệc bất vị chi; sinh vu tý nguyệt, nhi hựu nhâm quý phát thấu giả, tắc tuy tọa ngọ, diệc năng phát sinh. Cố ích tri tọa sửu mùi nguyệt tri vi mỹ. Giáp dữ dần tự đa kiến, đệ tòng huynh nghĩa, thí chi đằng la phụ kiều mộc, bất úy chước phạt dã.

Dịch nghĩa:

Can ất thuộc mộc, sinh vào mùa thu như đào lý, mùa hạ như lúa mạ, mùa thu như cây đồng cây quế, mùa đông như hoa thơm cỏ lạ. Tọa sửu mùi có thể chế khắc nhu thổ, dể như giết dê mổ trâu, chủ yếu là có can bính đinh, tức tuy sinh vào tháng thân dậu, cũng chẳng lo chi; sinh vào tháng tý mà trên can lại thấu xuất nhâm quý thủy, mặc dù nhật chủ tọa ngọ cũng không có thể phát sinh được. Cho nên biết rằng tọa tháng sửu mùi thật là tốt đẹp vậy. Can giáp cùng chi dần xuất hiện nhiều trong trụ, thuận tòng theo huynh đệ, lấy dây cột vào cây cầu mà làm thí dụ, chẳng sợ bị chặt vậy.

Nhâm thị viết: ất mộc giả, giáp chi chất, nhi thừa giáp chi sinh khí dã. xuân như đào lí, kim khắc tắc điêu; hạ như hòa gia, thủy tư đắc sinh; thu như đồng quế, kim vượng hỏa chế; đông như kỳ ba, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vu xuân nghi hỏa giả, hỉ kỳ phát vinh dã; sinh vu hạ nghi thủy giả, nhuận địa chi táo dã; sinh vu thu nghi hỏa giả, sử kì khắc kim dã; sinh vu đông nghi hỏa giả, giải thiên chi đống dả. cát dương giải ngưu giả, sinh vu sửu mùi nguyệt, hoặc ất mùi ất sửu nhật, mùi nãi mộc khố, đắc dĩ bàn căn, sửu nãi thấp thổ, khả dĩ thụ khí dã. hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu giả, sinh vu thân dậu nguyệt, hoặc ất dậu nhật, đắc bính đinh thấu xuất thiên can, hữu thủy bất tương tranh khắc, chế hóa đắc nghi, bất úy kim cường. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu giả, sinh vu hợi tý nguyệt, tứ trụ vô bính đinh, hựu vô tuất mùi táo thổ, tức sử niên chi hữu ngọ, diệc nan phát sinh dã. thiên can thâu giáp, điậ chi dần tàng, thử vị thiên la hệ tùng bách, xuân cố đắc trợ, thu diệc hợp phù, cố khả xuân khả thu, ngôn tứ quý giai khả dã.

Dịch nghĩa:

Can ất thuộc mộc, là chất của giáp, do khí của giáp mà thành. Mùa xuân như đào lý, gặp kim được điêu khắc; mùa hạ như lúa mạ, gặp thủy tức được sinh; mùa thu như cây đồng cây quế, kim vượng được hỏa chế mộc được cứu; mùa đông như hoa thơm cỏ lạ, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vào mùa xuân gặp hỏa, tức phát quý vinh; sinh vào mùa hạ gặp thủy, đất được tươi nhuận khô ráo; sinh vào mùa thu gặp hỏa, khiến hỏa chế khắc kim khí mà không khắc mộc; sinh vào mùa đông gặp hỏa, giải bớt khí hàn lạnh. Cát dương giải ngưu, sinh vào tháng sửu mùi (tháng 12, 6-ND), hoặc ngày ất sửu ất mùi, mùi thuộc mộc khố, ất mộc có gốc, sửu thuộc thấp thổ, có thể nuôi dưỡng khí mộc. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu, như sinh vào tháng thân dậu(tháng 7, 8-ND), hoặc ngày ất dậu, mà trên can thấu xuất bính đinh, có thủy cũng không tương tranh, chế khắc đắc nghi, chẳng sợ kim cứng. Hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu, như sinh vào tháng hợi tý(tháng 10, 11-ND), tứ trụ không bính đinh, lại chẳng có chi tuất mùi táo thổ, ngay khiến như chi năm có chi ngọ, cũng không phát sinh được. Thiên can thấu giáp, địa chi tàng dần, gọi là mộc rừng cây tùng cây bách, mùa xuân được trợ giúp, mùa thu được hợp phù, cho nên nói xuân thu không sợ, bốn mùa chẳng kiêng vậy.

Ducminh
18-09-09, 21:13
Bính hỏa mãnh liệt, khi sương vũ tuyết. năng đoán canh kim, phùng tân phản khiếp. thổ chúng thành từ, thủy xương hiển tiết. hổ mã khiển hương, giáp mộc nhược lai, tất đương phần diệt(nhất bản tác hổ mã khuyển hương, giáp lai thành diệt).

Nguyên chú: hỏa dương tinh dã, bính hỏa chước dương chi chí, cố mãnh liệt, bất úy thu nhi khi sương, bất úy đông nhi vũ tuyết. canh kim tuy ngoan, lực năng đoán chi, tân kim bản nhu, hợp nhi phản nhựơc. Thổ kỳ tử dã, kiến mậu kỷ đa nhi thành từ ái chi đức; thủy kỳ quân dã, ngộ nhâm quý vượng nhi hiển trung tiết chi phong. Chí vu vị toại viêm thượng chi tính, nhi ngộ dần ngọ tuất tam vị giả, lộ giáp mộc tắc táo nhi phần diệt dã.

Dịch nghĩa:

Bính hỏa thuộc khí dương trong suốt, sáng tỏ, có cái khí thế mãnh liệt, không sợ khí sát của mùa thu và chẳng sợ tiết sương giáng, chẳng sợ khí mùa đông và vũ tuyết. Canh kim tuy cứng, nhưng không khắc chế bính hỏa được, tân kim vốn mền yếu, nhưng hợp bính hỏa mà thành nhu nhược. Thổ là con của bính, nên tứ trụ thấy nhiều mậu kỷ mà trở nên đức từ ái; thủy là vua của vạn vật, gặp nhâm quý vượng mà hiển hiện trung nghĩa tiết tháo vậy. Bính hỏa có tính cháy lớn mãnh liệt bốc lên cao, lại thêm địa chi gặp dần ngọ tuất, mà trên thiên can lộ giáp mộc tức mộc bị đốt cháy vậy.

Nhâm thị viết: bình nãi thuần dương chi hỏa, kỳ thế mãnh liệt, khi sương vũ tuyết, hữu trừ hàn giải đống chi công. Năng đoán canh kim, ngộ cường bạo nhi thi khắc phạt dã; phủng tân phản khiếp, hợp nhu thuận nhi ngụ hòa bình dã. thổ chúng thành từ, bất lăng hạ dã; thủy xương hiển tiết , bất viên thượng dã. hổ mã khuyển hương giả, chi tọa dần ngọ tuất, hỏa thế dĩ quá vu mãnh liệt, nhược tái kiến giáp mộc lai sinh, chuyển trí phần diệt dã. do thử luận chi, tiết kỳ uy, tu dụng kỷ thổ; át kỳ diễm, tất yếu nhâm thủy; thuận kỳ tính, hoàn tu tân kim. Kỷ thổ ti thấp chi thế, năng thu nguyên dương chi khí; mậu thổ cao táo, kiến bính hỏa nhi tiêu sách hĩ. Nhâm thủy cương trung chi đức, năng chế bạo liệt chi hỏa; quý thủy âm nhu, phùng bình hỏa nhi hạc kiến hĩ. Tân kim nhu nhuyễn chi vật, minh tác hợp nhi tương thân, ám hóa thủy nhi tương tể; canh kim cương kiện, cương hựu phùng cương, thế bất lưỡng lập. thử tuy cử nhi luận, nhiên thế sự nhân tình, hà mạc bất nhiên!

Dịch nghĩa:

Bính thuộc hỏa khí thuần dương, khí thế mãnh liệt, không sợ khí sương giáng vũ tuyết, có công năng trừ hàn sưởi ấm. Có thể khắc chế canh kim, giống như gặp cường bạo mà ra tay trừ diệt, gặp tân kim lại trở nên nhu hòa, bính tân hợp hóa nhu thuận có ý hòa hợp vậy. Thổ nhiều trở nên từ ái, mà không đè xuống dưới; thủy cuồng vượng hiển hiện, mà không vượt lên trên. Dần ngọ tuất là nơi hỏa địa, địa chi trong tứ trụ có dần ngọ tuất tức khí hỏa mãnh liệt, trong trụ còn có giáp mộc tư sinh tức mộc bị hỏa khí vượng thịnh đốt cháy vậy. Theo đó mà luận, để tiết chế bớt khí hỏa thịnh thì cần dụng thổ; để ngăn cản khí hỏa mãnh liệt thì cần dụng thủy; để làm cho khí hỏa nhu thuận thì cần dụng tân kim hợp hóa. Kỷ thổ khí thế ti thấp, có thể thu nguyên khí tư sinh của bính hỏa; mậu thổ khí thế khô táo, gặp bính hỏa mà trở nên khô cứng nứt nẻ vậy. Nhâm thủy có cái đức trung chính cương kiện, có thể chế khắc hỏa mãnh liệt; quý thủy âm nhu, gặp bính hỏa mãnh liệt mà bị cạn kiệt. Tân kim thể tính nhu nhuyễn, hợp hóa bính hỏa tương thân hóa thành thủy mà thành việc; canh kim cương cứng, cương gặp cương đều không thể toàn vẹn. Thế nên tuy đơn cứ mà luận mọi thế sự nhân tình, há chẳng phải là như vậy hay sao!

Ducminh
18-09-09, 21:15
Đinh hỏa nhu trung, nội tính chiêu dung. Bảo ất nhi hiếu, hợp nhâm nhi trung. Vựơng nhi bất liệt, suy nhi bất cùng, như hữu đích mẫu, khả thu khả đông.

Nguyên chú: đinh can chúc âm, hỏa tính tuy âm, nhu nhi đắc kỳ trung hĩ. Ngoại nhu thuận nhi nội văn minh, nội tính khởi bất chiêu dung hồ? ất phi đinh chi đích mẫu dã, ất úy tân nhi tân bảo chi, bầt nhược bính bảo giáp nhi phản năng phần giáp mộc dã, bất nhược ất bảo đinh nhi phản năng hối đinh hỏa dã, kỳ hiếu dị hồ nhân hĩ. Nhâm vi đinh chi chánh quân dã, nhâm úy mậu nhi đinh hợp chi , ngoại tắc phủ tuất mậu thổ, năng sử mậu thổ bất khi nhâm dã, nội tắc ám hóa mộc thần, nhi sử mậu thổ bất cảm kháng hồnhâm dã, kỳ trung dị hồ nhân hĩ. Sinh vu thu đông, đất nhất giáp mộc, tắc ỷ chi bất diệt, nhi diễm chí vô cũng dã, cố viết khả thu khả đông. Giai nhu chi đạo dã.

Dịch nghĩa:

Đinh thuộc can âm, hỏa tính tuy âm nhu nhưng được khí trung chính. Bên ngoài tuy nhu thuận nhưng bên trong rất sáng đẹp, cái tính bên trong há chẳng sáng rỏ hay sao? ất mộc không sinh được đinh hỏa, ất mộc tối úy tân kim nhờ có đinh hỏa khắc chế tân kim mà cứu ất, không giống như bính hỏa khắc chế canh kim bảo vệ giáp mộc mà còn trở lại đốt cháy mộc, cũng như ất mộc bảo vệ đinh hỏa mà trở ngược lại làm cho đinh hỏa mờ ám tối tăm, đó chẳng phải là trái với đạo hiếu thường sao. Nhâm là vua của đinh, nhâm thủy rất sợ mậu thổ mà đi hợp với đinh, cái đinh hỏa này bề ngoài có vẻ như sinh trợ mậu thổ, nhưng bên trong ngầm hợp với nhâm thủy hóa mộc khắc chế thổ, khiến cho thổ không thể khắc thủy được, điều đó chẳng là trái với cái đạo trung quân sao. Sinh vào mùa thu mùa đông, thiên can trong tứ trụ có một giáp mộc, tức hỏa có nguồn nên sáng đẹp vô cùng không lo sợ phải bị tắt ngấm, cho nên mới nói khả thu khả đông. Đó là cái đạo nhu vậy.

Nhâm thị viết: đinh phi đăng chúc chi vị, giác bính hỏa tắc nhu trung nhĩ. Nội tính chiêu dung giả, văn minh chi tượng dã. bảo ất nhi hiêú, minh sử tân kim bất thương ất mộc dã; hợp nhâm nhi trung, ám sử mậu thổ bất thương nhâm thủy dã. duy kỳ nhu trung, cố vô thái qúa bất cập chi lệ, tuy thời đương thừa vượng, nhi bất chí hách viêm; tức thời trị tựu suy, nhi bất chí vu tức diệt. can thấu giáp ất, thu sinh bất úy kim; chi tàng dần mão, đông sản bất kỵ thủy.

Dịch nghĩa:

Đinh chẳng phải là đèn đuốc, so với bính đinh hỏa thuộc khí nhu thuận trung chính vậy. Bên trong sáng đẹp, có cái tượng văn minh. Khắc chế tân kim bảo vệ ất mộc, tân kim không thể khắc ất mộc do đó mà ất mộc được cứu; hợp nhâm thủy hóa mộc bảo vệ thủy, mậu thổ không thể khắc được nhâm thủy cho nên nhâm thủy được cứu. Do tính nhu thuận trung chính, mà không đi đến thái quá hay bất cập, tuy thời khí đang thừa vượng cũng không cháy rực; gặp lúc thất thời khí suy cũng không tận diệt. Thiên can trong tứ trụ thấu giáp ất mộc, sinh mùa thu chẳng sợ kim cường, địa chi trong tứ trụ tang chứa dần mão mộc, sinh vào mùa đông giá rét không sợ thủy vượng.

Ducminh
27-09-09, 20:40
Mậu thổ cố trọng, ký trung thả chính.Tĩnh hấp đông tích, vạn vật ty mệnh. Thủy nhuận vật sinh, hỏa táo vật bệnh. Nhược tại cấn khôn, phạ trùng nghi tĩnh.

Nguyên chú: mậu thổ phi thành tường đê ngạn chi vị dã, giác kỷ đặc cao hậu cương táo, nãi kỷ thổ phát nguyên chi địa, đắc hồ trung khí nhi thả chính đại hĩ. Xuân hạ tắc khí tích nhi sinh vạn vật, thu đông tắc khí hấp nhi thành vạn vật, cố vi vạn vật chi ty mệnh dã. kỳ khí chúc dương, hỉ nhuận bất hỉ táo, tỏa dần phạ thân, tọa thân phạ dần. cài trùng tắc căn động, phi địa đạo chi chính dã, cố nghi tĩnh.

Dịch nghĩa:

Mậu thổ chẳng là tường vách, so với kỷ thổ mậu thổ có tính chất khô cứng cao hậu, cùng kỷ thổ là nơi phát nguyên đại địa, nên đắc được cái khí trung chính to lớn vậy. Mùa xuân mùa hạ thì khí phát tích mà sinh vạn vật, mùa thu mùa đông thì khí thu vào mà thành vạn vật, do vậy mà làm chủ vạn vật. Mậu thổ có tính khí thuộc dương, nên ưa thích nhuận trạch không thích khô táo, tọa dần sợ thân xung, tọa thân sợ dần xung. Nếu bị xung tức căn gốc bị động, chẳng là mất đi cái khí trung chính cho nên cần tĩnh không nên động vậy.

Nhâm thị viết: mậu vi dương thổ, kỳ khí cố trọng, cư trung đắc chính. Xuân hạ khí động nhi tỵ, tắc phát sinh, thu đông khí tĩnh nhi hấp, tắc thu tàng, cố vi vạn vật chi ty mệnh dã. kỳ khí cao hậu, sinh vu xuận hạ, hỏa vượng nhi thủy nhuận chi, tắc vạn vật phát sinh, táo tắc vật khô; sinh vu thu đông, thủy đa nghi hỏa noãn chi, tắc vạn vật hóa thành, thấp tắc vật bệnh. Cấn khôn giả, dần thân chi nguyệt dã. xuân tắc thụ khắc, khí hư nghi tĩnh; thu tắc đa tiết, thể bạc phạ trùng. Hoặc tạo dần thân nhật, diệc hỉ tĩnh kỵ trùng. Hựu sinh tứ quý nguỵêt giả, tối hỉ canh thân tân dậu chi kim, tú khí lưu hành, định vi quý cách, kỷ thổ diệc nhiên. Như trụ kiến mộc hỏa, hoặc hành vận ngộ chi, tắc phá hĩ.

Dịch nghĩa:

Mậu thuộc dương thổ, khí thế cố trọng, cư nơi trung chính. Mùa xuân mùa hạ khí động nên phát ra, tức khí phát sinh, mùa thu mùa đông khí tĩnh nên thu vào, tức khí thu tàng, do vậy mà làm chủ vạn vật. Có cái khí cao hậu, nên sinh vào mùa xuân mùa hạ hỏa khí thời vượng cần có thủy làm nhuận thổ, tắc vạn vật sinh sôi, khô táo tắc vạn vật chết khô; sinh vào mùa thu mùa đông, thủy nhiều cần hỏa sưởi ấm, tắc vạn vật hóa thành, thấp tắc vạn vật thụ bệnh. Sinh vào tháng dần nguyệt tọa cung cấn sinh vào tháng thân nguyệt tọa cung khôn. Thổ mùa xuân bị mộc khắc khí chất hư nhược cần nên tĩnh; thổ mùa thu bị tiết khí nhiều quá thể chất bạc nhược không nên gặp xung. Tứ trụ, nhật chủ tọa dần thân ưa thích yên tĩnh tối kỵ gặp xung. Như sinh vào bốn tháng tứ quý (thìn, tuất, sửu, mùi), tối hỷ nhật chủ canh thân tân dậu khí kim, tú khí lưu hành bất tận tắc đoán định quý cách, kỷ thổ cũng đồng như thế. Bằng như tứ trụ gặp mộc hỏa, hay vận hành hỏa mộc tắc phá cách vậy.

Kỷ thổ ty thấp, trung chính súc tàng. Bất sấu mộc thịnh, bất úy thủy cuồng. hỏa thiểu hỏa hối, kim đa kim quang. Nhược yếu vật vượng, nghi trợ nghi bang.

Nguyên chú: kỷ thổ ty bạc nhuyễn thấp, nãi mậu thổ chi diệp chi địa, , diệc chủ trung chính nhi năng súc tàng vạn vật. Nhu thổ năng sinh mộc, phi mộc sở năng khắc, cố bất sầu mộc thịnh; thổ thâm nhi năng nạp thủy, phi thủy sở năng đãng, cố bất úy thủy cuồng. vô căn chi hỏa, bất năng sinh thấp thổ, cố hỏa thiểu nhi hỏa phản hối; thấp thổ năng nhuận kim khí, cố kim đa nhi kim quang thải, phản thanh oánh khả quan. Thử kỳ vộ vi nhi hữu vi chi diệu dụng. nhược yếu vạn vật sung thịnh trường vượng, duy thổ thế thâm cố, hựu đắc hỏa khí nõan hòa phương khả.

Dịch nghĩa:

Kỷ thổ khí chất ẩm thấp mỏng manh, cùng mậu thổ là chổ phát nguyên đại địa, cũng có tính trung chính mà có khả năng nuôi dưỡng vạn vật. Nhu thổ có khả năng sinh mộc, chứ mộc không thể khắc được nhu thổ, do đó mà không lo mộc vượng; thổ sâu có thể chứa thủy, thủy không thể nhiều đồng đãng, do vậy mà không sợ thủy cuồng. Hỏa yếu không gốc chẳng những không thể sinh thấp thổ, mà ngược lại còn bị thổ làm cho mất sáng; thấp thổ có thể làm tươi nhuận khí kim, cho nên kim nhiều kim sáng, mà trở nên trong suốt ưa nhìn. Đó là vô vi lấy hữu vi làm diệu dụng vậy. Nhược bằng vạn vật sung thịnh cường vượng, chỉ có thổ thế thâm sâu, được hỏa khí sưởi ấm tắc bốn phương thuận hòa vậy.

Nhâm thị viết: kỷ thổ vi âm thấp chi địa, trung chính súc tàng, quán bát phương nhi vượng tứ quý, hữu tư sinh bất tức chi diệu dụng yên. Bất sầu mộc thịnh giả, kỳ tính nhu hòa, mộc tạ dĩ bồi dưỡng, mộc bất khắc dã. bất úy thủy cuồng giả, kỳ thể đoan ngưng, thủy đắc dĩ nạp tàng, thủy bất trùng dã. thủy thiểu hỏa hối giả, đinh hỏa dã, âm thổ năng liễm hỏa, hối hỏa dã. kim đa kim quang giả, tân kim dã, thấp thổ năng sinh kim, nhuận kim dã. trụ trung thổ khí thâm cố, hựu đắc bính hỏa khứ kỳ âm thấp chi khí, canh túc dĩ tư sinh vạn vật, sở vị nghi trợ nghi bang giả dã.

Dịch nghĩa:

Kỷ thổ thuộc đất ẩm ướt, khí thế trung chính tàng chứa, khí quán tám phương mà vượng bốn mùa, có cái công tư sinh diệu dụng không ngừng nghĩ vậy. Chẳng lo mộc thịnh, có tính nhu thuận cho nên tài bồi dưỡng mộc mà không khắc mộc. Chẳng sợ thủy cuồng, có tính chất ngưng đọng cho nên thủy có thể được dung nạp mà không xung khắc vậy. Thủy ít hỏa tối, đinh hỏa chẳng sinh âm thổ mà còn bị thấp thổ làm cho che lấp mất sáng. Kim nhiều kim sáng, thấp thổ có thể sinh kim, làm nhuận kim. Trong trụ thổ nhiều tức thổ dầy, lại còn được bính hỏa xua đẩy khí ẩm ướt, đủ để tư sinh vạn vật. Cho nên nói nghi trợ nghi bang là như thế.

Ducminh
27-09-09, 20:42
Canh kim đái sát, cương kiện vi tối. đắc thủy nhi thanh, đắc hỏa nhi duệ. Thổ thuận tắc sinh, thổ can tắc thúy. Năng doanh giáp huynh, thâu vu ất muội.

Nguyên chú: canh kim nãi thiên thượng chi thái bạch, đái sát nhi cương kiện. kiện nhi đắc thủy, tắc khí lưu nhi thanh; cương nhi đắc hỏa, tắc khí thuần nhi duệ. Hữu thủy chi thổ, năng tòan kỳ sinh; hữu hỏa chi thổ, năng sử kỳ thúy. Giáp mộc tuy cường, lực túc phạt chi; ất mộc tuy nhu, hợp nhi phản nhược.

Dịch nghĩa:

Canh kim trên trời là thái bạch kim tinh, tính cương kiện lại hay sát, kim vượng gặp thủy, tắc kim bạch thủy thanh dòng chảy không ngừng; kim cứng gặp hỏa, tắc khí tinh thuần mà sắc bén. Có thổ có thủy có thể tương sinh liên tục; có thổ có hỏa làm cho kim trở nên giòn yếu. Giáp mộc tuy cứng, nhưng có đủ sức khắc phạt; ất mộc tuy nhu nhưng hợp canh, canh kim trở nên nhu nhược.

Nhâm thị viết: canh nãi thu thiên túc sát chi khí, cương kiện vi tối. đắc thủy nhi thanh giả, nhâm thủy dã, nhâm thủy phat`1 sinh, dẫn thông cương sát chi tính, tiện giác thối lệ tinh oánh. Đắc hỏa nhi duệ giả, đinh hỏa dã, đinh hỏa âm nhu, bất dữ canh kim vi địch, lương dã tiêu dong, toại thành kiếm kích, hồng lô đoán luyện, thời lộ phong châm. Sinh vu xuân hạ, kỳ khí sảo nhược, ngộ sửu thìn chi thấp thổ tắc sinh, phùng mùi tuất chi táo thổ tắc thúy. Giáp mộc chính địch, lực năng phạt chi; dữ ất tương hợp, chuyển giác hữu tình. Ất phi tẫn hợp canh nhi trợ bạo, canh diệc phi tẫn hợp ất nhi phản nhược dã, nghi cường biện chi.

Dịch nghĩa:

Canh kim thuộc khí túc sát mùa thu, tính rất cương kiện. thủy được kim thì xanh trong, nhâm thủy có thể dẫn xuất canh kim sinh xuất thủy tinh anh. Canh kim được hỏa thì trở nên sắc bén, đinh hỏa khí âm nhu, không cùng với canh kim thù địch, mà còn đi trợ kim biến thành lò luyện nung nấu kiếm kích bén nhọn. sinh vào mùa xuân mùa hạ khí thế còn non yếu, gặp được chi sửu thìn thấp thổ tức được sinh, gặp chi mùi tuất táo thổ bị giòn yếu. canh kim đích thị là cừu địch của giáp mộc, có thể khắc phạt giáp mộc; cùng với ất mộc tương hợp mà trở nên hữu tình. Ất mộc không cùng canh hợp hóa đi trợ bạo, canh kim cũng chẳng phải cùng ất hợp hóa thành nhu nhược, cần nên tỏ tường biện bạch cho rỏ ràng vậy.


Tân kim nhuyễn nhược, ôn nhuận nhi thanh. úy thổ chi diệp, nhạc thủy chi doanh. Năng phù xã tắc, năng cứu sinh linh. Nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn tắc hỷ đinh.

Nguyên chú: tân nãi âm kim, phi châu ngọc chi vị dã. phàm ôn nhuyễn thanh nhuận giả, giai tân kim giả. Mậu kỷ thổ đa nhi năng mai, cố úy chi; nhâm quý thủy đa nhi tất tú, cố nhạc chi. Tân vi bính chi thần dã, hợp bính hóa thủy, sử bính hỏa thần phục nhâm thủy, nhi an phù xã tắc; tân vi giáp chi quân dã, hợp bính hóa thủy, sử bính hỏa bất phần giáp mộc, nhi cứu viên sinh linh. sinh vưu cữu hạ nhi đắc kỷ thổ, tắc năng hối hỏa nhi tồn chi; sinh vưu long đông nhi đắc đinh hỏa, tắc năng địch hàn nhi dưỡng chi. Cố tân kim sinh vưu đông nguyệt, kiến bính hỏa tắc nam mệnh bất quý, tuy quý diệc bất trung; nữ mệnh khắc phu, bất khắc diệc bất hòa. Kiến đinh nam nữ giai quý thả thuận.

Dịch nghĩa:

Tân thuộc âm kim, chẳng phải là châu ngọc. Đại phàm vật nhu nhuyễn thanh nhuận điều thuộc tân kim. Mậu kỷ thổ nhiều có thể bị chôn lấp, cho nên cũng không hay; nhâm quý thủy nhiều thì đẹp đẻ, cho nên mừng gặp. Tân kim lấy bính hỏa làm thần, hợp bính hỏa hóa thủy, khiến bính hỏa đi thần phục nhâm thủy mà phò trợ xã tắc; tân kim lấy bính hỏa làm vua, hợp bính hỏa hóa thành thủy sinh giáp, khiến cho bính hỏa không thể đốt cháy giáp mộc, mà cứu giúp sinh linh. Sinh vào cuối hạ còn gặp thổ tức có thể làm cho hỏa yếu tối mà bảo tồn tân kim; sinh vào cuối đông còn gặp đinh hỏa tức đinh hỏa có thể xua hàn sưởi ấm tân kim. Cho nên tân kim sinh vào tháng mùa đông gặp bính hỏa tắc nam mệnh không hiển quý, dù có hiển quý cũng không bền; nữ mệnh khắc phu, không thì cũng bất hòa. Gặp đinh hỏa nam nữ mệnh thải điều quý hiển vậy.

Nhâm thị viết: tân kim nãi nhân gian ngũ kim chi chất, cố thanh nhuận khả quan. Úy thổ chi diệp giả, mậu thổ thái trọng, nhi hạc thủy mai kim; nhạc thủy chi doanh giả, nhâm thủy hữu dư, nhi nhuận thổ dưỡng kim dã. tân vi giáp chi quân dã, bính hỏa năng phần giáp mộc, hợp nhi hóa thủy, sử bính hỏa bất phần giáp mộc, phản hữu tương sinhchi tượng; tân vi bính chi thần dã, bính hỏa năng sinh mậu thổ, hợp bính hóa thủy, sử bính hỏa bất sinh mậu thổ, phản hữu tương trợ chi mỹ. khởi phi phù xã tắc cứu sinh linh hồ? sinh vưu hạ nhi hỏa đa, hữu kỷ thổ tắc hối hỏa nhi sinh kim; sinh vưu đông nhi thủy vượng, hữu đinh hỏa tắc ôn thủy nhi dưỡng kim. Sở vị nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn đắc hỷ đinh dã.

Dịch nghĩa:
Tân thuộc khí kim ở chốn nhân gian, cho nên thanh nhuận dễ nhìn. Sợ thổ nhiều, thổ trọng mà thủy cạn kiệt kim bị chôn lấp; thủy đẹp đủ đầy, nhâm thủy có dư thừa mà có thể nhuận thổ dưỡng kim. Tân kim lấy giáp làm vua, bính hỏa có thể đốt cháy giáp mộc, may nhờ tân hợp bính hóa thủy khắc hỏa, khiến cho bính hỏa không thể đốt cháy giáp mộc, trở nên tương sinh; tân lấy bính làm thần, bính hỏa có thể sinh mậu thổ, tân hợp bính hóa thủy, khiến cho không thể sinh mậu thổ, trở nên tương trợ. Há không phải phò trợ xã tắc cứu sinh linh sao? Sinh vào mùa hạ mà gặp nhiều hỏa, tứ trụ có kỷ thổ tức hỏa yếu tối kỷ thổ có thể sinh kim; sinh vào mùa đông gặp lúc thủy vượng, gặp hỏa tức hỏa làm ấm thủy mà dưỡng kim. Vì vậy mà nói nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn tắc hỷ đinh là như thế.

Ducminh
27-09-09, 20:44
Nhâm thủy thông hà, năng tiết kim khí, cương trung chi đức, chu lưu bất trệ. Thông căn thấu quý, xung thiên bôn địa. hóa tắc hữu tình, tòng tắc tương tể.

Nguyên chú: nhâm thủy tức quý thủy chi phát nguyên, côn lôn chi thủy dã; quý thủy tức nhâm thủy chi quy túc, phù tang chi thủy dã. hữu phân hữu hợp, vận hành bất tức, sở dĩ vi bách xuyên giả thử dã, diệc vi vũ lộ giả thử dã, thị bất khả kỳ nhi nhị chi. Thân vi thiên quan, nãi thiên hà chi khẩu, nhâm thủy trường sinh vu thử, năng tiết tây phương kim khí. Chu lưu chi tính, trùng tiến bất trệ, cương trung chi đức do nhiên dã. nhược thân tý thìn toàn nhi hựu thấu quý, tắc kỳ thế trùng bôn, bất khả át dã. như đông hải bản phát đoan vu thiên hà, phục thành thủy họan, mệnh trung ngộ chi, nhược vô tài quan giả, kỳ họa đương hà như tai! Hợp đinh hóa mộc, hựu sinh đinh hỏa, tắc khả vị hữu tình; năng chế bính hỏa, bất sử kỳ đoạt đinh chi ái, cố vi phu nghĩa nhi vi quân nhân. Sinh vu cửu hạ, tắc tỵ, ngọ, mùi, thân hỏa thổ chi khí, đắc nhâm thủy huân chưng nhi thành vũ lộ, cố tuy tòng hỏa thổ, vị thường bất tương tể dã.

Dịch nghĩa:

Nhâm thủy tức là phát nguyên của quý thủy, là nước song côn lôn; quý thủy tức là nới quy về của nhâm thủy, là nước biển đông. Có phân có hợp, lưu chảy không ngừng, cho nên gọi là nước của trăm song, cũng là nước mưa móc thật khó mà phân biệt. Thân thuộc thiên quan, là nơi cửa sông thiên hà, vị trường sinh của nhâm thủy, có thể tiết chế khí kim túc sát tây phương. Có tính lưu chuyển chuyển động không ngừng, có đức tính cương trung tư nhiên vậy. Như trong tứ trụ có đủ thân tý thìn mà trên can còn thấu quý thủy, tức khí thế xung động mạnh, không thể ngăn cản nổi. Giống như nước biển đông vốn phát khởi ở thiên hà, trở thành họa thủy, trong tứ trụ bằng như gặp phải mà trong mệnh không có tài quan, tất gách lấy tai họa vậy thai! Nhâm hợp đinh hóa mộc mà sinh hỏa, có thể nói là hữu tình; nhâm thủy có thể chế bính hỏa chẳng khiến

Nhâm thị viết: nhâm vi dương thủy. thông hà giả, tức thiên hà dã, trường sinh tại thân, thân tại thiên hà chi khẩu, hựu tại khôn phương, nhâm thủy sinh thử, năng tiết tây phương túc sát khí, sở dĩ vi cương trung chi đứcdã. Bách xuyên chi nguyên, chu lưu bất trệ, dịch tiến nhi năng thoái dã. như thận tý thìn toàn, hựu thấu quý thủy, kỳ thế phiếm lạm, túng hữu mậu kỷ chi thổ, diệc bất năng chỉ kỳ lưu, nhược cường chế chi, phản trùng kíchnhi thành thủy họan, tất tu dụng mộc tiết chi, thuận kỳ khí thế, bất chí vu trùng bôn dã. hợp đinh hóa mộc, hựu năng sinh hỏa, bất tức chi diệu, hóa tắc hữu tình dã. sinh vu tứ, ngũ, lục nguyệt, trụ trung hỏa thổ thịnh vượng, biệt vô kim thủy tương trợ. Hỏa vượng thấu can tắc tòng hỏa, thổ vượng thấu can tắc tòng thổ, điều hòa nhuận trạch, nhưng hữu tương trợ chi công dã.

Dịch nghĩa:

Nhâm thuộc dương thủy. Là nước sông dài tức thiên hà, trường sinh tại thân, thân tức là cửa sông thiên hà, vị trí tại cung khôn, có thể tiết khí tây phương kim túc sát, cho nên gọi là cương trung chi đức vậy. Là nguồn phát nguyên của trăm sông, lưu chuyển không ngừng, di chuyển tiến tới không thoái lui. Như trong trụ tam hợp thân tý thìn đầy đủ, như lại còn thấu quý thủy, tất khí thế phiếm lạm, dù có mậu kỷ thổ cũng không có thể ngăn nổi dòng chảy, giống như lấy cương chế cương phản thành xung kích mà thành họa thủy, tất cần dụng mộc tiết chế bớt khí thế nhâm thủy, thuận theo khí thế chẳng nên xung động. Nhâm hợp đinh hóa mộc có thể sinh hỏa, diệu dụng vô cùng hợp hóa thật hữu tình. Sinh vào các tháng tư năm sáu, trong trụ hỏa thổ thịnh vượng, chẳng hề có kim thủy tương trợ. Hỏa vượng thấu can tắc tòng hỏa, thổ vượng thấu can tắc tòng thổ, điều hòa nhuận trạch, nhân đó mà có cái công tương trợ vậy.

Quý thủy chí nhược, đạt vu thiên tân. Đắc long nhi vận, công hóa tư thần. Bất sầu hỏa thổ, bất luận canh tân. Hợp mậu kiến hỏa, hóa tượng tư chân.

Nguyên chú: quý thủy nãi âm chi thuần nhi chí nhược, cố phù tang nhược thủy dã. Đạt vu thiên tân, tùy thiên nhi vận, đắc long dĩ thành vân vũ, nãi năng nhuận trạch vạn vật, công hóa tư thần. Phàm trụ trung hữu giáp ất dần mão, giai năng vận thủy khí, sinh mộc chế hỏa, nhuận thổ dưỡng kim, định vi quý cách, hỏa thổ tuy đa bất úy. Chí vu canh kim, tắc bất tại kỳ sinh, diệc bất kị kỳ đa. Duy hợp mậu thổ hóa hỏa dã, mậu sinh dần, quý sinh mão, giai chúc đông phương, cố năng sinh hỏa. Thử cố nhất thuyết dã, bất tri địa bất mãn đông nam, mậu thổ chi cực xử, tức quý thủy chi tận xử, nãi thái dương khởi phương dã, cố hóa hỏa. Phàm mậu quý đắc bính đinh thấu giả, bất luận vượng suy, thu đông giai năng hóa hỏa, tối vi chân dã.

Dịch nghĩa:

Quý thủy thuộc khí thuần âm mà khí thế cực nhược, nên gọi là nước biển phù tang. Thông đến bến trời, tùy theo thời hành vận, gặp long mà hóa vân vũ, có công năng làm nhuận trạch muôn loài, làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở. Phàm trong trụ có giáp ất dần mão mộc, lại còn gặp thủy vận, thủy vừa chế hỏa vừa sinh mộc lại nhuận thổ dưỡng kim, cho là quý cách, dù cho có hỏa thổ nhiều cũng không lo sợ. Đến như canh kim, chẳng sinh được quý thủy nhưng cũng không sợ kim nhiều. Duy quý thủy hợp mậu thổ hóa hỏa, mậu trường sinh tại dần, quý trường sinh tại mão, đều thuộc mộc phương đông, cho nên nói mậu quý hợp hóa hỏa vậy. Có thuyết nói: “Nhiều người không biết rằng đất phương đông nam bốn bề khuyết hãm, mậu thổ vị ở cực cao, tức quý thủy vị ở cực thấp, là nơi vầng dương bắt đấu ló dạng, cho nên mậu quý hợp hóa hỏa vậy”. Phàm mậu quý gặp bính đinh thấu can, chẳng cần luận vượng suy, sinh vào mùa thu mùa đông đều luận hóa hỏa, thật là chân lý luận vậy.

Nhâm thị viết: quý thủy chi vũ lộ chi vị, nãi thuần âm chi thủy. phát nguyên tuy trường, kỳ tích cực nhược, kỳ thế tối tĩnh, năng nhuận thổ dưỡng kim, phát dục vạn vật, đắc long nhi vận, biến hóa bất trắc. Sở vị phùng long tức hóa, long tức thìn dã, phi chân long nhi năng biến hóa dã. Đắc thìn nhi hóa giả, hóa thần chi nguyên thần phát lộ dã, phàm thập can phùng thìn vị, tất can thấu hóa thần, thử nhất định bất dịch chi lý dã. Bất sầu hỏa thổ giả, chí nhược chi tính, kiến hỏa thổ đa tức tòng hóa hỷ; bất luận canh kim giả, nhược thủy bất năng tiết kim khí, sở vị kim đa phản trọc, quý thủy thị dã. Hợp mậu kiến hỏa giả, âm cực tắc dương sinh, mậu thổ táo hậu, trụ trung đắc bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, nãi vi chân dã. Nhược thu đông kim thủy vượng địa, túng thủy chi ngộ thần long, can thấu bính đinh, diệc nan tòng hóa, nghi tế tường chi.

Dịch nghĩa:

Quý thủy thuộc mưa mốc, là thủy thuần âm. Phát nguyên tuy trường nhưng tính lại nhược, khí thế cực tĩnh lặng, có thể nhuận thổ dưỡng kim, sinh sôi và phát triển vạn vật, gặp long vận biến hóa khó lường. Sở dĩ gặp long mà hóa là do long là thìn, chẳng phải chân long (tức thìn) thì không thể hóa. Gặp thìn thì hóa, hóa thần là nguyên thần phát lộ, phàm thập can gặp chi thìn, tức can thấu thần, cái luận lý ấy bất di bất dịch vậy. Bất sầu hỏa thổ, quý thủy khí thế cực nhược, gặp hỏa thổ nhiều tức tòng hóa; bất luận canh kim, quý thủy không thể tiết khí được canh kim, thế cho nên kim nhiều thủy trở nên đục. Quý thủy hợp mậu hóa hỏa, âm cực tức dương sinh, mậu thổ khí khô dày, trong trụ trên can thấu lộ bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, đều là lý luận chân chính vậy. Sinh vào mùa thu mùa đông kim thủy vượng địa, trong tứ trụ địa chi có chi thìn thổ, thiên can thấu bính đinh cũng không thể hóa được, cho nên cần phải tế phân cho tường tận vậy.

Ducminh
27-09-09, 20:46
Chương 8. Địa Chi

Dương chi động thả cường, tốc đạt hiển tai tường; âm chi tĩnh thả chuyên, phủ thái mỗi kinh niên.

Nguyên chú: tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, dương dã, kỳ tính động, kỳ thế cường, kỳ phát chí tốc, kỳ tai tường chí hiển; sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi, âm dã, kỳ tính tĩnh, kỳ khí chuyên, phát chi bất tốc, nhi phủ thái chi nghiệm, mỗi chí kinh niên nhi hậu tiến.

Dịch nghĩa:

Địa chi tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất thuộc dương tính động, khí thế cương mãnh lại phát cực nhanh, họa phúc hiển hiện rỏ ràng; địa chi sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi thuộc âm tính tĩnh, khí chất chuyên nhất lại phát chậm, việc bỉ thái hiển hiện không rỏ ràng, thường trong năm sau mỗi chí mới thấy hiển hiện.

nhâm thị viết: địa chi hữu dĩ tý chí tỵ vi dương, ngọ chi 1 hợi vi ậm giả, thử tòng đông chí dương sinh, hạ chí âm sinh luận; hữu dĩ dần chí mùi vi dương, thân chí sửu vi âm giả,thử phân mộc hỏa vi dương, kim thủy vi âm dã. mệnh gia dĩ tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất vi dương, sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi vi âm. Nhược tý tòng quý, ngọ tòng đinh, thị thể dương nhi dụng âm dã; tỵ tòng bính, hợi tòng nhâm, thị thể âm nhi dụng dương dã. phân biệt thủ dụng, diệc nhi cương nhu kiện thuận chi lý, dữ thiên can vô dị, đãn sinh khắc chế hóa, kỳ lý đa đoan, cái nhất chi sở tàng hoặc nhị kiền, hoặc tam kiền cố nhĩ. Nhiên dĩ bản khí vi chủ, dần tất tiên giáp nhi hậu cập bính, thân tất tiên canh nhi hậu cập nhâm, dư chi giai nhiên. Dương chi tính động nhi cường, cát hung nhi nghiệm hằng tốc; âm chi tính tĩnh nhi nhược, họa phúc chi ứng chi ứng giác trì. Tại cục tại vận, quân dĩ thử ý tiêu tức chi.

Dịch nghĩa:

Địa chi từ tý đến tỵ thuộc dương, từ ngọ đến hợi thuộc âm, do luận theo đông chí khí dương sinh, hạ chí khí âm sinh; địa chi từ dần đến mùi thuộc dương, thân đến sửu thuộc âm, do phép phân chia theo mộc hỏa thuộc dương, kim thủy thuộc âm vậy. Các mệnh gia lấy tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất thuộc dương, sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi thuộc âm. Như tý tàng quý, ngọ tàng đinh, như thế thể dương lấy âm làm dụng; tỵ tàng bính, hợi tàng nhâm, như thế âm lấy dương làm dụng. Việc phân biệt thủ dụng cũng giống như cái lý cương kiện nhu thuận cùng với thiên can thật không khác, các việc sinh khắc chế hóa, sự lý thật đa đoan, điều quan trọng là địa chi sở tàng hoặc hai can, hoặc ba can đó vậy. Tất nhiên lấy trong các can tàng đó lấy can bản khí làm chính, địa chi dần tất trước tiên lấy giáp sau đó mới tới bính, địa chi thân tất trước tiên lấy can canh sau đó mới tới nhâm, dư các địa chi tàng can điều luận như thế cả. Địa chi thuộc dương tính động mà cứng mạnh, cát hung hiển hiện rỏ ràng nhanh chóng; địa chi thuộc âm tính tĩnh mà mền yếu, họa phúc hiển hiện không rỏ ràng chậm chạp. Trong mệnh cục hay tại vận trình, cần sự quân bình ý cầu tiêu tức vậy.

Ducminh
27-09-09, 20:50
Sinh phương phạ động nghi khai, bại địa phùng xung tử tế suy.

Nguyên chú: dần, thân, tỵ, hợi sinh phương dã, kỵ xung động; thìn, tuất, sửu, mùi tứ khố dã, nghi xung khai. Tý, ngọ, mão, dậu tứ bại dã, hữu phùng hợp nhi hỷ xung giả, bất nhược sinh địa chi tất bất khả xung dã; hữu phùng xung nhi hỷ hợp giả, bất nhược khố điạ chi tầt bất khả nhàn dã. tu tử tế tường chi.

Dịch nghĩa:

Địa chi dần, thân, tỵ, hợi thuộc phương trường sinh, kỵ xung động; thìn, tuất, sửu, mùi thuộc phương mộ địa, cần nên xung khai. Tý, ngọ, mão, dậu thuộc phương tứ bại, gặp hợp tối hỷ nên xung, cho nên phương trường sinh không thể gặp xung; nếu bị xung cần gặp hợp phù, cũng như thế phương mộ địa thì không thể không gặp xung [vì mộ không xung không phát]. Cần nên biện bạch cho rỏ ràng.

Nhâm thị viết: cựu thuyết vân, kim thủy năng xung mộc hỏa, mộc hỏa bất năng xung kim thủy, thử luận thiên can tắc khả, luận địa chi tắc bất khả. Cái địa chi chi khí đa bất chuyên, hữu tha khí tàng tại nội dã. tu khán tha khí thừa quyền đắc thế, tức mộc hỏa diệc khởi bất năng xung kim thủy hồ? sinh phương phạ động giả, lưỡng bại câu thương dã. giả như dần thân phùng xung, thân trung canh kim, khắc dần trung giáp mộc, dần trung bính hỏa, vị thường bất khắc thân trung canh kim; thân trung nhâm thủy, khắc dần trung bính hỏa, dần trung mậu thổ, vị thường bất khắc thân trung nhâm thủy. Chiến khắc bất tĩnh cố dã. khố nghi khai giả, nhiên diệc hữu nghi bất nghi, tường tại tạp khí chương trung. Bại địa phùng xung tử tế thôi giả, tý, ngọ, mão, dậu chi chuyên khí dã, dụng kim thủy tắc khả xung, dụng mộc hỏa tắc bất khả xung. Nhiên diệc tu hoạt khán, bất khả chấp nhất. thảng dụng xuân hạ chi kim thủy, tắc kim thủy chi khí hưu tù, mộc hỏa chi thế vượng tướng, kim thủy khởi bất phản thương hồ? nghi tham cứu chi.

Giáp dần - nhâm thân - quý tỵ - quý hợi

Đại vận: Quý dậu giáp tuất kỷ hợi bính tý đinh sửu mậu dần kỷ mão canh thìn

thu thủy thông nguyên, kim đương lệnh, thủy trọng trọng, mộc tù phùng xung, bất túc vi dụng. hỏa tuy hưu nhi khẩn thiếp nhật chi, huống thu sơ dư khí vị tức, dụng thần tất tại tỵ hỏa. tỵ hợi phùng xung, quần kiếp phân tranh, sở dĩ liên khắc tam thê, vô tử. kiêm chi vận tẩu bắc phương thủy địa, dĩ trí phá háo dị thường; chí mậu dần kỷ mão, vận chuyển đông phương, hỷ dụng hợp nghi, đắc kỳ ôn bão; canh vận chế thương sinh kiếp, hựu phùng dậu niên, hỷ dụng lưỡng thương, bất lộc.

Quý tỵ - quý hợi - giáp dần - nhâm thân

Đại vận: Nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ

giáp dần nhật nguyên, sinh vu mạnh đông, hàn mộc tất tu dụng hỏa. trụ trung tứ phùng vượng thủy thương dụng, vô thổ chỉ định, tự hồ bất mỹ, diệu tại dần hợi lâm hợp, tỵ hỏa tuyệt xứ phùng sinh, thử tức hưng phát chi cơ. Nhiên sơ vận tây phương kim địa, hữu thương thể dụng, lục lục phong sương, bôn trì vị ngộ; tứ tuần ngoại chuyển nam phương hỏa thổ chi địa, trợ khởi dụng thần, khí ấn thụ tài, tài phát sổ vạn, thú thiếp, liên sinh tứ tử. do thị quan chi, ấn thụ tác dụng, phùng tài vi họa bất tiểu, bất như tựu tài, phát phúc tối đại.

Tân mão - đinh dậu - mậu tý - mậu ngọ

Đại vận: Bính thân ất mùi giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão

thương quan dụng ấn, hỷ thần tức thị quan tinh, phi tục luận thổ kim thương quan kỵ quan tinh dã. mão dậu xung, tắc ấn thụ vô sinh trợ chi thần; tý ngọ xung, sử thương quan đắc dĩ tứ sinh. Địa chi kim vượng thủy sinh, mộc hỏa xung khắc dĩ tẫn, thiên can hỏa thổhu thoát, dĩ trí độc thư vị toại, lục lục kinh doanh. Nhiên hỷ thủy bất thấu, vi nhân văn giải phong lưu, tinh vu thư pháp. Canh kim trung vận thiên can kim thủy, vị miễn hữu chí nan thân. Phàm thương quan bội ấnhỷ dụng tại mộc hỏa giả, kỵ kiến kim thủy dã.

tân mùi - tân sửu - mậu thìn - nhâm tuất

Đại Vận: Canh tý kỷ hợi mậu tuất đinh dậu bính thân ất mùi

thử tạo phi chi toàn tứ khố chi mỹ, sở hỷ giả tân kim thổ tú, sửu trung nguyên thần thấu xuất, tiết kỳ tinh anh, canh diệu mộc hỏa phục nhi bất kiến, thuần thanh bất hỗn. Chí dậu vận, tân kim đắc địa, trung hương bảng; hậu nhân vận hành nam phương, mộc hỏa tịnh vượng, dụng thần chi tân kim thụ thương, do cư nhi tiến, nhi bất năng tuyển.

Mậu thìn - nhâm tuất - tân mùi - kỷ sửu

Đại vận: Quý hợi giáp tý ất sửu bính dần đinh mão mậu thìn

thử mãn cục ấn thụ, thổ trọng kim mai, nhâm thủy dụng thần thương tẫn, mùi thần tuy tàng ất mộc vô xung, hoặc khả tá dụng, dĩ đãi vận lai dẫn xuất, nãi bị sữu tuất xung phá, tứ khố tất yếu xung giả, chấp nhất chi luận dã, tòan tại thiên can điều tề đắc nghi, canh tu dụng thần hữu lực, tuế vận phụ trợ, thứ vô thiên khô chi bệnh dã.

Dịch nghĩa:

Thuyết xưa nói: kim thủy có thể xung khắc mộc hỏa, mộc hỏa không có thể xung khắc kim thủy, ấy là có thể luận theo thiên can như thế thì được, chứ còn luận theo địa chi thì không thể được. Bởi vì cái địa chi trong mang nhiều hành khí sở tàng không đơn nhất như thiên can. Cần nên xem xét đến cả cái thừa khí đương quyền đắc dụng, như vậy mộc hỏa cũng không thể xung khắc kim thủy được hay sao? Còn như phương trường sinh gặp xung động, tức lưỡng bại câu thương. Ví như dần thân gặp xung, trong thân tàng chứa canh kim, khắc giáp mộc trong dần, trong địa chi dần tàng chứa bính hỏa, vị thường chẳng khắc canh kim trong thân; nhâm thủy tàng trong thân, khắc bính hỏa trong chi dần, mậu thổ trong dần vị thường chẳng khắc nhâm thủy trong thân. Cho nên gặp xung khắc thì không thể yên tĩnh được. Địa chi tứ khố thì cần nên xung khai, tuy nhiên cũng có khi cần nên xung khai cũng có lúc thì không nên gặp xung, rỏ là do tạp khí tàng chứa trong nó cả. Tứ bại địa gặp xung cần nên suy tường cẩn trọng, địa chi tý, ngọ, mão, dậu tàng chứa duy chỉ có nhất khí, cho nên dụng kim thủy có thể bị xung, dụng mộc hỏa không thể bị xung. Tuy nhiên cũng cần nên linh hoạt mà luận đoán, không nên cứng nhất. Thảng như sinh vào mùa xuân mùa hạ lấy kim thủy làm dụng thần, tức kim thủy thuộc khí hưu tù tử tuyệt, mộc hỏa khí thế vượng tướng, kim thủy không thể thươg khắc ngược trở lại hay sao? Cần nên tham cứu cho tường tận.

Giáp dần - nhâm thân - quý tỵ - quý hợi

Đại vận: quý dậu giáp tuất kỷ hợi bính tý đinh sửu mậu dần kỷ mão canh thìn

Quý thủy sinh vào mùa thu kim đương lịnh, nên kim thủy thông nguyên, thủy nhiều mà vượng, mộc gặp xung không thể dùng làm dụng thần. Hỏa tuy hưu tù nhưng đứng cạnh nhật nguyên, huống hồ mới bắt đầu vào thu hỏa khí còn đầy đủ, dụng thần tất là tại tỵ hỏa. Tỵ hợi phùng xung, quần kiếp phân tranh, cho nên ba lần khắc vợ không con. Lại còn hành vận liên tục bắc phương tý hợi thủy khắc thần vượng địa, nhân đó mà phá hoại hao tán khác thường; đến đại vận mậu dần kỷ mão vận chuyển đông phương, hỷ dụng thần hợp đắc cách tứ trụ trở nên ấm áp; canh vận chế thương quan sinh kiếp tài, lại còn gặp lưu niên dậu, hỷ dụng thần bị thương khắc liên tiếp nên thất lộc.

Quý tỵ - quý hợi - giáp dần - nhâm thân

Đại vận: Nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ

Nhật nguyên giáp dần mộc sinh vào mùa đông, hàn tất cần lấy hỏa làm dụng thần. Tứ trụ lại còn gặp hai can quý thủy thương khắc dụng thần, không có ngũ hành thổ chế thủy dưỡng mộc, tứ trụ tựa như không được đẹp, cái hay ở đây là địa chi dần hợi hợp hóa mộc, tị hỏa tuyệt xứ phùng sinh, ấy là động cơ làm hưng phát tứ trụ vậy. Tuy nhiên hành đại vận ban đầu tây phương kim vượng thương khắc dụng thần phù trợ khắc thần, là bại vận nên cuộc sống thấp hèn phong sương ngày đây mai đó; nhân tuổi ngoài 40 vận chuyển nam phương hỏa thổ vận vượng, phù trợ dùng thần, ấn tinh gặp tài phát tài hơn vạn, cưới vợ sinh con liên tiếp 4 đứa. Do đó mà thấy rằng:”ấn thụ tác dụng, phùng tài vi họa không ít, không như tựu tài tinh, phát phúc thật lớn”.

Tân mão - đinh dậu - mậu tý - mậu ngọ

Đại vận: Bính thân ất mùi giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão.

Thương quan dụng ấn cách, tất lấy quan tinh làm dụng thần, không như tục luận thổ kim thương quan kỵ quan tinh. Địa chi mão dậu gặp xung, tức ấn thụ là thần vô sinh trợ; địa chi tý ngọ gặp xung khiến thương quan được tứ sinh. Địa chi kim vượng sinh thủy, mộc hỏa xung khắc mà hết lực, thiên can hỏa thổ hư khí còn bị thoát khí, nhân thế mà đọc sách chưa toại chí, kinh doanh bình thường. Tuy nhiên mừng khắc thần thủy không thấu ra, nên là văn nhân văn chương phong lưu, tinh tường thư pháp. Canh kim trung vận thiên can kim thủy, dù có chí nhưng không thành thân. Phàm thương quan bội ấn hỷ dụng thần tại mộc hỏa, tối kỵ xuất hiện kim thủy vậy.

Tân mùi - tân sửu - mậu thìn - nhâm tuất

Đại vận: Canh tý kỷ hợi mậu tuất đinh dậu bính thân ất mùi.

Tứ trụ địa chi toàn tứ khố, mừng lấy tân kim tiết khí thồ mà làm cho thổ trở nên tú khí, địa chi nguyên thần sửu thổ trong trụ tinh anh, với lại cái hay là mộc hỏa phục mà không thấu xuất, thuần thanh mà không hổn tạp. đến đại vận dậu, tân kim đắc địa, đậu hương bảng; nhân vận hành nam phương mộc hỏa tịnh vựơng, dụng thần tân kim thụ thương, mặc dù được tiến cử nhưng không được tuyển dụng.

Mậu thìn - nhâm tuất - tân mùi - kỷ sửu

Đại vận: Quý hợi giáp tý ất sửu bính dần đinh mão mậu thìn.

Tứ trụ toàn cục ấn thụ, thổ nhiều kim bị chôn lấp, nhâm thủy dụng thần bị thổ vượng khắc hết, nếu như địa chi mùi tàng can ất mộc không bị xung phá có thể lấy làm dụng thần, mà chờ vận đến mà dẫn xuất phò trợ nhật nguyên, tuy nhiên địa chi mùi bị sửu tuất xung phá, tuy tứ khố tất cần nên xung khai, nhưng chớ chấp nhất theo đó mà luận, mà còn cần nên xem xét cái được mất của thiên can nữa, dụng thần hữu lực, tuế vận phò trợ, kế đến là tứ trụ không được thiên khô vậy.

Ducminh
01-10-09, 21:43
Chi thần chích dĩ xung vi trọng, hình dữ xuyên hề động bất động

Nguyên chú: xung giả tất thị tương khắc, cập tứ khố huynh đệ chi xung, sở dĩ tất động; chí vu hình xuyên chi gian, hựu hữu tương sinh tương hợp giả tồn, sở dĩ hữu động bất động chi dị.

Dịch nghĩa:

Xung tức tương khắc, cùng tứ khố huynh đệ gặp xung, do đó mà động; đến như tương hình tương hại, là do có tương sinh tương hợp mà tồn tại, vì vậy mà nói xung động và xung bất động có cái lý lẽ khác nhau.

Nhâm thị viết: Địa chi phùng xung, do thiên can chi tương khắc dã, tu thị kỳ cường nhược hỷ kỵ nhi luận chi. Chí vu tứ khố chi xung, diệc hữu nghi bất nghi, như tam nguyệt chi thìn , ất mộc ti lệnh, phùng tuất xung, tất tuất trung tân kim, diệc năng thương ất mộc; lục nguyệt chi mùi, đinh hỏa ti lệnh, phùng sửu xung, tắc sửu trung quý thủy, diệc năng thương đinh hỏa. Án tam nguyệt chi ất, lục nguyệt chi đinh, tuy chúc thối khí, nhược đắc ti lệnh cánh khả vi dụng, xung tắc thụ thương, bất túc dụng hỹ. Sở vị mộ khố phùng xung tắc phát giả, hậu nhân chi mậu dã. mộ giả, phần mộ chi ý; khố giả, mộc hỏa kim thủy thu tang mai căn chi địa, thí như đắc khí chi phần, vị khai động nhi phát phúc giả dã. Như mộc hỏa kim thủy chi thiên can, địa chi vô dần, mão, tỵ, ngọ, thân, dậu, hợi, tý chi lộc vượng, toàn tại thìn tuất sửu mùi chi thân khố thong căn, phùng xung tắc vi căn bát tẫn, vị hữu xung động nhi cường vượng giả dã. như bất dụng ty lệnh, dĩ thổ nhi hỷ thần, xung nhi hữu ích vô tổn, cái thổ động tất phát sinh hỹ. hình chi nghĩa vô sở thủ, như hợi hình hợi, thìn hình thìn, dậu hình dậu, ngọ hình ngọ, vị chi tự hình, bản chi kiến bản chi, tự vị đồng khí, hà dĩ tương hình? Tuất hình mùi, mùi hình sửu, giai vi thổ khí, canh bất đương hình. Dần hình tỵ, diệc thị tương sinh, dần thân tương hình, tức xung hà tất tái hình?hựu viết tý mão nhất hình dã, dần tỵ thân nhị hình dã, sửu tuất mùi tam hình dã, cố xưng tam hình, hựu hữu tự hình, thử giai tục mậu, cô trí chi. Xuyên, tức hại giả, lục hại do lục hợp nhi lai, xung ngã hợp thần, cố vi chi hại, như tý hợp sửu nhi mùi xung, sửu hợp tý nhi ngọ xung chi loại. Tý mùi chi hại, vô phi tương khắc, sửu ngọ dần hợi chi hại, nãi thị tương sinh, hà dĩ vi hại? thả hình ký bất túc vi bằng, nhi hại chi nghĩa, vưu vi xuyên tạc. tổng dĩ luận kỳ sinh khắc vị thị, chí vu phá chi nghĩa, phi hại tức hình dã, vưu chúc bất kinh, tước chi khả dã.

Bính tý - tân mão - nhâm tý - quý mão

Nhâm thìn quý tỵ giáp ngọ ất mùi bính thân đinh dậu

Nhâm tý nhật nguyên, chi phùng lưỡng nhận, can thấu quý tân, ngũ hành vô thổ, niên can bình hỏa lâm tuyệt, hợp tân hóa thủy, tối hỷ mão vượng đề cương, tiết kỳ tinh anh, năng hóa kiếp nhận chi ngoan. Tú khí lưu hành, vi nhân cung nhi hữu lễ, hòa nhi trung tiết. chi giáp vận, mộc chi nguyên thần phát lộ, khoa giáp lien đăng; ngọ vận đắc mão mộc tiết thủy sinh hỏa, cập ất mùi bính vận, quan chí quận thủ, sĩ đồ bình thuận. dĩ tục luận chi, tý mão vi vô lể chi hình, thả thương quan dương nhận phùng hình, tất chí ngạo mạn vô lễ, hung ác đa đoan hỹ.

Tân mùi - ất mùi - canh thìn - đinh hợi

Giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão canh dần kỷ sửu

Canh thìn nhật nguyên, sinh vu quý hạ, kim tiến khí, thổ đương quyền, hỷ kỳ đinh hỏa ty lệnh, nguyên thần phát lộ nhi vi dụng thần, năng chế tân kimchi kiếp. mùi vi hỏa chi dư khí , thìn nãi mộc chi dư khí, tài quan giai thong căn hữu khí, canh diệu hợi thủy nhuận thổ dưỡng kim nhi tư mộc, tứ trụ vô khuyết hãm. Vận tẩu đông nam, kim thủy hư, mộc hỏa thật, nhất sinh vô hung vô hiểm. thìn vận ngọ niên, tài, ấn giai hữu sinh phù, trung hương bảng, do cầm đường nhi thiên ty mã. Thọ chí sử vận.

Nhược tư án, thử kiền tạo xuất sinh chi thời thần kháp phùng tân mùi niên chi tiểu thử tiết, tiền nhân luận mệnh, phàm ngộgiao tiết chi thời thần sinh nhân, giai tác thập tuế vận, tự dĩ cựu thời lịch thư sở tái chi giao tiết thì khắc hữu khiếm tinh chuẩn, vô pháp phán định xuất sinh chi vu giao tiếttiên hậu dã. kim thiên văn lịch thưsở tái giao tiết thời khắc vãng cãng tinh xác đáo phân miểu, dịch vu phán đoạn tiết hậu tiết tiền, cố hành vậntrì tảo, dữ cổ nhân sở suy bất đồng. như thượng tạo, dĩ tiểu thử tiết hậu sinh nhi luận, nhất tuế tức nhập vận, tắc bính ngọ niên tam thậplục tuế, ứng vi mão vận. hựu thọ chí sửu vận vân vân, cổ pháp tại lục thậplục tuế hậu, kim pháp sửu vận tắc cận vi ngũ thậplục tuế hậu, vị khả ngôn thọ hỹ. lục thập lục hậu đương vi tý vận, tý thìn hợp thủy hóa thương quan, nghi kỳ sở chung. Tuy như thử, nhiên mệnh lý tinh vi, cổ nhân chi pháp diệc vị khả khinh khí, nhưng nhu kim nhân tham tầm kỳ chân cơ dã.

Tân sửu - ất mùi - canh thìn - đinh sửu

Giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão canh dần kỷ sửu

Thử dữ tiền tạo đại đồng tiểu dị, tài quan diệc thông căn hữu khí, tiền tắc đinh hỏa ty lệnh, thử tắc kỷ thổ ty lệnh. Canh hiềm sửu thời, đinh hỏa tức diệt, tắc niên can tân kim tứ sính, xung khứ mùi trung mộc hỏa vi căn, tái quan tuy hữu nhược vô. Sơ vận giáp ngọ, mộc hỏa tịnh vượng, ấm tí hữu dư; nhất giao quý tỵ, khắc đinh củng sửu, thương kiếp tịnh vượng, hình tang phá háo; nhâm thìn vận, thê tử lưỡng thương , gia nghiệp đãng nhiên vô tồn, tước phát vi tăng. Dĩ tục luận chi, sửu mùi xung khai tài quan lưỡng khố, danh lợi lưỡng toàn dã.

Dịch nghĩa:

Địa chi bị xung khắc là do thiên can tàng chứa trong chi xung khắc, tuy vậy cũng cần nên biết rỏ cường nhược hỷ kỵ mà luận cho tường. Đến như tứ khố bị xung cũng có cái nên và cái không nên, như tháng 3 thuộc thìn, ất mộc đương lệnh, gặp tuất xung tức tuất tàng chứa tân kim mà có thể xung khắc ất mộc vậy; như tháng 6 thuộc mùi , đinh hỏa đương lệnh, gặp sửu xung tức sửu tàng chứa quý thủy mà có thể thương khắc đinh hỏa. Cứ như tam nguyệt chứa ất, lục nguyệt chứa đinh tuy thuộc thối khí, bằng như đắc lệnh có thể trọn lấy làm dụng thần, bị xung tức thụ thương không thể lấy làm dụng thần được. Người sau làm ra ngụy thuyết cho rằng mộ khố phùng xung tức phát. Ý cho rằng mộ tức là phần mộ; khố thuộc tứ khố là nơi quy về của kim mộc thủy hỏa, thí như đắc khí cao vượng gặp xung khai mộ khố tất phát phúc lớn. Như thiên can thuộc hành mộc hỏa kim thủy, địa chi không có dần, mão, tỵ, ngọ, thân, dậu, hợi, tý lộc vượng, mà tứ trụ toàn địa chi thìn tuất sửu mùi gốc thuộc tứ khố nên thông căn, gặp xung tất gốc bị đánh bật, thế cho nên không khi nào có chuyện gặp xung động mà cường vượng được. Bằng như không dùng làm dụng thần, mà đi lấy hành thổ làm hỷ thần gặp xung động thìn hữu ích không có tổn hại, cái thổ xung động là nguyên thần đi sinh trợ dụng thần vậy. cái nghĩa của việc tương hình thật không lấy chi làm nhất định, như hợi hình hợi, thìn hình thìn, dậu hình dậu, ngọ hình ngọ, gọi là tự hình, vốn là địa chi gặp địa chi, cùng đồng khí cớ sao lại tương hình? Tý hình mão mão hình tý, vốn là tương sinh, dần thân tương hình tất gặp xung sao còn lại đi tương hình? Tuất hình mùi, mùi hình sửu đều ngũ hành thuộc thổ khí thì không thể nào tương hình được. Dần hình tỵ cũng là tương sinh, dần thân tương hình, tất gặp xung hà tất lại còn tương hình hay sao? Lại còn nói tý mão nhất hình, dần tỵ thân nhị hình, sửu tuất mùi tam hình, gọi là tam hình, lại còn có tự hình, đều là ngụy luận hẵng nên vứt bỏ. Xuyên tức là hại, lục hại là do lục hợp mà có, tức xung thần hợp với ta, gọi là lục hại, như tý hợp sửu mà gặp mùi xung, sửu hợp tý mà gặp ngọ xung. Cho nên nói tý mùi tương hại, chẳng không tương khắc, sửu ngọ dần hợi tương hại, đều là tương sinh, cớ sao lại tương hại? vả lại tương hình, tương hại vốn đã không lấy chi đủ làm bằng chứng, thật lầm lỗi lớn, đến như tương phá cũng như thế cả, không tương hại tức tương hình, lỗi lầm do không thuộc ở kinh, nên tước bỏ vậy.

Ducminh
01-10-09, 21:44
Bính tý - tân mão - nhâm tý - quý mão

Nhâm thìn quý tỵ giáp ngọ ất mùi bính thân đinh dậu.

Nhật nguyên nhâm tý, địa chi phùng lưỡng nhận, thiên can thấu xuất quý thủy tân kim, ngũ hành không có thổ, niên can bính hỏa lâm tuyệt địa, bính hợp tân hóa thủy, tối hỷ trụ tháng địa chi mão vượng, tiết cái khí nhật nguyên nhâm thủy, có thể hóa tỷ kiên dương nhận sinh vượng. Tú khì lưu hành, là người cung kính thủ lể, tính tình hòa ái mà trung nghĩa tiết tháo. Đến đại vận giáp mộc nguyên thần phát lộ, liên tiếp trúng cao khoa; ngọ vận đắc mão mộc tiết khí thủy sinh hỏa, cùng ất mùi bính bính vận, quan đến quận thú, đường sĩ hoạn thuận lợi. Theo lối tục luận, tý mão thuộc hình phạt vô lể, với lại thương quan và dương nhận gặp hình tất tính tình ngạo mạn vô lể, hung ác không nói hết.

Tân mùi - ất mùi - canh thìn - đinh hợi

Giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão canh dần kỷ sửu.

Nhật nguyên canh thìn, sinh vào tháng quý hạ, kim đang tiến khí thổ đương quyền, hỷ kỳ đinh hỏa ty lệnh, nguyên thần phát lộ mà làm dụng thần, có thể khắc chế tân kim tỷ kiếp trợ thân. Địa chi mùi tàng đinh hỏa thuộc dư khí, thìn tàng chứa mộc dư khí, tài quan thong căn mà có khí, cái hay là hợi thủy nhuận thổ dưỡng kim mà sinh mộc, tứ trụ đầy đủ không khuyết hãm. Vận đến đông nam, kim thủy hư nhược mộc hỏa thực vượng, nhất sinh không gặp hung gặp hiểm. Đại vận thìn lưu niên ngọ, tài ấn đều được sinh phù, trung niên đăng khoa bảng, quan thăng đến tư mã. Thọ đến đại vận sửu.

Nhận xét của tác giả:

Như nghiệm xét, cái kiền tạo trên xuất sinh thời thần khớp với năm tân mùi tiết tiểu thử, người xưa luận mệnh, phàm tứ trụ người sinh gặp lúc giao tiết, đại vận lấy 10 năm, tự ngàn xưa lịch thư lấy giờ khắc giao tiết có sai sót thiếu chuẩn xác, không có phương pháp nào xác định rỏ ràng sinh trước hoặc sau giao tiết. Thiên vân lịch pháp ngày nay phân chia thời khắc giao tiết sau trước thật chính xác rỏ ràng, vì thế mà biết được hành vận sớm muộn, phép tắc ngày nay so với phép người xưa có nhiều bất đồng. Như tạo mệnh trên, nếu luận sau tiết tiểu thử thì một tuổi đã bắt đầu hành đại vận, tức năm bính ngọ là năm 36 tuổi ứng vào đại vận mão. Thọ đến sửu vận, tức theo phương pháp xưa thì sau 66 tuổi, nhưng theo phương pháp ngày nay thì sửu vận thì chỉ gần sau 56 tuổi, tức không thể nói là thọ được. Còn sau năm 66 tuổi phải là đại vận tý thủy, địa chi tý thìn hợp thành thủy cục hóa thương quan, mới chung cuộc. Tuy như vậy, mệnh học lý rất tinh vi, nên phương pháp xưa cũng không nên coi thường mà nên tham tầm nghiên cứu cho tường tận chân cơ diệu lý vậy.

Tân sửu - ất mùi - canh thìn - đinh sửu

Giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão canh dần kỷ sửu.

So với tứ trụ trên đại đồng mà tiểu dị, tài quan cũng thong căn hữu khí, trên tức đinh hỏa tư lệnh đương quyền, còn tứ trụ dưới tức kỷ thổ đắc lệnh. Chỉ hiềm trụ giờ sửu thổ, đinh hỏa tức diệt, tất niên can tân kim gặp nhiều kim nên rất cường vượng, xung khử địa chi mùi thổ tàng thiên can mộc hỏa, tài quan tuy hư nhược. Sơ vận giáp ngọ, mộc hỏa tịnh vượng, ấm tí có thừa; nhất giao quý tỵ khắc thiên can đinh hỏa mà củng phò địa chi sửu thổ, thương quan tỷ kiếp tịnh vượng, hình thương hoa tán; nhâm thìn vận, thê tử cả hai đều bị thương tổn, gia nghiệp tiêu tán, xuống tóc mà làm tăng đạo. Theo tục thư mà luận, địa chi sửu mùi xung khai tài quan lưỡng khố, danh lợi lưỡng toàn vậy.

Ducminh
01-10-09, 21:47
Ám xung ám hội vưu vi hỷ, bỉ xung ngã hề giai xung khởi

Nguyên chú: như trụ trung vô sở khuyết chi cục, thủ đa giả ám xung ám hội, xung khởi ám thần, nhi lai hội hợp ám thần, bỉ minh xung minh hội vưu giai, tý lai xung ngọ, dần dữ tuất hội ngọ thị dã. thị nhật vi ngã, đề cương vi bỉ; đề cương vi ngã, niên thời vi bỉ; tứ trụ vi ngã, vận đồ vi bỉ; vận đồ vi ngã, tuế nguyệt vi bỉ. như ngã dần bỉ thân, thân năng khắc dần, thị bỉ xung ngã; ngã tý bỉ ngọ, tý năng khắc ngọ, thị ngã xung bỉ. giai vi xung khởi.

Dịch nghĩa:

Nguyên chú: Như tứ trụ cách cục không bị khuyết hãm, nhân đấy chọn ám xung ám hội, xung khởi ám thần mà lại hội hợp ám thần, người minh xung với ta minh hợp với ta đều như thế, như địa chi tý thủy đến xung khắc địa chi ngọ hỏa, địa chi dần mộc cùng với tuất thổ tam hợp hóa hỏa cục. Ấy thế nhật chủ là ta, lệnh tháng là người; đề cương là ta năm là người; tứ trụ là ta lưu niên đại vận là người; vận đồ là ta năm tháng là người. Như ta thuộc địa chi dần mộc người thuộc địa chi thân kim, thân kim có thể xung khắc dần mộc, tức là người đến xung ta; như ta thuộc địa chi tý thủy người thuộc địa chi ngọ, tý thủy có thể xung khắc địa chi ngọ hỏa, tức là ta đến xung người. Đó đều là xung khởi vậy.

Nhâm thị viết: chi trung phùng xung, cố phi mỹ sự, nhiên bát tự khuyết hãm giả đa, đình quân giả thiểu. Mộc hỏa vượng, kim thủy tất phạp hỹ; kim thủy vượng, mộc hỏa tất phạp hỹ. Nhược vượng nhi hữu dư giả xung khứ chi, suy nhi bất túcgiả hội trợ chi vi mỹ. Như tứ trụ vô xung hội chi thần, đắc tuế vận ám lai xung hội vưu vi hỷ dã. Cái hữu bệnh đắc lương tề dĩ sinh dã. Nhiên xung hữu bỉ ngã chi phân, hội hữu khứ lai chi lý. Bỉ ngã giả, bất tất phân niên thời vi bỉ, nhật nguyệt vi ngã, diệc bất tất phân tứ trụ vi ngã, tuế vận vi bỉ dã, tổng chi hỷ thần thị ngã, kỵ thần vi bỉ khả dã. Như hỷ thần thị ngọ, phùng tý xung, thị bỉ xung ngã, hỷ dữ dần tuất hội vi cát; hỷ thần thị tý phùng ngọ xung, thị ngã xung bỉ, kỵ dần dữ tuất hội vi hung. Như hỷ thần thị tý, hữu thân đắc thìn hộinhi lai chi vi cát; hỷ thần thị hợi, hữu mùi đắc mão hội nhi khứ chi tắc hung. Trữ khả ngã khứ xung bỉ. bất khả bỉ lai xung ngã. Ngã khứ xung bỉ, vị chi xung khởi; bỉ lai xung ngã, vị chi bất khởi. thủy hỏachi xung hội như thử, dư khả loại suy.

Canh tuất - ất dậu - giáp dần - canh ngọ

Bính tuất đinh hợi mậu tý kỷ sửu canh dần tân mão

Thử tạo can thấu lỡng canh, chánh đương thu lệnh, chi hội hỏa cục, tuy chế sát hữu công, nhi khắc tiết tịnh kiến. thả canh kim duệ khí phương thịnh, chế chi dĩ uy, bất nhược hóa chi dĩ đức. hóa chi dĩ đức giả, hữu ích vu nhật chủ dã; chế chi dĩ uy dã, tiết nhật chủ chi khí dã. do thử suy chi, bất hỷ hội hỏa cục dã, phản dĩ hỏa vi bệnh hỷ. cố tý vận thìn niên đại khôi thiên hạ. tý vận xung phá hỏa cục, khứ ngọ chi vượng thần dã, dẫn thông canh kim chi tính, ích ngã nhật chủ chi khí; thìn niên thấp thổ, năng tiết hỏa khí, củng ngã tý thủy, bồi nhật chủ chi căn nguyên dã.

Đinh tỵ - quý sửu - đinh mão - bính ngọ

Nhâm tý tân hợi canh tuất kỷ dậu mậu thân đinh mùi.

Đinh hỏa tuy sinh quý đông, bỉ kiếp trọng trọng, quý thủy thoái khí, vô lực chế kiếp, bất túc vi dụng. tất dĩ sửu trung tân kim vi dụng, đắc sửu thổ bao tang, tiết kiếp sinh tài, vi phụ dụngchi hỷ thần dã. sở hiềm giả, mão mộc sinh kiếp đoạt thực vi bệnh, dĩ trí tảo niên thê tử hình thương. Sơ vận nhâm tý tân hợi, ám xung tỵ ngọ chi hỏa, ấm tí hữu dư. Canh tuất vận ám lai củng hợp ngọ hỏa, hình thương phá háo; chí kỷ dậu hội kim cục xung khứ mão mộc chi bệnh, tài phát thập dư vạn. do thử quan chi, ám xung kỳ kỵ thần, ám hội kỳ kỵ thần, phát phúc bất thiển; ám xung kỳ hỷ thần, ám hội kỳ kỵ thần, vi họa phi khinh. Ám xung ám hội chi lý, kỳ khả hốt hồ?

Canh dần - tân tỵ - bính dần - tân mão

Nhâm ngọ quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi.

Bính hỏa sinh vu mạnh hạ, địa chi lưỡng dần nhất mão, tỵ hỏa thừa quyền, dẫn xuất dần trung bính hỏa, thiên can tuy phùng canh tân, giai hư phù vô căn. Sơ vận nhâm ngọ quý mùi vô căn chi thủy, năng tiết kim khí, địa chi ngọ mùi nam phương, hựu trợ vượng hỏa, tài chi khí khắc tiết dĩ tẫn, tổ nghiệp tuy phong, hình tang tảo kiến. giáp lâm thân, bản vô đại hoạn, nhân lưu niên mộc hỏa, hựu hình thê khắc tử, gia kế tiêu điều. nhất giao thân tự, ám xung dần mộc chi bệnh, thiên can phù tài thong căn, như khô miêu đắc vũ, bột nhiên nhi hưng. Cập ất dậu thập ngũ niên, tự tài sổ bội vu tổ nghiệp, thân vận dịch mã phùng tài, xuất ngoại đại lợi, kinh doanh đắc tài thập dư vạn. bính tuất vận bính tý niên, hung đa cát thiểu, đắc phong tật bất khởi, bỉ kiên tranh tài, nãi lâm tuyệt địa, tý thủy bất túc dĩ khắc hỏa, phản sinh dần mão chi mộc cố dã.

Dịch nghĩa:

Nhâm thị viết: Địa chi gặp xung vốn chẳng là điều tốt đẹp, điều đó tất nhiên dẫn đến bát tự khuyết hãm cùng cực, tứ trụ mất cân bằng. Mộc hỏa vượng, kim thủy tất không đủ; kim thủy vượng tất mộc hỏa không đủ. Bằng như nhật chủ vượng mà còn thừa lệnh thì cần nên xung mất đi bớt, nhật chủ suy nhược mà còn thiếu thì cần nên hội hợp mà sinh phù nhật chủ. Nếu như tứ trụ không gặp hợp xung, gặp tuế vận đến ám xung ám hợp lại càng hay. Tứ trụ có bệnh mà được cứu thì tốt. Tuy nhiên cần nên phân biệt cái ta xung và cái xung ta, cái lý của hội hợp cũng có đến có đi vậy. Người và ta bất tất phân chia năm tháng là người ngày giờ là ta , cũng chẳng nên phân chia tứ trụ là mình, tuế vận là người, tóm lại làkhi luận đoán cần nên biết hỷ thần thuộc về ta, kỵ thần thuộc về người. Như hỷ thần là địa chi ngọ hỏa, gặp tý xung tức là người đến xung ta, rất mừng cùng với địa chi dần tuất tam hợp hỏa cục phù trợ dụng thần; lại như dụng thần là địa tý thủy, gặp ngọ xung tức là ta đến xung người, tối kỵ cùng với địa chi dần tuất tam hợp hỏa cục khắc chế dụng thần. Như hỷ thần là địa chi tý thủy có địa chi thân cùng với địa chi thìn đến tam hợp hóa thủy cục trợ giúp dụng thần tất mệnh số gặp nhiều may mắn tốt đẹp; hỷ thần thuộc địa chi hợi có đại chi mão mùi đến tam hợp hóa mộc tiết khí dụng thần tất tứ trụ có nhiều thương tổn tất gặp nhiều hung hiểm. Khá nên ta đến xung người chớ nên người đến xung ta. Ta đến xung người tất xung khởi; người đến xung ta tất xung không khởi lên được. Thủy hỏa tương xung tương hợp đều như thế, dư các loại đều suy luận như thế cả.

Canh tuất - ất dậu - giáp dần - canh ngọ

Bính tuất đinh hợi mậu tý kỷ sửu canh dần tân mão.

Tứ trụ can thấu lưỡng canh, mùa thu kim đương lịnh, địa chi hội hỏa cục, tuy chế sát có công, mà khắc tiết nhật chủ không nên có. Với lại canh kim khí uy mãnh một phương, lấy hỏa khí khắc chế cái uy của nó, sao bằng tiết khí nó mà sinh phù nhật chủ. Hóa khí đó có cộng năng làm ích lợi cho nhật chủ; còn lấy hỏa chế khắc kim khí thì nhật chủ bị tiết khí sinh hỏa. Do đó mà suy luận, không nên hội hỏa cục, nếu hội hỏa cục trở lại làm kỵ thần. đại vận tý lưu niên thìn đại khôi thiên hạ. tý vận xung phá hỏa cục, xung khứ ngọ vượng thần dẫn thông canh kim, làm lợi ích nhật chủ; thìn niên thuộc thấp thổ có thể tiết khí hỏa, củng phò tý thủy đủ sức sinh bồi nhật chủ vậy.

Đinh tỵ - quý sửu - đinh mão - bính ngọ

Nhâm tý tân hợi canh tuất kỷ dậu mậu thân đinh mùi.

Nhật nguyên đinh hỏa tuy sinh vào quý động, tỷ kiếp trùng trùng, quý thủy thoái khí không đủ lực chế kiếp, do đó không thể lấy làm dụng thần. Cho nên lấy tân kim tàng trong địa chi sửu làm dụng thần, tiết khí tỷ kiên sinh tài, là hỷ thần phụ cho dụng thần. Ngại hiềm ở đây là địa chi mão mộc sinh kiếp đoạt thực, do đấy mà tuổi niên thiếu hình thê khắc tử. Sơ vận nhâm tý tân hợi, ám xung tỵ ngọ hỏa, ấm tí có thừa. Đại vận canh tuất trở lại ám hợp ngọ hỏa, dẫn đến hình thương tai kiếp; đến đại vận kỷ dậu hội kim cục xung khứ mão mộc khắc thần, phát tài thập vạn. Từ đó cho thấy, ám xung kỵ thần, ám hội kỵ thần, phát phúc không ít; ám xung hỷ thần, ám hội kỵ thần tai họa khôn lường. Cái lý ám xung ám hội, khá nên sao nhãng ư?

Canh dần - tân tỵ - bính dần - tân mão

Nhâm ngọ quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi.

Nhật nguyên bính hỏa sinh vào mạnh hạ, địa chi hai dần một mão, tỵ hỏa đương quyền, dẫn xuất bính hỏa trong dần, thiên can tuy gặp canh tân, nhưng canh tân hư nhược không căn gốc. Sơ vận nhâm ngọ quý mùi thủy không có nguồn, không thể tiết kim khí, địa chi ngọ mùi nam phương hỏa địa lại phù trợ vượng hỏa, tài tinh bị khắc tiết đến cạn kiệt, tuy tổ nghiệp sung túc, mà sớm tiêu tan. Đại vận giáp lâm địa chi thân vốn không có đại nạn, nhưng do lưu niên mộc hỏa tương sinh mà hình thê khắc tử gia kế tiêu điều. Giao vận thân ám xung dần mộc đang vượng, thiên can phù trợ tài tinh thông căn ví như cỏ cây lâu ngày bị hạn mà gặp mưa, đột nhiên hưng phát. Cặp đại vận ất dậu mười lăm năm phát tài gấp bội hơn trước, thân vận dịch mã gặp tài tinh, xuất ngoại đại lợi, kinh doanh phát tài hơn thập vạn. Đến đại vận bính tuất lưu niên bính tý, hung nhiều cát ít, bị bệnh phong mà không trỗi dậy được, đó là do tỷ kiên tranh tài, tài còn lâm tuyệt địa, tý thủy một mình đơn độc chẳng những không thể nào khắc chế bính hỏa vượng, mà ngược lại còn sinh dần mão mộc trợ hỏa vậy.

Ducminh
01-10-09, 21:48
Vượng giả xung suy suy giả bạt, suy thần xung vượng vượng thần phát

Nguyên chú: tý vượng ngọ suy, xung tắc ngọ bạt bất năng lập; tý suy ngọ vượng, xung tắc ngọ phát nhi vi phúc. Dư phảng thử.

Dịch nghĩa:

Tý thủy vượng ngọ hỏa suy, vượng mà đi xung khắc suy tất suy càng suy cùng cực; tý thủy suy ngọ hỏa vượng, suy mà đi xung khắc vượng tất vượng càng vượng hóa thành phúc. Dư các chi còn lại đều suy như thế cả.

Nhâm thị viết: thập nhị chi tương xung, các chi trung sở tàng hổ tương xung khắc, tại nguyên cục vi minh xung, tại tuế vận vi ám xung. Đắc lệnh giả xung suy tắc bạt, thất thời giả xung vượng vô thương. Xung chi giả hữu lực, tắc năng khứ chi, khứ hung thần tắc lợi, khứ cát thần tắc bất lợi; xung chi giả vô lực, tắc phản kích chi, kích hung thần tắc vi họa, vô kích cát thần tuy bất vi họa, diệc bất năng hoạch phúc dã. như nhật chủ thị ngọ, hoặc hỷ thần thị ngọ, chi trung hữu dần mão tỵ mùi tuất chi loại, ngộ tý xung vị suy thần xung vượng, vô thương; nhật chủ ngọ, hoặc hỷ thần thị ngọ, chi trung hữu thân dậu hợi tý sửu thìn chi loại, ngộ tý xung, vi vượng giả giả xung suy tắc bạt. dư chi giai nhiên. Nhiên dĩ tý, ngọ, mão, dậu, dần, thân, tỵ, hợi bát chi vi trọng, thìn, tuất, sửu, mùi giác khinh. Như tý ngọ xung, tý trung quý thủy xung ngọ trung đinh hỏa, như ngọ vượng đề cương, tứ trụ vô kim nhi hữu mộc, tắc ngọ năng xung tý; mão dậu xung, dậu trung tân kim, xung mão trung ất mộc, như mão vượng đề cương, tứ trụ hữu hỏa nhi vô thổ, tắc mão diệc năng xung dậu; dần thân xung, dần trung giáp mộc bính hỏa, bị thân tr ung canh kim nhâm thủy sở khắc, nhiên dần vượng đề cương, tứ trụ hữu hỏa, tứ trụ hữu hỏa, tắc dần diệc năng xung thân hỷ; tỵ hợi xung, tỵ trung bính hỏa mậu thổ, bị hợi trung giáp mộc nhâm thủy sở khắc, nhiên tỵ vượng đề cương, tứ trụ hữu mộc, tắc tỵ diệc năng xung hợi hỷ. tất tiên sát kỳ suy vượng, tứ trụ hữu vô giải cứu, hoặc ức xung, hoặc trợ tiết, quan kỳ đại thế, cứu kỳ hỷ kỵ, tắc cát hung tự nghiệm hỹ. chí vu tứ khố huynh đệ chi xung, kỳ súc tàng chi vật, khán kỳ tứ trụ can chi, hữu vô dẫn xuất. như tứ trụ chi can chi, vô sở dẫn xuất, cập ty lệnh chi thần, hựu bất quan thiết, tuy xung vô hại, hợp nhi đắc dụng diệc hỷ. nguyên cục dữ tuế vận giai đồng thử luận.

Mậu thìn - tân dậu - bính ngọ - quý tỵ

Nhâm tuất quý hợi giáp tý ất sửu bính dần đinh mão.

Thử tạo tài đương lệnh, gia dĩ niên thượng thực thần sinh trợ, nhật phùng thời lộc, bất vi vô căn, sở dĩ thân xuất phú gia. Thời thấu quý thủy, tỵ hỏa thất thế, phùng dậu yêu nhi củng kim hỹ. ngũ hành vô mộc, toàn tại ngọ hỏa bang thân, tắc quý thủy vi bệnh minh hỹ. nhất giao tý vận, quý thủy đắc lộc, tý thìn củng thủy, dậu kim đảng tý xung ngọ, tứ trụ vô giải cứu chi thần, sở vị “vượng giả xung suy suy giả bạt”, phá gia vong thân. Nhược vận tẩu đông nam mộc hỏa chi địa, khởi bất danh lợi lưỡng toàn hồ?

Canh dần - nhâm ngọ - đinh mão - quý mão

Quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi mậu tý.

Thử tài quan hư lộ vô căn, kiêu bỉ đương quyền đắc thế, dĩ tứ trụ quan chi, bần yểu chi mệnh. Tiền tạo thân tài tịnh vượng, phản tao phá bại vô thọ, thử tắc tài quan hưu tù, kiếp nghiệp hữu thọ, bất tri bỉ tắc vô mộc, phùng thủy xung tắc bạt, thử tắc hữu thủy, ngộ hỏa kiếp hữu cứu. chí giáp thân ất dậu vận, canh kim lộc vượng, nhâm quý phùng sinh, hựu xung khứ dần mão chi mộc, sở vị”suy thần xung vượng vượng thần phát”, sậu nhiên phát tài cư vạn. “mệnh hỏa bất như vận hảo”, tín tư ngôn dã!

Dịch nghĩa:

Thập nhị chi tương xung tương khắc, nguyên là do các thiên can tàng trong địa chi tương xung tương khắc nhau vậy, tứ trụ năm, tháng, ngày, giờ tương xung tương khắc gọi là minh xung, tứ trụ bị lưu niên đại vận tương xung tương khắc gọi là ám xung. Địa chi đắc lệnh đương quyền mà đi xung khắc các địa chi thất lệnh bất đương quyền tất suy càng suy cùng cực bị thương tổn, ngược lại địa chi thất lệnh mất quyền mà lại đi xung khắc địa chi đắc lệnh đương quyền tất chi vượng càng vượng không bị thương tổn. Cái địa chi mà có lực thì có thể xung khử cái địa chi vô lực, tuy nhiên nếu hung thần bị xung khử thì tốt, còn nếu hỷ thần bị xung khởi tất mang họa; bằng ngược lại, cái địa chi vô lực mà đi xung khắc có lực chẳng những không thể xung khử được mà trái lại còn bị xung khắc ngược trở lại nữa, nếu như cái địa chi vô lực ấy mà đi xung khử hung thần tất mang họa, còn đi xung khử cát thần tuy không mang họa nhưng cũng không mang lại lợi ích to lớn gì. Ví như nhật chủ địa chi ngọ hỏa, hay hỷ thần là ngọ hỏa, trong trụ có dần, mão, tỵ, mùi, tuất các loại, gặp địa chi tý thủy xung tức suy thần xung vượng thần nhật chủ không bị thương tổn; ngược lại, nhật chủ địa chi ngọ hỏa, hay hỷ thần thuộc địa chi ngọ hỏa, trong tứ trụ có thân, dậu, hợi, tý, sửu, thìn các loại, gặp địa chi tý thủy vượng xung tất ngọ hỏa suy lại càng suy. Dư các chi còn lại đều suy như vậy. Tuy nhiên tý ngọ mão dậu, dần thân tỵ hợi tương xung nhau đáng nên xem trọng, còn thìn tuất sửu mùi tương xung nhau thì cũng không quan trọng lắm. như tý ngọ tương xung, địa chi tý thủy tàng chứa quý thủy đi xung khắc đinh hỏa tàng trong địa ngọ hỏa, nếu như ngọ lâm nguyệt lệnh hay cùng hành với lệnh tháng, tứ trụ không có hành kim mà có hành mộc tất hỏa quá vượng tý thủy không những không thể xung khắc ngọ hỏa mà trái lại còn bị ngọ hỏa khắc ngược trở lại nữa; mão dậu tương xung, địa chi dậu kim tàng chứa tân kim, đi xung khắc ất mộc tàng chứa trong chi mão, nếu như mão mộc lâm nguyệt lệnh hay cùng hành với lệnh tháng, tứ trụ có hành hỏa mà không có hành thổ tất mộc quá vượng dậu kim không những không thể xung khắc mão mộc mà trái lại còn bị mão mộc khắc ngược trở lại nữa; dần thân tương xung, địa chi dần tàng chứa giáp mộc bính hỏa, bị địa chi thân tàng chứa canh kim nhâm thủy tương khắc, tuy nhiên dần mộc vượng hay là nguyệt lệnh trong trụ, tứ trụ có bính đinh tị ngọ hỏa, tắc chi dần cũng có thể xung khắc chi thân; tị hợi tương xung, địa chi tị tàng chứa bính hỏa mậu thổ, bị địa chi hợi tàng chứa giáp mộc nhâm thủy tương khắc, tuy nhiên tị hỏa vượng hay là nguyệt lệnh trong trụ, tứ trụ có giáp ất dần mão mộc, tắc chi tị hỏa cũng có thể xung khắc chi hợi thủy. Bởi thế cho nên xét sự vượng suy của tứ trụ trước cần phải xem xét sự suy vượng, có hay không có giải cứu, hoặc ức xung, hoặc trợ tiết, xét cái đại thể, nghiệm cái hỷ kỵ, từ đó mà biết đựợc cát hung vậy. Đến như tứ khố huynh đệ tương xung, mộ khố tàng chứa nhiều thiên can, cần nên xem xét bốn thiên can trên năm tháng ngày giờ có dẫn xuất hay không có dẫn xuất. Nếu như tứ trụ can chi không có dẫn xuất, hay là nguyệt lệnh là đề cương, thì không cần phải lo sợ xung khắc, dẫu có bị xung khắc cũng không hại gì, gặp hợp lại càng hay. Nguyên cục cùng đại vận lưu niên đều luận như vậy.

Mậu thìn - tân dậu - bính ngọ - quý tỵ

Nhâm tuất quý hợi giáp tý ất sửu bính dần đinh mão.

Tứ trụ tài tinh đang lệnh, mà lại còn được thực thần trên trụ năm sinh trợ tài tinh, nhật trụ gặp tỵ hỏa lộc ở trụ giờ tương trợ, cho nên nhật trụ hữu thông căn có khí, cho nên xuất thân từ nhà giáu có. Trụ giờ thấu xuất quý thủy, chi giờ tỵ hỏa thất thế, gặp dậu kim tất củng hợp dậu kim vậy. Ngũ hành thiếu mộc, toàn nhờ ngọ hỏa phò trợ nhật chủ, từ đó cho thấy quý thủy là kỵ thần vậy. Đại vận tý thủy, quý thủy đắc lộc vượng địa, chi tý thủy cùng chi thìn thổ bán hợp hóa thủy, địa chi dậu kim củng phò chi tý thủy mà xung khử địa chi ngọ hỏa, tứ trụ không có thần giải cứu, thế cho nên mới nói “vượng giả xung suy suy giả bạt”, vì vậy mà nhà cửa tan nát mạng vong. Nếu như đại vận đến đông nam mộc hỏa vượng địa, lý nào mà không đạt được danh lợi ư?

Canh dần - nhâm ngọ - đinh mão - quý mão

Quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi mậu tý.

Tứ trụ tài quan hư nhược vô căn, kiêu tỷ đang quyền đắc thế, theo đấy mà luận tất là mệnh bần yểu. Tứ trụ trước thân tài đều vượng, trở lại phá bại chết yểu, nếu như tài quan hưu tù có lẻ mạng số trường thọ, mà không biết rằng hỏa không có mộc gặp thủy vượng xung khắc tắc tán, còn tứ trụ này có thủy, gặp hỏa tỉ kiên phò trợ tất có cứu thần. Đại vận giáp thân ất dậu, canh kim lộc vượng, nhâm quý thủy phùng sinh, trở lại xung khắc dần mão mộc, thế cho nên mới nói “suy thần xung vượng vượng thần phát”, đột nhiên phát tài cự vạn. cổ ca vân: “mệnh hảo bất như vận hảo”, câu nói ấy thật đáng nên tin vậy!

Ducminh
21-10-09, 11:05
Chương 9: can chi tổng luận


Âm dương thuận nghịch chi thuyết, “lạc thư” lưu hành chi dụng, kỳ lý tín hữu chi dã, kỳ pháp bất khả chấp nhất.

Nguyên chú: Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, thử lý xuất vu “lạc thư”. Ngũ hành lưu hành chi dụng, cố tín hữu chi, nhiên giáp mộc tử ngọ, ngọ vi tiết khí chi địa, lý cố nhiên dã, nhi ất mộc tử hợi, hợi trung hữu nhâm thủy, nãi kỳ đích mẫu, hà vi tử tai? Phàm thử giai tường kỳ can chi khinh trọng chi cơ, mẫu tử tương y chi thế, âm dương tiêu tức chi lý, nhi luận cát hung khả dã. nhược chuyên chấp sinh tử bại tuyệt chi thuyết, suy đoán đa ngộ hỹ.

Dịch nghĩa:

Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, lý ấy phát xuất từ “lạc thư”. Ngũ hành lưu hành trong trời đất lấy đó mà làm dụng, tất nhiên cái lý ấy có thể tin được, còn như giáp mộc tử ở chi ngọ, ngọ hỏa tiết khí giáp mộc, lý lẻ tất nhiên là như thế, nhưng ất mộc tử ở chi hợi, hợi tàng nhâm thủy sinh ất mộc tức con được mẹ sinh, hà cớ vì sao lại tử? Thế cho nên đại phàm luận đoán tứ trụ trước tiên phải nên am tường cái can chi khinh trọng, cái sinh ta và cái ta sinh ra sao, lý lẻ âm dương tiêu tức như thế nào sau đó mới có thể dự đoán họa phúc cát hung vận số. Bằng như cứ chấp nê vào cái thuyết sinh tử bại tuyệt, tất suy đoán sai lầm lớn vậy.

Nhâm thị viết: Âm dương thuận nghịch chi thuyết, kỳ lý xuất “lạc thư”, lưu hành chi dụng, bất quá dương chủ tụ, dĩ tiến vi thối, âm chủ tán, dĩ thối vi tiến. nhược luận mệnh lý, tất bất chuyên dĩ thuận nghịch vi bằng, tu quan nhật chủ chi suy vượng, sát sinh thời chi thiển thâm, cứu tứ trụ chi dụng thần, dĩ luận cát hung, tắc liễu nhiên hỹ. chí vu trường sinh mộc dục đẳng danh, nãi giả tá hình dung chi từ dã. Trường sinh giả, do nhân chi sơ sinh dã; mộc dục giả, do nhân chi sơ sinh nhi mộc dục dĩ khứ cấu dã; quan đái giả, hình khí tiệm trường, do nhân niên trường nhi quan đái dã; lâm quan giả, do trường nhi vượng, do nhân chi khả dĩ xuất sĩ dã; đế vượng giả, tráng thịnh chi cực, do nhân chi phụ đế nhi đại hữu vi dã; suy giả, thịnh cực nhi suy, vật chi sơ biến dã; bệnh giả, suy chi thậm dã; tử giả, khí chi tẫn nhi vô dư dã; mộ giả, tạo hữu thu tàng, do nhân chi mai vu thổ dã; tuyệt giả, tiền chi khí tuyệt nhi hậu tương tục dã; thai giả, hậu chi khí tục nhi kết thai dã; dưỡng giả, như nhân chi dưỡng mẫu phúc dã, tự thị nhi phục trường sinh, tuần hoàn vô đoan hỹ. nhân chi nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, nhi niên nhật thời trung, đắc trường sinh lộc vượng, tiện bất vi nhược, tựu sử phùng khố, diệc vi hữu căn. Thời thuyết vị đầu mộ nhi bất tất xung giả, tục thư chi mậu dã. cổ pháp chích hữu tứ trường sinh, tòng vô tý, ngọ, mão, dậu vi âm trường sinh chi thuyết. thủy sinh mộc, thân vi thiên quan, hợi vi thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh bất tức, cố mộc giai sinh tại hợi. mộc tử ngọ vi hỏa vượng chi địa, mộc chí ngọ phát tiết dĩ tẫn, cố mộc giai tử tại ngọ. ngôn mộc nhi dư khả loại suy hỹ. phu ngũ dương dục vu sinh phương, thịnh vu bản phương, tệ vu tiết phương, tẫn vu khắc phương, vu lý vi thuận; ngũ âm sinh vu tiết phương, tử vu sinh phương, vu lý vi bối. Tức khúc vi chi thuyết, nhi tý ngọ chi địa, chung vô sản kim sản mộc chi đạo; dần hợi chi địa, chung vô diệt hỏa diệt mộc chi đạo. Cổ nhân thủ cách, đinh ngộ dậu dĩ tài luận, ất ngộ ngọ, kỷ ngộ dậu, tân ngộ tý, quý ngộ mão, dĩ thực thần tiết khí luận, câu bất dĩ sinh luận. ất ngộ hợi, quý ngộ thân dĩ ấn luận, chân bất dĩ tử luận. Tức kỷ ngộ dần tuế chi bính hỏa, tân ngộ tỵ tàng chi mậu thổ, diệc dĩ ấn luận, bất dĩ tử luận. Do thử quan chi, âm dương đồng sinh đồng tử khả tri dã, nhược chấp định âm dương thuận nghịch, nhi dĩ dương sinh âm tử, âm sinh dương tử luận mệnh, tắc đại mậu hỹ. Cố “tri mệnh chương” trung “thuận nghịch chi cơ tu lý hội”, chính vi thử dã.

Bính tý - kỷ hợi - ất hợi - bính tý

Canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ

Ất hợi nhật nguyên, sinh vu hợi nguyệt, hỷ kỳ thiên can lưỡng thấu bính hỏa, bất thất dương xuân chi cảnh. Hàn mộc hướng dương, thanh nhi thuần túy, tích hồ hỏa vô căn, thủy mộc thái trọng, độc thư vị thụ; kiêm chi trung niên nhất lộ thủy mộc, sinh phù thái quá, cục trung hỏa thổ giai thương, dĩ trí tài tiên tụ nhi chí mùi thân. Nhiên hỷ vọ kim, nghiệp tất thanh cao. Nhược dĩ niên thời vi ất mộc bệnh vi, nguyệt nhật vi tử địa, khởi bất hưu tù dĩ cực, nghi dụng sinh phù chi vận? kim dĩ hợi tý chi thủy tác sinh luận, tắc bất nghi tái kiến thủy mộc dã.

Mậu ngọ - ất mão - quý mão - quý hợi

Bính thìn đinh tị mậu ngọ kỷ mùi canh thân tân dậu.

Thử xuân thủy đa mộc, quá vu tiết khí, ngũ hành vô kim, toàn tại hợi thời tỉ kiếp bang thân. Hiềm kỳ hợi mão củng cục, hựu thấu mậu thổ, khắc tiết tịnh kiến, giao mậu ngọ vận bất thọ. nhược cư thư vân, quý thủy lưỡng tọa trường sinh, thời phùng vượng địa, hà dĩ bất thọ? hựu vân “thực thần hữu thọ thê đa tử, thực thần sinh vượng thắng tài quan”, thử danh lợi lưỡng toàn, đa tử hữu thọ chi cách dã. tổng dĩ âm dương chi thuyết, bất túc bằng dã.

Ducminh
21-10-09, 11:09
Nhâm thị viết:

Cái thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “lạc thư”, hai cái khí này lưu hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy tiến làm thối, âm khí tính hay tán, nên lấy thối làm tiến. Thế cho nên người học dự đoán cát hung mệnh vận bất tất chuyên lấy thuận nghịch làm luận lý, mà cần nên quan sát xem nhật chủ suy vượng, nghiệm xem căn gốc nông sâu ra sao, xét xem tứ trụ dụng thần hữu lực hay vô lực, từ đó mà biết được cát hung vậy. Đến như trường sinh mộc dục các loại, cũng chỉ là mượn danh gọi để chỉ cho hậu học hình dung mà thôi. Nó nói lên giai đoạn thành, thịnh suy hủy của kiếp người hay sự vật. Trường sinh chỉ con người mới bắt đấu sinh; do con người mới sinh cần sự tắm sạch nên gọi là mộc dục, hình thể dần dần lớn mạnh gọi là quan đới, lâm quan là giai đoạn con người xuất sĩ ra làm quan, đế vượng là giai đoạn cực thịnh của con người và thịnh cực tắc suy cho nên thời kỳ này gọi là suy, suy lâu thời tắc bệnh, bệnh lâu thời phải chết hai giai đoạn này gọi là bệnh tử, tạo hóa ra muon loài cũng từ đất và cũng là nơi mộ địa của muôn loài, vạn vật bị chôn vùi trong mộ địa khí suy cùng cực cho nên hai giai đoạn này gọi là mộ tuyệt của sự vật; sự vật trong trời đất không thể nào suy tuyệt mãi cho nên vật cực tất sinh thời kỳ này gọi thai dưỡng, và cứ như thế mà tuần hoàn lưu chuyển không ngừng vậy.

Đến như nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, mà trong trụ năm ngày giờ đắc trường sinh lộc vượng, nhân đó được xem là cường vượng, hay như tứ trụ còn địa chi có khố cũng được coi như là có căn gốc. Nên mới có cái thuyết là đầu mộ cần nên xung động, tục thư thật sai lầm quá vậy. Cổ pháp duy chỉ có tứ trường sinh, chứ không bao giờ có cái thuyết rằng tý, ngọ, mão, dậu là âm trường sinh bao giờ cả. Thủy sinh mộc, thân là cung vị thiên quan, hợi là thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh không ngừng, thế cho nên mộc trường sinh tại hợi là thế. Cung vị ngọ hỏa là nơi tử địa của mộc, do mộc sinh hỏa liệt hỏa thiêu cháy mộc mà ra. Các loại ngũ hành khác cứ thế mà suy.

Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương, suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy; còn ngũ hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với tự nhiên vậy. Lại còn nói là “Đất tý ngọ cung không thể sinh kim sinh mộc; Đất hợi dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, đinh gặp dậu lấy tài luận, ất gặp ngọ, kỷ gặp dậu, tn6 gặp tý, quý gặp mão lấy thực thần tiết khí luận, toàn không lấy trường sinh luận. Ất gặp hợi, quý gặp thân lấy ấn luận, không nên luận tử. Lại như kỷ gặp dần tàng can bính hỏa, tân gặp tỵ tàng can mậu thổ, cũng đồng ấn luận, không nên luận tử. Từ đó cho thấy, âm dương đông sinh đồng tử là điều dể hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên, “chương Tri Mệnh” có nói “thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.

Bính tý - kỷ hợi - ất hợi - bính tý

Canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ.

Nhật nguyên ất hợi sinh vào tháng hợi, rất mừng lưỡng bính hỏa thấu can, không sợ mất đi cái vẻ đẹp của mùa xuân. Hàn mộc hướng dương, thanh thuần không tạp, tiếc rằng bính hỏa không có căn gốc, thủy mộc lại thái quá, văn nghiệp không thành tựu; với lại trung vận nhất lộ thủy mộc sinh phù thái quá, hỏa thồ trong trụ bị tổn thương, đọc sách không thành nhưng tài vận thì rất tốt đẹp. Tứ trụ mừng không thấy kim tất sự nghiệp thanh cao. Nếu như cứ cố chấp theo luận thuyết cho rằng ất mộc bệnh ở trụ năm trụ giờ tý thủy, tử ở trụ tháng hợi, từ đó suy ra rằng nhật nguyên suy kiệt cùng cực, rất nên lấy dụng thần sinh phù nhật chủ, rồi chọn lấy hợi tý thủy làm dụng thần sinh trợ nhật thần, từ đấy không nên tái kiến thủy mộc vậy.

Mậu ngọ - ất mão - quý mão - quý hợi

Bính thìn đinh tị mậu ngọ kỷ mùi canh thân tân dậu.

Tứ trụ quý thủy sinh vào mùa xuân trong trụ ất mộc xuất hiện quá nhiều, nhật nguyên tiết khí thái quá, ngũ hành vô kim tư phù, chỉ dựa vào quý hợi thủy trụ giờ bang trợ. Hiềm vì hợi mão bán hợp mộc cục, thiên can lại xuất hiện mậu thổ khắc tiết cùng cực, đại vận mậu ngọ hỏa thổ đồng lâm khắc tiết quý thủy nhật nguyên mạng vong. Nếu như cứ cố chấp theo ngụy thư cho rằng quý thủy trường sinh ở trụ thán và trụ ngày, trụ giờ cư kình dương vượng địa, hà cớ vì sao mà đoản mệnh? Lại còn nói “thực thần hữu thọ đa thê tử, thực thần sinh vượng thắng tài quan”, lấy tứ tụ trên mà nói danh lợi lưỡng toàn, nhiều con cháu chăng. Nói cho cùng thì cái thuyết âm dương thật không lấy chi làm bằng chứng thật.

Ducminh
21-10-09, 11:17
Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương, âm dương quai bội nhi hỗn loạn giả vong.

(Thiên địa thuận toại cho cái tinh túy sáng sủa, âm dương trái nghịch để cái hỗn loạn diệt vong.)


Nguyên chú: Bất luận hữu căn vô căn, câu yếu thiên phúc địa tái.

Nguyên chú: Bất luận hữu căn hay vô căn, đều cần thiết xem xét kỹ cả Thiên can cùng Địa chi.

Nhâm thị viết: phương pháp chọn dụng Can Chi, thấy Can cần phải xem thêm Chi, thấy Chi cũng phải xét kỹ Can. Như hỉ Giáp Ất, mà gặp thêm dần mão hợi tý, tắc sanh vượng, gặp phải thân dậu, tắc thời khắc bại; như kỵ Bính Đinh, thời lấy hợi tý chế phục, nếu lấy 4 chi tị ngọ dần mão thời phóng túng quá rồi. Như hỉ dần mão, mà xét lấy Giáp Ất Nhâm Quý thởi được sanh vượng, còn xét lấy Canh Tân thời khắc bại vậy; hay như kỵ tị ngọ, xét lấy Nhâm Quý là để chế phục, còn xét lấy Bính Đinh Giáp Ất, chỉ là lấy cho sướng mà thôi. Không những như vậy, Can thông căn cho chi, chi gặp sanh phù, tắc gốc Can Chi cùng kiên cường, chi gặp xung khắc, tắc gốc Can Chi như bị bật rể. Chi thụ ấm cho Can, Can gặp sanh phù, tắc Chi được ấm thịnh; Can gặp khắc chế, tắc Chi cũng suy vi. Phàm trong tứ trụ Can Chi của mệnh, thời hiển nhiên gặp cát thần mà không là cát, gặp phải hung thần mà chẳng thành hung, đều là vì lý do ấy cả, điều này chẳng phải chỉ luận khí chất của riêng Thiên can mà phải luận song hành cả khí chất Địa chi, tổng hợp lại chính là cái ý “Thiên phúc địa tái”.



Kỷ Hợi , Đinh Mão , Canh Thân , Canh Thìn

Bính dần - Ất sửu - Giáp tý - Quý hợi - Nhâm tuất - Tân dậu



Canh kim tuy sanh xuân lệnh, chi tọa lộc vượng, thì phùng ấn tỉ, túc dĩ dụng quan. Địa Chi tái dĩ mão mộc tài tinh, hựu đắc hợi thủy sanh phù hữu tình, Đinh hỏa chi căn dũ cố, sở vị "Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương" dã. Tuế vận phùng Nhâm Quý hợi tý, Can hữu Kỷ ấn vệ quan, chi đắc mão tài hóa thương, sanh bình lý hiểm như di, thiểu niên khoa giáp, sĩ chí phong cương. Kinh vân: "Nhật chủ tối nghi kiện vượng, dụng thần bất khả tổn thương", tín tư ngôn dã.


Canh kim tuy sanh lệnh tháng mùa xuân, tọa chi Thân là lộc vượng, trụ giờ gặp Ấn Tỉ, đủ để dụng được Quan. Địa chi tái kiến mão mộc tài tinh, lại được hợi thủy sanh phù hữu tình, gốc Đinh hỏa càng bền chặt, nên gọi là "Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương" đấy thôi !. Tuế vận gặp Nhâm Quý hợi tý, Can có Kỷ là ấn vệ Quan, chi được mão tài hóa Thương, suốt đời không sợ nguy hiểm, thiếu niên đã khoa giáp, khi lớn cũng làm đến tướng soái. Kinh cho rằng: "Nhật chủ cần nhất kiện vượng, dụng thần không thể bị tổn thương", lời ấy chẳng sai chạy.

Ducminh
21-10-09, 11:18
Kỷ dậu , Đinh mão , Canh Thìn , Giáp thân

Bính dần - Ất sửu - Giáp tý - Quý hợi - Nhâm tuất - Tân dậu

Trụ này cũng lấy Đinh hỏa Quan tinh làm dụng, Địa chi cũng kiến mão mộc tài tinh nâng đỡ, so với tứ trụ trước nhiều điểm tương đồng nhưng có khác biệt nho nhỏ, đó là mão dậu xung nhau, khắc bại gốc Đinh hỏa, trong Chi ít thủy, Tài tinh hữu khắc vô sanh, tuy trụ giờ thấu Giáp mộc nhưng đóng ở chi Thân, thành ra Địa chi chẳng nâng đỡ được can Giáp, tuy có mà như không. Nên xuất thân cựu gia, chuyện đèn sách không tiếp tục được, lại phá hao hình thương; hạn vào Tuất vận, Chi thuộc phương tây, bần khốn không chịu nổi.


Canh thân Nhâm ngọ Tân dậu Quý tị

Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất - Đinh hợi - Mậu Tý


Tứ trụ này Canh Tân Nhâm Quý, kim thủy đều trong sáng, rõ ràng minh bạch, Địa chi thân dậu tị ngọ, kim hỏa nung đúc thành công, nên khí tháng ngọ hỏa đắc dụng, lý ấy ứng với danh lợi đều sáng sủa tốt đẹp. Nhưng điều đáng tiếc là tứ trụ ngũ hành vô mộc, kim tuy thất lệnh nhưng nhiều, hỏa tuy đương lệnh mà không có phụ trợ; lại ngại Nhâm Quý thêm vào, buộc Canh Tân sanh trợ thêm, mà ở Thân lại đắc Trường sanh, thời Nhâm thủy càng thêm sướng (mạnh). Tuy có tị hỏa giúp ngọ nhưng tị dậu hợp kim, thời ngọ hỏa tất cô thế. Cho nên hai vận thân dậu, phá hao bất thường; trong vận Bính tuất, bắt đầu giúp trợ dụng thần, gặp gỡ vận hội lớn; vừa giao với vận hợi, Nhâm thủy được Lộc, Quý thủy lâm Đế vượng, hỏa khí bị khắc cùng cực, tan nhà nát cửa mạng vong.



Canh thân , Nhâm ngọ , Tân dậu , Giáp ngọ

Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất - Đinh hợi - Mậu Tý


Tứ trụ này cũng dụng Đinh hỏa trong ngọ làm Sát, Nhâm thủy cũng tác động vào Chi ngọ, lại có Canh kim sanh phù. Mừng ở chổ giờ ngọ trợ giúp, càng hay có Thiên can phụ trợ Giáp mộc, thời hỏa được ấm thịnh. Vả lại Nhâm thủy thấy Giáp mộc thành ra tham sanh, không đến đối địch với hỏa, tứ trụ có cái thế tương sanh hữu nghị, không có phong thái tranh khắc lẫn nhau, trung niên tên đề Hương bảng, kẻ sĩ làm tới Giám sát quan (Ngự sử). So với tứ trụ trước chỉ đổi lại trước sau một giờ, đã thành cách cục thâm sâu (Thiên uyên chi cách), mới gọi là “sai một ly đi một dặm” là vậy.

Ducminh
21-10-09, 11:20
Thiên toàn nhất khí, bất khả sử địa đức mạc chi tái.

(Khí chất Thiên can toàn vẹn [là một loại], chẳng lẽ không thể dùng tới khí vượng của Địa chi.)


- Nguyên chú: Tứ Giáp tứ Ất, nhi ngộ dần thân mão dậu, vi địa bất tái.

Nguyên chú: Tứ Giáp tứ Ất, mà ngộ dần thân mão dậu, là Địa (chi) bất tái (không chuyên chở/phù trợ lẫn nhau).

- Nhâm thị viết:

Thiên toàn nhất khí giả, Thiên Can tứ Giáp, tứ Ất, tứ Bính, tứ Đinh, tứ Mậu, tứ Kỷ, tứ Canh, tứ Tân, tứ Nhâm, tứ Quý, giai thị dã. Địa Chi bất tái giả, Địa Chi dữ Thiên Can vô sanh hóa dã. Phi đặc tứ Giáp tứ Ất nhi ngộ thân dậu dần mão vi bất tái, tức toàn thụ khắc vu Địa Chi. Hoặc phản khắc Địa Chi, hoặc Thiên Can bất cố Địa Chi, hoặc Địa Chi bất cố Thiên Can, giai vi bất tái dã. Như tứ Ất dậu giả, thụ khắc vu Địa Chi dã ; tứ Tân mão giả, phản khắc Địa Chi dã. Tất tu Địa Chi chi khí thượng thăng, Thiên Can chi khí hạ hàng, tắc lưu thông sanh hóa, nhi bất chí vu thiên khô, hựu đắc tuế vận an đốn, phi phú diệc Quý hĩ. Như vô thăng hàng chi tình, phản hữu trùng khắc chi thế, giai vi thiên khô nhi bần tiện hĩ. Nghi tế cứu chi.

- Nhâm Thị viết:

Thiên toàn nhất khí, chính là nói đến Thiên can tứ Giáp, tứ Ất, tứ Bính, tứ Đinh, tứ Mậu, tứ Kỷ, tứ Canh, tứ Tân, tứ Nhâm, tứ Quý. Địa Chi bất tái, chính là Địa chi và Thiên Can không sanh hóa nhau vậy. Không những tứ Giáp tứ Ất mà ngộ thân dậu dần mão là bất tái, tức bị Địa chi toàn khắc, hoặc khắc ngược Địa chi, hoặc Thiên Can không đoái hoài Địa Chi, hoặc Địa Chi không để ý Thiên Can, đều là bất tái cả. Như tứ Ất dậu, bị Địa chi khắc; hay tứ Tân mão, lại là khắc Địa chi vậy. Khí Địa chi nhất thiết phải bay (tác động) lên cao, khí Thiên can (tác động) giảm xuống, thời lưu thông sanh hóa, để không đến nổi thiên khô (mất cân bằng), lại đắc tuế vận ổn thỏa, hợp lý, không phú thì cũng quý. Ví như chẳng có cái tình lên xuống ấy, mà ngược lại chỉ có cái thế xung khắc nhau, đều là thiên khô mà bần tiện thôi. Nên xét đến cùng sự tinh tế là thế.


Giáp thân , Giáp tuất , Giáp dần , Giáp tuất

Ất hợi - Bính Tý - Đinh sửu - Mậu dần - Kỷ mão - Canh Thìn

Niên chi thân kim, trùng khứ nhật chủ dần mộc, gia dĩ tuất thổ thừa quyền trọng kiến, sanh kim trợ sát, vị Địa Chi bất cố Thiên Can. Phu tứ Giáp nhất dần, tự hồ cường vượng, đệ thu mộc hưu tù, trùng khứ lộc thần, kỳ căn dĩ bạt, bất tác vượng luận. Cố dần mão hợi tử vận trung, y thực pha phong, nhất giao Canh Thìn, sát chi nguyên thần thấu xuất. Tứ tử câu thương, phá gia bất lộc. Can đa bất như chi trọng, lý cố nhiên dã.

Chi năm thân kim, đến xung Nhật chủ dần mộc, hơn nữa thấy cả tuất thổ cường vượng thừa dịp sinh kim trợ Sát, nói Địa Chi không để ý đến Thiên Can, thử nói đến tứ Giáp cư dần, tựa hồ đều cường vượng, nhưng ở mùa thu thì mộc hưu tù, đến xung Lộc thần, cái gốc ấy tất phải bật rễ, không thể luận là vượng. Cho nên ở vận dần mão hợi tý, áo cơm có phần hậu hỹ thịnh vượng, giao vận Canh Thìn, nguyên thần Sát lộ ra. Tứ Giáp đều bị thương, tan nhà thất lộc (chết). Can nhiều chẳng bằng Chi trọng, cái lý ấy hiển nhiên rồi.


Mậu Tý , Mậu ngọ , Mậu tuất , Mậu ngọ

Kỷ mùi - Canh thân - Tân dậu - Nhâm tuất - Quý hợi Giáp Tý

Thử mãn cục hỏa thổ, tử suy ngọ vượng, trùng tắc ngọ phát nhi dũ liệt, ngao Can tích thủy, thị vị Thiên Can bất phúc. Sơ giao dĩ vị, cô khổ vạn trạng ; chí canh thân Tân dậu vận, dẫn thông Mậu thổ chi tính, đại đắc tế ngộ, thú thê sanh tử, lập nghiệp thành gia ; nhất giao Nhâm tuất, thủy bất thông căn, ám củng hỏa cục, tao chúc dung chi biến, nhất gia ngũ khẩu giai vong. Như Thiên Can thấu nhất Canh Tân, hoặc Địa Chi tàng nhất thân dậu, khởi chí nhược thị chi kết cục hồ?

Tứ trụ này hỏa thổ đầy đủ, tý suy ngọ vượng, bị xung thời ngọ phát hỏa mãnh liệt rang khô Can như nung ngói, nên nói rằng Thiên Can chẳng được phúc. Bắt đầu vào vận Kỷ Mùi, cô khổ trăm điều; tới vận Canh thân Tân dậu, dẫn thông Mậu thổ, gặp được vận hội lớn, lấy vợ sanh con, lập nghiệp thành gia; vào vận Nhâm tuất, thủy không thông gốc, ngầm củng hỏa cục, gặp biến cố tan tác, một nhà 5 khẩu đều mất. Như Thiên Can thấu xuất một Canh Tân, hoặc Địa Chi tàng một thân dậu, thì sao có kết cục thảm thương như vậy được?

Ducminh
21-10-09, 11:20
Mậu thân , Mậu ngọ , Mậu tuất , Mậu ngọ

Kỷ mùi - Canh thân - Tân dậu - Nhâm tuất - Quý hợi - Giáp tý

Thử dữ tiền tạo chích hoán nhất Thân tự, nhi Thiên Can chi khí hạ hàng, Địa chi chi thủy hữu nguyên, ngọ hỏa tuy liệt, cứu bất năng thương Thân kim, dụng kim minh hĩ, huống hữu tử thủy vi khứ bệnh chi hỉ thần. Giao thân vận, Mậu Thìn niên tứ nguyệt nhập học, cửu nguyệt đăng khoa, cái đắc thái tuế thần tự, ám hội thủy cục chi diệu. Tích tương lai Nhâm tuất vận trung, Thiên Can quần bỉ tranh tài, Địa Chi ám hội hỏa cục, vị kiến kỳ cát hĩ.

Tứ trụ này và tứ trụ trước chỉ hoán đổi một chữ Thân, khí Thiên can tác động giảm xuống (Mậu thổ sinh thân kim), thủy trong Địa chi có nguồn (Nhâm tàng trong chi Thân), ngọ hỏa tuy mãnh liệt, xét cho cùng cũng không thể tổn thương thân kim, dụng kim sáng suốt vậy, huống hồ có con là thủy hỉ thần chữa bệnh. Vào vận thân, tháng 4 năm Mậu thìn nhập học, tháng 9 đăng khoa, chính do đắc một chữ Thìn là Thái tuế, khéo ở chổ ám hội thủy cục. Tiếc rằng ở vận tương lai Nhâm tuất, các Thiên can (Mậu) Tỉ đoạt Tài (Nhâm), Địa chi ám hội hỏa cục, chẳng thấy đâu điềm cát lành.

Tân mão , Tân mão , Tân mão , Tân mão

Canh Dần - Kỷ sửu - Mậu Tý - Đinh hợi - Bính tuất - Kỷ dậu

Thử tạo tứ mộc đương quyền, tứ kim lâm Tuyệt, tuy viết phản khắc Địa chi, thật vô lực khắc dã. Như quả năng khắc, khả dụng Tài hĩ, nhược năng dụng Tài, khởi vô thành lập hồ? Bỉ thử mẫu phúc, sổ niên gian phụ mẫu giai vong, dữ đạo sĩ vi đồ ; Kỷ sửu Mậu Tý vận, ấn thụ sanh phù, y thực vô khuy ; nhất giao Đinh hợi, sanh hỏa khắc kim, tức vong kỳ sư, sở hữu vi nghiệp, phiêu đổ tảo tẫn nhi tử.

Tứ trụ này tứ mão mộc đương quyền, tứ Tân kim lâm vị trí Tuyệt, tuy rằng phản khắc Địa chi, thật ra chẳng có lực để khắc, nếu mà có thể khắc, có thể dụng được Tài rồi, nếu có thể dụng tài, há chẳng trụ vững được ư? Được mẹ đùm bọc, được khoảng vài ba năm cha mẹ đều mất, rồi làm đồ đệ một đạo sĩ; vận Kỷ sửu Mậu Tý, Ấn thụ sanh phù, áo cơm chẳng thiếu; giao vận Đinh hợi, sanh hỏa khắc kim, thầy chết ngay, vì thế mới gây nghiệp chướng, cờ bạc đến khánh tận mà chết.

Ducminh
26-10-09, 21:41
Địa toàn tam vật, bất khả sử Thiên đạo mạc chi dung.

(Địa chi cùng hội về một hành, chẳng lẽ không thể dung nạp cái đạo Thiên can.)



- Nguyên chú: Dần mão thìn, hợi mão mùi nhi ngộ Giáp Canh Ất Tân, tắc Thiên bất phúc. Nhiên bất đặc toàn nhất khí dữ tam vật giả, giai nghi Thiên phúc Địa tải, bất luận hữu căn vô căn, giai yếu “tuần kỳ khí tự”, Can Chi bất phản bội vi diệu .

+ “toàn nhất khí” : 4 can tứ trụ cùng 1 chữ

+ “toàn tam vật” : 3 chi cùng hội/hóa thành một hành

+ “đề cương” : thường chỉ lệnh tháng hoặc hành nắm lệnh trong tứ trụ.

- Nguyên chú: Dần mão thìn, hợi mão mùi mà ngộ Giáp Canh Ất Tân, thời Thiên can chẳng được phúc. Vậy không chỉ “toàn nhất khí” mà cả “tam vật”, đều cần “Thiên phúc Địa tải”, bất luận có gốc hay không gốc, đều cần “noi theo thứ tự của thần khí đó”, cái khéo là Can Chi không phản bội nhau.

- Nhâm thị viết: Địa Chi tam vật giả, chi đắc dần mão thìn, tị ngọ mùi, thân dậu tuất, hợi tý sửu chi phương thị dã. Như dần mão thìn nhật chủ thị mộc, yếu Thiên can hỏa đa ; Nhật chủ thị hỏa, yếu Thiên can kim vượng ; Nhật chủ thị kim, yếu Thiên can thổ trọng. Đại phàm Chi toàn tam vật, kỳ thế vượng thịnh. Như vượng thần tại đề cương, Thiên can tất tu thuận kỳ khí thế, tiết chi khả dã ; như vượng thần tại biệt chi, Thiên can chế chi hữu lực, chế chi khả dã. Hà dĩ vượng thần tại đề cương, chích nghi tiết nhi bất nghi chế? Phu vượng thần tại đề cương giả, tất chế thần chi tuyệt địa dã, như cường chế chi, bất đắc kỳ tính, dụng kích nhi tứ sính hĩ. Vượng thần giả, mộc phương đề cương đắc dần mão dã thị dã ; chế thần giả, Canh Tân kim dã, dần mão nãi Canh Tân chi tuyệt địa dã. Như thần tại đề cương, tứ trụ Can chi hựu hữu Canh Tân chi trợ, phương khả chế hĩ. Sở vị tuần kỳ khí tự, điều tề đắc nghi, tư vi toàn mỹ. Mộc phương như thử, dư khả loại thôi.

- Nhâm Thị viết: Địa Chi tam vật, chính là các chi trong tứ trụ hội về một phương như dần mão thìn, tị ngọ mùi, thân dậu tuất, hợi tý sửu. Như dần mão thìn mà Nhật chủ là mộc, quan trọng Thiên can nhiều hỏa; Nhật chủ là hỏa, cần Thiên can kim vượng; Nhật chủ là kim, lại cần Thiên can thổ trọng. Địa chi “toàn tam vật”, hầu hết cái thế của nó thịnh vượng. Như ở đề cương , vượng thần khí nào thì Thiên can phải thuận theo cái khí thế ấy, thời như thế có thể tiết được; hay như thần khí vượng tại một Địa chi khác, Thiên can chế Chi mà hữu lực, thời có thể chế được vậy. Tại sao thần khí vượng ở đề cương, chỉ nên tiết mà không nên chế? Ấy bởi khi thần khí vượng tại đề cương, chế thần khí ắt hẳn chỉ dẫn đến tuyệt địa, như là cưỡng chế mà thôi, chẳng đắc dùng được cái thần khí vượng ấy, chỉ là dùng kích động để cho sướng mà thôi. Thần khí vượng, như đề cương phương mộc mà đắc dần mão cũng là thần khí vượng vậy; thì khi đó cái gọi là chế thần, chính là Canh Tân kim vậy, vì dần mão chính là tuyệt địa của Canh Tân. Hay như khí Địa chi Thìn tại đề cương, tứ trụ can chi lại có Canh Tân trợ giúp thì mới có thể chế được vậy. Gọi là “noi theo thứ tự của thần khí đó” (tuần kỳ khí tự), chính là điều hòa cái nào cần nên, cái nào cần đắc, được như thế thì toàn mỹ. Mộc phương luận như thế, các phương còn lại cũng luận tương tự.

Tân mão - Canh Dần - Giáp Thìn - Bính dần

Kỷ sửu - Mậu Tý - Đinh hợi - Bính tuất - Ất dậu - Giáp thân

Thử dần mão thìn đông phương, kiêm chi dần thì, vượng chi cực hĩ. Niên nguyệt lưỡng kim lâm tuyệt, vượng thần tại đề cương, hưu kim nan khắc, nhi thả Bính hỏa thấu thì, mộc hỏa đồng tâm, vị cường chúng nhi địch quả, thế tại khứ Canh Tân chi quả. Tảo hành thổ vận sanh kim, phá háo dị thường, tiến kinh nhập bộ bạn sự ; chí Bính tuất vận, phân phát quảng đông, đắc quân công, thăng tri huyện, hỉ kỳ khắc tẫn Canh Tân chi mỹ ; chí dậu, Canh Tân đắc địa, bất lộc nghi hĩ.

Tứ trụ này dần mão thìn phương đông hội mộc, kiêm được giờ dần mộc, nên rất vượng. Trụ năm tháng lưỡng kim đều lâm vị trí Tuyệt, thần khí vượng ở đề cương thì kim yếu khó mà khắc được, hơn nữa Bính hỏa thấu lộ ở trụ giờ, nên mộc hỏa đều đồng lòng, gọi là lấy số đông-mạnh mà chống lại số ít, uy thế này đến áp chế Canh Tân chính là thiểu số. Hành vận sớm gặp thổ sanh kim, phá hao dị thường, đến kinh thành vào làm việc trong Bộ (một cơ quan hành chính thời xưa, như Bộ Binh, Bộ Lễ, Bộ Hộ,…); tới vận Bính tuất, được phái đi Quảng Đông, được quân công, thăng chức Tri huyện, vận hỉ chính là do gặp được Canh Tân bị khắc tận cùng; tới vận dậu, Canh Tân đắc địa, nên bất lộc (chết) vậy.

Canh dần , Canh thìn , Giáp dần , Đinh mão

Tân tị - Nhâm ngọ - Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất

Thử diệc dần, mão, thìn đông phương. Vượng thần bất thị đề cương, thìn thổ quy viên, canh kim đắc tái, lực lượng túc dĩ khắc mộc, Đinh hỏa tuy thấu, phi canh kim chi địch, dụng sát minh hĩ. Chí Giáp thân vận, canh kim lộc vượng ám xung dần mộc, khoa Giáp liên đăng, sĩ chí quận thủ ; nhất giao Bính vận chế sát, giáng chức quy điền.

Tứ trụ này cũng là dần, mão, thìn phương đông; thần khí vượng không phải đề cương, thìn thổ quy viên, Canh kim được nâng đỡ, lực lượng đủ để khắc mộc, Đinh hỏa tuy thấu lộ, nhưng chẳng đối địch Canh kim, lấy Sát làm dụng là sáng suốt. Tới vận Giáp thân, Canh kim Lộc vượng ám xung dần mộc, khoa giáp liên tục tấn tới, làm quan đứng đầu một quận (Tri phủ); đến vận Bính chế Sát, bị giáng chức về hưu.

Ducminh
26-10-09, 21:43
Dương thừa dương vị dương khí xương , tối yếu hành trình an đốn.

(Dương can vì cư vị trí dương nên dương khí thịnh, rất cần được vận trình điều hòa. )

- Nguyên chú: lục dương chi vị, độc tý, dần, thìn vi dương phương, vi dương vị chi thuần. Ngũ dương cư chi, như nhược thị vượng thần, tối yếu hành vận âm thuận an đốn chi địa.

- Nguyên chú: Trong 6 vị trí dương , chỉ có tý , dần , thìn là phương dương, là vị trí thuần dương, 5 (can) dương đóng ở đó , nếu là vượng thần (thì) rất cần gặp vận đến đất âm thuận (để) điều hòa.

- Nhâm thị viết: lục dương giai dương , phi tý, dần, thìn dương chi thuần dã, tu phân dương hàn dương noãn nhi luận dã. Tây bắc vi hàn, Đông nam vi noãn, như nhược thân, tuất, tý toàn, vi Tây bắc chi dương hàn, tối yếu hành vận ngộ mão, tị, mùi Đông nam chi âm noãn thị dã; như dần, thìn, ngọ toàn, vi Đông nam chi dương noãn, tối yếu hành vận dậu hợi sửu tây bắc chi âm hàn thị dã.

Nhậm nói rằng: 6 chi dương đều dương, tý, dần, thìn chẳng phải thuần dương, mà cần phải phân ra làm dương lạnh, dương ấm để luận. Tây bắc lạnh, Đông nam ấm. Nếu thân, tuất, tý đầy đủ (trong trụ), là Tây bắc dương lạnh, rất cần đi gặp vận mùi, tị, mão Đông nam âm ấm vậy. Như dần, thìn, ngọ đầy đủ, là Đông nam dương ấm, lại rất cần đi vận dậu, hợi, sửu Tây bắc âm lạnh vậy.

Thử cử đại cục nhi luận, nhược ngộ nhật chủ chi dụng thần hỉ thần, hoặc mộc, hoặc hỏa, hoặc thổ, thị đông nam chi dương noãn, tuế vận diệc nghi phối tây bắc chi âm thủy, âm mộc, âm hỏa, phương năng sanh trợ hỉ thần dụng thần, nhi hoan như thù tạc. Nhược tuế vận ngộ Tây bắc chi dương thủy, dương mộc, dương hỏa, tắc vi cô dương bất sanh , túng sử sanh trợ hỉ thần, diệc nan thiết đương, bất quá miễn khi khu nhi xu bình thản dã. Dương noãn chi cục như thử , dương hàn chi cục diệc như thử luận, sở vị "Dương thịnh quang xương cương kiện chi thế, tu phối dĩ âm thịnh bao hàm nhu thuận chi địa" thị dã . Nhược bất thâm tâm xác cứu , thục năng tham kỳ tinh vi , nhi đắc kỳ yếu quyết hồ ?

Điều này cứ lấy đại cục mà luận, như gặp hỉ, dụng thần của nhật chủ: hoặc là mộc, hoặc hỏa, hoặc thổ, thời là Đông nam dương ấm, tuế vận lại cũng nên phối hợp với Tây bắc âm thủy, âm mộc, âm hỏa, thì mới có thể sinh trợ dụng, hỉ thần, mà vui vẻ như chủ khách thân tình. Nếu tuế vận gặp Tây bắc dương thủy, dương mộc, dương hỏa, tất là dương cô độc không thể sinh trợ được. Dù muốn sinh trợ cho hỉ thần, cũng khó thiết tha gánh vác, bất quá chỉ như bỏ đường núi gập ghềnh mà theo đường bằng phẳng mà thôi. Cách cục dương ấm luận như thế, cách cục dương hàn cũng như thế mà luận. Đó gọi là “Gặp thế dương thịnh sáng sủa tốt đẹp khỏe mạnh, thì nên phối hợp với đất âm thịnh hàm chứa nhu thuận” !. Như chẳng bỏ thâm tâm minh xét đến cùng, thì sao tìm ra cái tinh vi, để mà đắc yếu quyết đây ?

Quý tị Bính thìn Bính ngọ Canh dần

Ất mão - Giáp dần - Quý sửu - Nhâm tý - Tân hợi


Thử Đông nam chi dương noãn. Thiên can kim thủy, tự hồ vô căn, hỉ nguyệt chi thìn thổ , tiết hỏa súc thủy nhi sanh kim , Canh kim quải giác phùng sanh, tắc Canh kim khả dụng. Quý thủy tức canh kim chi hỉ thần. Sơ vận Ất mão Giáp dần, kim tuyệt hỏa sanh nhi thủy tiết, cô khổ bất kham; nhất giao Quý sửu bắc phương âm thấp chi địa, kim thủy thông căn, hựu đắc tị sửu củng kim chi diệu, xuất ngoại đại đắc tế ngộ, sậu nhiên phát tài thập dư vạn. Dương noãn phùng hàn, phối hiệp chi mỹ dã.

Đây là tứ trụ dương ấm đông nam, Thiên can kim thủy tựa hồ như không có gốc (căn), mừng là nguyệt chi thìn thổ, tiết bớt hỏa, chứa đựng thủy (Thìn tàng Quý thủy) mà sinh kim. Canh kim như bị treo dồn vào góc mà nay được sinh trợ, tất Canh kim có thể làm dụng, Quý thủy tức hỷ thần của Canh kim. Hai vận đầu Ất mão, Giáp dần, kim bị tuyệt (Canh tuyệt ở dần), hỏa được sinh (hỏa sinh từ mộc: Giáp Ất, dần mão), mà thủy bị tiết khí, cô đơn, khổ cực không chịu được. Giao vận Quý sửu là nơi âm phương bắc ẩm ướt, kim thủy thông gốc, lại hay ở chổ 2 chi tị, sửu hợp củng kim, xuất ngoại gặp được vận hội lớn, bỗng nhiên phát tài hơn 10 vạn. Dương ấm gặp lạnh, phối hợp đẹp đẽ vậy.

Mậu dần Ất sửu Bính dần Canh dần

Bính dần - Đinh mão - ; Mậu thìn - Kỷ tị - Canh ngọ

Bính dần nhật nguyên , tuy chi ngộ tam dần , tối hỉ sửu thổ thừa quyền, tài tinh quy khố. Nhược vận tẩu Tây bắc thổ kim , tài nghiệp tất thắng tiền tạo, tích nhất lộ Đông nam mộc hỏa chi địa, tổ nghiệp phá tận, biến lịch sổ tỉnh, bôn trì bất ngộ , chí ngọ vận ám hội kiếp cục , tử vu Quảng đông . Nhất sự vô thành , mạc phi vận dã.

Nhật nguyên Bính dần, tuy gặp 3 dần, nhưng rất mừng là sửu thổ nắm quyền, Tài nhập mộ khố. Nếu như hành vận Tây bắc thổ kim, thì tiền tài sẽ giàu hơn tứ trụ trước. Tiếc rằng đi đường Đông nam hỏa mộc, phá sạch cơ nghiệp ông cha, lang thang khắp mấy tỉnh mà không gặp cơ hội. Đến vận ngọ hợp thành Tỉ Kiếp, chết ở Quảng Đông. Một việc cũng chẳng thành, chẳng nhẽ không phải do vận gây nên ư.

daoth
12-09-13, 09:03
kính gửi anh Ducminh,
Bộ Trích thiên tủy rất có giá trị nhưng rất tiếc anh mới đưa lên 9 chương phần I. Độc giả rất mong muốn anh đưa phần còn lại để anh em tham khảo. Xin cảm ơn.

Mathias
15-10-15, 12:49
Chào a.Ducminh,

Đoạn bên dưới về quý thủy sinh vào mùa thu đông, thấu can bính or đinh hỏa và gặp mậu thổ.

như vậy: Quý thủy bị hợp hóa hỏa hay không? nếu bị hợp hóa hỏa thì điều gì xảy ra cho Quý thủy?

vì nguyên chú:"....Phàm mậu quý gặp bính đinh thấu can, chẳng cần luận vượng suy, sinh vào mùa thu mùa đông đều luận hóa hỏa, thật là chân lý luận vậy."

Nhâm thị viết:"...Sinh vào mùa thu mùa đông kim thủy vượng địa, trong tứ trụ địa chi có chi thìn thổ, thiên can thấu bính đinh cũng không thể hóa được, cho nên cần phải tế phân cho tường tận vậy."

Mong nhận được hoài âm từ ACE.

Rgds,
M.Tu
------------------------------
Quý thủy chí nhược, đạt vu thiên tân. Đắc long nhi vận, công hóa tư thần. Bất sầu hỏa thổ, bất luận canh tân. Hợp mậu kiến hỏa, hóa tượng tư chân.

Nguyên chú: quý thủy nãi âm chi thuần nhi chí nhược, cố phù tang nhược thủy dã. Đạt vu thiên tân, tùy thiên nhi vận, đắc long dĩ thành vân vũ, nãi năng nhuận trạch vạn vật, công hóa tư thần. Phàm trụ trung hữu giáp ất dần mão, giai năng vận thủy khí, sinh mộc chế hỏa, nhuận thổ dưỡng kim, định vi quý cách, hỏa thổ tuy đa bất úy. Chí vu canh kim, tắc bất tại kỳ sinh, diệc bất kị kỳ đa. Duy hợp mậu thổ hóa hỏa dã, mậu sinh dần, quý sinh mão, giai chúc đông phương, cố năng sinh hỏa. Thử cố nhất thuyết dã, bất tri địa bất mãn đông nam, mậu thổ chi cực xử, tức quý thủy chi tận xử, nãi thái dương khởi phương dã, cố hóa hỏa. Phàm mậu quý đắc bính đinh thấu giả, bất luận vượng suy, thu đông giai năng hóa hỏa, tối vi chân dã.

Dịch nghĩa:

Quý thủy thuộc khí thuần âm mà khí thế cực nhược, nên gọi là nước biển phù tang. Thông đến bến trời, tùy theo thời hành vận, gặp long mà hóa vân vũ, có công năng làm nhuận trạch muôn loài, làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở. Phàm trong trụ có giáp ất dần mão mộc, lại còn gặp thủy vận, thủy vừa chế hỏa vừa sinh mộc lại nhuận thổ dưỡng kim, cho là quý cách, dù cho có hỏa thổ nhiều cũng không lo sợ. Đến như canh kim, chẳng sinh được quý thủy nhưng cũng không sợ kim nhiều. Duy quý thủy hợp mậu thổ hóa hỏa, mậu trường sinh tại dần, quý trường sinh tại mão, đều thuộc mộc phương đông, cho nên nói mậu quý hợp hóa hỏa vậy. Có thuyết nói: “Nhiều người không biết rằng đất phương đông nam bốn bề khuyết hãm, mậu thổ vị ở cực cao, tức quý thủy vị ở cực thấp, là nơi vầng dương bắt đấu ló dạng, cho nên mậu quý hợp hóa hỏa vậy”. Phàm mậu quý gặp bính đinh thấu can, chẳng cần luận vượng suy, sinh vào mùa thu mùa đông đều luận hóa hỏa, thật là chân lý luận vậy.

Nhâm thị viết: quý thủy chi vũ lộ chi vị, nãi thuần âm chi thủy. phát nguyên tuy trường, kỳ tích cực nhược, kỳ thế tối tĩnh, năng nhuận thổ dưỡng kim, phát dục vạn vật, đắc long nhi vận, biến hóa bất trắc. Sở vị phùng long tức hóa, long tức thìn dã, phi chân long nhi năng biến hóa dã. Đắc thìn nhi hóa giả, hóa thần chi nguyên thần phát lộ dã, phàm thập can phùng thìn vị, tất can thấu hóa thần, thử nhất định bất dịch chi lý dã. Bất sầu hỏa thổ giả, chí nhược chi tính, kiến hỏa thổ đa tức tòng hóa hỷ; bất luận canh kim giả, nhược thủy bất năng tiết kim khí, sở vị kim đa phản trọc, quý thủy thị dã. Hợp mậu kiến hỏa giả, âm cực tắc dương sinh, mậu thổ táo hậu, trụ trung đắc bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, nãi vi chân dã. Nhược thu đông kim thủy vượng địa, túng thủy chi ngộ thần long, can thấu bính đinh, diệc nan tòng hóa, nghi tế tường chi.

Dịch nghĩa:

Quý thủy thuộc mưa mốc, là thủy thuần âm. Phát nguyên tuy trường nhưng tính lại nhược, khí thế cực tĩnh lặng, có thể nhuận thổ dưỡng kim, sinh sôi và phát triển vạn vật, gặp long vận biến hóa khó lường. Sở dĩ gặp long mà hóa là do long là thìn, chẳng phải chân long (tức thìn) thì không thể hóa. Gặp thìn thì hóa, hóa thần là nguyên thần phát lộ, phàm thập can gặp chi thìn, tức can thấu thần, cái luận lý ấy bất di bất dịch vậy. Bất sầu hỏa thổ, quý thủy khí thế cực nhược, gặp hỏa thổ nhiều tức tòng hóa; bất luận canh kim, quý thủy không thể tiết khí được canh kim, thế cho nên kim nhiều thủy trở nên đục. Quý thủy hợp mậu hóa hỏa, âm cực tức dương sinh, mậu thổ khí khô dày, trong trụ trên can thấu lộ bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, đều là lý luận chân chính vậy. Sinh vào mùa thu mùa đông kim thủy vượng địa, trong tứ trụ địa chi có chi thìn thổ, thiên can thấu bính đinh cũng không thể hóa được, cho nên cần phải tế phân cho tường tận vậy.[/QUOTE]