PDA

View Full Version : Phụ Tá diệu



mrhathaingo
18-09-11, 09:21
PHỤ TÁ diệu.

Tử vi đấu sổ, tác dụng của Trung, Phụ, Tá, Sát, Hóa, Tạp diệu, làm cho từ 14 chính diệu cấu thành 60 tinh hệ, có thể hiện ra tính chất phức tạp, để phản ánh phức tạp của nhân sinh. chúng khả dĩ chuyển hóa, hoặc làm mạnh thêm, hoặc làm yếu đi bản chất của tinh hệ, lúc phối hợp vận dụng, bản lai cứng ngắc của 12 tinh bàn (một chính một phản là kết cấu 6 tổ tinh hệ), thì sinh động nỗi lên, thành tổ hợp thiên biến vạn hóa, khiến người không phân biệt được đúng sai.

Phải đem hết thảy tổ hợp tinh hệ, gia thêm biến hóa của Phụ, Tá, Sát, Hóa, Tạp diệu, từng cái liệt kê, căn bản là không thể làm được, nên học giả chỉ có thể đem tính chất của chúng gia dĩ dung hòa để suy đóan.

"Tử-vi đấu sổ” cực trọng kinh nghiệm, hết thảy tính chất của tinh hệ cùng tinh diệu, kì thật cũng là ghi lại kinh nghiệm của tiền nhân, học giả phải có tinh thần “phát dương quang đại” (làm cho rực rở), căn cứ tư liệu sinh hoạt hiện đại, đem kinh nghiệm của tiền nhân khuếch trương, ắt kinh nghiệm của đấu sổ mới có thể bảo trì chuẩn xác.
Chương này, chỉ là Phụ, Tá, Sát, Hóa diệu tính chất phục tạp, tạp diệu tự thành hệ thống mở ra một chương riêng.

Theo Trung-châu phái, Phụ Tá 8 sao phân thành hai tổ, một là Phụ diệu, một là Tá diệu.
• Phụ diệu: Thiên-khôi Thiên-việt, Tả-phụ Hữu-bật.
• Tá diệu: Văn-xương Văn-khúc, Lộc-tồn Thiên-mã.

lợi ích Phụ diệu mang đến, thuộc "Tha lực” (do người khác mà có), hoàn toàn không phải do nỗ lực cá nhân có thể đạt được,
nhưng lợi ích của Tá diệu, thuộc “tự lực” (do chính mình mà có), tất cá nhân phải trải qua thực hiện mới thành công.

thí dụ, trước mắt Hương-cảng do chính trị biến động, nên tạo thành nhiều cơ hội tiến thân, những cơ hội này tức khả dĩ nói người hưởng [Thiên-khôi, Thiên-việt], hoàn toàn chỉ là được thời cơ, tịnh không có người làm lợi cho họ, đặc biệt được họ an bài cải cách chính thể. Như không có thời cơ thích hợp, những người này nỗ lực nhiều mặt, cũng quyết không có địa vị hôm nay (Thí như nói, không có tổ chức "khu nghĩa hội”, sao có khu nghĩa viên chứ?)

Lợi ích của Tá diệu mang đến, nhất định phải tự chính mình nỗ lực tranh thủ, cùng tính chất của Phụ diệu tương phản.
- như Lộc-tồn Thiên-mã đại khái chủ về xuất ngoại kinh thương làm giàu, (như Mệnh cung hoặc Thiên di cung kiến tổ Tá diệu này), nhưng tự mình không đi kinh thương, ắt nhất định không có tài phú.
- như Văn-xương Văn-khúc chủ về khoa danh, (giả như Mệnh cung hoặc Phúc đức cung kiến tổ tinh diệu này), nhưng không cầu học, cũng sẽ nhất định không thể đạt được các học vị.

Phải hiểu rõ bất đồng giữa Tá diệu, Phụ diệu, suy đóan mới có thể phát huy hết “tự lực” cùng “tha lực”, có thể làm cho tinh hệ giống nhau hiện rõ những tính chất bất đồng.


1/. Thiên-khôi Thiên-việt .
Thiên-khôi thuộc dương hỏa, Thiên-việt thuộc âm hỏa, đều thuộc nam đấu tinh hệ, cổ nhân cho là sao chỉ tài danh, nhưng tính chất của chúng kì thật cùng với Xương Khúc Khoa danh bất đồng.

Tại Thân Mệnh, Xương Khúc, Khôi Việt đều chủ về thông minh cùng lợi việc cầu danh,
- duy thông minh của Xương Khúc kèm theo sắc thái phong lưu nho nhã,
- Khôi Việt lại giản dị. theo sở truyền của Trung-châu phái, Khôi Việt giống như quan lại chọn lựa và lưu giữ. Thực tế, Khôi Việt chủ là lợi ích của hệ thống văn hóa, hoặc do cải biến thể lệ mà đưa đến cơ hội, do vậy suy rộng ra, hiện đại có thể là chính sách xí nghiệp cải biến mang đến chỗ tốt, mang theo lợi ích.

Khôi Việt tất phải hội hợp “thành cặp tại tam phương tứ chính”, mới phát sinh tác dụng. nếu như Khôi Việt của nguyên cục được Khôi Việt của vận hạn hoặc Khôi Việt của lưu niên xung khởi, ắt lực càng lớn.

Nếu Khôi Việt chỉ là "Đơn tinh” hình thức đồng độ hoặc hội chiếu, ắt cần chú ý "âm dương điều hòa” trong tiêu đề.
• Thiên-khôi thuộc dương. nên hỉ cùng tinh diệu âm tính đồng độ, như Thái-âm, Liêm-trinh, Thất-sát ...
• Thiên-việt thuộc âm, nên hỉ cùng tinh diệu dương tính đồng độ, như Thái-dương, Thiên-đồng, Tham-lang, Thiên-tướng, Thiên-lương ….

Thiên-khôi đắc âm diệu điều hòa, sau đó cơ hội mới không mất hết.
Thiên-việt được dương diệu điều hòa, mới dễ phát hiện cơ hội,
nếu không cả hai đều dễ mất tốt.

cho nên Thiên-khôi cùng Hỏa-tinh đồng độ: dương cương quá thậm. dễ mất đi cơ hội, do dự một chút tức mất. với tật bệnh cũng chủ đến như lửa cháy.
Thiên-việt Linh-tinh đồng độ, âm nhu quá thậm. cơ hội đến mà không biết, việc xong mới biết rồi hối tiếc. với tật bệnh cũng chủ kéo dài dây dưa.

Khôi Việt không cần tại Mệnh cung cũng có lợi,
- tại Điền trạch cung, có lúc cũng chủ cơ cấu mình phục vụ hay cho mình cơ hội.
- Tại Phụ mẫu cung, chủ thượng ti hoặc chủ quản cơ cấu đối với mình gia dĩ chủ động đề bạt hoặc đề cử.
- Tại Phúc đức cung, tối lợi kèm theo tinh diệu có tính chất nghiên cứu học thuật, như “Dương Lương Xương Lộc”, chủ học có thể hành được.

Phàm cung vị lục thân, đều bất hỉ "Khôi Việt đơn tinh” đồng hội, nếu "đơn tinh" lại "âm dương không điều hòa”, và kiêm kiến Sát, tất có rắc rối, đại khái là lưỡng trùng phụ mẫu, lưỡng trùng huynh đệ, lưỡng thứ hôn nhân …. Kiến Đào hoa chư diệu đồng cung càng chính xác.

Thiên-việt đơn tinh, cùng Hồng-loan, Thiên-hỉ đồng độ, hoặc kiến thêm Hàm-trì, Đại-hao, gọi là "hồ đồ đào hoa”, dễ cùng đồng tính phát sinh tình cảm, đem trợ lực hóa thành trở lực.

Thiên-khôi Thiên-việt thấu hội, Kình Đà cũng thấu hội, gia thêm địa Không Kiếp thấu hội, như tại Mệnh cung hoặc Tật ách cung, đều chủ có tật khó sửa.

Khôi Việt thấu hội, Xương Khúc cũng thấu hội, lại kiến Lộc (Lộc-tồn hoặc hóa Lộc đều được), chủ một đời quyền lộc phong hậu.

1- Thiên-khôi tọa Mệnh cung, Thiên-việt tọa Thân cung,
2- tại tam phương tứ chính tương hội, đắc thêm mệnh thân cung chính diệu Cát, Sát diệu không nặng, chủ thiếu niên đắc mĩ thê. Vô luận nam nữ, đều chủ một đời mỗi khi gặp khó khăn tất được trợ lực.

Dưới đây là kết cấu của Khôi Việt.
• kiến Khôi Việt: cảm tình ổn định hơn,
• kiến Phụ Bật đơn tinh: chủ tình cảm đổi người.
2- Khôi Việt phân tọa Mệnh Thân cung, tại tam hợp cung tương hội, chủ sự nghiệp đắc ý. kiêm phùng Tử-vi, Thiên-phủ, Thái-dương (nhật sinh nhân), Thái-âm (Dạ sinh nhân) Tọa mệnh, vô Sát Kị chư diệu, dễ thành đầu não của xí nghiệp, lĩnh tụ chính trị. Xương Khúc gia hội, lại chủ do sớm phát mà được người khác phái ưu ái, gia thêm Lộc-tồn hóa Lộc, sớm được nhà vợ nâng đỡ.

3-, Khôi Việt giáp:
- giáp Mệnh, chủ một đời nhiều quý nhân trợ lực, thu ích từ nhiều điển chương văn vật (vật phẩm văn hóa)
- giáp Phu thê cung, chủ được nhà vợ đắc lực.
- Phân cư Mệnh cung cùng Phu thê cung, cũng chủ do hôn nhân mà đắc trợ lực. Nữ mệnh chủ lấy được hiền phu.

AnhNgoc
18-09-11, 12:20
Chào mừng anh Hà đã đến với diễn đàn HKLS .

mrhathaingo
18-09-11, 13:09
2/. Tả-phụ Hữu-bật .
Tả phụ thuộc dương thổ, Hữu bật thuộc âm thủy. tính chất cơ bản là trợ lực đến từ người ngang vai vế hoặc vãn bối, như đồng sự và hạ thuộc, sự nghiệp hợp tác, bạn hàng, đồng học, môn sinh đệ tử …. Đây bất đồng với tính chất của Khôi Việt, chủ trợ lực đến từ trường bối hoặc chủ quản cơ cấu.

Phụ Bật cũng hỉ lấy hình thức "Đối tinh” nhập một cung viên. ở lục thân cung vị càng như thế. Nếu là "đơn tinh”:
• hoặc chủ li tông thứ xuất (con vợ nhỏ);
• hoặc chủ lưỡng trùng phụ mẫu;
• hoặc chủ lưỡng trùng huynh đệ;
• hoặc chủ lưỡng trùng tử nữ;
• hoặc chủ lưỡng thứ hôn nhân. có Đào hoa chư diệu hoặc tứ Sát đồng hội càng chính xác.

Lực Tả-phụ mạnh hơn Hữu-bật. nên Mệnh cung tọa Hữu-bật, hội-Tả phụ, thường trợ lực không bằng Tả-phụ tại mệnh cung, hội Hữu-bật.

Phụ Bật đều chủ lạc quan, khoan hậu nên nếu chủ tinh của mệnh cung có kèm sắc thái chua ngoa hoặc bi quan tiêu cực, nếu có Phụ Bật đồng hội, ắt cũng chủ có thể giảm nhẹ nhược điểm này.

Phụ Bật tối hỉ giáp chủ tinh, như [Tử-vi, Thiên-phủ, Thái-âm, Thái-dương]. Tam phương đồng hội cũng tốt, càng có thể phát huy trợ lực.

Phụ Bật bất hỉ các chính diệu [Đồng, Lương, Cơ, Cự, Vũ].
• Thiên-lương: không chịu vào khuôn phép,
• Thiên-đồng: hưởng thụ,
• Thiên-cơ: giỏi biến hóa,
• Cự-môn: thị phi,
• Vũ-khúc: quyết tuyệt (dứt khoát/đoạn tuyệt),
các chính diệu này cùng bản chất của Phụ Bật không hợp, tuy do đồng hội Phụ Bật mà giảm nhẹ nhược điểm, nhưng trợ lực cũng do vậy mà yếu đi.
lúc bổn chất tinh hệ cùng “tính chất khoan hậu của Phụ Bật” xung đột quá, ắt chủ nội tâm sinh mâu thuẫn xung đột, mà khởi trắc trở và khốn nhiễu.

Tả phụ Hữu bật chủ trợ lực tiên thiên, như dễ kết giao bạn tốt, dễ được hạ thuộc trợ lực, không cần tận lực tìm kiếm. nhưng nếu chỉ “đơn tinh” hội nhập hoặc đồng độ, ắt dù cho hạ thuộc đông, cũng chủ trợ lực bất túc.
Lợi dụng tính chất này, có khi cũng có thể trợ mệnh cung suy đóan. Như Thất-sát tại dần, thân cung an mệnh, thành cách Thất sát triều đấu, ngưỡng đấu,
• nếu kiến Phụ Bật, ắt chủ hạ thuộc đông, và có lãnh đạo lực.
• Duy kiến Phụ Bật “đơn tinh”, ắt có thể chỉ là thế người quản lí.

*** Phu thê cung kiến Phụ Bật, cần xem xét là được hôn nhân trợ lực, hoặc bị đệ tam nhân chen vào. Tình hình là:
- kiến “đơn tinh” (nhất là Hữu bật), thông thường là chủ có người thứ ba.
- Nếu hội Hỏa-tinh, Kình-dương, ắt ba bận hôn nhân biến hóa, hoặc trước hôn nhân, sau hôn nhân vấp ngã. như chính diệu là Liêm-trinh lạc hãm, hoặc Lương Đồng, Cơ Cự, Vũ-khúc …, càng chủ ái tình trắc trở bi kịch, nhiều đau đớn hoặc nội tâm thống khổ. Nếu hội thêm Xương Khúc, chủ ái tình bi kịch, duy kèm theo thi ý (thơ mộng).

Nếu Mệnh cung và Phu thê cung phân ra kiến Phụ Bật và kiến Sát: hôn nhân bất cát, không hòa thuận. nếu Thân cư Phu thê cung, nhưng bất kiến Sát, chủ: đắc thê lực.

*** Huynh đệ cung kiến Phụ Bật, có lúc chỉ chủ anh em đông. Như "Tử vi Tham lang” đồng độ, chủ huynh đệ 3 người, kiến Phụ Bật ắt chủ 5 người, tái hội Khôi Việt là 7 người.
số mục cụ thể tăng gia, phải xem Phụ Bật các phụ diệu miếu bình hãm mà điều tiết, nhập miếu số mục tăng gia càng nhiều, lạc hãm ắt phải giảm thiểu số tăng.

*** Tử tức cung đơn kiến Phụ Bật, chủ trước sinh nữ sau sinh nam. Tả phụ thuộc dương, tính chất đặc biệt rõ ràng. Tử tức cung kiến Phụ Bật, rất khó định đoạt, là đắc con cái hoặc hạ thuộc trợ lực, hoặc chỉ chủ số mục nhiều. đại khái dưới đây, lấy tinh hệ chính diệu của cung viên làm chuẩn.
Như tinh hệ Tử tức cung là Cơ Cự, ắt phần nhiều chỉ chủ thuộc hạ đông, nhưng thường thường thay đổi; xem bổn thân Tử tức, Phụ Bật ắt chủ số mục tăng nhiều, không chủ trợ lực, do Cơ Cự bổn thân ý vị vô trợ lực.

- Hỏa-tinh và Kình-dương đồng hội, vốn đã hỗ tương để giảm khuyết điểm, giống như lấy minh hỏa để rèn khối kim, lại do tôi luyện mà thành vật khí. Nhưng nếu kiến "Tả-phụ đơn tinh", ắt dương cương quá thậm, giống như luyện hoàng kim mà vỡ nồi, lại thành chướng ngại.
- Linh-tinh và Đà-la đồng hội, phần khuyết điểm cũng có thể mất đi, giống như lấy âm hỏa luyện kim, lại do hun đúc mà phát anh hoa. Nhưng nếu kiến “Hữu-bật đơn tinh", ắt âm nhu quá thậm, giống như lò luyện kim không chăm sóc tốt, làm cho nhân sinh trắc trở, thăng trầm.

Dưới đây là các kết cấu của Phụ Bật:
1/. Phụ Bật giáp sửu mùi nhị cung. chính diệu tinh hệ được giáp nên được trợ lực lớn . ngay cả khi bị Sát Kị giáp, tức chuyển hóa nhân tố bất lợi thành nhân tố có lợi. Như "Vũ-khúc Tham lang” tại sửu cung. Tham hóa Kị, chủ dễ vướng tranh đoạt lợi ích, nhưng lúc được Phụ Bật giáp thì có thể chuyển hóa thành lợi ích, được Tả Hữu thủ: phận bạc, tính chất không tương đồng rất lớn.

"Tử Phá”, “Thiên-phủ”, "Thái-âm Thái-dương" tối hỉ Phụ Bật giáp, chủ xã hội địa vị tăng cao, cũng tăng gia ổn định nhân sinh. Tối hỉ Long Phượng đồng thời tương giáp, ắt lực lượng càng mạnh, và chủ là người có tài nghệ.

2/. Phụ Bật đồng tọa sửu mùi cung, chính diệu tinh hệ cũng được tăng cường lực rất lớn. có thể tham khảo tiền thuật tính chất của tương giáp.

3/. Phụ Bật ở thìn tuất nhị cung đối củng, cũng thành kết cấu được trợ lực tương đương lớn. đại khái tình huống sau, tinh diệu cư thìn, tuất nhị cung bị lạc Thiên la Địa võng, có Phụ Bật đối củng ắt chủ có trợ lực thúc đẩy đột phá. Nếu tái gia thêm Long Phượng đối củng, ắt là người có tài nghệ, hoặc chủ tăng cao địa vị xã hội.

4/. Đơn kiến Phụ Bật, như tại Mệnh cung vô chính diệu tinh hệ triền độ, tá cung an tinh, chổ tá lại là "Thiên-đồng Cự-môn", “Thái-dương Thiên-lương”, "Thiên-cơ Thái-âm”, "Thiên-cơ Cự-môn", "Thiên-đồng Thái-âm” … tinh hệ, ắt chủ thiếu niên li gia, lìa phụ mẫu, hoặc làm con thừa tự, hoặc chủ thê thiếp………

Nếu Liêm hóa Kị, Kình đồng độ, đơn kiến Phụ Bật, ắt chủ có khuynh hướng trộm cướp, bất luận phú quý bần tiện đều như thế, nhỏ ắt là trộm, lớn là thiết quốc (chiếm đoạt quyền lực nhà nước).

thien-quan
19-09-11, 19:19
hay quá......:4431:

mrhathaingo
20-09-11, 06:38
. Lộc-tồn Thiên-mã .
Lộc-tồn thuộc âm thổ, Thiên-mã thuộc dương hỏa.
• Lộc-tồn là bắc đấu tinh diệu,
• Thiên-mã là trung thiên phụ diệu,
nên cả hai bất tất thành đôi, chỉ đơn độc đồng hội, cũng có tính chất khác nhau.
Nên Trung-châu phái gọi Lộc-tồn, Thiên-mã là Tá diệu,

*** lúc cả hai đồng độ tại Mệnh, thành “Lộc Mã giao trì” cách cục, ắt chủ không gì không lợi, nhất là khi kiếm tiền ở thành phố khác, hoặc chủ thiên di đến đất khác mà đắc tài vận. nhưng loại tài vận này vẫn cần chính mình nỗ lực sau mới dành được, vì vậy thuộc [tự lực].

“Lộc Mã giao trì” tối hỉ hỗ điệp (lập lại),
• Lộc-tồn (hoặc hóa Lộc) nguyên cục được Lộc-tồn vận hạn (hoặc lưu hóa Lộc) đồng hội;
• Thiên-mã của nguyên cục lại cùng vận hạn lưu Mã đồng hội,
là “điệp Lộc + điệp Mã”: càng gia cường lực đắc tài.

- Chỉ “điệp Lộc” mà bất “điệp Mã”: đại lợi cầu tài, nhưng vô ý vị xuất ngoại;
- chỉ “điệp Mã” mà bất “điệp Lộc: chỉ chủ ra ngoài du lịch, hoặc chỉ chủ bôn ba, vô ý vị đắc tài.
- Sự nghiệp cung “điệp Lộc Mã”: chỉ chủ sự nghiệp có biến động cát lợi.
- Giao hữu cung “điệp Lộc Mã”: chỉ chủ thuộc hạ biến động.
- cung vị Lục thân kiến “điệp Lộc Mã”: là tượng chia li, tái kiến Sát Kị: tính chất kèm theo hung.

Lộc-tồn tuy là tài tinh, nhưng vẫn chỉ chủ “lợi tức cố định”, tất phải cùng hóa Lộc đồng hội (nhất là hỉ các tài tinh Vũ-khúc, Thái-âm hóa Lộc, hoặc Tham-lang hóa Lộc [chủ vật dục]): mới chủ tài nguyên phong túc, hội thêm Thiên-mã: tài nguyên lâu dài mà đường tiền tài rộng rãi.

Lộc-tồn vĩnh viễn bị Kình Đà giáp, nên tài lộ (đường tài) không rộng rãi, nhưng nước chảy nhỏ thì dòng chảy sẽ dài (sử dụng tiết kiệm thì dùng được lâu).
- Nếu Lộc-tồn đồng độ chính diệu hóa Kị, ắt biến thành "Kình Đà giáp Kị”: lại chủ rủi ro phá tài. nhân tố phá tài, cần xem tính chất chính diệu tinh hệ mà định.
- Lộc-tồn đồng hội [Hỏa Tham cách]: chủ ý ngoại tài (tài do may mắn) phong phú, duy cũng dễ phát dễ bại.
- Lộc-tồn hỉ cùng 8 sao: Tử-vi, Thiên-phủ, Thái-âm, Thái-dương, Vũ-khúc, Thiên-tướng, Thiên-đồng, Thiên-lương, đồng cung: khuyết điểm ít.
- Lộc-tồn cùng chính diệu khác đồng cung: dễ sinh khuyết điểm lớn hơn. (Như Thiên-cơ phù hoạt, cùng Lộc-tồn bổn chất đôn hậu xung đột / Liêm-trinh dễ làm việc theo cảm tình, cũng cùng Lộc-tồn tính chất đơn giản xung đột).
- Lộc-tồn và hóa Lộc, có thể tại cung vị "Lục hợp” tương hợp. (Tức chia ra ở tí sửu, dần hợi, mão tuất, thìn dậu, tị thân, ngọ mùi: lục tổ cung độ), gọi là [ám hợp], tuy không đẹp bằng “điệp Lộc minh hợp”: cũng có tác dụng lương hảo.
- Lộc-tồn và Phá-quân, Không Kiếp đồng cư: tài bạch dần dần tiêu ma, hoặc thu nhập không tăng, tăng lại giảm.

- Mệnh giáp Lộc-tồn và hóa Lộc: chủ trọn đời gần tài. (Người Thiên tướng thủ mệnh đặc biệt chủ nắm tài quyền. nhưng nếu đối cung “Phá-quân Vũ-khúc hóa Kị” lai xung: là do họa hoặc do bệnh phá tài).
- Giao hữu cung kiến Lộc-tồn, ắt Mệnh cung tất bị Kình Đà chiếu hội: chủ khó nhọc, vất vả.
- Phu thê cung kiến Lộc-tồn, có hóa Lộc lai hội, gọi là “Lộc hợp uyên ương”: lấy chồng giàu, nam mệnh chủ đắc vợ vượng phu, hoặc được tiền của nhà vợ, hoặc được thê tử trợ lực mà hưng gia.

Thiên-mã:
- hỉ cùng Lộc tinh hội (Lộc-tồn hoặc hóa Lộc đều được): mới chủ nguồn tài, nếu không chỉ là di chuyển, thay đổi. hoặc bị bôn ba lao lục.
- cùng Không diệu đồng độ: chủ vất vả mà vô công. (Địa-không tệ nhất, Thiên-không kế tiếp).
- cùng Hỏa Linh đồng cung, lưu niên có Sát đến triền, ở lục thân cung chủ hình khắc.
- cùng Đà-la đồng cung: chủ xuất hành bị trở ngại (Lưu Đà đến triền, ở lưu nhật, chủ máy bay trễ giờ…).
- cùng Thiên-hình đồng cư Thiên di cung, Sự nghiệp cung: chủ muốn thay đổi công tác mà không thành. Tái kiến Sát diệu: ắt có tính chất bị ép thay đổi.
- cùng sao Tuyệt đồng cư ở Mệnh cung, Thiên di cung: chủ bôn ba mà vô thu hoạch, trọn đời khó được cơ hội tại ngoại phát triển.
- cùng Đà-la hội chiếu, kiến thêm chính diệu tinh hệ không tốt: ắt chủ sai đường.
• Mệnh cung của nữ hoặc Phu thê cung kiến tổ hợp này: dễ chọn lầm chồng;
• Mệnh cung của nam hoặc Phúc đức cung kiến tổ hợp này: dễ chọn lầm nghề.

- gặp Giải-thần, Niên-giải, bị xung khởi, ở lưu niên Mệnh cung hoặc Phu thê cung, như gốc phu thê cung bất cát: chủ li hôn hoặc mỗi người ở một nơi.
- hỉ cùng Tử-vi đồng cung hoặc chiếu hội, gọi là “long xa”. Có thể tăng gia khí thế.
- và Thiên-lương đồng cung: Chủ phiêu lưu bất định.

mrhathaingo
27-09-11, 05:48
Văn-xương Văn-khúc .
Văn-xương thuộc dương kim, Văn-khúc thuộc âm thủy, là nam đấu tinh diệu. hai sao này đều là sao chỉ lễ nhạc.
• Cát chủ khoa giáp, hôn lễ, hỉ độ;
• Hung chủ tang lễ.

- Văn-xương là nghi lễ, nên cổ đại cho là chủ xuất thân từ đường chính, do khoa cử thành danh, cũng chủ yêu thích văn nghệ, cùng tài hoa nhiều phương diện, đều thiên hướng ở học thuật hoặc lí luận.
- Văn-khúc là biện trí (tranh luận trí tuệ), nên cổ đại cho là chủ dị lộ công danh, không do khoa giáp làm nên. cũng chủ văn nghệ, cùng tài hoa nhiều phương diện, duy thiên hướng ở kĩ nghệ.

Xương Khúc tuy đều chủ thông minh cùng tài hoa, duy do thuộc Tá diệu, nên tất phải tự mình nỗ lực sau mới thành, nếu không chỉ lanh lợi mà thôi.

- tính chất không tốt của Văn-xương: như chính diệu thiếu ổn định đôn hậu, lại kiến Sát, ắt chủ tính thích phấn sức (tô son trát phấn/che đậy khuyết điểm), duy lấp liếm quá, tính cách khinh phù (lỗ mảng).
- tính chất không tốt của Văn-khúc: ắt lạc vào đường giỏi biện luận, không thể kiên định công tác.

Xương Khúc bất hỉ cùng chính diệu Liêm-trinh, Tham-lang, Cự-môn, Phá-quân đồng độ, gặp các tinh hệ tổ hợp này, tất phải cẩn thận phân tích. Cổ nhân đã nói rõ:
"Văn-xương Văn-khúc cùng Liêm-trinh Thất-sát đồng độ, kiến Kình-dương”, chủ hư ngụy gian trá, làm công chức nhỏ.
[Văn-khúc Liêm trinh, công môn tư lại]
[Xương Khúc cùng Tham-lang đồng cung, chính sự điên đảo (rối rắm)]
"Xương Khúc Liêm Tham cư tị hợi, gia Sát Kị, phấn thân toái cốt (thịt nát xương tan) hoặc chết”
"Phá-quân Ám diệu cộng hương thủy trung tác trủng” (Xương Khúc hóa Kị tại hợi tí sửu cung, Phá quân đồng độ, chủ rơi vào ám hối)
[Xương Khúc Cự-môn là táng chí]

các tổ hợp trên, lấy kiến Sát diệu, vận hạn gặp Không Kiếp càng chính xác.

tính chất đặc biệt "Trung châu phái” sở truyền như dưới đây:
1/- Tí cung Tham-lang, thành “phiếm thủy đào hoa cách”, bất hỉ Xương Khúc, hiềm tăng cường lực lượng của đào hoa, làm cho người thành phong lưu lãng tử, đa hư bất thật.

2/- Tị cung Thái-âm, kiến Xương Khúc chủ giỏi tâm kế, kiến Sát càng đích xác.

3/- Tị hợi nhị cung "Liêm Tham”, vốn có ý vị buông thả, kiến Xương Khúc càng chủ (thị tài ngạo vật) cậy tài khinh người, kiến thêm Sát Kị tất do vậy vương họa.

4/- Sửu mùi nhị cung “Thiên-cơ”, kiến Xương Khúc, lại kiến Sát, chủ tiểu thông minh, thường thường kiến thức nữa vời đã tự mãn.

5/- Mão dậu nhị cung “Tử Tham”, kiến Xương Khúc không được “bách quan triều củng”, chủ đào hoa hoặc dâm dục.

6/- Sửu mùi nhị cung “Nhật Nguyệt” là phụ mẫu cung, đơn kiến Xương Khúc, chủ lưỡng trùng phụ mẫu.

7/- Mão dậu nhị cung “Cơ Cự”, đơn kiến Xương Khúc, việc gì cũng thích có ý kiến khác người không thực có học.

8/- tí ngọ nhị cung “Đồng Âm”, kiến Xương Khúc. Nữ mệnh chủ quá phần thông minh cơ xảo (tinh nhanh/khéo léo).

9/- Sửu cung "Vũ Tham”, và Văn-khúc đồng độ (tất Xương đồng cung), lưu niên gặp chủ nạn nước (là do Địa-kiếp tại lưu niên Ách cung). Như vô Sát Kị, lại vô lưu Khúc xung hội, ắt nạn nhỏ tương tự tính chất [nạn nước], như rò rỉ nước phòng tắm….

10/- Thái-âm ở hãm cung đơn kiến Văn-khúc, lại kiến Sát Kị, chủ bị cướp, hoặc chủ đánh mất. Kiến Đào hoa chủ bị lừa.

11/- Lộc-tồn và Văn-khúc đồng cung, chủ được tiếng tăm. Nhưng chưa chắc đều là hảo sự, nếu kiến Sát Kị, ắt là nỗi tiếng xấu. kiến thêm Đào hoa chư diệu, chủ do sắc vương họa.

12/- “Thái-dương Thiên-lương”, hội hợp Văn-xương, Lộc-tồn, là [Dương Lương Xương Lộc cách], chủ cạnh tranh đắc thắng, khảo thí đoạt quán quân. Lấy mão cung “Thái-dương Thiên-lương”, là đẹp nhất.

13/- Văn-khúc tọa mệnh, vô chính diệu, đối cung là "Cự Nhật dần cung”, gọi là "đào hoa cuồn cuộn”, không ngừng phát sinh cảm tình khốn nạo. nhưng hội thêm Văn-xương, Lộc-tồn, Thiên-mã. Tức bốn Tá diệu hàm tập, bất kiến Sát Kị, chủ do đào hoa mà đắc tài.

14/- Vũ-khúc Văn-xương đồng độ, Đà-la Linh-tinh đồng hội, gọi là "Linh Xương Đà Vũ”. chủ họa. (chỉ xảy ra khi Vũ-khúc tại Thìn tuất, tất Ách cung là Cự-môn tại Tị hợi có Nhật đồng cư Không Kiếp xung chiếu, Nhật vô lực nên không cứu giải được tính Ám của Cự-môn)

Xương Khúc hóa Kị đều chủ "văn thư sai lầm, mất mát”, phát tác giữa người kí kết, kí kết khế ước mà bị tổn thất. đem tính chất này suy rộng. ắt là đầu tư đầu cơ sai lầm, tại mua bán cũng thu chi phiếu khống, đối phương hủy ước.

Duy tổn thất của Văn-xương, kèm sắc thái cảm tình, tổn thất của Văn-khúc thường có kiêm cảm tình quấy nhiễu. nên
- nữ mệnh Văn-khúc hóa Kị ở Mệnh cung, Phu thê cung hoặc Phúc đức cung, trừ tổn thất tiền bạc ra, còn ẩn nhiều điều khó nói.
- Tật ách cung kiến Xương Khúc hóa Kị:
• chính diệu kèm sắc thái đào hoa (Như "Tử Tham”), phần nhiều hệ thống sinh sản bị bệnh.
• cùng Liêm-trinh hóa Kị đồng hội chủ bệnh lậu/bệnh phong tình, hoặc bệnh nùng huyết giáp,
• cùng Thiên-nguyệt đồng cung chính diệu là tổ hợp Cơ Lương, ắt là bệnh thời tiết (như bệnh dịch tả, dịch hạch..v..v…)

thien-quan
29-09-11, 10:52
em theo dõi bác hồi bác còn post bài bên TVLS bác có thể post cho em một số các về nhật nguyệt không như: nhật/thìn-nguyệt/tuất hay nhật/tị-nguyệt /dậu chẳng hạn.Thanks bác rất nhiều

mrhathaingo
29-09-11, 19:14
THÁI-DƯƠNG tại Thìn Tuất.

Thái dương tại thìn tuất có 2 tính chất: tha lụy / bất tha lụy.
Thái-dương tại thìn tuất cung an mệnh, đối cung Thái-âm,
tại thìn cung, cả hai (Thái-âm Thái-dương) đều nhập vượng cung: là cách cục [Nhật Nguyệt tịnh minh],
tại tuất cung, ắt (Thái-âm Thái-dương) đều tại hãm cung: là cách cục [Nhật Nguyệt phản bối].  

*** Nhật nguyệt tịnh minh đại khái chủ thiếu niên đắc chí, là người chính trực, mà xử sự thông minh tinh tế.
- hội Phụ Tá chư diệu cùng hóa Lộc Quyền Khoa: càng chủ quý hiển.
- nếu Cát tinh và Sát diệu cùng chiếu: nên tùng sự pháp luật, hoặc đảm đương chức vụ giám sát, cũng có thể tùng sự công tác truyền bá,
- nếu Văn tinh đồng cung: nên tùng sự giảng dạy, công tác văn hóa.   

*** Nhật nguyệt phản bối, cổ nhân cho là [vô duyên với phụ mẫu]. Nhưng xã hội hiện đại là chế độ tiểu gia đình, và “ly hương bối tỉnh” đã không kể là điều quan trọng, vì vậy [vô duyên với phụ mẫu] cũng không nghiêm trọng như thời cổ đại. Về mặt sự nghiệp: chủ thanh danh khó hiển đạt,
nhưng hội Cát diệu, đặc biệt là Thái-dương hóa Lộc: có thể thành cự phú, duy tất phải trải qua một lần phấn đấu gian khổ. Mà tính chất [phụ mẫu vô duyên] cũng biểu hiện là tất phải bạch thủ hưng gia, khó được phụ ấm. cũng thích hợp theo những ngành nghề như ở thìn cung.  

Thái-dương hóa Lộc tại thìn, tuất cung: đều là tiến ích tài bạch.
Thái-dương hóa Quyền:
a/- tại thìn cung chủ quyền lực tăng gia,
b/- tại tuất cung chủ là người tuy có quyền lực nhưng rất chủ quan, nếu kiến Sát diệu vẫn chiêu thị phi, nên chú ý tự mình tu dưỡng.  
Thái-dương hóa Khoa tại thìn, tuất cung: thanh danh đều hiễn đạt, nhưng tại tuất cung không nên cầu danh, danh càng cao thị phi càng lớn.
Thái dương hóa Kị:
a/- tại thìn cung nên chú ý quan hệ cùng bà con nam nhân gồm cả cấp trên, già trẻ.
b/- Tại tuất cung, ngoại trừ quan hệ nhân tế ra, còn phải phòng mắt bị bệnh. nếu hội thêm Kình, Hình: chủ quan phi.

Nữ mệnh Nhật Nguyệt tịnh minh: cổ nhân cho là sớm lấy được chồng hiền, là do người xưa cho phụ nữ vô sự nghiệp mà nói. ở hiện đại chủ tự mình có thể phát triển sự nghiệp.
Nữ mệnh Nhật Nguyệt phản bối: nên chậm hôn nhân. Nếu Hỏa Linh đồng độ: tảo hôn có nguy cơ sai lầm, và gian khổ thiếu nhân duyên. 

Thái-dương độc tọa thìn tuất, đối cung là Thái-âm / tam hợp cung là Cự-môn độc tọa, cùng [Đồng Lương].  
suy đoán đặc tính Thái-dương ở cung này, phải chú ý có hay không bị khai thác (tha lụy bác tước). vì Thái-dương của hai cung này, cần chú ý đến Cự-môn (giải trừ ám tế); lại cần chiếu cố Thiên-lương, (giải trừ cô kị); sau cần đối chiếu với Thái-âm, lấy ánh dương quang chiếu xạ Thái-âm. Ở đây tuy là nói tình huống đại khái Thái-dương tại 12 cung, duy hai cung thìn tuất Thái-dương và Thái-âm chính đối, vì vậy bản chất này đặc biệt nghiêm trọng.

*** xét bản thân : Thái-dương.
Thái-dương thìn cung nhập miếu: dương quang sáng, đẹp đẽ. thấy thêm hóa Lộc Quyền Khoa: không sợ Thái-âm, Cự-môn, Thiên-lương làm lụy (tức là Thái-dương không tha lụy). Nếu kiến Sát Kị: tuy nhập miếu cũng không đẹp. giả như [bách quan triều củng]: có thể giảm nhẹ áp lực.

*** xét đối cung : Thái-âm.
Thái-âm tuất cung nhập miếu: không làm phiền Thái-dương. Thái-âm kiến hóa Lộc Quyền Khoa: tự chủ không sanh bóc lột. vì vậy Thái-dương không tha lụy.
Thái-âm thìn cung lạc hãm: không quang huy, ắt phải lụy Thái-dương chiếu cố, Âm hóa Kị hoặc kiến Sát diệu trùng trùng: khiến Thái-dương bị tha lụy.

*** xét tam hợp : Cự-môn.
Cự-môn có Lộc Quyền Khoa không kiến Sát: không cần quang độ của Thái-dương giải ám, vì vậy Thái-dương không tha lụy.
Cự-môn có Sát Kị đồng triền: khiến Thái-dương bị tha lụy.
  
*** xét tam hợp : tá tinh Đồng Lương.
Đồng Lương có Phụ Bật, Xương Khúc đồng độ: sắc thái lãng mạn và nguyên tắc kỉ luật điều hòa: không cần Thái-dương giải cô kị. vì vậy Thái-dương không bị tha lụy.
Như Đồng Lương tính chất nguyên tắc kỉ luật, và có Sát Hình chư diệu: cần Thái-dương giải cô kị, vì thế Thái-dương bị tha lụy.

ở trên là dụng tinh hệ tổ hợp của [tam phương tứ chánh] cung độ Thái-dương, để phán đoán hoàn cảnh hiện thực của Thái-dương.
Như Thái-dương không tha lụy: tế ngộ nhân sanh tự nhiên thuận toại,
Thái-dương bị tha lụy: dễ kiến lục thân băng thán, và gặp nhiều trắc trở.

(còn tiếp).

mrhathaingo
08-10-11, 03:04
SÁT DIỆU.

Tại “đẩu số”, Kình Đà, Hỏa Linh là tứ Sát. thêm Không Kiếp là lục Sát.
Tứ Sát không hoàn toàn chủ hung, có khi cũng chủ thành kích phát lực, như [Hỏa Tham cách].
Nữ nhân thích mang theo điểm Sát diệu, mới chủ diện mục đẹp, duyên dáng hoặc chủ thiếu vẻ đẹp. Như mệnh:
• có Đà-la chủ răng không đều,
• có Kình-dương đới Xương Khúc chủ có tàn nhang hoặc nốt ruồi đẹp, đều thuộc loại này.

Sát diệu và Phụ Tá chư diệu phối hiệp, ảnh hưởng đến tính chất “lục thập tinh hệ”, do vậy cũng thành nguyên tố của chư tinh tổ hiệp.
luận thuật của thiên này là, “tính chất cơ bản của Sát diệu”. Học giả có thể dụng để phối hiệp tinh hệ, để xem bổn chất biến hóa.

KÌNH-DƯƠNG ĐÀ-LA .
Kình là Bắc đấu tinh, Dương kim, Hóa khí là Hình, Chủ hình thương (có phá họai lực và khí hình sát)
Hỉ: chư cát, tứ mộ và tây bắc sinh nhân, cư tứ mộ (thìn tuất sửu mùi).
Kị: chư hung, cư tứ chính (tý ngọ mão dậu).
Đắc thì quyền uy, hung thì hình thương.

Đà là Bắc đẩu tinh, Âm kim, Hóa khí là Kị, Chủ trì hoãn, thị phi, đố kị, cố chấp.
Hỉ: chư cát, tứ mộ sinh nhân, cư tứ mộ (thìn tuất sửu mùi).
Kị: chư hung, cư tứ sinh (dần thân tị hợi).
Cát thì ngầm sinh quyền lực, hung thì ngầm bị lật đổ, thất bại.

Kình-dương thuộc dương kim, đới tính dương hỏa.
Đà-la thuộc âm kim, đới tính âm hỏa.
mỗi sao đủ tính chất [hỏa luyện kim], vì vậy:
• tình huống cát ắt là [đoán luyện] (rèn đúc, rèn luyện),
• tình huống hung ắt là [ngao tiên] (đau khổ, khó khăn; tra tấn).

Kình gọi là [Hình], Đà gọi là [Kị], chúng là hung tính. đại khái nói,
Kình + Hỏa chủ kích phát (vì Kình + Hỏa giống như luyện kim: thành khí)
Đà + Linh cũng chủ rèn dũa [ma luyện]; (Đà ngộ Linh giống như vật liệu nóng chảy thành hình),
đây không phải là [Hình Kị], hung tính của tứ Sát liền hỗ tương bù đắp nhau, và diễn hóa thành lợi ích. (nhưng tính cách bỉ cực thái lai).

Nhìn từ một góc độ khác,
- kết cấu Kình và Hỏa, chủ minh tranh, do có minh tranh mới có kích phát lực.
- kết cấu Đà và Linh, chủ ám đẩu, vì có ám đẩu mới chủ ma luyện.

Nhưng nếu đổi qua lại tình huống trên, trở thành gian khổ, thành tính bất lương.
- Kình và Linh, ắt dương hỏa không đủ đễ nấu chảy khối kim;
- Đà và Hỏa, liệt hỏa không thể tinh luyện lá vàng,
Trên là đặc điểm khi tứ Sát kết hợp.

Kình-dương:
- cơ bản có tính phá hoại lực, thường chủ phát sinh cơ sở phá hoại, vì thế gọi là Hình. phá hoại của nó, lại là bề mặt của hoạnh nghịch, đương sự đối với hoạnh nghịch: nhìn thì thấy rõ ràng, có thể tránh được vấn đề khác.
- cơ bản có khí hình sát, vì thế:
• nên theo nghiệp binh, pháp luật, bác sĩ ngoại khoa, hoặc là công trình kĩ thuật nhân viên.
• không nên kinh thương, văn chức, chánh trị.
- thích cư tứ mộ (thìn tuất sửu mùi, đặc biệt là thìn tuất la võng), tối hỉ Kình kích phát. cùng Hỏa đồng hội, kích phát lực càng lớn. lúc đại vận đến cung độ này, phải rõ chánh diệu tinh hệ cung viên để định tế ngộ, đại khái trước trải qua khốn đốn mà thành đại khí, đối với hậu vận phát sanh ảnh hưởng lương hảo.

- Kình bất hỉ cùng Liêm-trinh, cũng bất hỉ Cự-môn, gặp tinh hệ của hai chánh diệu này, thêm Hỏa đồng độ: không phải là kích phát, mà chủ: thị phi hoặc tai bệnh.
• là do Liêm-trinh thuộc tù và bổn chất Hỏa + Kình xung đột.
• Cự-môn thuộc ám thượng, đủ để chôn vùi dương dư, giải dương hỏa. Mệnh cung nam nữ gặp: một đời nhiều tai họa bệnh thống.
- Kình bất hỉ cùng Vũ-khúc tinh hệ đồng độ, không thích hợp vũ chức, nếu Kình tại tam phương hội hiệp, nên theo công tác quân báo, an ninh.. .
- Kình bất hỉ cùng Tham-lang đồng độ.
Tại ngọ cung, Tham-lang là [mộc hỏa thông minh] cách. Kiến Kình, tuy cũng gọi là [mã đầu đái kiếm], nhưng không phải là chính cách, chủ trải qua gian tân sau mới phát tích biến thái, nhưng biến thái vẫn không lâu dài. [Thủy hỏa cướp bóc, quan Phi khuynh bại], thường sau khi thịnh lại sinh bế tắc, không kịp đề phòng.
Tại tí cung Tham và Kình, gọi là [phiếm thủy đào hoa], chủ một đời trầm mê tửu sắc, cũng không tốt đẹp.
Kình kiến [Hỏa Tham, Linh Tham cách] cũng bất hỉ, chủ sau khi bạo phát sản sanh cạnh tranh, ẩn núp cơ bạo bại. vì vậy phải cấp tốc giữ lấy phương châm bảo thủ, từ bỏ cạnh tranh đối thủ, mới có thể [xu cát tị hung].

thien-quan
08-10-11, 19:37
bác hathaingo cho em hỏi ở đây bác viết
SÁT DIỆU.
Kình gọi là [Hình], Đà gọi là [Kị], chúng là hung tính. đại khái nói,
Kình + Hỏa chủ kích phát (vì Kình + Hỏa giống như luyện kim: thành khí)
Đà + Linh cũng chủ rèn dũa [ma luyện]; (Đà ngộ Linh giống như vật liệu nóng chảy thành hình),
đây không phải là [Hình Kị], hung tính của tứ Sát liền hỗ tương bù đắp nhau, và diễn hóa thành lợi ích. (nhưng tính cách bỉ cực thái lai).

Nhìn từ một góc độ khác,
- kết cấu Kình và Hỏa, chủ minh tranh, do có minh tranh mới có kích phát lực.
- kết cấu Đà và Linh, chủ ám đẩu, vì có ám đẩu mới chủ ma luyện.

Nhưng nếu đổi qua lại tình huống trên, trở thành gian khổ, thành tính bất lương.
- Hỏa-tinh và Kình-dương đồng hội, vốn đã hỗ tương để giảm khuyết điểm, giống như lấy minh hỏa để rèn khối kim, lại do tôi luyện mà thành vật khí. Nhưng nếu kiến "Tả-phụ đơn tinh", ắt dương cương quá thậm, giống như luyện hoàng kim mà vỡ nồi, lại thành chướng ngại.
- Kình và Linh, ắt dương hỏa không đủ đễ nấu chảy khối kim;
- Đà và Hỏa, liệt hỏa không thể tinh luyện lá vàng,
Trên là đặc điểm khi tứ Sát kết hợp.

trước đây bác có viết là viết về mối quan hệ của [tả phù,kình,hỏa] lúc đó thấy nói là do tính chất dương của tả phù nên khi xem vào sẽ làm phá mất cái đẹp của kình hỏa kiểu luyện thép vỡ nồi thế nếu trong trường hợp cặp kình linh mà có thêm tả phù thì có tăng thêm tính cho dương hỏa để cho bộ[tả,kình,linh]=[kình,hỏa] được không

mrhathaingo
12-10-11, 06:24
Đà-la:
Đà-la thích cư tứ mộ cung, duy thích sửu mùi hơn, tại thìn tuất la võng cung không có đột phá lực.
Đà-la chủ: kéo dài, cố chấp, thị phi, đố kị, nhược điểm của nó từ “Ám” mà ra, đương sự thường không biết nguyên nhân của thị phi hoạnh nghịch. vì vậy gọi Đà-la là Kị diệu. Kị diệu và Hình diệu bất đồng,
• Hình là minh thương (như giáo đâm trước mặt),
• Kị là ám tiễn (như tên bắn sau lưng).
vì vậy Đà-la mang theo bất lợi thường khó [xu tị], và có hậu quả bất lợi cũng thường kéo dài một thời kì.

- Đà-la tối bất hỉ cùng Cự-môn đồng độ (2 Ám tinh gặp nhau) chủ: thị phi trùng trùng, hoặc chủ: sanh ám tật.
- Đà-la tối bất hỉ cùng Thất-sát đồng độ, nữ mệnh đặc biệt không hợp, chủ phu tử ly tán, hoặc chủ hôn nhân hết sức muộn.
- Đà-la tối bất hỉ cùng Tham-lang tinh hệ đồng độ, phá hoại lực đối với [Hỏa Tham, Linh Tham] tương đối lớn, vì có thể khiến điểm tốt đột nhiên biến thành trì hoãn, tính chất mâu thuẫn lớn, tạo nên phá hoại lực. đại khái Tham-lang tinh hệ kiến Đà, chủ do sắc thành cố tật.
* tại dần cung Tham Đà đồng độ, gọi là [phong lưu thải trượng], chủ do trầm mê tửu sắc ảnh hưởng tiến thủ của nhân sanh. tại Mệnh cung cũng chủ là người thông minh tuấn tú.
* tại hợi cung Tham Đà đồng độ, cũng gọi là [phiếm thủy đào hoa], không phải là mỹ cách.

Phàm Đà-la:
thủ Phu thê cung, chủ: chậm hôn.
thủ Tử-tức cung, chủ: chậm có con.
đồng hội Sự nghiệp cung hoặc Tài bạch cung:
a/- nên tùng sự công nghệ, công trình.
b/- không nên kinh thương, thường hãm vào bế tắc.

Kình Đà vĩnh viễn giáp Lộc-tồn, vì thế:
* chánh diệu tinh hệ không tốt cùng Lộc-tồn đồng độ: chủ keo bẩn, đa nghi.
* Nếu chánh diệu tinh hệ cát cùng Lộc-tồn đồng độ: chủ đa tư lự.
* chánh diệu hóa Kị cùng Lộc-tồn đồng độ, là bị [Kình Đà giáp Kị] chủ: tai bệnh, khuynh bại;

- Thiên-lương cùng Lộc-tồn đồng độ ở tị cung, bị Kình Đà giáp, lại có Sát Hình xung phá: ở dậu, sửu niên phải phòng tai họa lao ngục.
- Tử Sát cùng Lộc-tồn đồng độ tại tị hợi cung. cũng bất hỉ vì bị Kình Đà giáp, chủ có cơ hội phát triễn tốt, hay bị người níu kéo, hạn chế. (Lộc-tồn tại Tị là tuổi Bính Mậu, tuổi Bính thì Liêm hóa Kị tại Sự nghiệp, tuổi Mậu thì Cơ hóa Kị tại Huynh đệ, còn Lộc-tồn tại Hợi là tuổi Nhâm thì Vũ hóa Kị tại Tài cung).

- Nếu Mệnh cung Đà đồng độ, Phúc đức cung tất kiến Kình, đại khái chủ: tư tưởng có kích phát lực mà hành động thường do dự bất quyết.
- Nếu Mệnh cung cùng Kình đồng độ, Phu thê cung tất kiến Đà, chủ: Phu thê tính cách không giống nhau, mỗi người một ý.

- Nam mệnh Thái-âm hóa Kị, bị Kình Đà giáp, tại Mệnh cung hoặc Thê cung, chủ: hôn nhân thất lợi, bị thê tử tha luy.
- Nữ mệnh Thái-dương hóa Kị, bị Kình Đà giáp, tại Mệnh cung hoặc Phu cung, chủ: chồng không hiền (không đàng hoàng), hoặc trượng phu tai bệnh.

mrhathaingo
20-10-11, 19:13
HỎA-TINH LINH-TINH .
Hỏa-tinh là Nam đẩu tinh, Dương hỏa, Hóa khí là Sát, Chủ cương.
Hỉ chư cát, hỉ đông nam sinh nhân, hỉ dần ngọ tuất mão tị sinh nhân.
Hỉ cư dần ngọ tuất. Kị chư hung, kị cư thân tí thìn.
Cát thì tinh hoa, tốt đẹp, hung thì tai ách.

Linh-tinh là Nam đẩu tinh, Âm hỏa, Hóa khí là sát, Chủ liệt (cháy dữ, lửa mạnh, ác, thừa, rớt lại..) Hỉ kị giống Hỏa tinh.
Cát thì ngầm phát phúc, hung thì hại ngầm đến.

Hỏa thuộc dương hỏa, Linh thuộc âm hỏa. vì thế có thuyết pháp [Hỏa minh Linh ám]. cũng tức Hỏa mang phá hoại tính rõ ràng, tai hại của Linh là ám muội.

Cũng chính do bổn chất này, [Hỏa Kình] chủ kích phát mà [Linh Đà] chủ ma luyện. Độc giả đối với vấn đề then chốt này nên kĩ lưỡng thể hội. so sánh hai tình huống, [Linh Đà] tự nhiên không bằng [Hỏa Kình].

Phàm Hỏa Linh tại Mệnh cung. hoặc tại Phụ mẫu cung, chủ [ấu niên ly gia] hoặc [quá kế xuất tự] (mẹ lấy chồng đi theo).

Hỏa-tinh thủ Mệnh, hoặc thủ Phụ mẫu cung, kiến Phụ Tá chư diệu đơn tinh (1 sao) chủ hai lần phụ mẫu, mang hai họ, hoặc phụ thân chết trẻ.
Hỏa-tinh hỉ (mừng):
- Hỏa cùng Tham-lang đồng độ. Chủ: cuộc sống tích cực tiến thủ. chủ đắc tài.
- Hỏa cùng Tử Sát, hội thêm Kình càng đẹp. cũng chủ tích cực giảng giải. Duy không bằng [Hỏa Tham hóa Lộc] có thể bạo phát. (Tử-vi tọa mệnh, đến hạn Thất-sát cung, cũng chủ đột nhiên biến thái (tốt đẹp). Duy không bằng [Hỏa Tham].
Kết cấu hai tinh diệu thuật ở trên, không nên lại thấy Đà-la đồng độ, nếu không ắt là phá cục.

Hỏa-tinh cùng “tinh hệ ổn định” đồng triền (như Tử-vi, Tử Phủ, Thiên-phủ, Thiên Lương …), gia hội Phụ Tá chư diệu, ắt có thể khiến cho chánh diệu tinh hệ có thiên hướng phát triển cương tính.
[nhưng Nhật Lương chỉ có tính chủ quan, thêm Hỏa ắt là ngoan cố].

mrhathaingo
25-10-11, 06:36
Linh-tinh uy lực yếu hơn Hỏa-tinh, nhưng âm hỏa tính chất kéo dài và liên tục hơn, vì vậy tai nạn cũng có vĩnh cửu tính.
- ví như Hỏa mang theo nhiều tổn thất vật chất, nhưng thuộc bất hạnh nhất thời,
- tai nạn Linh mang theo: thường có nội tâm thống khổ, đương sự rất khó quên được.
[Linh, Xương, Đà, Vũ tứ diệu, vu thìn tuất nhị cung], chủ khuynh bại, mà khuynh bại này tất do tự chiêu. khi lưu Đà, lưu Xương xung khởi nguyên cục [linh xương đà vũ], ắt tai họa càng kịch liệt.

Linh-tinh bất hỉ:
- Linh bất hỉ cùng Liêm hóa Kị có Kình đồng độ, gọi là [Hình Tù hội Linh], chủ chết không phải do mệnh hết, hoặc chết vì binh tai. Nguyên cục [Hình Tù hội Linh], lưu niên có lưu Kình xung khởi, họa càng kịch liệt, thường ứng rất cấp tốc.
- Linh bất hỉ cùng Liêm Sát có Kình đồng độ, gọi là [Liêm Sát Kình Linh]: chết trận.
- Linh bất hỉ cùng Phá-quân đồng độ, chủ kinh thương tỏa bại. Nhưng vẫn thích kinh doanh hàng hóa mang tính [tỏa chiết]. Như nha y, chỉnh hình, tàu hư, phế liệu….

Phàm cung bị giáp [Hỏa Linh], thường là cung liên kết yếu nhất cho cuộc sống.
- Như giáp Tài bạch, chủ tuy lao lục bôn ba mà tài khí vẫn kém,
- giáp Tử tức cung: ???.

Hỏa Linh chia ra cư:
Phúc đức cung cùng Mệnh cung, chủ: một đời khởi nhiều ba chiết.
Mệnh cung cùng Phu thê cung, cũng chủ: vợ chồng nhiều lần ăn cơm riêng, nhân sanh quyết khó thuận toại.

chánh diệu không thích bị Hỏa Linh tương giáp hoặc đồng triền là: Thiên-cơ, Cự môn, Thiên-đồng, Thiên-lương, Thiên-tướng: dễ phá cách. (Như Cơ Cự tại mão an Mệnh, Cự hóa Lộc, là Cơ Cự đồng lâm cách chủ phú quý, Hỏa Linh triền độ tức chủ [ôn thực: đói lạnh ???]).

Phu thê cung kiến Hỏa Linh tương hội, chủ: vội vàng kết hôn.

Mệnh cung Hỏa Linh cùng hội, chủ: trước [công bại thùy thành: thất bại khi sắp thành công], sau trải qua nỗ lực, ắt chuyển thành [công thành thùy bại: thành công khi sắp bại]. Vũ chức gặp, chủ lập công huân (công trạng).

Nữ mệnh kiến Hỏa Linh, cổ nhân cho là lăng mạ chồng khắc con, nhân duyên bất túc, tính cách cương cường, đặc biệt lấy Hỏa-tinh làm trọng, gọi là [nội tâm lang độc]. luận này vẫn phải xem chánh diệu Mệnh cung tinh hệ mà định, không thể đoán cẩu thả bừa bãi được.

Phúc đức kiến Hỏa Linh, phần nhiều nội tâm cáu kỉnh, thô bạo, nhưng phân biệt:
• Hỏa tính cương, vì thế hỏa bạo ở tì khí (xong là hết),
• Linh tính liệt. miệng không nói, nhưng vẫn hành động để phản kháng hiện thật

Boxer
25-10-11, 09:03
Các chuyên gia lý thuyết nhiều mà không chịu thực hành xem biết đúng sai.

mrhathaingo
26-10-11, 12:09
Mệnh Vũ Tướng tại Dần cung
phần nhiều chủ vì người phục vụ, làm phó (đứng thứ 2), không nên một mình ra mặt.
mệnh Vũ Tướng, tài bạch cung Liêm Phủ thấy Liêm hóa Kị, thích hợp với những nghề (hung sự) [những vấn đề độc hại]. Thời nay, ẩm thực, y dược, ngoại khoa, hóa chất đều thuộc [hung sự]. thời xưa là những nghề đồ tể, giết mổ trâu bò heo gà…. Đều là những tính chất cần để phục vụ mọi người.

Vũ-khúc tính “cương”, cho nên đồng hội Hỏa Linh, nhất thời xung động mà sinh tai ách, lúc hóa giải thì phải bỏ ra tài sản rất lớn.
hội Kình, Kị tinh, nhất định phải nhẫn nại, nếu không dẫn đến băng tán.

Bởi vì Vũ-khúc tính cương cô khắc, cho nên cũng có bất lợi hôn nhân, chủ chậm hôn hoặc sinh li tử biệt.
Nhẹ thì phu thê gặp nhau ít xa nhau nhiều, hoặc phu thê không hòa hợp.
Nặng tất phu thê phân tán chia lìa.
Tùy theo kiến hóa Kị, Hỏa tinh, Cô Quả, những hung diệu đa quả, cùng với Vũ-khúc tại bản cung, mà nhận định mức độ bất lợi hôn nhân.

Vũ-Khúc trừ Hóa Kị ra, cũng kỵ gặp Hỏa Linh. Cổ nhân có thuyết cho rằng "Vũ Khúc Hỏa Linh đồng cung, nhân tài bị kiếp" cái gọi là "nhân tài bị kiếp", không nhất định là gặp phải ăn cướp, bị cướp, mà là tài bạch tổn thất vì nhiều lý do khó cưỡng lại được. Nên nếu Vũ-Khúc đi chung với Hỏa Tinh tọa mệnh, thì phá tài rất nhiều, cách hóa giải là giao cho người phối ngẫu nắm giữ. Nhưng nếu Phu thê cung lại không tốt, vậy chỉ thêm nhiều phiền toái mà thôi.

Vũ-Khúc vốn là tài tinh, song đã có không ít khuyết điểm, đủ thấy có khi tài tinh chẳng phải nhất định lúc nào cũng tốt. Tiền nhân có kinh nghiệm:
"Vũ-khúc Hỏa Linh đồng cung, nhân tài bị kiếp",
" Vũ-khúc kiến Tứ Sát xung phá, cô bần phá tướng, thậm hoặc yểu thọ".

Vũ-khúc Thiên-tướng đồng cung tại dần thân, do Vũ khúc bị ảnh hưởng của Thiên tướng, tính chất cương trực của Vũ khúc có thể điều hòa, vì thế xử sự thoải mái hơn.  

Vũ-khúc Thiên-phủ đồng cung, tính cẩn thận của Thiên-phủ điều hòa tính cương trực của Vũ khúc, vì vậy là người “trong cương có nhu”.
Vũ Tướng không “cương nhu tương tế” (có cương có nhu) như Vũ Phủ, nhưng lại vui khi được phục vụ. đây là lúc Vũ-khúc có tinh diệu bất đồng đến điều hòa, biểu hiện lộ ra tính cách khác biệt.    

Vũ-khúc Tham-lang đồng cung, tính viên hoạt của Tham-lang điều hòa Vũ-khúc, vì vậy tuy trọng vật dục mà tinh tế (thế cố).
Vũ Tướng không linh hoạt như Vũ Tham, nhưng có chính nghĩa mà không tinh tế.

Vũ Tướng đối cung là Phá-quân, do đó đối với Vũ Tướng tinh hệ cũng có ảnh hưởng của tính cường liệt.
Nếu Sát diệu tại mệnh cung hoặc cùng đồng cung với Phá-quân,: chủ là người chủ quan cường liệt, có thể thành độc tài.
Nếu lại hội Tả Hữu Xương Khúc: ý muốn thống trị lại thêm cường liệt, lúc này tính tùy hòa của Vũ Tướng hết sức suy nhược, biến thành bên ngoài tùy hòa, nhưng nội tâm kích liệt, mà tính chất của người phục vụ cũng biến thành tăng gia lòng thống trị. Do vậy có thể biết đánh giá yếu điểm của kết cấu tinh hệ này. (Đương số Phúc đức có Tả Hữu, Xương Khúc bổ sung cho Mệnh chỉ hội Hữu Xương),
- Vũ Tướng thích Xương Khúc: có thể theo chánh trị, công tác tài chính.
- Vũ Tướng gặp Sát: bất quá tinh thông xảo nghệ,
- Vũ Tướng tối kị kiến Kình, nếu hội thêm Hình Kị: chủ dễ có tranh tụng.

Vũ Tướng tuy thích [Tài Ấm giáp], (giáp cung có Lộc tinh và Thiên-lương).
- nhưng Đồng hóa Lộc không bằng Cự hóa Lộc. vì khi Đồng hóa Lộc, Vũ Tướng tất cùng Liêm Phủ tương hội, lúc này Liêm hóa Kị: có thể xuất hiện dùng tiền giải trí hoặc các sở thích để cân bằng tình huống tâm lý.

Tử-vi tại sự nghiệp cung, chủ một mình gánh vác [độc đương nhất diện]. nhưng không có nghĩa là người này có thể kinh doanh trữ hàng, cũng không chủ người nầy có thể là lĩnh tụ. đại khái chủ độc lập công tác, hoặc phụ trách bộ môn công tác.
- Tử-vi kiến Sát (đồng cung Kình, hội Hỏa Linh, Kị), cổ nhân cho là có thể kinh thương, phải trải qua cạnh tranh sau mới thành công, và do thành công đưa đến địa vị xã hội cũng được đề cao.

Liêm Phủ (Liêm hóa Kị) tài bạch cung
Liêm-trinh đóng ở tài bạch cung, tính chất hết sức phức tạp. đặc biệt đối với tứ Hóa vô cùng mẫn cảm, biến hóa rất lớn.
Liêm-trinh: chủ cạnh tranh thị phi đễ cầu tài, đây là tính chất cơ bản.
Liêm hóa Kị, kiến Sát, và có Hình Hao chư diệu: không những cầu tài gian nan, mà còn dễ sanh từ tụng.
Liêm-trinh tại tài bạch cung,
- cát hung chư diệu giao tập người nhiều phù hoa.
- Xương Khúc đồng độ: cũng chủ [hoa nhi bất thật]. một đời đuổi theo tài phú, rốt cuộc chỉ chủ bên ngoài tươm tất.
Liêm hóa Kị: dễ chủ do tài thất nghĩa, cũng chủ bị người tha lụy.

Thất-sát tại Thìn, Phúc đức cung.
Phúc đức cung. để đoán hưởng thụ Tinh thần, tư tưởng hoạt động,
Mệnh cung: suy đoán chủ yếu là hưởng thụ Vật chất.
hưởng thụ vật chất tốt, chưa chắc các hưởng thụ tinh thần cũng tốt. mà nhân sanh thì đâu phải chỉ hạnh phúc vật chất. tinh thần hưởng thụ chiếm một nhân tố rất lớn. Vì thế sự quan trọng của phúc đức cung ở đẩu sổ cũng không ở dưới mệnh cung.

Với Phúc đức cung đối xung là Tài bạch cung, có thể thấy tiền nhân cũng nhận ra là tinh thần hưởng thụ và Tài cung có quan hệ rất lớn,
người nghèo chưa chắc đã nhất định thiếu thốn tinh thần hưởng thụ, nhiều người giàu ngược lại có khi cảm giác buồn rầu tịch mịch. đoán mệnh thời xưa, nếu tài bạch cung không tốt, mà phúc đức cung cát tường thì nên đoán là sinh hoạt tinh thần phong túc.

Phúc đức cung cũng có thể dùng để đoán (đương cục) cách cục có thị hiếu đặc biệt nào: thi thư cầm kỳ, tửu sắc tài khí, cờ bạc rượu chè, thậm chí hút sách, đều có thể do Phúc đức cung cung cấp phán đoán.

Phúc đức cung Thất-sát có:
Đà-la: nhiều lo lắng,
Tả Hữu, Xương Khúc: tối hỉ (rất tốt), Long Phượng, Hoa-cái, Thai Tọa có thể phụ trợ Mệnh có Thiên-tài: thông minh tài trí.

Nếu như Phúc đức cung không tốt, nhưng tam phương lại tốt, mỗi chỗ có ý nghĩa đặc thù riêng.
Phu thê cung tốt, dựa vào phối ngẫu mà bắt đầu có tinh thần hưởng thụ,
Tài bạch cung tốt, hưởng thụ tất phải vung tiền.
Thiên di cung tốt, ly hương bội cảnh được hưởng thụ khoái lạc, tại nơi sanh mình (chôn nhau cắt rốn) nhiều khổ muộn.

Tham-lang tại Tí, thủ Phu thê cung, cổ đại cho nam mệnh tốt hơn nữ mệnh,
- vì nam mệnh nếu nạp thiếp, tức có thể tránh được khuyết hãm;
Tại hiện đại, quan điểm trên phải sửa đổi. Hiện đại không nạp thiếp, vì thế chủ có gặp ở ngoài,; hiện đại phụ nữ phóng khoáng, vì thế thường chủ xa rồi tái giá.

Tí cung Tham-lang thành [phiếm thủy đào hoa] cách cục, biến ái tình thành nhiều sắc thái, hậu hôn cũng nhiều phiền toái.
- tối hỉ Hình, Không diệu đồng độ: nếu không hôn nhân có sóng gió.
- Nam mệnh nên lấy vợ lớn tuổi, mới tránh được bất lợi. Vô luận nam nữ, nếu ly hôn, tái hôn càng bất lợi.

Ducminh
26-10-11, 20:52
Bác mrhathaingo bớt chút thời gian xem dùm em lá số với.
http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/1/174512111987/1/Ducminh.jpg

mrhathaingo
27-10-11, 06:40
ĐÓAN : “Lưu niên và Vận hạn”.
Học “Tử vi đấu sổ”, nếu chỉ quan sát tinh bàn 12 cung, thì chỉ có thể đoán cách cục cơ bản của Mệnh.
• Nhưng người cách cục tốt, chưa chắc niên hạn nào cũng tốt,
• người cách cục không tốt, chưa chắc niên hạn nào cũng xấu,
vì vậy cần phải đem tinh bàn “phi động” nghiên cứu cẩn thận vận thế của mỗi niên hạn, đây mới là chổ tinh hoa của đẩu số.

mrhathaingo
02-11-11, 12:02
ĐỊA-KHÔNG ĐỊA-KIẾP .
Địa-không là Trung thiên tinh, Âm hỏa, Chủ nhiều tai nạn. Cát thì độ lượng.
Hỉ: chư cát, hai hành kim hỏa. Miếu hỏa kim nhị hương.
Kị: chư hung, chỉ không kị Hỏa Linh. Hãm tại thủy mộc nhị hương.

Địa-kiếp là Trung thiên tinh, Dương hỏa, Chủ phá vỡ, mất mát.
Hỉ: chư cổ, đặc biệt hỉ cư thìn tuất. Các cung còn lại không tốt.
Kị: chư hung.

Cổ nhân nói,
- Địa-không thủ mệnh, chủ [tác sự hư không, thành bại đa đoan];
- Địa-kiếp thủ mệnh, chủ [tác sự sơ cuồng, bất hành chính đạo].
loại thuyết pháp này, kỳ thật là do:
- Địa-không cư Mệnh thích huyễn tưởng, ý tưởng của họ không cần người khác hiểu
- Địa-kiếp thủ Mệnh thích phản truyền thống, phản trào lưu, hành vi của họ không cần người khác hiểu.

Địa-không chủ tinh thần. Địa-kiếp chủ vật chất, vì vậy:
- tỏa chiết của Địa-không mang theo tinh thần bị tổn thất lớn hơn vật chất,
- tỏa chiết của Địa-kiếp mang đến, vật chất tổn thất lớn hơn tinh thần.

Địa-không thủ Mệnh:
- thích kiến chính diệu tinh hệ mang sắc thái hành động, như Vũ Sát, Tham-lang cư vượng cung, Phá hóa Lộc, Tử Sát … , thấy thêm Cát diệu, tức chủ có thể đem không tưởng thực hiện hành động, do đó có thể giảm bớt khuyết điểm của Địa-không mang lại.
- Nếu Địa-không cùng các chính diệu Thiên-cơ, Cự-môn đồng triền, ắt nhiều không tưởng hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể thực hiện thật tế hành động, từ đó liền biểu hiện là [làm việc tiến thóai], hoặc [tác sự hư không].

[Hỏa Không tất phát, Kim Không tất minh], vì vậy Địa-không thích:
gặp Hỏa-tinh ở tị ngọ cung, chủ: đột phát.
cũng hỉ hội tinh diệu thuộc kim ở thân dậu cung, chủ: thanh vọng.
*** Duy không nên thấy thêm Kị tinh cùng Sát diệu nào nữa.

Tật-ách cung có Địa-không đồng triền, phần nhiều chủ phát sanh tật bệnh hiếm thấy. ví dụ Thiên-lương thủ Tật ách, Hỏa Linh cùng hội, Địa-không đồng độ: bị vi khuẩn lao vào não.

khoa
03-11-11, 09:29
Chào bác mrhathaiha,
Nếu bác có bài Cự Cơ Mão Dậu và bài Phá quân Tí Ngọ, xin bác đăng các bài này. Cám ơn ơn bác

thieuba
03-11-11, 09:38
Cảm ơn anh mrhathaingo, các bài viết rất bổ ích.
Mọi người không nên xen câu hỏi vào để bài viết được liền mạch.

mrhathaingo
04-11-11, 22:37
Địa-kiếp tuy chủ tổn thất vật chất, nhưng di chứng về sau nhẹ hơn Địa-không.
- ví dụ thất bại của Địa-kiếp như một món đồ cổ cao giá, bị bể vỡ, tuy có thể tu bổ, nhưng đã không còn là đồ cổ giá trị nữa;
- mà thất bại của Địa-không giống như muốn mua một món đồ cỗ nhưng bị người khác phỗng tay trên, một đời nhiều hối tiếc..

Nhìn ở góc độ tinh thần, Địa-không thiệt hại nặng hơn,
nhìn ở góc độ vật chất, Địa-kiếp tổn thất lớn hơn. Do đó có thể biết:
- Địa-không không nên nhập Phúc đức cung, Phu thê cung, Tử tức cung;
- Địa-kiếp không nên nhập Mệnh cung, Sự nghiệp cung, Tài bạch cung.

Địa-không thích cư thìn tuất, do nhập ở La Võng: khuynh hướng hiện thực hơn.

Mệnh thủ Địa-kiếp, nên [cước đạp thật địa], lấy công nghệ khởi nghiệp, do sự đỗi mới, cũng chủ: có thể phát tích.

Mệnh giáp Không Kiếp, chủ gập ghềnh, thăng trầm [nhất sanh nhiều khảm khả].
Mệnh đồng độ hoặc hỗ tương đối xung Không Kiếp:
• phần nhiều chủ thiếu niên bất lợi,
• hoặc mất phụ ấm,
• hoặc bệnh nhược,
• hoặc bần khốn,
• hoặc đa tai ách.
phải xét rõ tổ hợp tinh diệu các cung mà định tính chất.

Mệnh thủ hoặc giáp Không Kiếp, cổ nhân cho là lợi xa nhà. Tại hiện đại, cũng có thể nghiên cứu môn học phổ biến.
• Địa-không: Nhất nhất nên học ở trường;
• Địa-kiếp: nghi nhị vong nghệ.

Mệnh cùng Phu thê cung chia ra kiến Không Kiếp, chủ:
• vợ chồng tính cách không hợp nhau,
• hôn nhân có cảm xúc ngầm,
• nội tâm nhiều thống khổ.

mrhathaingo
07-11-11, 08:34
Xương Khúc Phụ Bật, có đồng có dị.
Văn xương Văn khúc, là người đa học đa năng;
Tả phụ Hữu bật, sinh tính khắc khoan khắc hậu.

Chú văn: "Giả như thìn tuất sửu mùi, tị hợi, mão dậu an mệnh, gặp Xương Khúc nhị tinh là đúng. có Xương Khúc tọa mùi cung, kiến các sao Sát Dương Đà thì xấu, nên phép đoán phải linh hoạt.

Lại nói: "Như Tả Hữu nhị tinh tọa mệnh, dù sao Sát nhiều hay ít, cũng chủ khoan hậu."

Xương Khúc:
• ở thìn tuất nhị cung là tương xung;
• ở sửu mùi nhị cung là đồng tọa;
• ở mão dậu tị hợi, tứ cung là tương hội.
nên quan hệ của 2 sao, lấy sửu mùi nhị cung là mạnh nhất, thìn tuất nhị cung thứ chi, 4 cung dưới một bậc.

Xương Khúc đồng hội mệnh cung, thích hợp nam mệnh không thích hợp nữ mệnh,
• nam mệnh chủ thông minh tuấn tú,
• nữ mệnh chủ cảm tình đa biến.
câu phú văn này, nói về nam mệnh.

Xương Khúc:
• phải kiến ở Phúc đức cung mới chủ thông minh đa học;
• tại Thân cung, chỉ chủ hậu thiên tu dưỡng;
• tại Mệnh cung, chỉ chủ người này tuấn tú nho nhã,
vì thế cũng có thể xem là đa học đa năng.

Phụ Bật nhị tinh, cùng Xương Khúc tương đồng,
• tức tại thìn tuất nhị cung là tương xung,
• tại sửu mùi nhị cung là đồng triền,
• tại tị hợi, mão dậu tứ cung là tương hội,
mức độ cường nhược cũng như vậy.

Phụ Bật, nhập Mệnh cung, hoặc nhập Phúc đức cung, đều chủ khoan hậu. ngay cả khi tứ Sát Không Kiếp Hình Kị chư tinh, tính khoan hậu không đổi.

Xương Khúc ắt hiềm tứ Sát Không Kiếp Hình Kị chư tinh, tối kị kiến Vũ-khúc hóa Kị đồng hội. Tất chủ tai ách. Đây là điểm bất đồng với Phụ Bật.

mrhathaingo
11-11-11, 06:40
HÓA DIỆU.

Theo Trung-châu phái: tứ hóa an như sau:

Giáp : Liêm Phá Vũ Dương.
Ất : Cơ Lương Vi Nguyệt.
Bính : Đồng Cơ Xương Liêm.
Đinh : Âm Đồng Cơ Cự.
Mậu : Tham Âm Nhật Cơ.
Kỷ : Vũ Tham Lương Khúc.
Canh : Nhật Vũ Phủ Đồng.
Tân : Cự Nhật Khúc Xương.
Nhâm : Lương Vi Phủ Vũ.
Quý : Phá Cự Âm Tham.

hóa diệu của “Tử vi đẩu sổ” là then chốt toàn bộ biến hóa của tinh diệu.

đặc biệt lưu niên, đại vận, đều có riêng lưu Hóa diệu của mình, với nguyên cục Hóa diệu hỗ tương giao hội, càng khiến tính chất biến thành phức tạp, cũng do vậy, cần thiết đễ suy đoán cụ thể hơn.

đại khái ý nghĩa:
• Hóa Lộc: là tài lộc;
• hóa Quyền: là quyền thế;
• hóa Khoa: là danh dự;
• hóa Kị: là chướng ngại.
Nhưng các tinh diệu biến hóa vẫn còn nhiều ý nghĩa độc đáo, một trong những ý nghĩa độc đáo hơn, thường là căn cứ để suy đoán.

HÓA LỘC .
Hóa-lộc thuộc âm thổ: chủ tài lộc. thông thường chỉ tài nguyên, tức tính chất và năng lực sanh tài. cũng chỉ cơ hội tiến tài.
• vì vậy thích cùng Lộc-tồn tương hội: gọi là điệp Lộc;
• càng thích kiến Lộc-tồn + Thiên-mã (gọi là "Lộc Mã giao trì”).

Hóa Lộc:
1. quan điểm hóa Lộc không thích tí ngọ mão dậu cung, đặc biệt lấy mão cung làm lạc hãm (việc này cường điệu, sẽ phân tích riêng).
2. không thích Không Kiếp đồng triền, xưa nói: [Lộc chủ ở nhược địa, phát bất chủ tài] Tức chỉ có hư danh mà vô thực tế.
3. tối hiềm bị Kị tinh xung phá, tức chỗ cổ nhân nói "Lộc phùng xung phá, cát xứ tàng hung”. Đại khái tình hình chủ do tiến tài mà sanh họa sự. ví dụ: như vì cầu tài ngược lại sanh rủi ro; đầu tư lớn mà vô tiến ích, đưa đến sa lầy. phải tường thực tế tổ hợp tinh diệu mà định tính chất.
- Tối hỉ cư dần thân hợi cung. cũng thích cư thìn tuất, sửu mùi tứ mộ địa (tứ mộ này là nơi Mã Lộc-tồn không cư, chính thích hóa Lộc bổ túc, duy tất phải có Lộc tinh xung khởi mới có thể phát huy),

Khoa Quyền Lộc tương hội, đại khái là kết cấu hết sức tốt đẹp, nhưng vẫn nên rõ tính chất tinh diệu, để định chỗ nặng chỗ nhẹ.
Như mệnh cung Liêm Tướng mà Liêm hóa Lộc, đối củng Phá hóa Quyền, hội sự nghiệp cung Vũ hóa Khoa.
- Hiển nhiên lấy Liêm hóa Lộc làm chủ, vì Liêm Tướng chủ theo chính trị hoặc tòng sự xí nghiệp phục vụ, đây là bản chất mệnh cung,
- Phá hóa Quyền tăng gia phạm vi quyền thế và trách nhiệm,
- Vũ hóa Khoa chủ có thể nắm quyền bính kinh tế,
cũng nhờ Quyền Khoa giúp thành Mệnh cung cát lợi, nhưng không thể lấy nó làm chủ thể.

mrhathaingo
18-11-11, 06:35
HÓA QUYỀN .
Quyền thủ mệnh, bình thường tính chất chủ năng chấp chưởng quyền bính, nhưng nếu phùng Sát diệu, ngược lại là chủ hữu chức vô quyền,

Hóa quyền thuộc dương mộc, là “kiều mộc”: [gỗ cứng để làm cầu], rất không thích “điệp Quyền”,
- lúc hóa Quyền và hóa Quyền trùng hội: dễ bị lực áp chế.
- Như hóa Quyền mà vô hóa Lộc, hóa Khoa giúp: dễ bị khuynh quỹ, bài xích, thấy thêm Sát diệu: chủ bị nhiều khốn nhiễu.
- hóa Quyền được hóa Lộc giúp: phải nhờ quyền lực người khác mà đắc lộc, hoặc do lộc mà đắc quyền. không thể coi là "Quyền Lộc trùng phùng” mà bỏ xa bổn chất của nó.
- “hóa Quyền không sợ hóa Kị”: câu này nói chung là cường điệu, có ý là lúc hóa Kị lai xâm, Quyền tinh có đủ lực chống lại áp chế. lý thuyết này theo quan điểm Trung-châu phái là không thể tránh phiến diện. do tinh diệu nguyên cục hóa Quyền, bị vận hạn hóa Kị tương xung, tức có thể bị ứng vào "thụ đại chiêu phong" vị cao thế nguy.
- Đặc biệt là lúc "điệp Quyền” có Kị tinh xung phá: chủ quyền lực đấu tranh, đặc biệt việc lừa dối, nên trì hoãn sự lộng quyền.
- Nếu nguyên cục hóa Kị, tại vận hạn hóa làm Quyền tinh: cần phòng lực lượng áp chế nỗi lên, chẳng là hỉ sự. phải xét rõ tính chất phối hiệp toàn cục mà định.

mrhathaingo
21-11-11, 06:44
HÓA KHOA .
Hóa khoa thuộc dương thủy: chủ trí, chủ lưu truyền, đó là thanh dự.
* Hóa Khoa thủ mệnh, bình thường tính chất chủ danh dự rõ rệt, nhưng nếu phùng Sát diệu, ngược lại là chủ tự thủ lợi ngầm, thanh thế hư ảo,

* Hóa Khoa không thích đồng cung Kiếp Không [Kiếp Không là khuynh gia đãng sản (mất tài sản)]
- chủ trở ngại, trôi mất, hư danh,
- hoặc chủ thanh vọng ở phạm vi hết sức mờ nhạt
- cũng chủ là nghiên cứu triết học tôn giáo.
- Khoa tinh và Không Kiếp + Lộc-tồn đồng triền, do đồng thời bị Kình Đà giáp, mặc dù thực tế là tốt, vẫn vô thanh vọng, đây là chỗ nói "miêu nhi bất tú, khoa tinh hãm ở hung hương”, vì vậy nhiều tinh diệu hóa Khoa, kết quả thanh vọng giới hạn trong một phạm vi nhỏ, tức là nguyên do này. lúc suy đoán phải chú ý.

* hóa Khoa không nên kiến hóa Kị.
- Tại cổ đại, hóa Khoa chủ khoa danh, sĩ tử tất phải trải qua khoa cử xuất thân mới dễ hiển đạt, vì vậy không thích hóa Kị xung hội hóa Khoa.
- Tại hiện đại, không chỉ chủ khoa danh hiển quý, vì vậy lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội: thường chủ “danh cao chiêu kị”, vì thế có khi là biểu tượng của danh độ cao.

đại khái mà nói,
Khoa Kị tương xung: bị mỉa mai, phải xem bổn chất tinh diệu mà định hỉ kị.
Như nguyên mệnh Nhật hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ nhân thanh dự vang lừng,
đến vận hạn lưu niên
• kiến Nhật hóa Kị ắt không tốt, chủ do thanh dự vang lừng mà rước lấy thị phi khẩu thiệt.
• Nhưng nếu kiến Đồng hóa Kị, ắt bất quá do thanh dự mà phiền lòng, do buồn bực mà thiếu hưởng thụ hoặc sanh bệnh mà thôi.

Trung-châu phái có một bí truyền: Mệnh cung hóa Khoa,
*** người sinh ban ngày,
- đến cung Nhật miếu Cát hóa: vô luận là lưu niên hay đại hạn, đều chủ thanh danh vang lừng.
- đến cung Nhật hãm lại kiến Sát Kị: ắt thanh danh bị tổn thất.
*** người sinh ban đêm,
- đến cung Thái-âm miếu Cát hóa: chủ danh tiếng vang lừng
- đến cung Thái-âm hãm kiến Sát Kị: chủ thanh danh tổn thất.
Đây là quy luật chung, có thể xét tinh diệu hội hiệp thật tế mà định chi tiết.

Hóa Khoa mệnh cung, tại nhị hợp có hóa Lộc (thí dụ như hóa Khoa tại tí, hóa Lộc tại sửu), gọi là "Khoa minh Lộc ám” chủ do khoa danh thanh dự đưa đến phúc lộc, hoặc đề cao xã hội địa vị. đây là do danh mà đắc lợi. (có thể so sánh là "minh Lộc ám Lộc”, đặng Lộc-tồn và hóa Lộc tại nhị hợp cung, cũng chủ quý hiển).
- "Khoa minh Lộc ám”: do danh mà đắc quý.
- "minh Lộc ám Lộc”: do phú mà đắc quý,

mrhathaingo
25-11-11, 05:39
HÓA KỊ .
hóa Khoa là những lời khen, có đủ khả năng tương tự để giao tiếp.
hóa Kị thuộc dương thủy, tức là lời nhạo báng,
- hóa Kị chủ ba chiết, tổn thất, thị phi, tật hỗ (ghen ghét). xem tình hình thực tế các tinh diệu hội hợp mà định.
- hóa Kị nhiều chỗ hãm địa, các cung dần thân tỵ hợi ngọ dậu tuất đều lạc hãm, riêng tại sửu cung nhập miếu.

- nguyên cục Thái-dương, Thái-âm nhập miếu hóa Kị: lại chủ cát lợi, như đám mây nổi chầu mặt trăng, bất quá bị lầm lỗi mà thôi. (Hợi cung Thái-âm hóa Kị, mão cung Thái-dương hóa Kị [Trung châu phái] gọi là "biến cảnh”, chủ càng chói mắt người khác, duy Thái dương không bằng Thái âm).
- nguyên cục Thái-dương, Thái-âm tại hãm địa hóa Kị ắt không tốt, tăng thêm thị phi, tổn thất, tiêu cực.
- Đồng hóa Kị tại tuất, Cự hóa Kị tại thìn: đều có cách cục “phản bối”, nên xem xét kĩ mà đoán.
- tinh diệu thuộc “tinh thần tính chất” tại Mệnh cung hóa Kị: chủ đầu não lặng lẽ. không thể khái quát hóa vấn đề kiến hóa Kị tức xem là hung.

"Tam Kỳ cách" khó đạt đến thuần mỹ
"Tam Kỳ gia hội cách" - tức ba sao hóa Lộc Quyền Khoa hội hợp cung Mệnh.
Cổ ca rằng:
Tam kỳ củng hướng Tử vi cung
Tối hỉ nhân sanh mệnh lý phùng
Tiếp lý âm dương chân Tể tướng
Công danh phú quý bất lôi đồng.
"Tam kỳ củng hướng các cung trong Tử-vi, hoan hỷ nhất là trùng phùng nơi mệnh, điều hòa âm dương, đích thị là (công việc) một chân Tể tướng, công danh phú quý chân thực không phải rổng tếch như là (kẻ) đạo văn, sai ngoa."

Bình thường:
Hóa Lộc chủ quan-lộc,
Hóa Quyền chủ quyền bính,
Hóa Khoa chủ danh vọng, uy tín,
cho nên cung Mệnh đương nhiên thích ba tinh diệu này hội hợp.
*** Nhưng chỉ khi không gặp Tứ Sát, Không Kiếp, Hình Kị mới là mỹ cách.
Ví như gặp cảnh "Tam Hóa hội hợp, lại thấy Sát Kỵ" vậy sẽ phải cẩn thận nghiên cứu tính chất sao Hóa, sau đó mới có thể suy đoán đặc điểm cùng khuyết điểm của mệnh người đó, nên tính chất tối phức tạp ở Đẩu số sợ rằng cũng không hơn cách cục này vậy.

Cách cục này thì Hóa Lộc tại cung Mệnh, hội lệnh ba phương Quyền Khoa là kết cấu tốt nhất. Hóa Lộc Hóa Quyền không nên đồng thời tập trung vào một cung, bởi vì hóa diệu tập trung thái quá, lực lượng các cung khác dễ lâm cảnh mỏng yếu, dễ dàng mất đi sự cân bằng.

Quyền thủ mệnh, bình thường tính chất chủ năng chấp chưởng quyền bính, nhưng nếu phùng Sát diệu, ngược lại là chủ hữu chức vô quyền,
Khoa thủ mệnh, bình thường tính chất chủ danh dự rõ rệt, nhưng nếu phùng Sát diệu, ngược lại là chủ tự thủ lợi ngầm, thanh thế hư ảo,
vì lẽ đó "Tam kỳ cách" cũng không dễ dàng thuần mỹ.

Cổ đại trọng kẻ sỹ, kẻ làm quan, khinh nông thương, nên "Tam kỳ cách" cũng vì thế thường đem tài năng ra làm quan mà cầu vinh hoa phú quý, xã hội hiện đại tất "Tam kỳ cách" cũng có khả năng vào thủ lãnh tập đoàn tài chính, ngân hàng, không nhất định kẻ đó phải làm quan.

mrhathaingo
05-12-11, 19:21
Song Lộc vi cung cục (Song Lộc Cách)
"Song Lộc triều viên cách" cùng "Lộc thai uyên ương" có chổ bất đồng,
"Lộc thai uyên ương" là Lộc tinh thủ mệnh, một Lộc tinh lai hợp;
"Song Lộc triều viên" là cung Mệnh không có Lộc tinh thủ cung, nhưng Lộc Tồn cùng Hóa Lộc phân ra ở 3 phương chiếu về cung Mệnh. Như cung Mệnh tại tý, Lộc tồn tại thân, Hóa Lộc cư thìn; thân tý thìn ba cung tương hợp. Hoặc Lộc tinh tại đối cung cũng có thể hợp cách.
Cổ ca rằng:
Tài quan nhị xử dữ thiên di,
Song Lộc lâm chi tối hữu nghi,
Đức hợp kiền khôn nhân kính trọng,
Thao thao phú quý thế hi kỳ.
(Hai cung Tài Quan và cung Thiên di rất nên có song Lộc tọa thủ là rất tốt, đức hợp với trời đất được người người kính trọng, còn phú quý như nước chảy cuồn cuộn, như vậy thật hiếm thấy)
Cách này nếu song Lộc đồng cung là không hợp cách. Phải cần một thủ cung Tài bạch, một thủ cung Quan Lộc; hoặc một thủ cung Tài bạch, một thủ cung Thiên di; hoặc một thủ cung Quan Lộc, một thủ cung Thiên di, vậy mới là cách đẹp. Nếu có Kỵ tinh ở cung Mệnh hoặc ba phương xung phá, thì không thể gọi là hợp cách.

"Song Lộc triều viên" tốt ở chỗ dễ phát tài, nhất là song Lộc phân bố vào tam phương hội hợp về, tuần hoàn mỗi mười hai năm, chí ít cũng có ba lần lưu niên ở cung Mệnh hội hợp song Lộc, cách vài năm lại có một lần tiền tài như ý, khí thế tài vận cả đời người vì thế mà cũng dễ dàng hơn.

&& Nhưng cách cục này vẫn có sự phân biệt cao thấp.
Nếu Cát tinh thủ Mệnh, hơn nữa mệnh lại cường và có lực, tất cách cục là cao,
nhược cung Mệnh thủ sao phù động, như Thiên Cơ, Cự Môn, tất cách cục là thấp. Lại gặp Tứ Sát phân bố ở 3 phương là cung Mệnh hội nhiều Sát tinh, chỉ chủ nhiều tiền tài thì nhiều tai họa.

mrhathaingo
07-12-11, 06:20
để suy đoán được tinh tế: ta phải rõ các Hóa Diệu căn bản do Chính Diệu nào và tại 12 vị trí có những hiệu quả khác nhau, không thể cứ có Hóa Diệu là đều chỉ có một ý nghĩa (ví dụ như thấy Hóa Lộc vội cho là tiến tài). Tôi thuyết minh bằng Can Giáp với Liêm hóa Lộc cư 12 cung:

LIÊM TRINH hóa Lộc (can Giáp ) .

Liêm-trinh là tinh diệu thuộc cảm tính, vì vậy không đại biểu cho vật dục. Lúc hóa Lộc, tính chất hưởng thụ tinh thần vẫn nhiều hơn tính chất hưởng thụ vật chất, do đó sinh hoạt tất hao phí, lấy sinh hoạt hưởng thụ cao để hỗ trợ tinh thần hưởng thụ, tất nhiên không lẫn với keo kiệt.

Liêm-trinh đi với Tham-lang Rõ ràng là một loại thích hoang phí, nhưng bản chất kì thật vẫn có bất đồng. hóa phí của Tham-lang thuần thuộc “tửu sắc tài khí”, mà Liêm-trinh thuộc “phong hoa tuyết nguyệt”, tính chất ưu nhã hơn, xem trọng tinh thần và cảm tính hơn.
Liêm-trinh thường thường có mang theo sắc thái “chính trị”, thường là thủ đoạn, vì vậy Liêm hóa Lộc, cũng chủ nhờ thủ đoạn để cầu tiến thủ. Giao tế ứng thù là thủ đoạn, kết đảng kết phái cũng thuộc thủ đoạn.

Liêm hóa Lộc, nhưng lại thấy hung Sát Hình hiện rõ, tất chủ “tửu sắc tài khí”, thường nhiều thủ đoạn, nhiều ứng thù, nhưng không có thu hoạch gì, ngược lại sự nghiệp xuất hiện không đủ. Như tái kiến đào hoa chư diệu: thường vì sắc phá tài.
Liêm hóa Lộc kiến đào hoa mà vô Sát Kị: vẫn chủ do “phong nguyệt ứng thù” mà đắc thế thân, hoặc đắc tài lộc.
nguyên cục Liêm hóa Kị, tại vận hạn niên hạn hóa Lộc: thường là tế ngộ . được tài lộc như đầu cơ, đổ bác, chánh trị, hối lộ … ). được những điều này tài lộc có phần hiển đắc, hài lòng.

Tí ngọ cung: Liêm Tướng.
Liêm hóa Lộc / đối cung Phá hóa Quyền / Sự nghiệp cung Vũ hóa Khoa, chủ tuy bị giữ chức phó (thứ hai), nhưng thường thân kiêm trọng nhiệm nắm giữ đại quyền.
Vận hạn lưu niên đến cung này, thường chủ chuyển biến lương hảo, Nhật hóa Kị tại Giao hữu cung, hội chiếu Huynh đệ cung Cự-môn, vì vậy cũng thường chủ nhân tế quan hệ đồng thời khởi cải biến không tốt. Tinh diệu phối hiệp ý nghĩa rất sâu, không thể không chú ý. Liêm Tướng luôn luôn mang theo sắc thái chính trị mạnh mẽ, vì vậy nhân tế quan hệ và xã giao với cộng đồng càng thêm trọng yếu.

mrhathaingo
09-12-11, 17:46
Sửu mùi cung: Liêm Sát.
Liêm hóa Lộc, tất Đà đồng cung hoặc hội Kình Đà, tất đồng thời Lộc Quyền Khoa hội / Sự nghiệp cung Phá hóa Quyền, Vũ hóa Khoa, thanh thế cũng cực hiển hách, quyền lực và nhiệm vụ so Liêm Tướng lớn hơn. Đối cung Thiên phủ có lực ổn định / Tài bạch cung Tử Tham chủ tiêu phí: vì vậy toàn bộ kết cấu tinh hệ, tài lộc dồi dào hơn Liêm Tướng, Đà-la sanh sa đà, chậm trễ.
Duy lúc này Huynh đệ cung Thiên-lương, đối xung Giao hữu cung Nhật hóa Kị, nhân tế quan hệ so Liêm Tướng càng phải chú ý, thường dễ dẫn khởi quan phi, đấu tranh, đưa đến âm mưu.

mrhathaingo
13-12-11, 19:46
Dần thân cung : Liêm-trinh.
Liêm hóa Lộc, Lộc-tồn đồng độ hoặc củng chiếu / Sự nghiệp cung Vũ Phủ mà Vũ hóa Khoa, chủ tài bạch có uy tín, hoặc nên nắm tài quyền. Nhưng Liêm và Tham tương xung, làm tăng thêm tính vật dục của Liêm trinh, vì vậy cũng dễ xem trọng vật chất hưởng thụ. Tại Sự nghiệp, nên lấy nghệ thuật, âm nhạc, (tiêu phí hàng nghiệp) để cầu tài, theo chính trị hoặc mậu dịch cũng tốt.
Thái-dương Thái-âm (Thái-dương hóa Kị thủ Giao hữu cung, tá nhập Huynh đệ cung), chủ thuộc hạ nhiều động đãng.

mrhathaingo
18-12-11, 06:57
Mão dậu cung: Liêm Phá.
Liêm hóa Lộc tất Phá hóa Quyền đồng độ, Kình đồng triền hoặc hội Kình Đà.
Quyền Lộc trùng phùng chủ sanh biến hóa tế ngộ / Sự nghiệp cung Vũ Tham mà Vũ hóa Khoa, càng gia cường tài thế của Liêm Phá / Tài bạch cung Tử Sát cũng có lực, tam phương quyền lộc thậm trọng.

Chỉ tiếc đối cung Thiên-tướng, [bị Cự Nhật mà Nhật hóa Kị, cùng Cơ Lương, (Thiên-lương giáp)], ảnh hưởng đến Liêm Phá dễ bị bóng mờ ám phục tỏa chiết.
nhân tố tỏa chiết của cung này, chủ yếu là tình cảm. đặc biệt Phúc đức cung Thiên-phủ hội Tướng [Hình Kị giáp] chủ khó giữ thận trọng, vì vậy tất phải [trì doanh bảo thái] mới cát lợi.

mrhathaingo
23-12-11, 06:35
Thìn tuất cung: Liêm Phủ.
Liêm hóa Lộc /Sự nghiệp cung Vũ Tướng mà Vũ hóa khoa / đối cung Thất sát / Tài bạch cung Tử vi.
Toàn tổ tinh hệ, theo chánh trị hay kinh thương đều được, vì là người văn vũ đều hay, có thể công có thể thủ, và giỏi lý tài (quản lí tiền bạc), bất quá Sự nghiệp cung khó có tối cao vị trí mà thôi.
tinh hệ này lại có một đặc điểm, thiếu niên vận bất lợi, đến đại hạn thứ ba miếu năm năm mới khởi bộ. Mỗi đại hạn, cũng năm năm sau tốt hơn năm năm trước; thậm chí mỗi năm cũng lấy nữa năm sau tốt hơn, đây là do Liêm Phủ cư La Võng, tất cả Lợi ích đều chủ từ từ.
khuyết điểm của cung độ này, ở tại Huynh đệ cung, Giao hữu cung cùng Phu thê cung, đặc biệt nữ mệnh, tất phải xem trọng tình cảm vợ chồng.

mrhathaingo
27-12-11, 06:33
Tị hợi cung: Liêm Tham.
Liêm hóa Lộc kiến Sát / Sự nghiệp cung Vũ Sát (Vũ hóa khoa) / Tài bạch cung Tử Phá (Phá hóa Quyền) mang theo Đà hoặc cùng hội Kình Đà. không giữ tổ nghiệp, tính chất tự lập thành gia. vì thế tại đại hạn tốt hơn tại nguyên cục tam phương.

kết cấu tổ tinh hệ này, nên lấy nghệ thuật, hoặc công nghệ để hưng gia. Kiến đào hoa nên theo nghệ thuật hoặc sự nghiệp âm nhạc, tiêu dùng…. Duy Tài bạch cung Tử Phá vấp phải Đà la, đắc tài chậm và khó tích súc. Thường tự mình không muốn ứng thù mà hao phí rất lớn.

Phu thê cung Thiên phủ, như Mệnh cung hoặc Phúc đức cung có đào hoa chư diệu, cũng chủ tái hôn nhân, mà phu thê vẫn giữ “ngẫu đoạn ti liên” (dùng dằng, bỏ thì thương, vương thì bận).
Giao hữu cung Nhật hóa Kị, cũng chủ không đắc lực và khởi ám tranh.

mrhathaingo
30-12-11, 06:36
THIÊN-CƠ hóa Lộc (can Ất) .

Thiên-cơ bản chất là cơ biến linh động, và mẫn nhuệ đa trí, lúc hóa Lộc tất năng chủ động cơ hội phát quật để thành sự nghiệp, vì vậy thu hoạch được lợi ích.
Nhưng người cơ biến linh động, vẫn thường thiểu phách lực khai sáng đại sự nghiệp, thường thường dễ rơi vào đầu cơ thủ xảo, vẫn không tránh được có những hạn chế đáng kể, ảnh hưởng đến thành tựu của sự nghiệp và tài bạch. vì thế Cơ hóa Lộc, chỉ là [liêu mặc nhân tài], chủ kế hoạch, thiết kế, hoặc tùng sự công tác chạy việc cho người khác (như môi giới).
Do biến động, nên cũng thường không giữ một nghề, thích đứng núi này trông núi nọ. phàm Cơ hóa Lộc tại mệnh cung, tất đồng thời phải lưu ý tinh diệu của Phúc đức cung, cùng tinh diệu của Sự nghiệp cung, an định và có tiến thủ lực thì tốt, bất an định mà lại không chí hướng, ắt sẽ ảnh hưởng mệnh cung Cơ hóa Lộc khiến thành tựu càng nhiều hạn chế.
Cơ hóa Lộc tiền tài không dễ giữ lâu, như Điền cung đẹp, nên chú ý cơ hội sở hữu nhà; nếu không phải xem Phu thê cung có tinh diệu giỏi giữ tiền hay không.

bùi tuấn
31-12-11, 07:09
Ước gì được mrhathaingo cho diễn đàn thêm chút thời gian và mở cửa luận số giúp hội viên, vừa giúp được người có nhu cầu biết số và cả người muốn học hỏi trao đổi đều có cơ hội mở rộng kiến thức. Mong bạn cố gắng thêm tí cho anh em được nhờ. Cám ơn.

mrhathaingo
02-01-12, 05:46
Sinh hoạt chính hiện nay của tôi là Âm nhạc: biểu diễn tại các Clb + viết kỹ thuật hòa âm + thu âm, thời gian không còn nhiều (nhất là vào dịp từ trước Noel cho đến sau Tết âm lịch), chỉ thỉnh thoảng vào diễn đàn Tử vi góp chút những nghiên cứu của mình mà thôi, mong bạn Bùi Tuấn thông cảm.

mrhathaingo
02-01-12, 06:26
THIÊN-ĐỒNG hóa Lộc (can Bính) .
Thiên-đồng chủ [bạch thủ hưng gia]. Đồng hóa Lộc đại khái chủ tăng gia tài lộc, và hợp với những việc nhàn nhã.
- Nhưng nếu lúc cùng Khoa Văn chư diệu đồng triền, ắt tổ hiệp tinh diệu quá phong nhã, dễ chìm trong thanh vận hoặc âm nhạc, thích tinh thần hưởng thụ mà thiếu ý chí tiến thủ.
Tình hình này, rất không thích hợp với xã hội cạnh tranh hiện đại.
- Nếu có đào hoa chư diệu đồng độ, nhiều cảm tinh thần hư không. dễ bị cảm tình [phân nhiễu] (nhầm lẫn, hỗn loạn).

Thiên-đồng không sợ Sát diệu, ngược lại có khi thành kích phát lực, vì vậy có cách cục [phản bối], cùng [mã đầu đái kiếm] cách. Như không thành cách cục, một vài điểm Sát diệu thì không lo. Duy nhiều Sát diệu chủ tuổi trung niên tân lao, đến vãn niên mới có thể hưởng thụ.
Đồng hóa Lộc dễ đam mê dục lạc, vì thế tại vận hạn thấy Lộc, tốt hơn so với tại nguyên cục tinh bàn thấy Lộc. vì tại vận hạn niên hạn, bổn chất đam mê dục lạc không nặng (lúc này cũng không cần Sát diệu kích phát).

mrhathaingo
07-01-12, 05:49
4. THÁI-ÂM hóa Lộc (can Đinh) .

Thái-âm là tài tinh, tự nhiên thích hóa Lộc. Chủ giàu có. nhưng so với Vũ khúc, có thể nói, Thái âm khiếm khuyết hành động sanh tài, thiếu cạnh tranh lực. có thể phú hay không. vẫn phải xem tiến triễn có lợi không; hoặc đại vận tài khí phong doanh mà định. nếu không dù hóa Lộc, cũng chủ đại khái thôi.

Hơn nữa, lúc Âm hóa Lộc, tất đồng thời Cự hóa Kị tại Phúc đức cung. Phúc đức cung ảnh hưởng Tài bạch cung (hai cung này vĩnh viễn tương xung), Thái âm vốn có một loại khí chất tự do, dễ bị ảnh hưởng của Cự hóa Kị, vẫn biến thành thích cạnh tranh, và nội tâm lo lắng, bổn chất cũ thay đỗi đáng kể. lại do cạnh tranh không tốt mà buộc phải cạnh tranh, nhân sanh tự nhiên nhiều sự đáng tiếc.

Vì vậy mệnh Âm hóa Lộc, không bằng tại đại vận hóa Lộc. do ở đại vận không chủ bổn chất, mà chủ tài nguyên thuận toại.

tại hãm cung Âm hóa Lộc, tâm lí cảm thấy mình giàu có; nếu không có tinh diệu khác phối hiệp, không chủ [tài lộc phong doanh]. Duy đối với bất lợi lục thân mà nói, Âm hóa Lộc tính chất có cải thiện.

Nguyên cục Âm hóa Lộc, tại lưu niên đại hạn hóa Kị, khả dĩ thí dụ bị tiền tài choáng mắt, dẫn đến thèm muốn, không nên bị dẫn dụ đầu tư, càng phải tránh do cảm tình mà phá tài.
Nguyên cục Âm hóa Kị, tại lưu niên đại hạn hóa Lộc, chỉ cần không bị dẫn dụ đầu tư, có thể tại bối cảnh [thị phi phân nạo] lại thuận lợi tiến tài.

Nguyên Mệnh Âm hóa Lộc, Phúc đức cung Cự hóa Kị, vô luận nam nữ đều phải xem trọng vấn đề tình cảm, nếu không thể lấy ý chí lực khắc phục sự quyến rủ của tình cảm, ắt nhân sanh nhiều khốn nhiễu, nhưng vẫn như một phong trào tình ái.

mrhathaingo
10-01-12, 05:54
5. THAM-LANG hóa lộc (can Mậu) .

Tham lang bổn chất:
- chủ vật dục, lúc hóa Lộc, ý nghĩa vật dục càng tăng gia mạnh hơn.
- cũng giỏi giao tế ứng thù. lúc hóa Lộc, tất chủ người này có thể mượn thù tạc mà phát triển sự nghiệp, cùng theo đó tiến tài.

Tham hóa Lộc, có đủ bản chất đầu cơ.
- Hỏa Linh đồng độ: đầu cơ có thể thu hoạch lợi, duy cũng cần chú ý vận hạn thích nghi hay không. Nếu Kình Đà đồng độ hoặc hội chiếu, tất không nên đầu cơ.
- Nếu có đào hoa chư diệu đồng hội, ắt vật dục cùng sắc dục đều nặng. Lưu ý vận hạn, phòng vì sắc phá tài.
- có Kình Đà, Không Kiếp đồng độ, ắt chủ dễ vì giao tế ứng thù mà phá tài, phá không chỉ vì ứng thù hao tốn, tổn háo này đều do công việc mà thù tạc, hơn nữa cũng tốn vì bạn bè.
- thành [Hỏa Tham, Linh Tham] cách, tất có may mắn của mình. Sau khi phát cũng chủ dễ bại. vì thế không nên trường kỳ chuyên chú vào của cải may mắn.

mrhathaingo
16-01-12, 06:29
VŨ-KHÚC hóa Lộc (can Kỷ) .

Vũ-khúc là tài tinh, chủ hành động, vì thế thích hóa Lộc. vì chủ hành động, tất nhiên dễ sáng kiến sự nghiệp. mà sự nghiệp lớn, tài lộc càng phong hậu. tất cả tính toán tài phú của loại người này, không chỉ xem có tích súc hay không?, tài sản của họ thường thường là vốn của xí nghiệp.

Vũ hóa Lộc mà cùng tứ Sát đồng độ, chủ lấy thủ công nghệ, công nghệ cầu tài. buôn bán giỏi, vì thế tài nguyên không thiếu hụt, duy ngưng nghỉ lập tức vô thu nhập vì thế tất phải chú ý tích súc. may mà Vũ-khúc giỏi bổn chất lí tài, trừ phi tài bạch cung hết sức xấu, nếu không đại khái nhiều tồn trữ.

Vũ hóa Lộc tối bất hỉ cùng Văn-khúc hóa Kị đồng hội, chủ bổn nghiệp có thể sanh tài , nhưng đầu tư tất bị tổn thất, do đó năng lực trữ tài đại giảm.
Nữ mệnh bất hỉ Vũ hóa Lộc, chủ gia cường cơ hội độc thân.

mrhathaingo
25-01-12, 19:23
THÁI-DƯƠNG hóa lộc (can Canh) .

Thái-dương tính chủ phát tán. Khi Hóa lộc, không tăng gia thanh vọng mà chủ do thanh vọng đắc tài, ví như nhờ vào danh tiếng mà được mời đón.
Có lúc cũng chủ đắc tài lộc không nhiều, chủ yếu thuộc vinh dự. ví dụ như tiền thưởng… .

Do Thái-dương bổn thân đã có bổn chất [quý nhi bất phú], vì vậy thay vì tiền tài lại thu hoạch thanh dự.
- lúc Thái-dương lạc hãm hóa Lộc có khi chủ tán tài, ví như được một vinh dự, được giải thưởng, do đó đãi đằng thân hữu, hao phí lớn hơn. chỉ lấy tiền mà so có thể nói nhập không đủ chi.
- lúc Thái-dương miếu vượng hóa Lộc cũng có thể là quản lý [nhất bút phù tài] Do đó tăng gia thân phận địa vị.
Nguyên tắc thuật ở trên là [Thái-dương chủ quý bất chủ phú].

mrhathaingo
09-02-12, 05:02
8. CỰ-MÔN hóa Lộc (can Tân) .

Cự-môn chủ thị phi khẩu thiệt, khi hóa Lộc: ắt chuyển hóa tăng gia nói để phục vụ. vì thế ý nghĩa cơ bản: là lợi ở giáo học, luật sư, môi giới hoặc truyền bá. xã hội hôm nay cũng có lợi với giới diễn nghệ, có thể biểu diễn tài năng (đặc biệt là ca xướng) được hoan nghênh.
Nhưng Cự-môn là ám diệu, ngay cả khi không hóa Lộc, cũng thích che chắn ánh sáng của người khác. khi Hóa lộc, càng có khuynh hướng biểu hiện tự mình, do đó sanh thị phi, khả dĩ ảnh hưởng sự nghiệp, tiền nhân cho là Cự hóa Lộc phú quý không lâu dài, tức là do tính chất này mà luận định.

Cự hóa Lộc không thích Sát diệu đồng độ, có Sát tức thành phá cách. đặc biệt không thích Hỏa Linh, chủ bình địa phong ba, thường do tự mình rước lấy.
Cự hóa Lộc tức có sắc thái đào hoa. Nếu lại hội đào hoa chư diệu, cảm tình càng dễ khởi sóng gió.

mrhathaingo
13-02-12, 05:11
9. THIÊN-LƯƠNG hóa Lộc (can Nhâm) .

Thiên-lương là sao giám sát, chủ thanh quý, vì thế bất hỉ hóa Lộc. trong thập can hóa Lộc lấy nó làm rất không hợp [tối bất nghi]. vì vậy Lương hóa Lộc tất tăng phiền nhiễu, càng bất lợi kinh thương. nên chú ý tính chất của Giao hữu cung. là chìa khóa suy đoán toàn cục.
Phàm Lương hóa Lộc, tất bị người bài tễ, trách móc, đặc biệt lấy Thiên-lương hai cung tị ngọ thường đúng. Chỉ nên tùng sự hàng phục vụ tiêu phí, như hội trấp sư, cố vấn tài vụ, công cộng phục vụ … , và không phải truy cầu danh khí.
Thiên-lương chủ trung gian tranh chấp, khi hóa Lộc, thời gian hòa giải thường kéo dài, khiến đương sự cảm thấy khốn nhiễu đa đoan. may mà phân nhiễu hóa giải kết quả hoàn mỹ, lại không bị di chứng. đây là thông bệnh của Lương hóa Lộc,

mkk
21-02-12, 15:31
HÓA KỊ .
- nguyên cục Thái-dương, Thái-âm nhập miếu hóa Kị: lại chủ cát lợi, như đám mây nổi chầu mặt trăng, bất quá bị lầm lỗi mà thôi. (Hợi cung Thái-âm hóa Kị, mão cung Thái-dương hóa Kị [Trung châu phái] gọi là "biến cảnh”, chủ càng chói mắt người khác, duy Thái dương không bằng Thái âm).
- nguyên cục Thái-dương, Thái-âm tại hãm địa hóa Kị ắt không tốt, tăng thêm thị phi, tổn thất, tiêu cực.
.

Cảm ơn mrhathaingo
Xin bác cho biết trường hợp này ứng vào đoạn nào trong lý thuyết bác nêu?
(Nhật Nguyệt Đà Kỵ Địa Không Tuần)
http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/3RR69OEL.jpg

mrhathaingo
27-02-12, 05:13
Xin lỗi, thời gian này tôi rất bận, sẽ viết tiếp và trả lời khi có thời gian rảnh.

mkk
28-02-12, 15:17
Xin lỗi, thời gian này tôi rất bận, sẽ viết tiếp và trả lời khi có thời gian rảnh.

Cảm ơn bác.
Mong bác giữ lời hứa nhé.
Hihi!

atmeo
23-07-12, 22:02
Bác mrhathaingo bận lâu ghê!