PDA

View Full Version : Đi tìm bản chất đích thực của con người (1)



dhai06
19-09-11, 17:44
Chào các bạn. Lâu quá dhai06 không ghé thăm diễn đàn. Nay ghé lại thấy mọi người vào đông quá cũng vui. dhai06 xin gởi bài này đến các bạn cùng nhau suy nghĩ
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/19/17/03/13164266101726387891_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1259122375)
THÍ NGHIỆM TURING

Xưa nay, loài người luôn yên chí rằng mình là những sinh vật ‘thượng đẳng”, hơn hẳn mọi giống loài khác. Nhưng niềm tin ấy đang bị đe doạ bởi sự xuất hiện của một “giống loài” mới: robots với bộ óc là computer!

Ngay từ những năm 1950, Alan Turing, một trong những cha đẻ của computer, đã khẳng định rằng sẽ đến lúc computer thông minh như con người. Thực tế diễn ra có vẻ như còn chứng tỏ computer có thể “thông minh hơn” con người: Năm 1997, máy tính Deep Blue đã đánh thắng vua cờ Garry Kasparov! Đó là lúc trường phái “trí thông minh nhân tạo” – AI (Artificial Intelligence) – ăn mừng. Nhưng không chỉ AI ăn mừng: rất nhiều người khác cũng bị lây nhiễm tâm lý sùng bái computer, sùng bái khoa học, sùng bái máy móc. Số người này rất đông đúc (có lẽ chiếm đa số), bao gồm cả những người giỏi giang nhất, uy tín nhất, tạo nên một xu thế thời đại khó cưỡng nổi – thời đại kỹ trị. Trong thời đại này, khoa học vật chất được tôn lên thành “chúa tể” của tri thức, đẩy các lĩnh vực văn hoá nhân văn vào thế lép vế, dẫn tới một sự mất cân bằng nghiêm trọng trong đời sống nhân loại. Mất cân bằng sinh thái, bầu khí quyển bị hâm nóng, thiên nhiên nổi giận, môi trường bị ô nhiễm, năng lượng hạt nhân trở thành mối đe doạ, GDP tăng trưởng nhưng đạo đức suy đồi, khủng hoảng tội ác, phân hoá giầu nghèo đến mức cùng cực – trong khi có những kẻ cất giữ hàng tỷ đô-la trong ngân hàng, của cải đổ đi không hết thì vẫn có trên 1 tỷ người trên thế giới đang sống trong tình trạng đói rét, bệnh tật, …

Nguồn gốc sâu xa của tình trạng mất cân bằng đó là sự thiếu hiểu biết về bản chất con người.

Con người đơn thuần chỉ là kết quả của sự tiến hoá sinh học hay là một thực thể tâm linh – “một cây sậy có tư tưởng” như Pascal định nghĩa ?

Liệu học thuyết Darwin và những lý thuyết tiến hoá hiện đại khác có giúp chúng ta hiểu rõ bản tính người hay không? Bản tính người thực sự là cái gì?

Thuyết tiến hoá nói rằng đặc trưng của loài người là ở chỗ biết sáng tạo ra công cụ lao động. Nhưng lý thuyết này đang trở nên quá nghèo nàn trước những thành tựu của khoa học computer, bởi việc chế tạo ra công cụ thực ra chỉ là một biểu hiện của trí thông minh vượt trội, mà computer cũng sẽ thông minh không thua kém con người. Vậy chỗ đứng thật sự của con người ở đâu?
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/19/17/06/1316426778305956914_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1259123587)
Douglas Hofstadter, trong cuốn sách nổi tiếng từng đoạt Giải Pulitzer năm 1980 của ông, “Gödel, Escher, Bach”, đã tìm ra một phản đề tuyệt vời: “Khi một hoạt động trí não nào đó đã được chương trình hoá thì người ta sẽ mau chóng ngừng coi nó như một thành phần chủ yếu của tư duy thực sự”. Nói một cách dễ hiểu: đâu là chỗ của máy móc thì đó không phải là chỗ để tính người lộ rõ.

Từ phản đề ấy, lập tức suy ra rằng tư duy đánh cờ không còn nằm trong vùng tư duy đặc trưng nhất của tính người nữa, vì Deep Blue đã đánh thắng vua cờ! Đây là một sự kiện làm đảo lộn vai trò của cờ vua nói riêng và là một cột mốc quan trọng trong lịch sử nhận thức của con người về chính bản thân mình. Xem thế đủ thấy việc hiểu bản chất thật sự của con người hoá ra không đơn giản như ta tưởng.

Chính vì không hiểu rõ chính mình là gì nên con người mới sùng bái những tri thức khoa học vật chất đến mức thái quá, từ đó tạo ra một thế giới mất cân bằng nghiêm trọng như hiện nay. Dường như linh cảm được điều đó nên từ cách đây hơn nửa thế kỷ, Albert Einstein đã lên tiếng cảnh báo: “Hãy thận trọng đừng biến tri thức thành chúa tể của chúng ta, nó có … sức mạnh cơ bắp nhưng không có nhân tính”[1].

dhai06
19-09-11, 17:44
Đó là lúc Einstein đề cập tới những tri thức của nền văn minh kỹ trị – tri thức tạo ra của cải vật chất, máy móc, súng ống, …

Tuy nhiên, có những tri thức không có sức mạnh cơ bắp nhưng giầu nhân tính. Những tri thức này nằm ở đâu? Nói cách khác: Bản chất đích thực của con người nằm ở đâu?

Các bậc thức giả đang ra sức tìm kiếm câu trả lời.

Brian Christian, tác giả cuốn “The Most Human Human”[2] (Người người nhất), gợi ý: Hãy khám phá bản chất người từ chính sự khác biệt giữa con người với computer!

Học giả David Shenk bình luận: “Máy móc đã trở nên thông minh đến nỗi nó buộc chúng ta phải có một cái nhìn hoàn toàn mới đối với câu hỏi thông minh là gì và con người là gì”.

Một học giả khác thốt lên: “Ai mà ngờ được rằng cách tốt nhất để hiểu con người lại là nghiên cứu chính những sản phẩm bắt chước con người”.

Thật vậy, muốn thấy rõ tính người nằm ở đâu, hãy nghiên cứu computer để xem chúng khác chúng ta ở chỗ nào. Chỗ khác biệt ấy chính là chỗ hơn hẳn của con người! Để làm việc này, hãy theo dõi một sự kiện được gọi là “Thí nghiệm Turing” (Turing Test) do cộng đồng AI tổ chức hàng năm.

Thay vì tranh cãi về mặt lý thuyết, Turing, ngay từ thời của ông (những năm 1950), đã đề xuất một kiểu thí nghiệm, nhằm chứng minh computer sẽ thông minh như con người. Đó là một cuộc thi đấu giữa hai đấu thủ: một bên là computer, một bên là con người. Hai đấu thủ sẽ phải trả lời các câu hỏi do một ban giám khảo đưa ra. Các câu hỏi này không có bất cứ một hạn chế nào: từ chuyện vặt vãnh trong đời thường cho tới những sự kiện lớn lao của khoa học, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, triết học,… Chẳng hạn: Bạn thích món ăn gì nhất? Thời tiết hôm nay ra sao? Sydney có đẹp bằng Paris không? Godel là ai? Hạnh phúc là gì? Tình yêu là gì? Tranh Monet có đẹp hơn tranh Picasso không? “Ode to Joy” có phải là nhạc phẩm vĩ đại nhất không? … Để đảm bảo công bằng, hai đấu thủ được đặt trong hai phòng kín để ban giám khảo không thể nhận biết bên nào là computer, bên nào là người, nhưng tuỳ theo nội dung của các câu trả lời, ban giám khảo sẽ bỏ phiếu đoán nhận bên nào là computer, bên nào là người. Kết luận của ban giám khảo dựa trên đa số phiếu, giống như bầu cử. Nếu ban giám khảo đoán nhận sai – lẫn lộn computer với người – thì đó là bằng chứng chứng tỏ computer thông minh như người.

Turing dự đoán vào năm 2000, computer sẽ đánh lừa được 30% số giám khảo sau 5 phút trò chuyện. Với kết quả đó “người ta sẽ có thể nói về tư duy của máy móc mà không thấy bị mâu thuẫn”, ông nói.

Nhưng Thí nghiệm Turing năm 2000 không xẩy ra như Turing dự đoán. Năm 2008, trong thí nghiệm diễn ra tại Reading ở Anh, suýt nữa thì dự đoán của Turing trở thành sự thật – chỉ còn thiếu đúng một lá phiếu nữa thì chương trình máy tính đã đánh lừa được ban giám khảo. Nếu chương trình đánh lừa được ban giám khảo thì nó sẽ được trao một giải thưởng mang tên “The Most Human Computer” (Computer người nhất). Ngược lại, nếu phần thắng thuộc về người tham gia thí nghiệm thì người này sẽ được trao giải thưởng “The Most Human Human” (Người người nhất). Nếu có vài người cùng tham gia thí nghiệm thì người nào được nhiều phiếu nhất sẽ được trao phần thưởng đó.

Nhiều người đã đoạt giải “Người người nhất”, vì Thí nghiệm Turing được tiến hành từ những năm 1990, nhưng phải đợi mãi đến năm 2009 thì giải thưởng “Computer người nhất” mới lần đầu tiên được trao cho David Levy – một trong những tên tuổi lớn về lập trình cho cờ vua trong thập kỷ 1980, trước khi ra đời chương trình Deep Blue trong thập kỷ 1990.

Levy là người cổ võ điên cuồng cho khoa học AI. Ông đã viết cuốn “Love and Sex with Robots” (Yêu và làm tình với robots) để trình bầy tư tưởng của mình. Không quá khó để hiểu được khái niệm “làm tình với robots” nhưng sẽ rất khó để hiểu được khái niệm “yêu robots”, nếu chữ “love” được hiểu như một tình yêu đích thực, chẳng hạn như tình yêu giữa Marius và Cosette trong “Những người khốn khổ” của Victor Hugo.

Tại sao Levy có tư tưởng thái quá như vậy? Có lẽ vì ông không hiểu bản chất đích thực của con người là gì. Nhưng tại sao lại trách Levy trong khi bỏ qua Turing?

Turing là một thiên tài có số phận bi thảm: Ông bị kết án tù vì quan hệ đồng tính (thời đó luật pháp của Anh coi quan hệ này là một tội hình sự). Ra tù ông phẫn chí rồi tự tử. Nhưng nghịch lý lớn nhất trong đời ông có lẽ nằm ngay trong học thuật: ông là tác giả của bài toán “Sự cố dừng” (The halting problem), chỉ ra rằng computer có những hạn chế không thể vượt qua được, như một “khuyết tật bẩm sinh” của bất kỳ một hệ logic nào. Nhưng cũng chính Turing lại là người đề xuất tư tưởng coi computer như một cỗ máy vạn năng có thể thay thế con người.

Nghịch lý đó cũng chính là nghịch lý của nền văn minh kỹ trị: trong khi tư tưởng của Turing thúc đẩy khoa học computer phát triển không ngừng thì đồng thời nó cũng khuyến khích tinh thần sùng bái máy móc đến mức hạ thấp vai trò của con người, sùng bái tư duy hình thức đến mức hạ thấp tư duy cảm xúc, sùng bái giá trị vật chất đến mức hạ thấp các giá trị nhân văn, … kết quả là đưa xã hội loài người đến trạng thái mất cân bằng và bị đe doạ bởi một thế giới đầy ắp những sản phẩm do chính con người tạo ra.

Nhưng khoan hãy kết tội một thiên tài.

Chẳng phải Turing đã tiên đoán chính xác rằng máy móc có thể thông minh như con người đó sao? Chẳng phải thí nghiệm Turing đã thành công đó sao?
Vâng, thiên tài của Turing là điều không thể chối cãi, nhưng Thí nghiệm Turing, thay vì làm cho những người sâu sắc sùng bái máy móc, họ đặt vấn đề hoàn toàn ngược lại – thí nghiệm ấy chỉ chứng tỏ sự ấu trĩ trong nhận thức về bản chất của trí thông minh:

Một, trí thông minh của con người tuy có giới hạn nhưng hình thức biểu lộ của nó lại vô hạn, do đó không thể kiểm chứng nó bằng một tập hợp giới hạn các câu hỏi, bất kể tập hợp đó rộng chừng nào. Bản thân việc đề xuất một thí nghiệm thử thách trí thông minh thông qua một tập hợp giới hạn các câu hỏi đã là một sai lầm ấu trĩ trong việc nhận thức khả năng biểu lộ của trí thông minh.

Hai, trí thông minh của con người hơn hẳn computer ở chỗ nó không chỉ nhận thức được những đối tượng đo được, mà còn nhận thức được những khái niệm không đo được, hoặc những khái niệm vô hình, vô ảnh, vô ngôn – không thể diễn tả được bằng bất cứ một thứ ngôn ngữ nào, mà chỉ có thể quán tưởng bằng chiêm nghiệm, trực giác, thậm chí bằng sự lặng thinh. Computer dựa trên nguyên lý số hoá và logic hình thức, không thể nhận thức cái không đo được và cái không tuân thủ logic hình thức. Turing là thiên tài trong việc khám phá những bí mật của logic hình thức nhưng xem ra ông không hiểu thấu những khái niệm tư duy trực giác, tư duy quán tưởng.

Tuy nhiên, có người lý sự rằng thực ra vẫn có thể số hoá những khái niệm vốn không thể đo được. Chẳng hạn, vẻ đẹp của phụ nữ đã được số hoá trong các cuộc thi hoa hậu đấy thôi. Từ đó computer có thể chứng minh người này đẹp hơn người kia, và rồi với cái kiểu số hoá như thế, sẽ đến lúc computer chứng minh được cái này đẹp hơn cái kia, cái này tốt hơn cái kia, v.v. Chẳng phải David Levy đã nghĩ đến chuyện số hoá tình yêu đó sao?

Liệu có thể số hoá tình yêu không?

Liệu có thể số hoá nghệ thuật không?

Liệu có thể số hoá mọi tri thức của con người không?

Liệu computer có thể thực sự thay thế con người không?

Liệu computer có thể có nhân tính không?

Câu chuyện Deep Blue đánh thắng vua cờ Kasparov sẽ đưa ra một câu trả lời thú vị. Trước khi tìm hiểu câu chuyện đó, cần biết rằng cờ vua không chỉ được coi là một môn thể thao trí tuệ, mà đã từng có một thời được coi là một lĩnh vực nghệ thuật bậc thầy “có tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật”.

Nhưng xin dành câu chuyện đó cho bài kỳ sau:
“Môn thể thao trí tuệ có tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật”!
[1] “Take care not to make the intellect to be our god; it has … powerful muscles but no personality” (Ideas that shaped our world, Marshall Editions, 1997)

[2] “The Most Human Human”, Brian Christian, Doubleday DD, New York, London, Toronto, Sydney, Auckland, 2011

25.05.2011

Phạm Việt Hưng
Còn tiếp

dhai06
22-09-11, 09:01
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/22/8/27/1316654840933447202_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1260203820)
Môn thể thao trí tuệ
“có tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật”



“Chess is completely dead!”
Bobby Fischer

Phải nhấn mạnh ngay rằng trước khi diễn ra những cuộc đấu giữa Deep Blue và Garry Kasparov trong thập kỷ 1990, cờ vua không chỉ được coi như một môn thể thao trí tuệ mà còn được tôn sùng như một nghệ thuật bậc thầy. Sự tôn sùng này chỉ được “xét lại” (revised) sau khi Deep Blue đánh thắng Kasparov vào năm 1997, từ đó cờ vua mới mất chỗ đứng vốn có của nó trong thế giới của nghệ thuật. Sự “truất ngôi” này đã rọi một tia sáng vào góc khuất bấy lâu nay: cái gì là người nhất trong con người?

Trước khi ánh sáng rọi vào góc khuất đó, không ai dám nghĩ cờ vua không nằm trong phần cốt lõi của trí thông minh. Đại văn hào Goethe từng ngợi ca đó là “một hòn đá thử vàng của trí tuệ” (a touchstone of intellect). Khái niệm “trí tuệ” ở đây phải được hiểu là toàn bộ tư duy của con người, bao gồm cả tư duy tính toán lẫn tư duy nghệ thuật.

Nói đến tư duy nghệ thuật của cờ vua, hãy lắng nghe ý kiến của những bậc thầy nghệ thuật kiêm cờ vua. Một trong những bậc thầy đó là Marcel Duchamp, một hoạ sĩ Pháp nổi tiếng thế giới trong nửa đầu thế kỷ 20, từng để lại cho đời nhiều tác phẩm hội hoạ bậc thầy thuộc nhiều trường phái từ hậu-ấn-tượng cho tới lập thể, dã thú, siêu thực. Nhưng từ năm 1923, ông bỗng bỏ ngang sự nghiệp hội hoạ để chuyển sang một lĩnh vực khác mà ông coi là có nhiều sức thể hiện hơn, mạnh mẽ hơn: đó là cờ vua. Mặc dù chỉ đạt tới thang bậc kiện tướng trong làng cờ quốc tế, không vươn lên nổi hàng đại kiện tướng, nhưng ông say mê cờ đến mức trở thành một nhà nghiên cứu môn này, phụ trách một cột báo chuyên dành cho cờ vua. Trong những năm 1930, khi nhiều bạn bè của ông đạt tới vinh quang nhờ bán được nhiều bức tranh với giá cao, Duchamp vẫn trung thành với lý tưởng cờ vua. Ông nói: “Tôi vẫn là một vật tế cho cờ vua. Nó có tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật – và còn hơn thế rất nhiều. Nó không thể bị thương mại hoá. Trong vị thế xã hội, cờ vua mang tính thuần khiết hơn nghệ thuật rất nhiều”. Một dịp khác ông lại viết: “Quân cờ là những khối chữ cái định hình tư duy, và những tư duy này, mặc dù tạo ra một mưu đồ hiển thị trên bàn cờ, đã biểu lộ vẻ đẹp của chúng một cách trừu tượng, giống như một bài thơ … Tôi đi tới kết luận cá nhân rằng trong khi tất cả các nghệ sĩ không phải là những kỳ thủ thì tất cả các kỳ thủ lại là những nghệ sĩ”[1].

Tư tưởng của Duchamp không phải là cá biệt. Dường như phần lớn cộng đồng khoa học cũng tán thành quan điểm của ông. Chẳng hạn như Douglas Hofstadter, trong cuốn “Godel, Escher, Bach”, đã xếp cờ vua bên cạnh âm nhạc và thơ ca như một trong những hoạt động độc đáo nhất, thể hiện tính người rõ nhất. Ông cho rằng nghệ thuật chơi cờ nằm ở một khu vực tư duy rất gần với phần cốt lõi của bản chất người. Ông nhấn mạnh rằng một chương trình đánh cờ tầm cỡ vô địch thế giới phải cần đến một “trí thông minh tổng hợp” (general intelligence) vô cùng rộng lớn, đến nỗi không nên coi đó là một chương trình đánh cờ nữa, mà nên coi như một nghệ thuật thơ ca. Có nghĩa là cờ vua vô địch thế giới còn cao hơn cả trí tuệ được thử thách trong Thí nghiệm Turing!
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/22/8/31/13166551121902915919_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1260204761)

dhai06
22-09-11, 09:05
Ngay từ thế kỷ 12, cờ vua đã được trân trọng như một “trò chơi vua chúa” (the game of kings), một môn học bắt buộc trong việc đào tạo các hiệp sĩ, sau các môn cưỡi ngựa, bơi lội, bắn cung, võ thuật, săn bắn, và làm thơ. Mãi cho đến những thế kỷ sau này, thậm chí cho đến tận những năm 1980, nó vẫn được coi là trò chơi thử thách trí tuệ của những nhà tư tưởng chính trị và quân sự lỗi lạc như Napoléon Bonaparte, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, Norman Schwarzkopf v.v.

Tóm lại, trước năm 1997, “cờ vua được xem như một thứ nghệ thuật tinh tế và giầu sức biểu hiện: nó gắn bó chặt chẽ với thân phận con người đến mức không thể chia cắt. Nhưng từ những năm 1990, bản tụng ca dành cho cờ vua đã thay đổi”[2].

Điều này nói lên rằng sự kiện cờ vua năm 1997 không chỉ có ý nghĩa đối với môn “nghệ thuật vua chúa” này, mà còn có ý nghĩa bước ngoặt đối với hiểu biết của con người về bản chất của chính mình.

Thực ra cuộc đấu trí giữa Kasparov với computer đã diễn ra lần đầu tiên ngay từ năm 1989, nhưng không để lại ấn tượng gì đặc biệt, vì vua cờ đã thắng chương trình Deep Thought một cách tuyệt đối với tỷ số 2 – 0.

Thay vì nản lòng, cộng đồng AI, thông qua tổ hợp IBM, càng “hiếu thắng” hơn. Họ dốc sức hoàn thiện Deep Thought để cho ra đời siêu phẩm Deep Blue, rồi đề nghị xúc tiến một cuộc “tỉ thí” vào năm 1996 với quyết tâm “hạ đo ván” Garry Weinstein[3], tức Garry Kasparov, người đang thống trị làng cờ vua thế giới, kỳ thủ được xếp hạng cao nhất của mọi thời đại, thậm chí còn được một số người tôn vinh như nhân vật vĩ đại nhất đang còn sống.

Kasparov đã nhận lời với tuyên bố đầy tự tin: “Trong một phạm vi nào đó, cuộc đấu này là một cuộc đấu tranh bảo vệ loài người. Computers đang đóng một vai trò vô cùng to lớn trong xã hội. Chúng có mặt ở khắp nơi. Nhưng có một cái ngưỡng chúng không thể vượt qua. Chúng không thể bước vào lãnh điạ sáng tạo của con người”.

Nhưng Kasparov đã làm cả thế giới bị choáng váng vì ông thua ngay trong ván đầu tiên. Trong khi các kỹ sư của IBM mở tiệc ăn mừng bữa tối thì Kasparov đi bộ trên phố phường đầy tuyết của Philadelphia, suy nghĩ căng thẳng về hậu quả khó lường nếu cuối cùng ông bị thua. Ông hỏi một cố vấn: “Này Frederic, điều gì sẽ xẩy ra nếu cái chương trình này trở thành vô địch?”. Tuy nhiên, khi cuộc đấu trở lại, Kasparov đã lấy lại thế áp đảo và giành chiến thắng chung cuộc với kết quả thắng 3, hoà 2, thua 1.

Mặc dù bị thua, nhưng Deep Blue đã chứng tỏ sức mạnh đáng sợ của nó. Các chuyên gia AI biết rõ rằng tốc độ tiến hoá của công nghệ lớn gấp bội so với tốc độ tiến hoá của bộ não: công nghệ thay đổi hàng năm, trong khi cơ chế sinh học của bộ não – cơ sở vật chất sản sinh ra những phép toán logic – hầu như không thay đổi gì trong hàng trăm, hàng ngàn năm. Do đó về mặt lý thuyết, con thỏ sẽ phải đuổi kịp con rùa! Niềm tin này chắp cánh cho các chuyên gia của IBM thách thức Kasparov tái đấu ngay trong năm sau. Vua cờ đồng ý, và cái gì đến phải đến: Cuộc đấu lịch sử diễn ra vào tháng 5 năm 1997 trên tầng 35 của toà tháp Equitable trong khu phố Manhattan, New York. Lần này vua cờ phải đối mặt với một Deep Blue mới có tốc độ nhanh gấp đôi, phức tạp và tinh xảo gấp bội so với chương trình cùng tên trước đó. Đúng như cộng đồng AI mong đợi, sự thể lần này diễn ra “không hay ho cho lắm” đối với những ai tin rằng con người luôn luôn phải là kẻ thống trị: sau 5 ván đấu, tỷ số cân bằng với 3 ván hoà và mỗi bên thắng 1 ván. Ngày 11/05/1997, bước vào ván thứ sáu – ván quyết định – Kasparov cầm quân đen, và trước sự chứng kiến của toàn thế giới, kỳ thủ số 1 thế giới đã chơi một ván thua nhanh nhất trong toàn bộ sự nghiệp cờ vua của ông. Máy móc đã đánh bại con người!

Kasparov ngay lập tức đề nghị tái đấu vào năm 1998 với lời tuyến chiến: “Với tư cách một con người, tôi đảm bảo sẽ xé nát nó ra từng mảnh”. Chữ “nó” ở đây dĩ nhiên là Deep Blue, nhưng IBM dường như cảm thấy như thế đã là đủ nên bỗng nhiên cắt bỏ tài trợ cho nhóm nghiên cứu và “sự nghiệp” của Deep Blue coi như chấm dứt.

Điều quan trọng là người ta nghĩ gì sau trận đấu này.

Theo Brian Christian, hầu hết mọi người đều rơi vào một trong hai kết luận sau đây:

Một, chấp nhận rằng trí thông minh của máy móc có thể vượt con người;

Hai, không coi tư duy đánh cờ là tư duy quan trọng nhất của con người nữa. Đáng mừng là phần lớn cộng đồng khoa học đều ủng hộ kết luận thứ hai.

Chỉ có một người không thừa nhận cả hai kết luận nói trên, đó chính là Garry Kasparov. Có lẽ không khó để hiểu tại sao ông lại phản đối cả hai kết luận đó, nhưng điều này không nằm trong mối quan tâm của bài viết này, vì điều quan trọng không phải ở chuyện cờ vua, mà ở câu hỏi “bản chất đặc trưng nhất của con người nằm ở đâu?”, và Deep Blue đã cho chúng ta câu trả lời.

Ngay sau trận đấu năm 1997, tờ The New York Times đã phỏng vấn một nhà tư tưởng nổi bật về AI của Mỹ, và cũng là nhân vật đã được nhắc đến ngay từ đầu bài viết này, Douglas Hofstadter. Ông kêu lên: “Lạy Chúa, tôi đã từng nghĩ rằng cờ vua đòi hỏi tư tưởng. Bây giờ tôi nhận ra rằng nó không cần!”.

John Searle, nhà triết học kiêm giáo sư Đại học California, Berkeley, nói: “Từ quan điểm thuần tuý toán học, cờ vua là một trò chơi tầm phào (a trivial game)”.

Tờ The New York Times còn giải thích rõ rằng Hofstadter, tác giả cuốn “Godel, Escher, Bach”, trước đây vốn coi việc chơi cờ vua như một sáng tạo vô hạn, sánh ngang với việc soạn nhạc hoặc viết văn, nhưng nay đã hoàn toàn thay đổi quan điểm, vì “thành tựu computer trong những thập kỷ qua đã thuyết phục ông đi tới chỗ cho rằng cờ vua không còn là một nỗ lực trí tuệ quý giá như âm nhạc và viết văn nữa – những nỗ lực đòi hỏi một linh hồn”[4]. Thật vậy, ông nói: “Tôi nghĩ cờ vua là một hoạt động thần kinh và trí tuệ, nhưng nó không có những phẩm chất cảm xúc sâu sắc như những cảm xúc khi soạn nhạc hoặc làm thơ, viết văn. Nếu computer cũng có thể soạn nhạc hoặc viết văn ở tầm mức nghệ thuật thì đó sẽ là một thảm hoạ”[5].

Trong những năm gần đây, các nhà khoa học AI đã viết những chương trình chơi cờ ở trình độ còn cao hơn Deep Blue và do đó đã vĩnh viễn làm thay đổi thế giới cờ vua, đến nỗi Bobby Fischer, một trong những kỳ thủ vĩ đại nhất thế kỷ 20, đã tuyên bố trong năm 2002 rằng: “Cờ vua đã hoàn toàn chết”[6] (Chess is completely dead)!

Tuyên bố trên có thể làm phiền lòng những ai vốn say mê cờ. Nhưng dù mê cờ đến mấy cũng không thể phủ nhận sự thật đã diễn ra: kỳ thù vĩ đại nhất của mọi thời đại đã bị “hạ gục” bởi “gã” siêu-computer Deep Blue. Sự thật này làm cay đắng không chỉ Kasparov, mà làm cay đắng tất cả những ai từng coi cờ là địa hạt thử thách trí thông minh một cách chính xác nhất.

Chỉ có một cách duy nhất thoát khỏi nỗi cay đắng này là đặt lại vấn đề:
Trí thông minh là gì?
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/22/8/27/1316654840933447202_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1260203820)
Viết tới đây, tôi nhớ lại một kỷ niệm thủa ấu thơ:

Hồi bé tôi rất mê cờ tướng, suốt ngày đánh cờ với anh em trong nhà. Thân phụ tôi thấy thế, lo tôi sao nhãng học hành, liền bảo tôi:

- Con có muốn đánh cờ giỏi không?

- Có ạ! Tôi sung sướng háo hức lắng nghe.

- Vậy con hãy học toán cho giỏi. Giỏi toán sẽ đánh cờ giỏi, vì môn toán sẽ dạy người ta tính toán khôn ngoan[7].

Sau này lớn lên, tôi mới vỡ nhẽ ra rằng tư duy chơi cờ chỉ giống tư duy toán học một phần nào thôi. Thân phụ tôi dạy tôi như vậy chẳng qua muốn tôi chăm học.

Tư duy toán học thực ra bao gồm hai vế:

1* Tư duy tính toán, lý luận logic, biện luận chính xác, chặt chẽ, …

2* Tư duy trực giác, cảm thụ, tưởng tượng, khái quát hoá, tổng quát hoá, tư duy hình ảnh, tư duy gợi cảm, tư duy văn hoá, tư duy thơ ca, …

Computer có thể giúp đỡ hoặc thay thế con người rất đắc lực trong vế 1* nhưng không thể thay thế con người trong những tư duy thuộc vế 2*. Có lẽ vì không hiểu điều đó nên nền giáo dục toán học hiện nay chủ yếu chỉ lo nhồi nhét vào đầu học trò những kỹ năng thuộc vế 1*, làm méo mó môn Toán, biến môn Toán thành một môn “khổ sai học thêm” – một môn học quyết định miếng cơm manh áo của con người trong tương lai nhiều hơn là một lĩnh vực văn hoá đầy chất lãng mạn và nhân văn.

Để kết, xin nói thêm rằng, trong tranh luận đôi khi chúng ta hay buộc tội đối phương: “ý kiến của anh chẳng logic tí nào cả”. Câu này có thể “phiên dịch” như sau: “ý kiến của anh chẳng giống computer chút nào cả!” (bởi tư duy logic chính là tư duy của computer). Chao ôi, tư duy của con người mà giống computer mới thật là một thảm hoạ. Bởi chỗ đứng của con người là ở chỗ khác – nơi computer trở nên bất lực!

Câu chuyện Deep Blue cho thấy hoá ra tính toán dù khôn ngoan đến mấy đi chăng nữa thì đó cũng không phải là loại tư duy mang tính người nhiều nhất.

Vậy tư duy mang tính người nhiều nhất nằm ở đâu?

Câu trả lời xin dành cho bài kỳ sau:

“Chỗ đứng của con người”



[1] Xem Wikipedia, mục từ Marcel Duchamp.

[2] “The Most Human Human”, Brian Christian, Doubleday, New York, London, Toronto, Sydney, Auckland, trang 104.

[3] Garry Kasparov sinh năm 1963 tại Baku, Azerbaijan (lúc ấy thuộc Liên Xô cũ) với tên khai sinh là Garry Weinstein, mẹ là người Armenia, cha là người Do-Thái. Năm 12 tuổi, ông đổi họ sang họ mẹ, trong tiếng Armenia là Gasparyan, chuyển âm sang tiếng Nga là Kasparov.

[4] Tài liệu đã dẫn trong chú thích 1, trang 107.

[5] Tài liệu đã dẫn trong chú thích 1, trang 107. Câu này chỉ lược dịch cho dễ hiểu.

[6] Tài liệu đã dẫn trong chú thích 1, trang 127

[7] Thân phụ tôi là cụ Phạm Đình Biều, nguyên kỹ sư công chính đầu tiên của Đông Dương thời thuộc Pháp, vốn coi Toán học là chiếc chìa khoá để mở mọi cánh cửa bí mật của thế giới.

25.05.2011
Phạm Việt Hưng
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Phạm Việt Hưng

dhai06
22-09-11, 09:14
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/22/8/44/1316655873772219421_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1260207304)
Bài 3: Chỗ đứng của con người



“Thực ra toàn bộ toán học là hình học”
Gottlob Frege

Có thể nói những chương trình computer dành cho Deep Blue 1997 và Thí nghiệm Turing năm 2009 là những kiệt tác của khoa học AI (Trí thông minh nhân tạo). Chúng không chỉ thúc đẩy khoa học computer vươn tới những phép lạ, mà quan trọng hơn, về mặt triết học nhận thức chúng hé lộ cho chúng ta thấy rõ hơn tính người thực sự nằm ở đâu – tính người không “trú ngụ” nhiều ở những nơi computer có thể xử lý, mà nằm ở những nơi computer bất lực!

Lynn Fancher, Phó GS Sinh học tại Đại học College DuPage, Glen Ellyn, Illinois, Mỹ, trong bài báo “The Limitations of Science”[1] (Hạn chế của khoa học), nêu lên 3 lĩnh vực mà khoa học không thể trả lời, cũng tức là 3 lĩnh vực mà computer bất lực:

Một: Khoa học không thể trả lời những câu hỏi về giá trị. Chẳng hạn, không thể trả lời câu hỏi “Hoa Hồng hay hoa Cúc đẹp hơn?”, hoặc “Vàng hay thép giá trị hơn?”[2].

Hai: Khoa học cũng không thể trả lời những câu hỏi về đạo đức. Vấn đề quyết định xem cái gì là thiện hay ác, đúng hay sai, nằm ngoài phạm vi khoa học.

Ba: Khoa học không giúp chúng ta trả lời được những câu hỏi liên quan tới những khái niệm siêu-tự-nhiên (supernatural). Thí dụ: Không thể chứng minh hoặc phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế.

Vậy phải tìm câu trả lời cho ba lĩnh vực trên ở đâu?

Hãy tìm trong văn chương, thơ ca, nghệ thuật, âm nhạc, triết học, … Đây mới thật sự là những lĩnh vực nhận thức “người nhất”, giầu tính nhân văn nhất!

Kết luận trên tuy không mới mẻ, nhưng trong bối cảnh của nền văn minh kỹ trị ngày nay, khi các khoa học vật chất đã và đang chiếm địa vị lấn át, tư duy hình thức sáo rỗng đang lấn át tư duy cảm xúc, tư duy máy móc đang lấn át tư duy nhân văn, thì sự khẳng định những giá trị người nhất của con người mang một ý nghĩa cứu tinh!

Nó báo động cho chúng ta biết rằng nền văn minh kỹ trị đang đi nhầm đường!

Nó kêu gọi loài người hãy tỉnh thức khi còn kịp, để cứu vãn cỗ xe văn minh khỏi lao xuống vực thẳm của chiến tranh, tội ác, đói nghèo, ô nhiễm môi trường, hâm nóng khí quyển, tàn phá sinh thái, tha hoá đạo đức, vô cảm trước nỗi đau, …

Nó khuyến dụ chúng ta hãy điều chỉnh nền giáo dục trở về với mục tiêu nhân văn!

Nó dạy chúng ta rằng hãy sử dụng computer như những tên nô lệ đắc lực, thay vì tôn chúng lên thành những ông chủ!

Nó đánh động lương tri của mỗi chúng ta, nhắc bảo chúng ta cái gì mang tính người nhất trong chúng ta, để chúng ta hướng tới những giá trị người nhất ấy mà sống!

Vâng, cái làm cho chúng ta thực sự trở nên người là những giá trị thuộc về phần hồn[3] (the soul), bởi linh hồn là một cái gì đó liên hệ rất nhiều tới thơ ca, nghệ thuật, văn chương, âm nhạc, v.v.

Khi con người đang sống, linh hồn luôn luôn gắn bó với thể xác, nhưng nó không phải là thể xác. Ngay từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, nhà triết học Hy Lạp Socrates đã cho rằng linh hồn là một cái gì đó “vượt quá” thể xác (transcended the body) – một cái gì đó phi vật chất và siêu việt hơn vật chất – trong khi nhiều người cùng thời với ông cho rằng linh hồn được tạo bởi một dạng vật chất tinh tế nhất và lơ lửng trong không khí.

Trong thời đại ngày nay, có người ví phần hồn và phần xác của con người tương tự như phần mềm và phần cứng của computer. Tuy nhiên, ví von này không tránh khỏi khập khiễng: phần mềm của computer tuy “không cứng” nhưng nó vẫn là vật chất có thể nhìn thấy được, trong khi linh hồn là một cái gì đó phi vật chất, hoặc nếu nó là vật chất như quan niệm của một số lý thuyết về năng lượng tinh thần thì ít ra nó cũng là một dạng vật chất siêu hình hoặc vô hình, vô ảnh, vô tượng, vô lượng[4],… Có lẽ việc kiểm chứng sự tồn tại của linh hồn còn khó gấp bội so với việc kiểm chứng “vật chất tối” (dark matter) và “năng lượng tối” (dark energy) trong vật lý ngày nay. Phương trình trường của Einstein có thể đã ngầm chứa khái niệm năng lượng tối, nhưng liệu có thể có một phương trình nào chỉ ra sự tồn tại của linh hồn hay không?

Tuy nhiên, những nền văn minh lớn nhất từ xa xưa đã tin vào sự hiện hữu của linh hồn, thậm chí người ta còn bàn cãi linh hồn nằm ở đâu, và quan trọng nhất, người ta cho rằng phần hồn mới là phần mang tính người nhiều nhất!

Thật vậy, người Ai-cập cổ đại tin rằng linh hồn nằm trong trái tim. Bằng chứng là các xác ướp Ai-cập đều giữ lại quả tim, trong khi mọi bộ phận khác của cơ thể đều bị loại bỏ, kể cả bộ não – bộ não không quý bằng trái tim, tư duy không quý bằng cảm xúc, sự khôn ngoan không quý bằng những rung động tinh thần! Tóm lại, người Ai-cập cổ đại cách đây hàng ngàn năm đã thấy linh hồn là thành phần mang tính người nhiều nhất – cái mà mấy ngàn năm sau, nền văn minh kỹ trị đã và đang dần dần lãng quên.

Sự lãng quên này có nguồn gốc sâu xa là chủ nghĩa duy lý (rationalism) và chủ nghĩa thực chứng (positivism) – những chủ nghĩa cho rằng tất cả những gì không thể chứng minh hoặc không thể kiểm chứng đều không đáng tin. Linh hồn là một khái niệm dựa trên niềm tin nhiều hơn là chứng minh hoặc thực chứng, vì thế sự tồn tại của linh hồn không đáng tin. Ngược lại, thể xác là cái hiện hữu có thể kiểm chứng được, do đó mối quan tâm tới con người trước hết phải là quan tâm tới thể xác. Nhu cầu ăn uống, sinh tồn là nhu cầu thiết thực, trong khi nhu cầu thoả mãn phần hồn là nhu cầu viển vông, hư vô chủ nghĩa. Đó là nguồn gốc sâu xa dẫn tới sự xói mòn các giá trị nhân văn trong những thế kỷ sau này, đặc biệt trong thế kỷ 20 – thế kỷ bùng nổ của khoa học và công nghệ, dẫn tới sự thống trị của tư duy lý tính – tư duy Descartes.

René Descartes (1596-1650), cha đẻ của Hệ toạ độ Descartes và Hình học giải tích, một trong những ông tổ của chủ nghĩa duy lý, người có ảnh hưởng bao trùm lên tư duy hiện đại với câu châm ngôn nổi tiếng: “Cogito ergo sum” = “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.

Ông không nói “Tôi cảm thấy…”, “Tôi nghiệm thấy…”, “Tôi nhận thấy…”. Không! “Tôi tư duy…” , mà là tư duy lý lẽ, tư duy chứng minh, tư duy biện luận, tư duy giải thích, tư duy phân tích, …

Ông không chỉ nói, mà hành động để chứng minh tư tưởng của ông là chân lý: Hình học Euclid dựa trên những chứng minh trực giác được thay thế bằng Hình học giải tích – suy diễn dựa trên cảm nhận trực giác được thay thế bằng những biến đổi thuần tuý đại số, cảm nhận mang tính người được thay thế bằng tư duy tính toán (mà ngày nay ta gọi là tư duy computer). Đó chính là điều đang diễn ra trong nhà trường, nhưng các nhà giáo dục không ý thức được rằng họ đang biến con người thành những chiếc computer! Điều này sẽ được phân tích kỹ hơn trong một bài viết tiếp theo, còn bây giờ xin hãy quay lại với Descartes.

Bản thân Descartes là một nghịch lý: trong khi chủ trương duy lý, nhưng ông lại tin vào sự tồn tại của những thứ không thể chứng minh được. Thật vậy, trước khi nhắm mắt, ông nói: “Nào, hãy lên đường đi, linh hồn ta hỡi!” (Allons, s’en-va, môn âme!). Thậm chí ông còn ra sức chứng minh sự tồn tại của Thượng đế, mặc dù cuối cùng thất bại[5]. Riêng về linh hồn, ông là người đòi phải tìm ra vị trí trú ngụ chính xác của linh hồn trong cơ thể con người. Theo ông, linh hồn nằm tại chính giữa bộ não (?).

Các nhà thơ, nhà văn lại thường mô tả tâm hồn nằm trong đôi mắt: “sinh khí” và tinh thần của con người biểu lộ rất rõ qua đôi mắt, ánh mắt – đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn! Trong khi các nhà khoa học thần kinh trước đây đã từng nghĩ rằng tư duy của con người tập trung ở não trái. Nhà khoa học thần kinh Oliver Sacks nói:

“Toàn bộ lịch sử thần kinh học và tâm-lý-thần-kinh-học (neuropsychology) có thể được coi như lịch sử của việc nghiên cứu bán cầu não trái. Một lý do quan trọng để người ta ít chú ý tới não phải là ở chỗ trong khi dễ dàng chứng minh các hiệu ứng của các tổn thương khu vực khác nhau đối với não trái, thì các triệu chứng bệnh lý tương ứng của bán cầu não phải lại rất ít phân biệt. Não phải nói chung bị xem thường so với não trái vì mang tính “nguyên thuỷ” hơn, trong khi não trái được xem như một bông hoa độc đáo của sự tiến hoá của con người. Theo một nghĩa nào đó thì điều này là chính xác: não trái tinh vi và chuyên biệt hơn, một sản phẩm tự nhiên hình thành rất muộn trong não vượn và đặc biệt trong não người. Mặt khác, chính não phải kiểm soát các khả năng chủ yếu trong việc nhận biết thế giới hiện thực xung quanh mà mọi động vật phải có để sinh tồn. Bán cầu não trái giống như một chiếc computer được gắn vào não người, được thiết kế để xử lý các chương trình và sơ đồ …”.

dhai06
22-09-11, 09:16
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/22/8/47/1316656041573119750_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1260207863)
Tư tưởng nói trên cho thấy các nhà khoa học thần kinh đã từng coi tư duy của con người cũng giống như tư duy của computer. Tuy nhiên, những thành tựu mới nhất của khoa học computer đã chỉ ra rằng phần tư duy người nhất của con người không phải là tư duy computer, và điều này hoàn toàn ăn khớp với những khám phá mới nhất của khoa học thần kinh.

Thật vậy, bài báo “Right Brain vs. Left Brain” (Não phải đấu với não trái)[6] cho biết: Trong khi não trái thiên về những chức năng suy luận logic, phân tích lý luận, mổ xẻ chi tiết, nhận xét khách quan (không bị ảnh hưởng bởi cảm xúc riêng tư) thì não phải lại thiên về chức năng tư duy trực giác, tư duy tổng hợp, tư duy khái quát, cảm hứng ngẫu nhiên, nhìn toàn thể để rút ra cái chung mang tính bản chất, tư duy chủ quan (cảm xúc riêng tư).

Qua đó có thể kết luận: tư duy của não trái thiên về tư duy computer, tư duy não phải thiên về tư duy người. Phần người nhất trong con người nằm ở não phải – linh hồn con người nếu phải tìm chỗ trú ngụ, nó sẽ chọn ngôi nhà chủ yếu ở não phải!

Tuy nhiên sẽ là một nhầm lẫn lớn nếu tuyệt đối hoá việc tách bạch hai loại tư duy thành hai khu vực hoàn toàn tách rời nhau. Thực tế hai bán cầu não thường phối hợp hoạt động với nhau để có được một tư duy đầy đủ nhất – giống như một hoạ sĩ lập thể có thể thể hiện một đối tượng với nhiều hình chiếu cùng xuất hiện một lúc trên một bức tranh, cái mà nghệ thuật phối cảnh cổ điển không thể có.

Đến đây có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng đồng ý với nhau rằng tư duy thơ ca, nghệ thuật sẽ hoạt động chủ yếu ở não phải, và đó là tư duy nằm trong phần đặc trưng cho tính người. Vậy tư duy khoa học thì sao?

Phải chăng tư duy khoa học là tư duy computer, và do đó kém tính người hơn tư duy văn chương, nghệ thuật?

Không, đó là một ý nghĩ hồ đồ, kém hiểu biết về bản chất của khoa học.

Nếu so sánh khoa học với các lĩnh vực văn chương, nghệ thuật, thì phải thừa nhận rằng khoa học chứa đựng nhiều tư duy máy móc hơn. Tuy nhiên sẽ là sai lầm nếu tuyệt đối hoá kết luận đó. Thực tế những nhà khoa học chân chính cũng đồng thời là những nghệ sĩ, theo đúng nghĩa của từ này. Còn ai nghệ sĩ hơn Albert Einstein khi ông tuyên bố: “Trí tưởng tượng quan trọng hơn tri thức” (The imagination is more important than knowledge). Thực ra Einstein và Picasso cùng tìm kiếm một chân lý như nhau, nhưng chỉ khác nhau ở phương pháp tiếp cận mà thôi. Đó là lý do giải thích vì sao Einstein rất mê Hình học Euclid. Ông gọi đó là cuốn “Hình học thiêng liêng” (The Holy Geometry). Tư tưởng hình học xuyên suốt đời ông, và có thể nói không ngoa rằng Thuyết tương đối tổng quát của ông chính là một lý thuyết “Hình học vật lý”. Cảm xúc hình học thiên về cảm xúc người, cảm xúc đại số thiên về tư duy của computer. Đó là lý do để Gottlob Frege, một nhà toán học lớn của Đức đầu thế kỷ 20, đã thốt lên vào lúc cuối đời, rằng “Thực ra toàn bộ toán học là hình học”[7].

Đáng tiếc là phần lớn các nhà giáo dục không hiểu điều Frege nói. Muốn hiểu Frege, phải tìm hiểu lịch sử toán học thế kỷ 20, đặc biệt phải hiểu Chủ nghĩa toán học hình thức là gì, và không thể không biết “thảm hoạ giáo dục” trên thế giới những năm 1960 dưới danh hiệu “Toán học mới” (New Mathematics) mà tác hại của nó vẫn còn tới hôm nay. Tất cả những chuyện đó xin dành cho bài kỳ sau:

“Tôi cảm thụ, vậy tôi tồn tại!”


27.05.2011
Phạm Việt Hưng

dhai06
24-09-11, 10:52
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/24/10/19/13168343901231872649_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1261212722)
“Thực ra toàn bộ toán học là hình học”
Gottlob Frege

Có thể nói những chương trình computer dành cho Deep Blue 1997 và Thí nghiệm Turing năm 2009 là những kiệt tác của khoa học AI (Trí thông minh nhân tạo). Chúng không chỉ thúc đẩy khoa học computer vươn tới những phép lạ, mà quan trọng hơn, về mặt triết học nhận thức chúng hé lộ cho chúng ta thấy rõ hơn tính người thực sự nằm ở đâu – tính người không “trú ngụ” nhiều ở những nơi computer có thể xử lý, mà nằm ở những nơi computer bất lực!

Lynn Fancher, Phó GS Sinh học tại Đại học College DuPage, Glen Ellyn, Illinois, Mỹ, trong bài báo “The Limitations of Science”[1] (Hạn chế của khoa học), nêu lên 3 lĩnh vực mà khoa học không thể trả lời, cũng tức là 3 lĩnh vực mà computer bất lực:

Một: Khoa học không thể trả lời những câu hỏi về giá trị. Chẳng hạn, không thể trả lời câu hỏi “Hoa Hồng hay hoa Cúc đẹp hơn?”, hoặc “Vàng hay thép giá trị hơn?”[2].

Hai: Khoa học cũng không thể trả lời những câu hỏi về đạo đức. Vấn đề quyết định xem cái gì là thiện hay ác, đúng hay sai, nằm ngoài phạm vi khoa học.

Ba: Khoa học không giúp chúng ta trả lời được những câu hỏi liên quan tới những khái niệm siêu-tự-nhiên (supernatural). Thí dụ: Không thể chứng minh hoặc phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế.

Vậy phải tìm câu trả lời cho ba lĩnh vực trên ở đâu?

Hãy tìm trong văn chương, thơ ca, nghệ thuật, âm nhạc, triết học, … Đây mới thật sự là những lĩnh vực nhận thức “người nhất”, giầu tính nhân văn nhất!

Kết luận trên tuy không mới mẻ, nhưng trong bối cảnh của nền văn minh kỹ trị ngày nay, khi các khoa học vật chất đã và đang chiếm địa vị lấn át, tư duy hình thức sáo rỗng đang lấn át tư duy cảm xúc, tư duy máy móc đang lấn át tư duy nhân văn, thì sự khẳng định những giá trị người nhất của con người mang một ý nghĩa cứu tinh!

Nó báo động cho chúng ta biết rằng nền văn minh kỹ trị đang đi nhầm đường!

Nó kêu gọi loài người hãy tỉnh thức khi còn kịp, để cứu vãn cỗ xe văn minh khỏi lao xuống vực thẳm của chiến tranh, tội ác, đói nghèo, ô nhiễm môi trường, hâm nóng khí quyển, tàn phá sinh thái, tha hoá đạo đức, vô cảm trước nỗi đau, …

Nó khuyến dụ chúng ta hãy điều chỉnh nền giáo dục trở về với mục tiêu nhân văn!

Nó dạy chúng ta rằng hãy sử dụng computer như những tên nô lệ đắc lực, thay vì tôn chúng lên thành những ông chủ!

Nó đánh động lương tri của mỗi chúng ta, nhắc bảo chúng ta cái gì mang tính người nhất trong chúng ta, để chúng ta hướng tới những giá trị người nhất ấy mà sống!

Vâng, cái làm cho chúng ta thực sự trở nên người là những giá trị thuộc về phần hồn[3] (the soul), bởi linh hồn là một cái gì đó liên hệ rất nhiều tới thơ ca, nghệ thuật, văn chương, âm nhạc, v.v.

Khi con người đang sống, linh hồn luôn luôn gắn bó với thể xác, nhưng nó không phải là thể xác. Ngay từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, nhà triết học Hy Lạp Socrates đã cho rằng linh hồn là một cái gì đó “vượt quá” thể xác (transcended the body) – một cái gì đó phi vật chất và siêu việt hơn vật chất – trong khi nhiều người cùng thời với ông cho rằng linh hồn được tạo bởi một dạng vật chất tinh tế nhất và lơ lửng trong không khí.

Trong thời đại ngày nay, có người ví phần hồn và phần xác của con người tương tự như phần mềm và phần cứng của computer. Tuy nhiên, ví von này không tránh khỏi khập khiễng: phần mềm của computer tuy “không cứng” nhưng nó vẫn là vật chất có thể nhìn thấy được, trong khi linh hồn là một cái gì đó phi vật chất, hoặc nếu nó là vật chất như quan niệm của một số lý thuyết về năng lượng tinh thần thì ít ra nó cũng là một dạng vật chất siêu hình hoặc vô hình, vô ảnh, vô tượng, vô lượng[4],… Có lẽ việc kiểm chứng sự tồn tại của linh hồn còn khó gấp bội so với việc kiểm chứng “vật chất tối” (dark matter) và “năng lượng tối” (dark energy) trong vật lý ngày nay. Phương trình trường của Einstein có thể đã ngầm chứa khái niệm năng lượng tối, nhưng liệu có thể có một phương trình nào chỉ ra sự tồn tại của linh hồn hay không?

Tuy nhiên, những nền văn minh lớn nhất từ xa xưa đã tin vào sự hiện hữu của linh hồn, thậm chí người ta còn bàn cãi linh hồn nằm ở đâu, và quan trọng nhất, người ta cho rằng phần hồn mới là phần mang tính người nhiều nhất!

Thật vậy, người Ai-cập cổ đại tin rằng linh hồn nằm trong trái tim. Bằng chứng là các xác ướp Ai-cập đều giữ lại quả tim, trong khi mọi bộ phận khác của cơ thể đều bị loại bỏ, kể cả bộ não – bộ não không quý bằng trái tim, tư duy không quý bằng cảm xúc, sự khôn ngoan không quý bằng những rung động tinh thần! Tóm lại, người Ai-cập cổ đại cách đây hàng ngàn năm đã thấy linh hồn là thành phần mang tính người nhiều nhất – cái mà mấy ngàn năm sau, nền văn minh kỹ trị đã và đang dần dần lãng quên.

Sự lãng quên này có nguồn gốc sâu xa là chủ nghĩa duy lý (rationalism) và chủ nghĩa thực chứng (positivism) – những chủ nghĩa cho rằng tất cả những gì không thể chứng minh hoặc không thể kiểm chứng đều không đáng tin. Linh hồn là một khái niệm dựa trên niềm tin nhiều hơn là chứng minh hoặc thực chứng, vì thế sự tồn tại của linh hồn không đáng tin. Ngược lại, thể xác là cái hiện hữu có thể kiểm chứng được, do đó mối quan tâm tới con người trước hết phải là quan tâm tới thể xác. Nhu cầu ăn uống, sinh tồn là nhu cầu thiết thực, trong khi nhu cầu thoả mãn phần hồn là nhu cầu viển vông, hư vô chủ nghĩa. Đó là nguồn gốc sâu xa dẫn tới sự xói mòn các giá trị nhân văn trong những thế kỷ sau này, đặc biệt trong thế kỷ 20 – thế kỷ bùng nổ của khoa học và công nghệ, dẫn tới sự thống trị của tư duy lý tính – tư duy Descartes.

René Descartes (1596-1650), cha đẻ của Hệ toạ độ Descartes và Hình học giải tích, một trong những ông tổ của chủ nghĩa duy lý, người có ảnh hưởng bao trùm lên tư duy hiện đại với câu châm ngôn nổi tiếng: “Cogito ergo sum” = “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.

Ông không nói “Tôi cảm thấy…”, “Tôi nghiệm thấy…”, “Tôi nhận thấy…”. Không! “Tôi tư duy…” , mà là tư duy lý lẽ, tư duy chứng minh, tư duy biện luận, tư duy giải thích, tư duy phân tích, …

Ông không chỉ nói, mà hành động để chứng minh tư tưởng của ông là chân lý: Hình học Euclid dựa trên những chứng minh trực giác được thay thế bằng Hình học giải tích – suy diễn dựa trên cảm nhận trực giác được thay thế bằng những biến đổi thuần tuý đại số, cảm nhận mang tính người được thay thế bằng tư duy tính toán (mà ngày nay ta gọi là tư duy computer). Đó chính là điều đang diễn ra trong nhà trường, nhưng các nhà giáo dục không ý thức được rằng họ đang biến con người thành những chiếc computer! Điều này sẽ được phân tích kỹ hơn trong một bài viết tiếp theo, còn bây giờ xin hãy quay lại với Descartes.

Bản thân Descartes là một nghịch lý: trong khi chủ trương duy lý, nhưng ông lại tin vào sự tồn tại của những thứ không thể chứng minh được. Thật vậy, trước khi nhắm mắt, ông nói: “Nào, hãy lên đường đi, linh hồn ta hỡi!” (Allons, s’en-va, môn âme!). Thậm chí ông còn ra sức chứng minh sự tồn tại của Thượng đế, mặc dù cuối cùng thất bại[5]. Riêng về linh hồn, ông là người đòi phải tìm ra vị trí trú ngụ chính xác của linh hồn trong cơ thể con người. Theo ông, linh hồn nằm tại chính giữa bộ não (?).

Các nhà thơ, nhà văn lại thường mô tả tâm hồn nằm trong đôi mắt: “sinh khí” và tinh thần của con người biểu lộ rất rõ qua đôi mắt, ánh mắt – đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn! Trong khi các nhà khoa học thần kinh trước đây đã từng nghĩ rằng tư duy của con người tập trung ở não trái. Nhà khoa học thần kinh Oliver Sacks nói:

“Toàn bộ lịch sử thần kinh học và tâm-lý-thần-kinh-học (neuropsychology) có thể được coi như lịch sử của việc nghiên cứu bán cầu não trái. Một lý do quan trọng để người ta ít chú ý tới não phải là ở chỗ trong khi dễ dàng chứng minh các hiệu ứng của các tổn thương khu vực khác nhau đối với não trái, thì các triệu chứng bệnh lý tương ứng của bán cầu não phải lại rất ít phân biệt. Não phải nói chung bị xem thường so với não trái vì mang tính “nguyên thuỷ” hơn, trong khi não trái được xem như một bông hoa độc đáo của sự tiến hoá của con người. Theo một nghĩa nào đó thì điều này là chính xác: não trái tinh vi và chuyên biệt hơn, một sản phẩm tự nhiên hình thành rất muộn trong não vượn và đặc biệt trong não người. Mặt khác, chính não phải kiểm soát các khả năng chủ yếu trong việc nhận biết thế giới hiện thực xung quanh mà mọi động vật phải có để sinh tồn. Bán cầu não trái giống như một chiếc computer được gắn vào não người, được thiết kế để xử lý các chương trình và sơ đồ …”.
Tư tưởng nói trên cho thấy các nhà khoa học thần kinh đã từng coi tư duy của con người cũng giống như tư duy của computer. Tuy nhiên, những thành tựu mới nhất của khoa học computer đã chỉ ra rằng phần tư duy người nhất của con người không phải là tư duy computer, và điều này hoàn toàn ăn khớp với những khám phá mới nhất của khoa học thần kinh.

Thật vậy, bài báo “Right Brain vs. Left Brain” (Não phải đấu với não trái)[6] cho biết: Trong khi não trái thiên về những chức năng suy luận logic, phân tích lý luận, mổ xẻ chi tiết, nhận xét khách quan (không bị ảnh hưởng bởi cảm xúc riêng tư) thì não phải lại thiên về chức năng tư duy trực giác, tư duy tổng hợp, tư duy khái quát, cảm hứng ngẫu nhiên, nhìn toàn thể để rút ra cái chung mang tính bản chất, tư duy chủ quan (cảm xúc riêng tư).

dhai06
24-09-11, 10:54
Qua đó có thể kết luận: tư duy của não trái thiên về tư duy computer, tư duy não phải thiên về tư duy người. Phần người nhất trong con người nằm ở não phải – linh hồn con người nếu phải tìm chỗ trú ngụ, nó sẽ chọn ngôi nhà chủ yếu ở não phải!

Tuy nhiên sẽ là một nhầm lẫn lớn nếu tuyệt đối hoá việc tách bạch hai loại tư duy thành hai khu vực hoàn toàn tách rời nhau. Thực tế hai bán cầu não thường phối hợp hoạt động với nhau để có được một tư duy đầy đủ nhất – giống như một hoạ sĩ lập thể có thể thể hiện một đối tượng với nhiều hình chiếu cùng xuất hiện một lúc trên một bức tranh, cái mà nghệ thuật phối cảnh cổ điển không thể có.

Đến đây có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng đồng ý với nhau rằng tư duy thơ ca, nghệ thuật sẽ hoạt động chủ yếu ở não phải, và đó là tư duy nằm trong phần đặc trưng cho tính người. Vậy tư duy khoa học thì sao?

Phải chăng tư duy khoa học là tư duy computer, và do đó kém tính người hơn tư duy văn chương, nghệ thuật?

Không, đó là một ý nghĩ hồ đồ, kém hiểu biết về bản chất của khoa học.

Nếu so sánh khoa học với các lĩnh vực văn chương, nghệ thuật, thì phải thừa nhận rằng khoa học chứa đựng nhiều tư duy máy móc hơn. Tuy nhiên sẽ là sai lầm nếu tuyệt đối hoá kết luận đó. Thực tế những nhà khoa học chân chính cũng đồng thời là những nghệ sĩ, theo đúng nghĩa của từ này. Còn ai nghệ sĩ hơn Albert Einstein khi ông tuyên bố: “Trí tưởng tượng quan trọng hơn tri thức” (The imagination is more important than knowledge). Thực ra Einstein và Picasso cùng tìm kiếm một chân lý như nhau, nhưng chỉ khác nhau ở phương pháp tiếp cận mà thôi. Đó là lý do giải thích vì sao Einstein rất mê Hình học Euclid. Ông gọi đó là cuốn “Hình học thiêng liêng” (The Holy Geometry). Tư tưởng hình học xuyên suốt đời ông, và có thể nói không ngoa rằng Thuyết tương đối tổng quát của ông chính là một lý thuyết “Hình học vật lý”. Cảm xúc hình học thiên về cảm xúc người, cảm xúc đại số thiên về tư duy của computer. Đó là lý do để Gottlob Frege, một nhà toán học lớn của Đức đầu thế kỷ 20, đã thốt lên vào lúc cuối đời, rằng “Thực ra toàn bộ toán học là hình học”[7].

Đáng tiếc là phần lớn các nhà giáo dục không hiểu điều Frege nói. Muốn hiểu Frege, phải tìm hiểu lịch sử toán học thế kỷ 20, đặc biệt phải hiểu Chủ nghĩa toán học hình thức là gì, và không thể không biết “thảm hoạ giáo dục” trên thế giới những năm 1960 dưới danh hiệu “Toán học mới” (New Mathematics) mà tác hại của nó vẫn còn tới hôm nay. Tất cả những chuyện đó xin dành cho bài kỳ sau:

“Tôi cảm thụ, vậy tôi tồn tại!”

dhai06
24-09-11, 10:59
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/24/10/32/13168351281878305165_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1261219882)
“Tôi cảm thụ, vậy tôi tồn tại”



Để mở kho báu của Aladin, phải niệm câu thần chú: “Vừng ơi, mở ra!”.

Để mở kho báu của chân lý, Descartes tuyên bố: “Tôi tư duy, …”.

Tư duy đề-các là tư duy biểu đồ, tư duy giải tích, tư duy logic, tư duy lý tính, tư duy chứng minh, tư duy mổ xẻ: mổ xẻ tới từng thành phần chi tiết để thấy rõ mối liên hệ nhân-quả giữa các thành phần, giống như khoa giải phẫu mổ xẻ thân thể con người để thấy rõ từng cơ quan nội tạng, hay như khoa vật lý đập vỡ vật chất ra thành từng phần tử ngày càng nhỏ bé – phân tử, nguyên tử, electron, proton, neutron, quarks, nhằm khám phá ra bản chất của vật chất, hoặc như khoa sinh vật soi kính hiển vi vào từng tế bào, từng chuỗi ADN nhằm khám phá ra bản chất sự sống.

Kiểu tư duy ấy đặc trưng cho triết học nhị nguyên của Tây phương và đồng thời là hệ tư duy đang thống trị trong xã hội hiện đại – tư duy máy móc, tư duy cơ giới, tư duy logic hình thức, tư duy computer.

Thật vậy, mặc dù Descartes đã ra đi từ hơn 350 năm nay, nhưng phương pháp nghiên cứu của ông vẫn đang diễn ra hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta: đâu đâu cũng thấy hệ trục toạ độ đề-các (cartesian coordinates) – biểu đồ kinh tế, biểu đồ tài chính, biểu đồ chứng khoán, biểu đồ y tế, biểu đồ khí hậu, biểu đồ dân số, biểu đồ sức khoẻ, điện não đồ, điện tâm đồ, bản đồ định vị, … Dường như bất cứ một báo cáo, một khảo sát, một công trình nghiên cứu nào cũng phải có biểu đồ phân tích tình hình, nếu không, báo cáo hoặc công trình ấy sẽ bị coi là kém chất lượng, kém khoa học. Đó là hiện tượng “đề-các-hoá” (cartesianisation) trong nền văn minh kỹ trị ngày nay. Hiện tượng này biểu lộ ở hai cấp độ:

1. Máy móc hoá, cơ giới hoá tư duy tính toán.

2. Máy móc hoá, cơ giới hoá toàn bộ tư duy của con người.

Cấp độ 1 đánh dấu bước nhẩy vọt của nền văn minh vật chất, đặc biệt kể từ khi có computer. Biểu lộ dễ thấy nhất là computer có mặt ở khắp nơi, phục vụ mọi công việc tính toán, từ việc đơn giản nhất như dịch vụ bán hàng cho tới những công việc vô cùng phức tạp như tính toán quỹ đạo bay của con tầu vũ trụ, tính toán xác suất va chạm của các hạt cơ bản để tìm ra một loại hạt mới, v.v. Trong vô vàn ứng dụng đó, rất nhiều ứng dụng liên hệ chặt chẽ với hệ toạ độ đề-các. Chẳng hạn, tên lửa tìm diệt những mục tiêu trên mặt đất hoặc trên mặt biển chính là những vũ-khí-computer được hướng dẫn tìm mục tiêu theo bản đồ định vị. Hoặc trong trường hợp vừa qua đặc nhiệm SEAL của Mỹ bất ngờ tiêu diệt Bin Laden, chắc chắn họ đã có trong tay bản đồ định vị chính xác nơi ở của tên trùm khủng bố này[1]. Tóm lại, chúng ta sẽ không thể hình dung nổi một nền văn minh vật chất hiện đại nếu không có tư duy đề-các. Đó là lý do để câu châm ngôn của Descartes, “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”, trở thành một trong những câu châm ngôn nổi tiếng nhất trong toàn bộ nền văn minh nhân loại, được bàn luận nhiều nhất dưới nhiều góc độ, từ khoa học cho tới triết học.

Tuy nhiên, khi tư duy Descartes có xu hướng bao trùm lên toàn xã hội, tư duy máy móc lấn át tư duy của con người, giá trị vật chất lấn át các giá trị nhân văn, thì hiệu ứng phản lực xuất hiện:

Jean Paul Sartre dường như muốn nhấn mạnh đến cái phi lý của xã hội hiện đại nên đã phủ định Descartes: “Tôi tư duy, vậy tôi không tồn tại”[2]. Trong khi đó, Louis Lavelle điều chỉnh tuyên bố của Descartes dưới một dạng thức chính xác hơn:

“Tôi cảm thụ, vậy tôi tồn tại!”[3].

Tư tưởng của Lavelle rất dễ hiểu: không phải tư duy lý luận giúp chúng ta nhận chân sự vật, mà là tư duy cảm thụ. Vì vậy, nếu việc cơ giới hoá tư duy tính toán được coi là một thành tựu lớn lao của khoa học thì xu hướng cơ giới hoá toàn bộ tư duy của con người chỉ thể hiện một trình độ ấu trĩ về nhận thức đối với bản chất của con người. Nói cách khác, nếu sùng bái suy luận logic đến mức coi nó như một phương pháp tư duy vạn năng, thay thế cả tư duy cảm thụ thì đó là một việc làm phản khoa học và phản nhân văn!

Thật vậy, như chúng ta đã biết, khoa học thần kinh và tâm-lý-thần-kinh-hoc (neuro-psychology) đã phân chia bộ não của con người thành hai khu vực: bán cầu não trái và bán cầu não phải, mỗi khu vực “thiên vị” một chức năng tư duy cụ thể[4].

Mặc dù hai bán cầu thường phối hợp với nhau để tư duy trong từng trường hợp cụ thể, nhưng bán cầu não trái thiên về tư duy logic, tư duy phân tích, tư duy tính toán, tư duy kiểu computer, trong khi bán cầu não phải thiên về tư duy cảm xúc, tư duy trực giác, tư duy tổng hợp, tư duy tưởng tượng, tư duy khái quát.

Qua đó có thể thấy ngay rằng xu hướng muốn logic hoá, máy móc hoá toàn bộ tư duy của con người là trái với bản chất hoạt động của bộ não, vô tình thủ tiêu bán cầu não phải, thủ tiêu khu vực hoạt động tư duy mang tính người nhiều nhất.

Đã có một thời khoa học thần kinh có quan điểm sai lầm: xem thường vai trò của bán cầu não phải, đề cao vai trò của bán cầu não trái, cho rằng tư duy cao cấp của con người hoạt động chủ yếu ở não trái, trong khi não phải chỉ đóng vai trò điều khiển những giác quan thông thường như nghe, nhìn, … cốt để nhận thông tin từ thế giới xung quanh mà bất cứ loài vật nào cũng có. Sai lầm này vô tình đã đồng nhất tư duy của con người với tư duy của computer – coi tư duy lý luận là tư duy cao nhất và khoa học nhất của con người. Điều này hoàn toàn trái ngược với một khẳng định mang tính triết học về nhận thức mà Henri Poincaré, một trong những nhà toán học, vật lý học và triết học vĩ đại nhất của mọi thời đại, đã tổng kết trong cuốn “Science et Méthode” (Khoa học và Phương pháp) ngay từ năm 1908:

“Nhờ logic chúng ta chứng minh, nhờ trực giác chúng ta khám phá”[5]

Trực giác là khả năng cảm thụ chân lý một cách trực tiếp, không cần suy luận và chứng minh. Trong tiến trình nhận thức, trực giác đi trước, lý luận chứng minh đi sau. Trực giác là cái định hướng, là khả năng “đánh hơi”, logic lý luận chẳng qua là cái giúp chúng ta củng cố niềm tin vào một sự thật khi nó đã bị trực giác nhận diện.

dhai06
24-09-11, 11:06
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/24/10/35/13168353522010088208_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1261222116)
Định hướng sai thường phải trả một giá rất đắt để quay lại một định hướng đúng. Thí dụ điển hình là sai lầm của “Chủ nghĩa toán học hình thức”[6] (formalism) trong thế kỷ 20 – một chủ nghĩa đề cao logic hình thức tới mức không đếm xỉa tới thực tiễn, coi toán học đơn thuần chỉ là một chuỗi ký hiệu logic suy diễn vô hồn, vô cảm, nhưng có thể khám phá ra những chân lý tuyệt đối ngoài ý muốn chủ quan của con người, miễn là con người tìm ra cho nó một hệ tiên đề độc lập, đầy đủ, và phi mâu thuẫn. Chủ nghĩa này đã làm méo mó nhận thức về bản chất của toán học, dẫn tới thảm hoạ giáo dục ở Tây phương những năm 1960 dưới ngọn cờ “Toán học mới”. Về lý thuyết, chủ nghĩa này đã bị khai tử từ năm 1931 bởi “Định lý bất toàn” (Theorem of Incompleteness) của Kurt Godel, nhưng trên thực tế nó vẫn gây ra vô vàn hệ lụy tiêu cực, đặc biệt trong những nền giáo dục chậm phát triển – những nơi thông tin không được cập nhật, hoặc những nơi có truyền thồng giáo dục hủ nho, tầm chương trích cú.

May thay, những thành tựu mới nhất của khoa học computer và khoa học thần kinh đã và đang vén bức màn bí mật cho chúng ta thấy rõ đâu mới là khu vực tư duy thật sự mang tính người.

Hai sự kiện tiêu biểu: 1* Siêu-computer Deep Blue đánh thắng vua cờ Garry Kasparov năm 1997 và 2* Computer trong Thí nghiệm Turing 2009 đánh lừa được ban giám khảo, đã tạo nên một bước ngoặt trong nhận thức về bản chất người:

Chỗ mạnh của con người không phải là tư duy tính toán và suy luận logic, mà là tư duy cảm thụ, tư duy trực giác, tư duy tưởng tượng!

Cờ vua từng được coi là một nghệ thuật “có tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật”[7], một “hòn đá thử vàng của trí tuệ”[8], nhưng nó “đã hoàn toàn chết”[9] kể từ khi Deep Blue đánh thắng vua cờ Kasparov. Từ những sự kiện gây chấn động này, thay vì thần thánh hoá tư duy logic, những nhà thông thái giầu óc nhân văn nhất như Douglas Hofstadter lại rút ra một kết luận đảo lộn với những quan niệm trước đây: “Khi một hoạt động trí não nào đó đã được chương trình hoá thì người ta sẽ mau chóng ngừng coi nó như một thành phần chủ yếu của tư duy thực sự”[10]. Nói một cách dễ hiểu: Tư duy mang tính người nhiều nhất không phải là tư duy tính toán, mà là tư duy cảm thụ!

Văn chương, nghệ thuật, thơ cả, âm nhạc, … là những lĩnh vực tư duy mang tính người nhiều nhất, vì đó là mảnh đất của cảm xúc, nơi computer trở nên vô dụng hoặc chỉ đóng vai trò một tên nô lệ trung thành.

Thực ra trong mọi lĩnh vực hoạt động tư duy của con người, dù là văn chương, nghệ thuật hay khoa học, computer chỉ xứng đáng làm một tên đầy tớ, trừ khi chính con người tôn chúng lên địa vị ông chủ. Ý này đã được Reuben Hersh nhắc đến trong cuốn “What is Mathematics, Really?” (Thực ra Toán học là gì?):

“Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, phần lớn tư duy của con người không tuân thủ logic. Logic là gì? Logic là tư duy của computer. Con người cũng có thể tuân thủ logic nếu muốn biến mình thành những chiếc computer”.

Liệu con người có dại dột để biến mình thành computer không? Hãy nghe Albert Einstein nhận định:

“Tư duy trực giác là một món quà thiêng liêng và tư duy lý luận là một tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội vinh danh tên đầy tớ và bỏ quên món quà”[11].

Vào thời của Einstein, chưa có PC (personal computer) – computer cá nhân. Hiện nay PC có mặt khắp nơi, “tên đầy tớ” lại càng được vinh danh hơn, món quà trực giác càng bị coi thường hơn. Cứ nhìn xem cách dạy và cách học ở nhà trường hiện nay khắc rõ. Chẳng phải gần đây vẫn có một giáo sư viết sách giáo khoa toán tuyên bố “Xa rời thực tế mới là điểm mạnh của toán học”[12] đó sao? Thực ra đây chỉ là sự sao chép tư tưởng hình thức của Gottlob Frege đầu thế kỷ 20. Đáng tiếc là sự sao chép này không ý thức được rằng về cuối đời, Frege đã nhận ra sai lầm của mình. Không những thế, ông còn trở thành một tấm gương sáng chói về đạo đức khoa học khi lên tiếng công khai phủ định tư tưởng hình thức của chính mình.

Sai lầm của Frege là cố gắng biến Số Học thành một hệ logic thuần tuý hình thức, tuyệt đối xa rời hiện thực. Đối với Frege, số 2 không có nghĩa là 2 con gà, 2 con vịt, … Số 2 toán học phải là một cái gì đó “xa rời thực tế mới là điểm mạnh”, một số 2 cao siêu, trừu tượng, hoàn toàn khác với số 2 dùng để đếm mà cha ông tổ tiên chúng ta đã phát minh ra từ thời nguyên thuỷ. Frege mắc phải cái bệnh của nền văn minh hiện đại: thích đưa ra những tư tưởng độc đáo, mới lạ, càng trừu tượng, càng hình thức, càng hàn lâm, càng khó hiểu thì càng có vẻ khoa học!

Nhưng Frege có trái tim của nhà khoa học chân chính. Ông đã hối hận. Ông đã biết minh sai, và đã để lại cho đời một lời trăng trối bất hủ:

“Tôi càng suy nghĩ về điều này thì tôi càng đi đến chỗ tin rằng số học và hình học đều nẩy sinh từ cùng một nền tảng, thực ra là từ nền tảng hình học; Do đó toàn bộ toán học thực ra là hình học”[13].

Khái niệm “nền tảng hình học” ở đây ám chỉ một cái gì đó có hình tượng, có cảm xúc, có trực giác, có chỗ dựa thực tiễn, thay vì chỉ là một mớ logic ký hiệu “loằng ngoằng” vô cảm. Ngôn ngữ “loằng ngoằng” vô cảm là ngôn ngữ của computer. Ngôn ngữ của con người là ngôn ngữ đời sống, sinh động gấp hàng tỷ lần ngôn ngữ của computer, bởi nó không chỉ diễn đạt bằng ký hiệu, mà còn bằng cử chỉ, động thái, ánh mắt, thậm chí bằng sự lặng thinh, bằng sự giao cảm, bằng nhiều con đường khác nhau mà chính con người chưa khám phá ra hết. Sự giao cảm ấy không chỉ diễn ra giữa con người với con người mà còn giữa con người với vạn vật và với chính bản thể của mình, giúp cho con người nhận thức được sự hiện hữu của vạn vật và của chính nó. Trong khi đó, computer không bao giờ ý thức được sự hiện hữu của chính nó.

dhai06
24-09-11, 11:07
http://d.f6.photo.zdn.vn/upload/original/2011/09/24/10/34/13168352751702808507_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/dhai09/apps/photo/album/photo-detail/id/1261221312)
Trong những dạng ngôn ngữ mà con người có thể hiểu, ngôn ngữ hình ảnh có ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Chẳng hạn, Hình học Euclid là một hình học vô cùng sinh động, vì nó đòi hỏi và kích thích trực cảm hình học mãnh liệt. Đó là lý do để cậu bé 9 tuổi Albert Einstein phải thốt lên lời ngợi ca rằng đây là môn “Hình học thiêng liêng” (The Holy Geometry)! Tình yêu của Einstein đối với hình học kéo dài suốt cả cuộc đời: Tư duy của Einstein là tư duy hình học, tư duy cảm thụ. Thuyết tương đối tổng quát của ông có thể coi như “hình học của vật lý” hay “vật lý của hình học” – không gian vật lý của Einstein được xây dựng trên cái khung của Hình học Riemann. Với tư duy thiên về cảm thụ nồng nàn như thế, Einstein ghét cay ghét đắng những thứ toán học hình thức sáo rỗng, đến nỗi ông không thể giấu nỗi thất vọng đối với loại toán học này: “Tôi không tin vào toán học”[14], ông nói.

Toán học thật phải là toán học làm rung động trái tim con người, chẳng khác gì văn chương, nghệ thuật, thơ ca. Toán học ấy có tồn tại hay không?

Có! Toán học ấy đã từng tồn tại trong trường phổ thông trước đây. Nhưng những nhà giáo dục mắc bệnh hình thức đã và đang biến môn toán thành một trò đánh đố tầm thường, đẩy học trò tới chỗ học toán chỉ để đi thi, sau đó ném hết vào sọt rác.

Toán học chân chính không phải là những cái bẫy chuột đánh lừa học trò, mà phải là một ngôn ngữ sinh động, truyền cảm, giúp học sinh khám phá thế giới.
Buồn biết bao khi chứng kiến học sinh phải làm những bài tập “khổ sai tích phân” nhưng chẳng hiểu gì về ý nghĩa tích phân. Đối với những học sinh này, toán chỉ là những mẹo vặt chán ngấy, một hình thức “khổ sai trí tuệ”.

Buồn hơn nữa, khi một thầy giáo dạy toán nói: “Tôi thích dạy Hình học giải tích hơn Hình học Euclid, vì đỡ phải vẽ hình. Vẽ hình thì thầy cũng khổ mà trò cũng khổ”.

Nếu Descartes sống lại để nghe giáo viên này “ca ngợi” môn hình học của ông theo kiểu đó, ông sẽ vô cùng tủi thân, vì vô tình công trình sáng tạo vĩ đại của ông lại trở thành một thứ khoa học vô cảm thảm hại đến như vậy.

Trộm nghĩ, khổ như thế thì học để làm gì? Không cảm thụ được hình thì học hình để làm gì? Tại sao lại chấp nhận nhồi nhét kiến thức vô cảm vào đầu học trò như thế? Tại sao không mua những chương trình giải toán hình học giải tích mà “enter” luôn trên computer có phải đỡ khổ hơn không?

Sự lệch lạc trong định hướng giáo dục – vinh danh “tên đầy tớ” và bỏ quên món quà trực giác – trước mắt sẽ gây ra tình trạng căng thẳng vô nghĩa trong học tập, làm khổ học sinh và phụ huynh học sinh, … nhưng nhìn rộng ra toàn thế giới và nhìn xa về tương lai, nó chứa đựng một mối nguy tiềm tàng:

Nó dần dần làm thui chột giá trị nhân văn trong khoa học, trong văn hoá, trong đạo đức, và sẽ dẫn loài người tới một thế giới mà ở đó, robots và những sản phẩm khác do con người tạo ra có thể chống lại chính con người.

Dường như dự cảm thấy khuynh hướng phi nhân văn trong nền văn minh kỹ trị ngày càng tăng lên, Albert Einstein một lần nữa phải lên tiếng nhắc nhở: “Tiến bộ công nghệ giống như một chiếc rìu nằm trong tay một tên tội phạm bệnh hoạn!”[15].



Ngày 06/06/2011

PVHg



[1] Đầu thập kỷ 1960, lãnh tụ Liên Xô Nikita Khroutchev sang thăm Mỹ và đưa ra đề nghị chung sống hoà bình. Để hậu thuẫn cho đề nghị này, ông đã chứng tỏ sức mạnh quân sự của Liên Xô bằng một tuyên bố nổi tiếng: “Tên lửa Liên Xô có thể bắn trúng bất kỳ một cửa sổ nào của Toà Bạch Ốc”. Đây là một ý kiến bóng bẩy. Nếu hiểu theo nghĩa đen thì Liên Xô phải có bản đồ định vị chính xác từng ô cửa sổ.

[2] “Je pense, donc je ne suis pas”, SIGNS of the Times, Australia, Tháng 10/1999, trang 32

[3] Dẫn theo bài viết “Jean Paul Sartre, con người phi lý hiện sinh” của Ánh Chi.

[4] Những vấn đề về hoạt động thần kinh đã trình bầy kỹ trong Bài 3 của chủ đề “Hành trình tìm kiếm bản chất đích thực của con người”.

[5] Nguyên văn: ““C’est par la logique qu’on démontre; c’est par l’intuition qu’on invente”

(Nhờ logic chúng ta chứng minh, nhờ trực giác chúng ta phát minh). Xem Phần II. Chương 2 : Mathematical Definitions and Education, Trang 129

[6] Để hiểu rõ chủ nghĩa hình thức, xin đọc loạt bài “Thầy Bói Xem Voi” của Phạm Việt Hưng trên Khoa học & Tổ Quốc 2009 và trên các trang web: http://vietsciences.free.fr/ và http://viethungpham.wordpress.com/

[7] Nhận định của hoạ sĩ Pháp Marcel Duchamp.

[8] Nhận định của đại văn hào Đức Goethe.

[9] Nhận định của đại kiện tướng cờ vua Bobby Fischer.

[10] “The Most Human Human”, Brian Christian, Doubleday, 2011, trang 107.

[11] The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honors the servant and has forgotten the gift. http://quote.com.bd/quote/reason.html

[12] Xem “Thực ra Toán học là gì?” của Phạm Việt Hưng trên Khoa học & Tổ quốc tháng 10/2009 và trên các trang web: http://vietsciences.free.fr/ và http://viethungpham.wordpress.com/

[13] Xem “Lời sám hối của một nhà toán học hình thức” của Phạm Việt Hưng trên KH&TQ tháng 05/2011 và trên các trang web: http://vietsciences.free.fr/ và http://viethungpham.wordpress.com/

[14] Xem “Impossibility, the science of limits and the limit of sciences”, John Barrow.

[15] Technological progress is like an axe in the hands of a pathological criminal.

http://www.englishforums.com/English/AlbertEinsteinTechnologicalProgress/lxhcz/post.htm



27.05.2011
Phạm Việt Hưng