PDA

View Full Version : "Luận dụng thần - Hoàng Đại Lục" của Durobi bên Tuvilyso.org



VULONG
13-01-12, 22:16
Trong chủ đề "Luận dụng thần - Hoàng Đại Lục" trong mục "Tử Bình" bên trang web "Tuvilyso.org", Durobi đã trích dẫn:

"1 - Cách cục là tác dụng của trời đất ảnh hưởng đến sự phú quí bần tiện của con người ;
2 - Vượng suy trung hòa là sự lưu chuyển của ngũ hành ảnh hưởng đến sự cát hung họa phúc của con người ;
3 - Sinh khắc chế hóa hình xung hợp hại phá là phương thức tác dụng của bát tự ;
4 – Thập thần ngũ hành là kẻ phát ngôn cho các sự kiện trong đời người.
(Vương Khánh)".

Tôi không biết Durobi đã lấy câu này từ đâu nhưng phải thừa nhận rằng Vương Khánh phải là một Đại cao thủ Tử Bình thực thụ mới có thể tóm gọn toàn bộ môn Tử Bình vào 4 câu bất hủ như vậy.

Thiết nghĩ đây chính là "Kim Chỉ Nam" cho bất cứ ai muốn nghiên cứu Tử Bình.

Theo tôi hiểu thì :

1 - Lệnh tháng định cách cục và từ cách cục này chỉ cho ta biết Tứ Trụ đó là Phú Quý hay Bần Tiện (Phú Quý nghĩa là được làm quan to hay nhỏ và thường đi đôi với có tiền, còn Bần Tiện tức không được làm Quan mà chỉ là người dân bình thường và thường nghèo khó). Nói theo trường phái Tử Bình hiện đại của cụ Thiệu là Tứ Trụ có tổ hợp tốt. Điều này khẳng định Cách cục và Dụng thần không liên quan gì tới nhau.

2 - Dụng thần phải là cái làm cân bằng Tứ Trụ (trừ các trường hợp ngoại lệ). Từ dụng thần có thể dự đoán được mọi họa hay phúc của đời người qua các vận và lưu niên. Cho nên Dụng thần không liên quan gì tới Cách cục. Nếu cách cục tốt mà vào tuế vận xấu vẫn gặp các tai họa nặng như phá sản, mất quan vào tù,…. tử vong.

Còn câu 3 và 4 là các công cụ hay các thông tin để nói nên bản chất tương tác của các can chi giữa Tứ Trụ với tuế vận (chý ý: ở đây chưa hề đả động gì tới sự tác động của ngũ hành trong môi trường sống tới ngũ hành trong mệnh của người có Tứ Trụ đó).

Trong khi Hoàng Đại Lục viết:

"Chính bởi vì dụng thần chỉ là vật mà nguyệt lệnh dùng để định cách, không phải ở bất cứ vị trí nào khác dùng để cân bằng ngũ hành bát tự, cho nên cổ nhân mới gồm dụng thần và cách cục vô làm một, và đem cách cục vật khả dụng của nguyệt lệnh gọi là nội cách, mà cách cục vật không khả dụng của nguyệt lệnh gọi là ngoại cách (xin tham khảo cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa của tác giả). Chúng ta biết rằng mệnh lý hiện hành chọn dụng thần không chú trọng đến nguyệt lệnh, cho nên cách cục không phân làm nội cách và ngoại cách, hoặc nói không rõ nguyên do sự phân chia nội cách ngoại cách".

Chứng tỏ Hoàng Đại Lục đã khẳng định “Dụng thần chính là Cách Cục“ của Tứ Trụ, tức Cách Cục đó mang hành gì thì hành đó chính là Dụng thần của Tứ Trụ đó.

Một cái sai lầm trầm trọng giống như hơn trăm năm qua người ta vẫn còn tung hô “Những người càng có nhiều đời nghèo khổ thì mới càng có khả năng lãnh đạo những người khác làm kinh tế“ ấy mà.

VULONG
18-01-12, 19:58
Hoàng Ðại Lục đã viết:

“1 - Như mệnh Lưu Trừng Như:

Quan….. thực….. nhận…...tấn

Nhâm…… kỷ…… đinh…….giáp

Tuất………dậu…….Sửu…….thìn

Niên can thấu quan, nguyệt can thấu thực, quan tinh chịu khắc mà phá quan cách. Nhưng còn có thể khí quan tựu thực, nói cách khác quan cách không thành, có sao đâu trở lại lấy tài cách. Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập. Cho nên mệnh chủ sĩ lộ không thông tài lộ thông, kinh doanh tơ lụa có phương pháp, trung niên thành nhà giàu nhất Chiết Giang.“.

Sau đây là bài luận của tôi:

Sơ đồ xác định các điểm vượng trong vùng tâm:

http://farm8.staticflickr.com/7149/6719688411_0db1804394_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6719688411/)

Theo phương pháp của tôi, chưa cần biết Cách cục của Tứ Trụ này là gì nhưng có thể xác định chính xác dụng thần của Tứ Trụ này là Mộc, do vậy đến tuổi trung niên vào các vận Giáp Dần và Ất Mão là các vận dụng thần, chúng là 2 đại vận huy hoàng nhất cuộc đời của người này. Do vậy người này đã đại phát tài.

Vì sao Hoàng Đại Lục lại chọn ví dụ này để chứng minh cho ý tưởng "Dụng thần chính là Cách Cục" của ông ta ? Điều này có thể khẳng định rằng ông ta đã xác định Tứ Trụ này có Thân vượng cho nên ông ta muốn chứng minh Tứ Trụ có Thân vượng mà có “Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập“ vẫn phát tài ở vận Kiêu Ấn thì quá đủ để chứng minh cho "Dụng Thần chính là Cách Cục" của ông ta là đúng.

Để kiểm tra thêm điều khẳng định này chúng ta nghiên cứu tiếp ví dụ số 2 của ông ta xem sao.

2/ Trích TBCTBN-HĐL, toahuongqui dịch:

"Mậu tuất-giáp dần-ất sửu-bính tý

Ất mão/bính thìn/đinh tị/mậu NGỌ
..........
Tại sao mệnh chủ phải đến tài đại vận mậu ngọ mới xảy ra xoay chuyển? Nguyên nhân chỉ có một, đó chính là trên mệnh cục có tuất không có ngọ là không thể đủ hợp hóa thành hỏa, chỉ có tới vận mậu ngọ, có chữ ngọ, mới có thể đủ hợp hóa thành hỏa, khiến nguyên mệnh cục nguyệt kiếp cách biến thành thực thương cách, như vậy mới có thể làm cho mệnh chủ phất lên như sấm".

Sau đây là bài luận của tôi:

http://farm8.staticflickr.com/7173/6719583769_698f9d014a_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6719583769/)

Theo sơ đồ trên thì Tứ Trụ này có Thân vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Tân tàng trong Tuất ở trụ năm.
Vào đại vận Mậu Ngọ có Dần trụ tháng cùng Tuất trụ năm hợp với Ngọ đại vận tạo thành tam hợp cục hóa Hỏa thành công. Trong Tứ Trụ có 2 chi là Dần và Tuất hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại (điều này Hoàng Đại Lục đã đề cập đến : “… mà sách mệnh lý hiện đại lại nói chính là vì tuế vận can dự vào phá vỡ thăng bằng nguyên mệnh cục, yêu cầu lại lần nữa vấn đề chọn chữ thăng bằng“). Ta thấy Hỏa có 5,4đv được thêm 5,4đv của Dần ở trụ tháng và 2,16đv của Tuất ở trụ năm thành 12,96đv. Thổ có 10,89đv bị mất 2,16đv của Tuất ở trụ năm còn 8,82đv. Mộc có 24,4đv bị mất 5,4đv của Dần ở trụ tháng còn 19đv. Thân vẫn vượng nhưng Thực Thương (Hỏa) nhiều nên dụng thần đầu tiên lúc này phải là Tài tinh/ Mậu ở trụ năm (trong trường hợp này các điểm vượng ở tuế vận được tính thêm vào vùng tâm không làm cho điểm hạn của ngũ hành thay đổi). Mậu chính là dụng thần “thăng bằng“ mà Trích Thiên Tủy đã đề cập tới : “... yêu cầu lại lần nữa vấn đề chọn chữ thăng bằng“.

Sau khi tính lại Thân vẫn vượng mà Tài tinh là dụng thần thì dĩ nhiên vào vận Tài lại còn có cục Thực Thương hóa Thân sinh Tài thì “…làm cho mệnh chủ phất lên như sấm" là dĩ nhiên có gì là lạ. Vậy thì ông ta chọn ví dụ này làm mẫu để chứng minh điều gì?

Giống như ví dụ trước, chúng ta có thể khẳng định ông ta đã xác định khi Dần lệnh tháng hóa Hỏa thì Thân sẽ mất căn gốc nên trở thành nhược (chắc là cái không nên học thì ông ta lại học là câu: “…Đắc 2 can tương trợ không bằng một chi trường sanh lộc vượng; như Giáp Ất phùng chi Hợi, Dần, Mão. Can như bằng hữu, chi lại sinh phù, nhiều can không bằng thông căn nơi địa chi. Người xưa không được biết lý này vậy…“ - Trích Chương 17 – Suy Vượng của Trích Thiên Tủy. Còn cái cần học là Dụng Thần thăng bằng thì ông ta lại không học). Cho nên qua 2 ví dụ này ông ta chắc mẩm đã chứng minh được cho câu : “Trầm thị nói chính là nguyệt lệnh thấu can và địa chi hội hợp dẫn tới vấn đề nguyệt lệnh biến hóa“ thì phát tài không liên quan gì tới Thân vượng hay nhược, miễn là “Cách cục được thành lập“.

Qua 2 ví dụ này đủ cho chúng ta biết Trình Độ để xác định Thân vượng hay nhược của ông ta thuộc loại “Vịt Bầu“ hay “Vịt Bắc Kinh“ gì đấy.

Vậy mà Hoàng Đại Lục còn viết:

“Mà sự vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự lại tùy theo sự giới nhập của tuế vận mà biến hóa không ngừng, muốn cân đo đong đếm nó khác nào đi cân đo đong đếm con khỉ có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa !
....…………………
Thế đấy, có phải muốn phán đoán chính xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành bát tự còn khó hơn Phật Bà phán đoán Tề Thiên thật và Tề Thiên giả không nhỉ ?“.

Quả thực tôi không thể hiểu được ông ta là người hay là Ngợm mà lại phát biểu như vậy. Theo tôi thì chỉ có loài động vật 4 chân mới không thể biết được khả năng trí tuệ của con người vĩ đại như thế nào mà thôi. Chính “Phương pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần“ của tôi đã chứng minh điều mà ông ta nói là sai.

Nếu những điều suy luận của tôi ở trên là sai thì xin bạn đọc hãy trích dẫn một ví dụ nào đó trong sách của ông ta để chứng minh rằng phát tài do “Cách cục được thành lập“ tức “Dụng thần chính là Cách Cục“ mà không liên quan gì tới Thân vượng hay nhược.

Nói một cách đơn giản là trích ra một ví dụ từ trong sách của ông ta mà Thân vượng vẫn phát tài ở vận Kiêu Ấn hoặc Thân nhược vẫn phát tài ở vận Tài, Thực Thương (trừ ngoại cách).

VULONG
28-01-12, 22:48
Durobi bên trang web “Mệnh Lý Mệnh Học” đã dịch bài : “Trăm năm mệnh lý què quặt“ của tác giả Vương Khánh có đoạn sau:

“…Làm thế nào để đoán định thành bại của cách cục, chủ yếu phải xem lập hướng điểm có thông qua được 3 cửa quan là hộ vệ, thật giả, thanh thuần hay không. Chỉ có 3 cửa quan đều thông qua thì mới tính cách cục được thành lập, không quí thì phú. 3 cửa chỉ cần 1 cửa không thông qua thì luận là không thành cách cục, án tình huống cụ thể phân làm 3 loại bán thành phẩm, thứ phẩm và phế phẩm, lấy tiêu chí này đoán định ngoài đại quí đại phú ra (đã thành cách cục) thì còn có các tầng thứ khác, hoặc tiểu phú quí, hoặc có thành tựu, hoặc bình phàm, hoặc là đồ bỏ đi, rõ ràng đâu ra đấy.

Cái gọi là 3 cửa quan : Hộ vệ, thật giả, thanh thuần, được biểu thuật như sau.

Hộ vệ : Tức là thập thần lập hướng (thập thần lập cách cục) xung quanh có hình thành một cơ chế bảo vệ hoặc ức chế hoàn thiện hay không. Lấy nguyên tắc hộ vệ hung thần thì nghịch dụng, cát thần thì thuận dụng để phán đoán thành bại.

4 hung thần : Sát, Thương, Kiêu, Kiếp cần chế cần hóa, như Thương Quan cần gặp Tài hoặc Ấn, Thất Sát cần gặp Thực hoặc Ấn hoặc Thương Nhận hợp Sát.

4 cát thần : Tài, Quan, Ấn, Thực cần được sinh và hộ vệ, như Quan tinh cần gặp Tài hoặc Ấn, Ấn tinh cần gặp Quan hoặc Tỷ.

Cát hung thần chỉ khi đã cụ bị cơ chế hộ vệ và ức chế này mới có thể kiện khang và thành tựu, và mới có thể là vật hữu dụng cho ta.

Lúc luận cách cục, hộ vệ là tối quan kiện, chúng ta chớ cho rằng thân vượng gặp Tài, Sát thì có thể thăng quan phát tài. Bạn đầu tiên phải tính : Tài này tự thân nó có an toàn, kiện khang hay không ? Sát này có thể thuần phục làm vật hữu dụng cho ta không ? Đơn lẻ chỉ mỗi thập thần thì nó chỉ là "nguyên liệu" mà thôi, chỉ khi qua sự tổ hợp hợp lý mới thành hình, tức biến thành "thành phẩm", tức Tài là tài phú, Quan là địa vị.

Ví dụ 1:
Càn tạo: Giáp Dần-Đinh Mão-Ất Sửu-Ất Dậu
Đại vận: Tân Mùi
Lưu niên: Kỷ Sửu

Thân vượng Kiếp vượng, vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng địa chi Sát có Tài sinh có thể dùng được, nhưng trên thực tế vấn đề xảy ra ngay chỗ Sát này. Thất Sát là hung thần, không có chế hóa mà lại có nguồn; mà xung quanh nhật chủ không có Ấn tinh hộ vệ, Thực Thần thì yếu nên khó dùng, không hề có chút lực để kháng kích Thất Sát, điềm đại hung. Đại vận Tân Mùi Sát thấu, ứng kỳ đến, lưu niên Kỷ Sửu bị ung thư không chữa khỏi mà chết“.


Ví dụ trên Vương Khánh luận theo Cách Cục pháp cho ta thấy cái cốt tủy mà Vương Khánh sử dụng là coi Sát, Thương, Kiêu, Kiếp luôn luôn là các hung thần nên cần được chế ngự, nếu không được chế ngự sẽ là “điềm đại hung“. Ở ví dụ trên vì Sát không được chế ngự, cho nên Vương Khánh cho rằng vào đại vận Sát (Tân) đương số bị ung thư chết thì đó chính là bằng chứng để chứng minh cho lý thuyết mà Vương Khánh đã đưa ra là đúng.

Vậy thì ta thử xem có đúng là Sát ở ví dụ trên đã gây ra tai họa này hay không ?

Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn năm Kỷ Sửu:

http://farm8.staticflickr.com/7156/6776272807_9905ef0a13_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6776272807/)

Qua sơ đồ này cho ta thấy Thân quá cường vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương đều ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát là Tân tàng trong Dậu ở trụ giờ. Mộc là kỵ vượng và điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi.
1 – Trong Tứ Trụ có Dậu trụ giờ hợp với Sửu trụ ngày không hóa (vì lực xung của Mão trụ tháng (có 9đv) với Dậu cách 1 ngôi nên bị giảm 1/3; và bị giảm thêm ¾ khi khắc Sửu trụ ngày còn 9.2/3.1/4 = 1,5đv là nhỏ hơn lực hợp của Sửu trụ ngày với Dậu có 4,8đv).
2 – Vào đại vận Tân Mùi có Mùi đại vận hợp với Mão trụ tháng hóa Mộc và bán hợp Tị với Dậu trong Tứ Trụ hóa Kim (Kim cục này không thể khắc được Mộc cục ở phía trên để gây ra Đại Chiến).
Tới năm Tân Sửu Kim cục trong Tứ Trụ hợp thêm với Sửu thái tuế và Dậu tiểu vận hợp với Sửu thái tuế đều hóa Kim. Chính Kim cục này khắc Mộc cục đã gây ra Đại Chiến nên Gi áp trụ năm hợp với Kỷ lưu niên mới hóa được Thổ (vì có Sửu thái tuế động dẫn hóa). Vì Mộc cục bị khắc quá nặng nên nó không còn khả năng khắc Thổ cục, vì vậy Thổ cục có thể vẫn có điểm hạn như bình thường nhưng không sinh được cho Kim cục (?)).

Giáp trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục (hoặc Kim cục trong Tứ Trụ hợp với Tuế Vận hóa Kim cục) nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại. Ta thấy Thân vẫn vượng và dụng thần vẫn không thay đổi. Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận Mộc vẫn là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi.

Kim cục và Mộc cục gây ra Đại Chiến có (0,4.5 + 0,2)đh = 2,2đh, nên Kim cục có 2,13đh, Mộc cục có 0,5đh còn Thổ cục có -0,5đh. Mùi đại vận có 0,5đh kỵ vượng.
3 - Dụng thần Tân mặc dù Tử Tuyệt ở lệnh tháng nhưng không có 0,5đh hay 1đh do Dậu hợp với tuế vận hóa cục (bởi vì hóa cục này chính là hành của dụng thần). Tân nhược ở lưu niên nên có 0đh.
4 - Nhật can Ất nhược ở lưu niên nên có 0đh.
5 – Đinh trụ tháng thất lệnh và chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Tân đại vận có 0,5đh.
Tân đại vận nhược ở tuế vận nên khắc 2 Ất trong Tứ Trụ không có điểm hạn nhưng các lực khắc này đủ làm cho 2 Ất trở thành động, vì vậy mỗi Ất có 0,5đh kỵ vượng. 2 Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Ất có -0,5đh can động.

Tổng số có 5,08đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (vì 5đh đã có thể gây ra tử vong). Nếu Mộc cục và Thổ cục cũng gây ra Đại Chiến hay Thổ cục sinh được cho Kim cục, hoặc Thổ cục không thể tạo thành do Mộc cục có trước ngăn cản thì tổng điểm hạn còn cao hơn nhiều.

Vậy thì :

1 - Tân là Sát ở đại vận nhược ở tuế vận còn bị Đinh trụ tháng là Thực thần chế ngự mà có thể gây ra tai họa này sao ?
2 - Hay ngược lại cho rằng Tân là dụng thần của Tứ Trụ nên vào đại vận Tân bị Đinh khắc chế nên dụng thần bị tổn thương mà gây ra tai họa chăng ?

Cả hai điều lý luận này đều sai, bởi vì hầu như tất cả các tai họa điều do nhiều yếu tố kết hợp gây ra, trong ví dụ này thì yếu tố Đại Chiến là quan trọng nhất (4,83đh), sau đó đến yếu tố điểm kỵ vượng (1,5đh). Nhưng đáng tiếc rằng hầu như tất cả các sách từ Cổ tới Kim đều không hề nhắc đến các khái niệm này (riêng khái niện Đại Chiến tôi đã “Chôm” được từ câu 12 trang 295 trong cuốn “Dự Đoán theo Tứ Trụ” in năm 2002 của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa (tất nhiên tôi đã mở rộng khái niệm này) : “12 - Mệnh cục, đại vận, lưu niên có 6 địa chi hợp thành hai cục khắc nhau hoặc tam hợp cục tương khắc nhau thì chủ về đại họa đến nơi, cái chết khó tránh”).

Nếu như không có Mộc cục (tức chi đại vận không phải là Mùi hay trong Tứ Trụ không có Mão) thì làm gì có Đại Chiến và dĩ nhiên làm gì có Tai Họa này (khi Kim cục và Thổ cục có điểm hạn âm). Vậy mà Vương Khánh đã khẳng định chỉ cần thấy Sát không bị chế ngự như ví dụ trên là đã đi đến kết luận tai họa do Sát gây ra. Nhưng thực chất ở đâyTân đại vận chính là Sát đã bị Thực thần là Đinh chế ngự, vậy mà Vương Khánh lại không nhìn ra hay sao ?

(còn tiếp)

VULONG
31-01-12, 17:10
Ví dụ thứ 3 của Vương Khánh:

“Càn tạo: Ất Hợi - Kỷ Sửu – ngày Giáp Thìn - Ất Hợi

Đại vận: Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu/ Giáp Thân/ Quý Mùi/ Nhâm Ngọ

Bát tự này nhìn giống như thân Tài lưỡng đình, dùng vượng suy pháp xem thì mệnh này tốt. Dùng cách cục pháp xem, dùng Chính Tài cách luận thành bại, cát thần Chính Tài cần có Quan Sát hoặc Thực Thương hộ vệ, hiện thời thì không thấy dụng thần Quan Sát, Thực Thần nào cả, đã thế còn có 2 Kiếp Tài tọa vượng đến khắc, chẳng những không thành cách mà còn bị phá tổn nghiêm trọng. Phú quí thôi đừng mơ nữa, cát thần nắm lệnh bị phá, cách bị phá bởi hung thần Kiếp Tài không có chế hóa, tất là người có tai nạn lớn. Mệnh chủ là người cực kỳ nghèo, sau do sự cố trong lúc mưu sinh mà mất đôi cánh tay, phải đi làm ăn mày.

Kiếp Tài là đệ nhị ác thần trong 4 hung thần, cực hung hãn, là cường đạo chuyên môn đoạt Tài, không có Tài thì đoạt mệnh“.


Theo tôi ví dụ này đủ để chứng minh Cách Cục Pháp chỉ có khả năng cho biết Cách Cục của Tứ Trụ là cao hay thấp (quý hay tiện) còn mức độ cao tới mức nào hay thấp tới mức nào thì phải nhờ tới Vượng Suy Pháp.

Tứ Trụ này đúng là thuộc Chính Tài Cách, mà Chính Tài Cách chủ về tiền tài. Do vậy nếu Thân vượng thì thường Chính Tài Cách đòi hỏi phải có Quan sát bảo hộ Tài hay Thực Thương để hóa Thân tái sinh Tài, còn Thân nhược thì 2 yêu cầu này không quan trọng lắm (miễn là có chút ít Thực Thương để thông quan là được).

Vương Khánh đã xác định Tứ Trụ này là “Thân Tài lưỡng đình“ tức là Thân vượng mà Tài cũng vượng nên muốn phát tài nó đòi hỏi phải có 1 trong 2 yêu cầu mà Vương Khánh đã nói ở trên nhưng đáng tiếc trong Tứ Trụ này không có. Chính vì vậy mà Cách Cục của Tứ Trụ này là thấp nhưng nếu chỉ có như vậy thì chả nhẽ hành vận Quan Sát hay Thực Thương không thể bù vào sự thiếu vắng này sao ? Bởi vì vào các vận Thực Thương (Đinh Hợi và Bính Tuất) chúng có thể xì hợi Thân vượng tái sinh Tài, thì dĩ nhiên người này phải phát Tài nhưng trong thực tế người này vẫn nghèo đói. Tại sao lại như vậy ? Đây chính là điều quan trọng nhất mà Cách Cục Pháp không thể giải thích được mà phải nhờ tới Vượng Suy Pháp (xét sự vượng suy của các hành với nhau, trong đó xét hành của Thân với các hành khác là quan trọng nhất). Phải chăng Vương Khánh không nhìn ra sự đặc biệt của Tứ Trụ này nên đã chọn nó làm ví dụ mẫu ?
(Điều nghi ngờ này có thể đúng bởi vì qua ví dụ 7 và 8, Thân của 2 ví dụ này đều nhược vậy mà Vương Khánh lại xác định là vượng. Chính xác định sai nên Vương Khánh đã chọn chúng làm các ví dụ mẫu để chứng minh cho ý tưởng Thân vượng tài vượng mà vẫn nghèo đói…).

Vậy thì sự đặc biệt của Tứ Trụ này là gì mà Thân vượng vào các vận Thực Thương (Đinh Hợi và Bính Tuất) người này vẫn nghèo đói ?

MJKN
31-01-12, 18:50
Nhật chủ tọa khố. Thìn là thủy khố và chứa mộc nên có thể nói là căn của Giáp, Hợi lại ngậm Giáp nên nhật chủ là sinh mộc. Giáp Thìn liên căn do đó không nên phạm Thìn khố.

Thìn là thủy khố nên Hợi vào Thìn mộ. Thìn cũng là thổ khố nên Sửu vào Thìn mộ. Toàn bộ vào mộ thì khí không lưu thông nên là tử khí là bỏ đi, muốn dùng cần phải xung khố.

Nhưng Thìn là liên căn với nhật chủ tức không được phạm. Mệnh này tự mâu thuẩn về điều kiện phát tài. Xung khố tất gặp nạn. Bất xung khố thì tù khí cả đời. Mệnh ăn mày.

Lý luận này gọi là Ý Tứ Pháp. Đóng góp ít dòng.

VULONG
01-02-12, 16:42
Nhật chủ tọa khố. Thìn là thủy khố và chứa mộc nên có thể nói là căn của Giáp, Hợi lại ngậm Giáp nên nhật chủ là sinh mộc. Giáp Thìn liên căn do đó không nên phạm Thìn khố.

Thìn là thủy khố nên Hợi vào Thìn mộ. Thìn cũng là thổ khố nên Sửu vào Thìn mộ. Toàn bộ vào mộ thì khí không lưu thông nên là tử khí là bỏ đi, muốn dùng cần phải xung khố.

Nhưng Thìn là liên căn với nhật chủ tức không được phạm. Mệnh này tự mâu thuẩn về điều kiện phát tài. Xung khố tất gặp nạn. Bất xung khố thì tù khí cả đời. Mệnh ăn mày.

Lý luận này gọi là Ý Tứ Pháp. Đóng góp ít dòng.

Cám ơn MJKN đã tham gia luận ví dụ này.

Tôi chưa hiểu lắm về cách luận của bạn nhưng xin cho hỏi nếu Hợi là chi của trụ năm đổi thành Mão thì người này còn là mệnh "Ăn Mày" nữa hay không ? Vì sao vậy ?

Xin cám ơn trước.

MJKN
01-02-12, 20:33
Ý tứ pháp là phương pháp để xem ý tứ mỗi can chi trong tứ trụ như thế nào? Vượng Suy Pháp xem vượng nhược và chọn dụng thần cho mệnh. Dụng thần là thần rất quan trọng để cân bằng bát tự. Dụng thần vượng được luận là cát nhưng mà nếu ý tứ không quy thuận nhật chủ thì sao cát được? Hay là nhìn vào chế độ Vua cùng các Tôi. Vua là nhật chủ. Chọn dụng thần tức là chọn bề Tôi có năng lực nhất để theo hầu. Tôi giỏi thì kéo theo cả đất nước hay cụ thể là mệnh tốt. Tuy nhiên, ý tứ của bề Tôi này liệu có một lòng hầu Vua không? ... Cũng như khi xét thì phải xét tài đức vẹn toàn vậy.

Bàn về khi nhật chủ tọa khố, không phải khố nào cũng nên bị xung. Lý luận này trước hết ngẫm lại khi nhật chủ tọa Lộc hay Dương Nhận. Giả như Ất tọa Mão, Mão chính là Ất nên gọi là liên căn. Ất chính là Mão và Mão cũng đại biểu cho Ất. Cho nên, có thuyết pháp cho rằng Lộc không nên bị thương. Trong các trường hợp nhật chủ tọa khố, đó là Đinh Mùi - Quý Sửu - Giáp Thìn - Bính Tuất thì kỵ bị xung phá. Do :
_ Mùi là táo thổ chứa Đinh.
_ Tuất là táo thổ chứa Bính.
_ Sửu là thấp thổ chứa Quý.
_ Thìn là thấp thổ chứa Quý thủy cùng Ất mộc. Giáp Thìn là tượng cây mọc trên đất ẩm.

Các trường hợp trên do chi khố tàng ý tứ nuôi dưỡng hoặc chứa đựng thiên can nên ngại bị xung phá (nếu ý tứ đi xung khố khác thì được). Bị xung thì như nước nhà bị giặc đánh chiếm. Xung khố cũng là xung nhật chủ hay xung mạch sống nhật chủ.

Bát tự của người ăn mày kể trên nếu đổi niên chi Hợi sang Mão thì trước hết Hợi ở giờ và Sửu nhập mộ Thìn như lý luận đã đưa ra từ trước nhưng Thìn không phải mộ của Mão nên Mão không vào khố. Ta thấy Hợi-Mão hợp có ý tứ kéo Mão về với nhật chủ. Có một tượng nữa là Mão hại Thìn (nếu có Dần thì bàn tam hội, không có Dần thì bàn hại). Giáp Thìn liên căn. Liên căn thì không nên phạm nhưng Mão hại Thìn vẫn bất hung do Mão mộc chủ yếu khắc Mậu thổ trong Thìn (bất liên can Quý-Ất vốn thực sự cần cho nhật chủ). Mão chế Thìn. Thìn là Ấn khố. Mão là Kình Dương. Chế Ấn được quyền. Thìn cũng là thổ là Tài. Chế Tài được Tài. Mệnh phát tài. Mão ở xa nên tác dụng không lớn.

VULONG
01-02-12, 23:35
Hình như là MJKN dùng "Manh Phái" để luận thì phải.

Ở đây tôi muốn biết khi thay chi Hợi của trụ năm thành Mão thì người này vẫn là số "Ăn Mày" hay không, khi mà điều kiện mà Vương Khánh đưa ra "...cát thần Chính Tài cần có Quan Sát hoặc Thực Thương hộ vệ, hiện thời thì không thấy dụng thần Quan Sát, Thực Thần nào cả, đã thế còn có 2 Kiếp Tài tọa vượng đến khắc,..." không hề thay đổi ?

Nhưng theo cách luận của bạn "...Mão chế Thìn. Thìn là Ấn khố. Mão là Kình Dương. Chế Ấn được quyền. Thìn cũng là thổ là Tài. Chế Tài được Tài. Mệnh phát tài. Mão ở xa nên tác dụng không lơn" thì hình như bạn cho rằng mệnh của người thứ 2 này là "Mệnh phát tài" thì phải ? Nếu đúng như vậy thì bạn đã chứng minh giúp tôi điều mà Vương Khánh kết luận mà tôi trích ra ở trên là sai lầm.

Thân chào.

tungnguyen
01-02-12, 23:50
Cái gì gọi dụng thần, cái gì gọi là cách cục, cái gì là vượng suy?!
Ha ha, còn lâu các "sư phụ" mới khai ngộ được!

MJKN
01-02-12, 23:59
Cái gì gọi dụng thần, cái gì gọi là cách cục, cái gì là vượng suy?!
Ha ha, còn lâu các "sư phụ" mới khai ngộ được!

Ha ha, tungnguyen rất sảng khoái. Bởi vậy chúng ta phải luôn không ngừng học tập đấy. Biển học vô bờ ...

MJKN
02-02-12, 00:18
@ Bác VULONG:

Ý Tứ Pháp được dùng ở Manh Phái nhưng Manh Phái chỉ dùng ý tứ chứ không dùng vượng suy. MJKN không quá thiên về Manh Phái tuy nhiên phân tích ý tứ cho nên dùng lý luận theo Manh Phái.

Thực tế, nếu áp dụng ý tứ can chi trong việc chọn dụng thần sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn.

Mệnh trên (đã đổi giờ Mão) thì chọn thổ làm dụng thần vì thổ đã quy thuận. Cần lưu ý về ý tứ là sở dĩ thổ quy thuận là do Mão chế. Nếu trong mệnh đã được chế thì hành vận gặp là tốt nên hành thổ vận dụng thần sẽ tốt. Nhưng nếu gặp Dậu vận xung Mão thì Mão bất chế Thìn sẽ xấu lắm.

MJKN cũng theo dõi phương pháp tính điểm hạn của bác. Nếu bỏ công sức ra để viết code hỗ trợ tính điểm hạn thì thuận tiện cho công việc nghiên cứu hơn. Các thuật toán của bác đưa ra là phức tạp. Nếu tính toán thì cần phải quy về ma trận Nx5 (N hàng đại biểu cho N lượt tính toán và 5 cột đại biểu cho điểm hạn cho 5 hành) và rất nhiều câu lệnh có điều kiện. Phần mềm hỗ trợ việc viết code tính toán tốt nhất theo MJKN biết là Matlab.

Kính chào.

dinhman_kt
02-02-12, 15:54
Còn một điều nữa..
...Mão không chế thìn trong ví dụ này mà thìn chế mão...Thìn sửu hợi thì sẽ chế mão...Nếu gặp dậu thì tốt do mão bị chế sạch...
...Mệnh này nếu có mão lập tức biến tốt...Sinh công mà...
...Ất mão kỷ sửu giáp thìn ất hợi...Là xã hội đen...

VULONG
03-02-12, 02:10
Khi tính điểm vượng trong vùng tâm ví dụ thứ 3 của Vương Khánh, tôi đã tính nhầm (do cẩu thả) nên đã cho ra kết quả là mặc dù Thân vượng nhưng thế lực của Thân và Tài là ngang nhau (tức gần như Thân trung bình) cho nên đã đi đến kết luận là vào các vận Thực Thương, Thực Thương sẽ xì hợi Thân để hóa sinh Tài, chính vì vậy mà Thân sẽ giảm vượng còn Tài sẽ vượng thêm mà dẫn tới Thân nhược không thắng nổi Tài .... dẫn đến là vẫn nghèo đói....

Do vậy ví dụ thứ 3 này tôi tạm thời bó tay, hy vọng sẽ nghiên cứu tiếp.


Sau đây tôi phản biện tiếp ví dụ thứ 4 của Vương Khánh:

“Càn tạo: Đinh Dậu-Quí Mão-Nhâm Ngọ-Canh Tuất

Đại vận: Mậu Tuất
Lưu niên: Mậu Tý

Mệnh này Thất Sát có nguồn ám tàng, trong kết cấu thì Thất sát không bị chế, Sát cơ trùng trùng, đại vận thấu Sát sẽ là ứng kỳ. Vận Mậu Tuất, năm Bính Tuất bị ung thư ruột, năm Mậu Tý không chữa khỏi mà chết.

Thất Sát không bị chế, không hợp trói, chỉ cần có lực và có nguồn thì tất sẽ công thân. Thiên can chỉ hung tai hoành họa có tính bất thình lình, địa chi chủ ác tật tuyệt chứng, điều này ít khi không ứng nghiệm.

Vượng suy pháp không phân thập thần cát hung, xem thì đơn giản, thực tế thì đã chặn mất nửa con đường dự đoán, càng đi càng hẹp”.

Thử xem tai họa này có phải do Thất Sát gây nên hay không khi mà rõ ràng trong Tứ Trụ này Sát là Mậu tàng trong Tuất của trụ giờ, mà Tuất đã hợp với Ngọ trụ ngày hóa Hỏa thành công, vậy mà Vương Khánh cho rằng Mậu Sát không bị hợp trói ?

Sau đây là bài luận của tôi:

Sơ đồ tính điểm hạn năm Bính Tuất (bị ung thư ruột):

http://farm8.staticflickr.com/7158/6807904935_7cbb944ee3_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6807904935/)

2006 là năm Bính Tuất thuộc đại vận Mậu Tuất, tiểu vận Tân Dậu và Canh Thân. Ta xét điểm hạn ở tiểu vận Tân Dậu (vì ở tiểu vận Canh Thân có tổng điểm hạn quá thấp).
1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Tài tinh là kỵ 1, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp/ Quý ở trụ tháng.
2 – Trong Tứ Trụ có Ngọ trụ ngày hợp với Tuất trụ giờ hóa Hỏa.
Vào đại vận Mậu Tuất và lưu niên Bính Tuất có Hỏa cục trong Tứ Trụ hợp với 2 Tuất ở tuế vận hóa Hỏa. Tuất đại vận hóa Hỏa đã dẫn hóa cho Mậu đại vận hợp với Quý trụ tháng hóa Hỏa.
Bính lưu niên hợp với Tân tiểu vận không hóa.
Với sơ đồ này cùng lúc có tới 3 giả thiết (đã trở thành quy tắc chính thức) phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm (1 – Hóa cục trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục. 2 – Can trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục. 3 – Chi của đại vận và lưu niên cùng hóa cục có cùng hành và có tổ hợp của thiên can liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận).
Sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm, Thủy chỉ còn 3đv, Hỏa có 18,24đv. Thân càng nhược và dụng thần không thay đổi. Hỏa trở thành kỵ vượng.
Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, Hỏa có tới 37,24đv còn Kim có 12,95đv. Do vậy Hỏa vẫn là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi (vì kỵ Hỏa có 20đv nhiều hơn hỷ Kim). Bán hợp Hỏa có 0,5đh (2 chi trong Tứ Trụ không có điểm hạn vì đã hóa Hỏa từ khi mới sinh). Ngũ hợp Hỏa có 0,5đh. Mậu, Quý và 2 Tuất ở tuế vận, mỗi can chi có 2.0,5đh kỵ vượng.
Trụ tháng Quý Mão không thể thiên khắc địa xung với trụ năm Đinh Dậu vì Quý là can chủ khắc đã hóa cục.
4 - Dụng thần Quý bị tuế vận hợp có 1đh và nhược ở lưu niên có 0đh.
5 - Nhật can Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh.
6 - Dậu tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh và có 1 hung thần là Không Vong có 0đh (vì can của Không Vong bị hợp).

Tổng số là 4,74đh. Số điểm này chính xác đến kỳ diệu. Điều này đã khẳng định thêm một lần nữa điểm hạn của các giả thiết được sử dụng ở đây là chính xác.

Qua sơ đồ này cho ta thấy tất cả các can chi Thổ đã hóa Hỏa, vậy thì còn đâu là Thất Sát khắc Thân để có thể gây ra tai họa này ?
Thực chất của tai họa này chính là Thân quá nhược không thắng được Tài (Hỏa) cho nên vì Tài mà gặp tai họa.

Thủy suy cùng kiệt vì mất tới 2/3 đv trong khi Hỏa cực cường vượng mà Thủy đại diện cho bệnh ung thư, còn Bính, Ngọ đại diện cho ruột non, tim, máu... Mậu, Thìn và Tuất đại diện cho dạ dầy, ruột... Cho nên người này bị ung thư ruột là hợp lý.

Nếu theo Vương Khánh và các sách Kinh Điển như “Tử Bình Chân Thuyên bình chú”, “Trích Thiên Tủy”, .... là cứ cho Mậu đại vận đã hóa Hỏa rồi vẫn khắc được Quý và Nhâm thì lực khắc này có giá trị gì khi mà Mậu tử tuyệt ở cả tuế vận còn Nhâm vượng ở cả tuế vận ? Lực khắc này chả khác gì lực của một người đang hấp hối đòi đánh lại các võ sĩ đang thi đấu ở trên võ đài.

Qua đây cho biết Vương Khánh và đa số các cao thủ Tử Bình từ cổ tới kim không hề quan tâm tới vượng suy của các can chi khi luận chúng xung khắc với nhau cũng như chúng đã bị hợp hay không.

Qua bài phản biện này liệu có đủ sức để chứng minh câu nói sau đây của Vương Khánh là sai hay không ?

"Vượng suy pháp không phân thập thần cát hung, xem thì đơn giản, thực tế thì đã chặn mất nửa con đường dự đoán, càng đi càng hẹp”

MJKN
03-02-12, 16:40
Càn:
Nhâm Quý Nhâm Bính
Tý Mão Tý Ngọ

Theo cách tính điểm hạn thì liệu có phải là thân vượng dụng tài chăng? Nếu vậy hành Tị Ngọ Mùi vận có hẳn là phát đại tài không?

VULONG
03-02-12, 18:21
Càn:
Nhâm Quý Nhâm Bính
Tý Mão Tý Ngọ

Theo cách tính điểm hạn thì liệu có phải là thân vượng dụng tài chăng? Nếu vậy hành Tị Ngọ Mùi vận có hẳn là phát đại tài không?

Tứ Trụ này có Thân quá cường vượng mà Kiêu Ấn không có nên dụng thần đầu tiên thường là Tài tinh nhưng vì Thân quá cường vượng mà Thực Thương không nhiều nên dụng thần đầu tiên trong trường hợp này phải là Thực Thương/ Ất tàng trong Mão trụ tháng.

Với Tứ Trụ này Thân quá cường vượng, tỷ kiếp nhiều còn thêm 2 Kình Dương và mặc dù có Tài nhưng Tài đều bị khắc gần nên tài bị thương tổn nặng. May có Thực Thương nắm lệnh nên vào vận Giáp Thìn, Ất Tị và có thể thêm vận Đinh Mùi (nếu còn sống và không bị tàn tật) thì chắc chắn người này đủ ăn đủ tiêu là khá lắm rồi (tức 2 vận đầu khá, còn vận thứ 3 (Đinh Mùi) không thể nghèo đói).

Khả năng hiện giờ của tôi chỉ dự đoán được đến như vậy.

MJKN
03-02-12, 22:55
MJKN hoàn toàn không có ý đánh đố nhưng do không phải phương pháp nào cũng toàn diện. Phương pháp tính điểm hạn nói riêng hay Vượng Suy Pháp nói chung hình như không thấy đây cũng là mệnh của một người ăn mày.

Càn:
Nhâm Quý Nhâm Bính
Tý Mão Tý Ngọ

Theo tài liệu ghi lại thì đây là một mệnh ăn mày. Xem ý tứ thì có các điểm đáng nói như sau:
_ Tý là cung thê. Ngọ là Tài-thê tinh. Thê tinh cùng thê cung xung. Tình thế lại là ngày giờ thiên khắc địa xung nên môn hộ bị phá hủy. Đại biểu đầu tiên là bản thân cùng thê tử vô duyên (không có vợ), thứ hai là tứ cố vô thân vì môn hộ đã phá hủy (Tý Ngọ xung lực rất mạnh).
_ Quý Mão mang tượng. Là Quý sinh Mão. Tý và Quý là một chữ. Quý sinh Mão nhưng Tý hình phá Mão. Ở điểm này mâu thuẩn rồi. Mão là Thực, là con cái nhưng tọa tháng không xem con cái ... vậy Thực đại biểu là thức ăn rồi. Mệnh đối với thức ăn vô duyên nên kiếm ăn khó vô cùng. Hai Tý kẹp Mão. Phương thức này gọi là chế bất tử. Nên vẫn có thể kiếm ăn. Năm tháng đại biểu phương xa nên phải tha phương cầu thực.

Giả như kết hợp Vượng Suy Pháp cùng Ý Tứ Pháp thì xin phép viết như sau:
_ Áp dụng phương pháp tính điểm hạn của bác VULONG, mệnh này thân quá vượng cường nhưng chưa thể tòng được. Dù gì hỏa cũng được Bính Ngọ thông căn và sinh giữa mùa xuân kia mà. Dụng Tài để làm dụng thần. Dụng thần nhìn chung là nhược. Đánh giá qua tổ hợp bát tự thì mệnh này ở mức dưới trung bình. Hành các vận hỏa trước nên trong các vận này cũng chỉ là một người bình thường hay có chăng là khá giả một chút.

_ Xét đến ý tứ, Tý xung Ngọ như trường hợp trên thì thông thường là Ngọ đã được chế sạch nhưng mà do Bính ở trên Ngọ. Bính không được chế sạch (muốn sạch thì phải có Tân lộ hợp Bính). Bính Ngọ là liên thể. Một trong hai không chế sạch thì xem như hỏng rồi. Nói đại khái là hỏa không quy thuận mệnh chủ.

Đại thần không thuận lòng theo hầu Vua thì tất là điềm chẳng lành. Nếu dụng thì chẳng khác dùng tham quan cai quản việc nước.

Đánh giá công bằng rằng "Phương pháp tính điểm hạn" có công lớn trong việc xác định sự Vượng Suy các thần trong bát tự chính xác hơn. Nhưng mà, một phần lý giải mệnh lý vẫn nằm ngoài sự Vượng Suy ấy.

Mỗi con người đều có phần xác và phần hồn. Bát tự đại biểu cho mỗi chúng ta có thể cũng vậy. Vượng Suy Pháp là phần xác và Ý Tứ Pháp là phần hồn chăng? Hay là vẫn còn nhiều yếu tố khác nữa ... ? Khoa học huyền bí quả thật rất huyền bí!

VULONG
04-02-12, 04:09
"Phương Pháp tính Điểm Hạn" của tôi chỉ có mục đích là xác định tai họa của con người nặng hay nhẹ như thế nào còn xét để xem có phải là mệnh ăn mày không thì chắc nó thuộc về Tài Quan Ấn thì tôi mới đang nghiên cứu.

Ở ví dụ trên nếu biết được chính xác hoàn cảnh của người này thì hay biết mấy, nhất là thời điểm và lý do vào năm nào bắt đầu trở thành ăn mày.

Thời gian tới khi nghiên cứu xong 2 cuốn... tôi sẽ sưu tầm các ví dụ về ăn mày xem chúng có chung các thông tin gì mà dẫn tới ăn mày.

Thân chào.

dinhman_kt
04-02-12, 09:52
Tôi thì dự đoán Ông VuLong từ năm nay trở đi sẻ thành tựu trong học thuật...Sẽ được dư luận công nhận.
Bạn MJKN sắp trở thành cao thủ Tử Bình rồi...Ngộ tính quá cao..
(Lời chân thành !Ông VuLong đừng nghĩ bậy ý tui nha)

anh033
04-02-12, 10:41
Nhâm Tý Quý Mão Nhâm Tý Bính Ngọ
Dùng vượng suy vẫn có thể thấy đây là mệnh xấu. Thân vượng không có ấn, tỷ kiếp quá nhiều nên Quan sát Thổ mới đúng là dụng thần. Trong mệnh không có thổ là điều dở thứ nhất, lấy Kỷ thổ tàng trong Ngọ là dụng thần, Ngọ bị Tý xung mất, dụng thần bị phá là cực xấu.
Vậy tự số gốc đã xấu rồi, hành vận mộc hỏa chả ra gì, Bính Ngọ thì Ngọ vẫn bị Tý xung, Đinh Mùi thì Mùi tốt lại bị hợp. Nếu sống đủ lâu thì đến vận Mậu Kỷ là hết ăn mày!
Vốn không có dụng thần hoặc dụng thần bị phá vô cứu đều là số xấu. Nếu lấy đúng dụng thần thì vượng suy vẫn là bần nông cốt cán không thể thay thế. Nó đơn giản và cơ bản dễ hiểu hơn các phương pháp khác. Gọi nó là phần xác cũng được, cái xác cơ bản, bởi không có xác thì hồn bám vào đâu?

MJKN
05-02-12, 14:39
Theo cách luận của anh033, MJKN thấy có điểm cần nói:

_ Vậy tự số gốc đã xấu rồi, hành vận mộc hỏa chả ra gì, Bính Ngọ thì Ngọ vẫn bị Tý xung, Đinh Mùi thì Mùi tốt lại bị hợp. Nếu sống đủ lâu thì đến vận Mậu Kỷ là hết ăn mày!
.... Ngọ Tý xung là Tý xung Ngọ hay Ngọ xung Tý? Ngọ xung Tý là dụng thần xung chế kỵ thần chủ cát. Tý xung Ngọ là kỵ thần xung khắc kỵ thần chủ hung. Theo cách luận của anh033 thì là đang luận Tý xung Ngọ. Điểm này có chút vấn đề. Nếu khi chỉ xét riêng tổ hợp bát tự, các thần bên trong bát tự được coi là động và tự tương tác với nhau. Khi xét mệnh cục vào hành vận, thì bát tự là cái nội tại tức là cái tĩnh, đại vận và lưu niên là cái động. Hành Ngọ vận thì là Ngọ đến xung Tý chứ không phải Tý xung Ngọ. Ngọ là cái chủ động còn Tý là bị động.
.... Điều tiếp theo là tượng Ngọ Mùi hợp nhưng cũng có một tượng là Mùi hình Tý. Ngọ Mùi nếu hợp thì có Bính dẫn hóa mà hóa dụng. Bất hợp thì hình, hình kỵ thần chủ cát. Đường nào cũng không thể chủ hung hiểm được.

gianghaui
05-02-12, 15:31
theo em. có nhiều lá số chúng ta không thể luận giải vì sao lại xảy ra như vậy như khuynh gia bại sản. tai nạn..... và nhiều việc khác nữa, chúng ta chỉ đánh giá đơn thuần qua 1 lá số tứ trụ thì e là chưa đủ. mà các cụ đã có câu. Nhất mộ, nhì nhà, thứ ba mới là lá số. vì thế có những lá số k tìm ra nguyên nhân cho những sự việc đó cũng là chuyện bình thường mà.

đôi lời của bậc hậu học bon chen topic của các bác.

diennien
06-02-12, 05:59
theo em. có nhiều lá số chúng ta không thể luận giải vì sao lại xảy ra như vậy như khuynh gia bại sản. tai nạn..... và nhiều việc khác nữa, chúng ta chỉ đánh giá đơn thuần qua 1 lá số tứ trụ thì e là chưa đủ. mà các cụ đã có câu. Nhất mộ, nhì nhà, thứ ba mới là lá số. vì thế có những lá số k tìm ra nguyên nhân cho những sự việc đó cũng là chuyện bình thường mà.

đôi lời của bậc hậu học bon chen topic của các bác.

Bạn nói như thế là đúng rồi. Tôi thấy có quá nhiều người sa đà vào một học thuyết rồi mới sinh ra đủ các trường phái , lý thuyết một mớ bòng bong.
Một dẫn chứng điển hình nhất là lá số của tỷ phú Lý Gia Thành. Bên Trung Quốc họ cho rằng với bát tự của ông thì không thể trở thành người giàu có đến thế mà là do mộ tổ kết phát , điều này tôi công nhận . Nhưng có một số người Việt ta lại cho là không phải vì nếu phát mộ thì em trai ông tại sao lại không được như ông,. Điều này chứng tỏ người Việt mình dốt hơn họ nhiều, vì phong thuỷ âm trạch hoặc cả dương trạch đều có các cách cục kết phát cho từng PHÒNG ( Phòng là trưởng hoặc thứ, nam hoặc nữ ). Điều này ai đã từng kinh qua các ngôi mộ kết phát thì sẽ biết ngay.

anh033
06-02-12, 10:03
MJKN: Dụng thần là Thổ, trong mệnh chọn Ngọ vì nó chứa Kỷ, chứ Hỏa không phải là dụng thần, nếu dụng thần Hỏa thì vẫn được trung bình vì Hỏa lộ rõ có gốc. Vì thế vận Ngọ đừng kể là gặp dụng thần, vận Mùi thổ tốt chứ không do hợp hóa Hỏa. Mùi tốt nhưng bị Ngọ, Mão lôi kéo thành vô vị. Vận Mậu Kỷ mới đúng là dụng thần lên ngôi.
Việc chọn Ngọ là do không có thổ thì chọn cái dùng tạm, nhưng cái này cũng bị phá nốt thì lấy gì mà sống.