PDA

View Full Version : Những câu chuyện về tử vi



huynhthanhchiem
22-02-12, 10:38
Mình mở đề tài này để các bạn ai có biết câu chuyện nào về tử vi thấy hay thì post vào đây.Mình xin mở màng đầu tiên:

QUÝ NHÂN LÀ GÌ? QUÝ NHÂN LÀ NGƯỜI ĐÁNG QUÝ
Lời dẫn đề :
Tử vi xuất phát từ Kinh Dich. Kinh Dịch một sách bói thành một sách triết Chỉ dùng âm (-) và dương ( + ) mà diễn tả hầu hết những gì xảy ra trong cuộc sống với cái nhìn đầy minh triết
Đời Ngũ Đại và Tống sơ, một đạo sĩ tên là Trần Đoàn, hiệu là Hi Di, sáng tác " Dịch đồ"cho rằng Bát Quái gốc ở Hà Đồ, đưa dịch học vào một nẻo mới, nẻo thuật số ( tức thuật đoán số mạng). Ồng đặt ra môn Bát Tự Hà Lạc, chuyển can chi của ngày tháng năm sinh thành những con số, rồi chuyển số thành quẻ để đoán vận mạng cho người
Trần Đoàn cũng sáng lập ra môn Tử Vi Đẩu Số nữa, và khi truyền vào Việt Nam rất thinh.
Xin kể lại các bạn sau đây một câu chuyện về tử vi. Đoạn dưới là nguyên văn của người kể chuyên.

Tôi không biết gì về bói toán, nhất là khoa tử vi. Từ ngữ của cái nghề cổ xưa nhất thế giới, tên gọi các vì sao không có thật trên bầu trời thế tục xa lạ đối với tôi. Ðể có được những nhân vật sinh động tôi không ỷ vào trí tưởng tượng vốn không được giàu có, mà thường tìm kiếm trong đời thực những nguyên mẫu cho tới khi có thể, như các nhà văn thường nói, sờ thấy được nhân vật tương lai. Hemingway chia xẻ kinh nghiệm viết văn cho người đi sau "Cái bịa lớn bao giờ cũng giống thật". Tôi bịa kém. Tôi nghĩ khác : cái thật phong phú hơn cái bịa. Nói cách khác, cuộc đời mới là người bịa chuyện giỏi nhất. Ðúng vào lúc tôi đang viết mấy chương đầu cho cuốn sách thì cha tôi bị bắt, nhà tôi bị khám, bản thảo bị tịch thu. Vào thời điểm rối ren như thế mà tiếp tục viết thì thật gàn dở, nhưng tôi không muốn công việc bị gián đoạn. Tôi chán nản, tôi hụt hẫng, tôi có cảm giác mình chẳng còn lúc nào để viết nữa. Tôi chạy tới với sáng tác như thể nó là cứu cánh. Mà cũng có thể tôi cần được ngụp lặn trong bận rộn để tách mình khỏi những ý nghĩ đen tối về tai họa đang đến. Tôi đã gặp kẻ hủy diệt thế giới quan của tôi trong bối cảnh như vậy. Ðồn rằng gần đền Hàng Trống có một ông thầy bói giỏi. Ông có thể nói ra vanh vách chuyện quá khứ của mình, còn những gì ông nói về tương lai thì sau nghiệm ra thấy đúng cả. Người khuyên tôi đến xem bói là cô em dâu tôi, rất tin ở bói toán, và vợ tôi, vốn chẳng bao giờ mê tín dị đoan. Ðược chứng kiến cảnh công an nửa đêm hùng hổ tới nhà bắt cha tôi, vợ tôi lo cho số phận của tôi. Mà số phận tôi cũng tức là số phận cái gia đình bé nhỏ mới được xây dựng gồm vợ chồng tôi và hai đứa con lít nhít, một trai một gái. Nếu tôi cũng bị bắt thì gia đình tôi tan nát. Lương vợ tôi không đủ nuôi thân, nói gì nuôi hai đứa con. Trong hoàn cảnh chúng tôi bất cứ ông thầy bói nào cũng đáng tin nghìn lần hơn một chính quyền dối trá. Ông thầy bói mù cảm thấy sự có mặt của chúng tôi qua những tiếng dép bước rón rén vào nhà. Ông nói, giọng sẽ sàng : - Xin các vị chờ cho một lát. Chúng tôi đến đã sớm nhưng có người còn sớm hơn. Ông thầy bói đang xem cho một bà đứng tuổi mặt mày thiểu não, luôn miệng vâng dạ, thỉnh thoảng lại suỵt soạt khấn khứa. Nhà chật, ông hành nghề trên cái phản. Người trong nhà đi lại loẹt xoẹt, ra đụng vào chạm ầm ĩ, coi như không có ông. Chúng tôi ngồi ghé vào mép cái phản không mấy sạch sẽ. Tôi thất vọng. Tôi tưởng sẽ gặp một cụ đồ nho thất thế với cặp mắt sáng anh minh, giọng nói sang sảng, chứ không phải ông già mù với đôi tay xương xẩu sờ soạng trên chiếc chiếu bẩn để tìm cái đĩa ông vừa đặt xuống. Giọng ề à ông nói với bà khách những chuyện tương lai tầm phào : tháng này bà có lộc, nhỏ thôi, nhưng cũng là lộc, còn tháng sau thì phải cẩn thận kẻo mất cắp, tháng sau nữa sẽ có người nhà ở xa về mang đến tin vui... Ông không có chỗ trong cuốn tiểu thuyết của tôi. Ông sẽ lạc lõng trong đó như một nhân vật quặt quẹo. Ðã định đứng lên ra hiệu cho vợ tôi lẻn về thì quẻ bói của bà khách đến trước cũng vừa xong. - Mời ông bà ngồi. Vẫn yên vị, xếp bằng tròn, ông thầy bói quay mặt về phía chúng tôi, hướng rất đúng, như thể đàng sau cặp kính đen là đôi mắt sáng. Ðành lê chân ngồi vào chỗ bà khách vừa bỏ đi. - Sáng nay tôi độn, biết ông sẽ đến. - cặp kính đen nhìn tôi - Thánh dạy : có quý nhân đến nhà ! Trời đất quỷ thần ơi, tôi mà là quý nhân của ông ư, ông thầy bói ? Quý nhân theo cái nghĩa nào vậy ? Ông nhầm rồi. Tôi chẳng có thể là quý nhân trong bất cứ nghĩa nào, cho bất cứ ai.. Một ngàn lần không, ông thầy bói của tôi ạ, tôi không phải quý nhân trong bất cứ nghĩa nào, càng không thể là quý nhân của ông. Thậm chí tôi cũng chẳng còn tiền để đặt quẻ cho hậu hĩ. - Không dám. - tôi lúng túng nói - Chúng tôi đến phiền xin cụ xem cho một quẻ. - Vâng. Ông muốn xem hung cát ? Hay công danh, tài lộc ? - Cụ cứ nói những gì cụ thấy, xin lỗi, những gì Thánh dạy... Một nụ cười độ lượng thoảng qua mặt ông thầy. - Xin ông cho biết ngày sinh tháng đẻ. Tôi nói. Nhìn xéo qua cặp kính đen, tôi thấy một đôi mắt trắng đục - ông già bị lòa thật. Ông già ngẩng đầu lên, trán hơi nhăn lại, lẩm bẩm một hồi rồi sờ soạng tìm cái đĩa. Bằng hai bàn tay thành kính, ông nâng cái đĩa lên ngang trán, suỵt soạt khấn. Rồi hạ cái đĩa xuống, ông trầm ngâm gieo tiền. Ba đồng trinh rơi xuống mặt đĩa kêu rổn rảng. Sau khi rờ rẫm sờ từng đồng một để biết sấp ngửa, và hẳn cũng để kéo dài thời gian suy nghĩ, ông xoa xoa chúng trên mặt đĩa một lát rồi chậm rãi nói với tôi : - Tôi sẽ nói ba điều. Nếu ông thấy tôi nói đúng thì ta xem tiếp. Nếu sai, tức là Thánh không cho, xin ông lại đây vào bữa khác. Tôi sẽ không trở lại đây nữa, bất kể Thánh cho hay không cho. - Xin cụ cứ nói. - Thứ nhất, ông đã từng xuất ngoại. Một câu chẳng quan trọng, không có ý nghĩa. Nhưng kể cũng lạ, căn cứ vào đâu mà ông già mù kia đoán được tôi đã ở nước ngoài ? Tôi không ở nước ngoài lâu tới mức giọng nói bị thay đổi. Một mùi lạ, xà phòng thơm hoặc nước hoa ? Cũng không có chuyện đó. Tôi vừa mới từ những hố bom trở về. Tôi tắm nước ngòi, nước ao tù, không xà phòng, chỉ cốt gột sạch bùn đất. Người mù có khứu giác tinh tường, nhưng ông không thể thấy ở tôi mùi nước ngoài nào. - Có đúng vậy không ? - Dạ, thưa cụ cứ nói tiếp. - Thứ hai, mùa thu năm nay nhà ông có hỉ, hỉ qua tiếp đến hạn. - Dạ ? - Hỉ đây ứng vào anh em ông, hoặc em trai lấy vợ, hoặc em gái lấy chồng. Còn hạn, nó ứng vào cụ thân sinh ra ông. Ông thầy bói nhẩn nha nói trúng vào những sự kiện vừa xảy ra trong gia đình tôi - mùa thu em trai kế tôi lấy vợ, sau đó đến cha tôi bị bắt. Tôi sững sờ. - Sao mà lại có người số lận đận thế ! - ông già ngẩn người, tư lự - Lạ thật, lạ thật ! - Là sao, thưa cụ ? - Cứ như Thánh dạy thì hiện nay cụ thân sinh ra ông đang mắc hạn tụng đình, tức là có chuyện lôi thôi nơi cửa quan... Tôi vờ phản bác : - Sao có chuyện thế được, thưa cụ ? Cụ thân sinh tôi đã về hưu, hiện sơ tán ở Tam Ðảo. Cụ đã có tuổi, chẳng làm gì để có thể mắc vào chuyện lôi thôi. Ông thầy bói nghiêng đầu kiên nhẫn nghe. - Vậy mà cứ như quẻ này thì cụ nhà bị bắt rồi. Ông nói sau một lát im lặng, như thể khi tôi nói ông bận lắng nghe ai đó đang nói với ông, chứ ông không nghe tôi. Tôi lặng đi. Có thể có sự thật như thế không : một ông già xa lạ, và ông ta biết được những việc xảy ra trong nhà người khác ? - Nhưng... - Lận đận quá ! - ông già lắc đầu ái ngại - Tính ra thì thời Tây Tây bắt, thời Nhật Nhật bắt, đến thời ta cũng không yên. Con người sao mà khốn khổ thế ! Cương cường quá, thẳng tính quá, nên mới bị tai vạ. Cự môn đắc địa lại gặp Hỏa tinh, Thất sát... Lại còn thêm mấy hung tinh nữa, mới nguy... Cứ như tôi suy thì cụ nhà không vướng vào chuyện kinh tế đâu, mà đây là chuyện chính trị... Tôi không còn muốn chối nữa. Nhưng tôi chỉ nói : - Tôi sẽ đi Tam Ðảo thăm cụ tôi ngay. - Ông đi đi ! Tuy chẳng giúp gì được cụ nhà đâu, nhưng đạo làm con ông phải đi. Mà lạ, cụ nhà gặp nạn ít ra cũng gần cả tháng rồi mà sao không ai báo cho ông biết ? - Thưa cụ, tôi vừa đi công tác khu 4 về. Vợ tôi đưa mắt cho tôi. - Bây giờ phiền cụ xem cho tôi. Ông thầy bói cúi đầu xuống. Ngón cái đi những bước chậm chạp trên những ngón tay xương xẩu. - Tôi nói thẳng ra nhá ? - Vâng, cụ cứ nói thẳng. - Thế này : chính ông cũng sẽ gặp hạn, ông ấy, nhưng không phải ngay bây giờ. Qua tháng này đã, trong tháng sau... Tôi liếc vợ tôi. Mặt nàng nhợt đi khi nghe câu nói đó. Tội nghiệp, vợ tôi thương tôi biết bao nhiêu. - Hạn sẽ xảy ra bất ngờ...- ông ta nói tiếp - Tôi biết, ông không tin đâu, nhưng nó sẽ đến đấy. Hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa... Tôi suy nghĩ. Thế là thêm một người khẳng định tôi sẽ bị bắt. Khác ở chỗ người này không nhìn vào tình hình chính trị mà căn cứ ở những vì sao không có thật. - Hạn liệu có dài không, thưa cụ ? - tôi hỏi. Ông thầy bói lắc đầu : - Tôi không nói trước được. Nếu ông cúi mình xuống, không cãi lại, người ta nói gì cũng gật, buộc cho mình cái gì cũng ừ, cứ nhận hết thì xong. Bằng không hạn sẽ kéo dài : hai thành bốn, bốn thành tám, tám thành mười sáu... cứ thế mà nhân lên mãi... Vợ tôi nước mắt đã lưng tròng. Xong quẻ, tôi đưa cho ông thầy bói nhiều hơn số tiền tôi định đưa. Tôi hỏi ông về chữ quý nhân mà ông dùng cho tôi thì ông nói : - Quý nhân là người đáng quý, không có nghĩa nào khác. Không phải ông cho tôi tiền hay cho tôi quà mới là quý nhân. Mong còn có dịp gặp lại nhau. Trước khi ra về tôi đặt câu hỏi cuối cùng : - Thưa cụ, cụ đã xem cho nhiều người, biết nhiều số phận, tôi muốn hỏi cụ : có phải thời nay người xấu nhiều hơn người tốt không ? Ông già cười khà khà : - Cuộc đời phải có âm có dương, có đực có cái, có xấu có tốt, mới là cuộc đời chứ. Dĩ nhiên, có hồi âm thắng dương, có hồi dương thắng âm, tựu trung chông chênh là thường tình, cân bằng là hãn hữu. Ông có số nhìn xa trông rộng, ông thừa hiểu sự đời, còn hỏi tôi làm gì ?

huynhthanhchiem
22-02-12, 10:43
LÁ SỐ TỬ VI


Bạn tin có số mạng không? Người tin thì bảo "Giày dép còn có số, huống gì con người" Người không tin, quạt lại "Mấy thầy tướng số có biết được tương lai bản thân mấy thầy không? Hay chỉ nói phét kiếm tiền?" Người tin với người không tin cãi nhau có ai chịu thua ai! Nay tôi xin kể một chuyện về chính bản thân tôi để nhờ bạn phán xét rằng con người có số phận hay không?

Ông nội tôi là người cựu trào. Sách chữ nho ông để đầy một tủ. Ông là người nghiện sách nên suốt ngày cầm quyển sách trên tay. Khi về hưu ông tôi làm thầy thuốc nam, thuốc bắc kiêm cố vấn cho bà con chòm xóm trong các vụ quan, hôn, tang, tế. Ngay cả khi sinh con họ cũng đến nhờ ông tôi một lá số để biết tương lai đứa bé ra sao? Dĩ nhiên con cháu trong nhà ông tôi đều chấm cho mỗi người một lá số, hễ người nào gặp một biến cố gì lớn trong đời, ông tôi lại đem lá số đó ra chứng minh. Ngay cả chuyện bố tôi mất tích ông tôi cũng đã phân tích sẵn trong lá số của bố tôi, nhưng không nói ra trước mà thôi.

Bố tôi là con út của ông tôi, tôi lại là con út của bố tôi, là đứa cháu trai nhỏ nhất trong gia đình nên trong nhà, tôi được coi như ông hoàng con, muốn gì được nấy. Thời Pháp thuộc, bố tôi làm "Jeunesse", là làm việc làng nhàng gì đó ở ty thanh niên thể thao của thị xã. Đến thời kháng chiến chống Pháp bố tôi theo kháng chiến và mất tích. Khi kháng chiến bùng nổ thì mọi người phải tiêu thổ và tản cư về vùng nông thôn, ít lâu sau chúng tôi hồi cư về lại thành phố. Đó là một thị trấn miền biển cách Nha Trang không xa lắm. Khi lên trung học tôi ra Nha Trang học đệ Nhị và đệ Nhất trường Võ Tánh, vì thị trấn tôi ở không có trường trung học đệ nhị cấp.

Trở lại cái lá số của tôi ông tôi chấm rất kỹ, nhưng hình như có điều gì khác lạ nên thỉnh thoảng ông tôi lại đem ra chiêm nghiệm, rồi giở sách ra nghiên cứu với vẻ trầm ngâm suy tư lung lắm. Hễ nghe ai có tài chấm tử vi thì ông tôi lại đem lá số của tôi tìm đến, nhờ xem giùm rồi hai người lại bàn cãi lý luận rất sôi nổi, nhưng rốt cuộc cũng chịu thua không biết có trục trặc ở chỗ nào mà tìm không ra?!

Sở dĩ tôi biết được như thế là vì mỗi lần có bạn bè đến, khi bàn chuyện sách vở đông tây kim cổ, ông tôi thường đem lá số của tôi ra làm đề tài về sự huyền bí của văn minh cổ của người Tàu. Tôi vốn không tin ở số mạng nên chẳng bận tâm. Đến năm tôi lên trung học thì ông tôi đã trên tám mươi, tuy là người tri thiên mệnh nhưng ông tôi vẫn bồn chồn ưu tư cho thằng cháu út, nên một hôm ông gọi riêng tôi và bảo.

- Ông đã chấm cho con một lá số, theo như lá số sau nầy con có thể làm đến nhất phẩm triều đình, xưa gọi là tể tướng, tướng quốc, nay thì tệ ra cũng làm thủ tướng chính phủ, nhưng ông vẫn thấy có sự bất thường nào đó trong lá số?

Tôi đáp cho vui lòng ông tôi.

- Không thủ tướng thì bộ trưởng cũng được, ông đừng lo cho con.

Ông tôi cười.

- Người ta nói số phận an bài, đâu có kèo nài thêm bớt được.

- Như vậy tương lai của con ra sao?

Ông tôi trầm ngâm.

- Cái số của con thì luôn luôn được may mắn đi thi là phải đậu, có dịp là làm lớn ngay không phải leo lên từng cấp bậc một. Giống như thời Chiến Quốc bên Tàu, mấy ông nho sĩ từ cùng đinh nhảy lên tướng quốc vậy. Nhưng lá số của con có điểm mờ ảo nào đó mà ông vẫn chưa tìm ra. Dù sao thì cổ nhân có dạy "Đức năng thắng số", sau nầy con nên nhớ phải cố mà giữ cho vững cái đạo của người quân tử.

Tôi tò mò.

- Con thấy chỉ cần học giỏi là làm lớn. Phải không ông?

Ông tôi lại cười.

- Người xưa nói rằng "Nhất mệnh, nhì vận, tam âm công, tứ phong thổ, ngũ độc thư", ý là số phận con người còn phụ thuộc rất nhiều vào mồ mả và phước đức ông bà tổ tiên để lại, còn chuyện học hành cố cho lắm mà không gặp thời vận thì cũng chỉ là tên cuồng nho mọt sách mà thôi. Xưa nay có biết bao người dốt mà làm nên sự nghiệp.

huynhthanhchiem
22-02-12, 10:45
Chuyện dốt mà làm lớn sau nầy tôi mới thấy. Lúc đó tôi không tin nhưng vẫn hỏi để tỏ vẻ chú ý lời ông tôi dạy bảo.

- Vậy nhà mình có âm công phong thổ gì không ông?

Ông tôi hào hứng.

- Về mục âm công, phong thổ thì ông đang tiến hành đây. Ông đã tìm được một cuộc đất rất tốt. Ông đã xây sẵn một sinh phần (huyệt mộ), hễ ông nhắm mắt thì đem quan tài đến đó bỏ xuống lấp đất lại là xong, và cứ thế mà chờ cho đến khi mộ ông kết phát.

Mấy hôm sau, ông tôi dẫn tôi đi xem cuộc đất là nơi ông sẽ yên giấc ngàn thu. Huyệt mộ nằm trên một sườn đồi hướng ra biển. Ông tôi rất vui khi giải thích cho thằng cháu nội sáng giá của ông nghe nào long chầu, hổ phục ra sao, đặc biệt huyệt mộ nằm ngay hàm của con rồng, chỉ chờ bão tố hoặc sóng thần, nước tràn lên đất sẽ sụp lỡ đổ ụp lên mộ, vậy là coi như con rồng đã ngậm miệng lại, lúc đó con cháu mặc sức mà phát vương, phát tướng. Tôi làm như chăm chú và thích thú lắm để ông tôi vui lòng, chứ sự tin tưởng chẳng có bao nhiêu.

Từ nhỏ đến lớn việc dạy dỗ học hành của anh chị em tôi trong nhà, đều do ông tôi lo. Mẹ tôi phải buôn bán tảo tần không có thì giờ, vả lại bà rất thương yêu chiều chuộng chúng tôi chẳng nặng lời bao giờ, nên khi ông tôi mất thì tôi như ngựa không cương mặc sức lêu lổng chẳng ai quản lý được cả. Đi học về là vất sách vở nhào ra sân đá banh, đá banh chán xuống sông tắm. Buổi tối ăn xong là xách cây đàn guita đến nhà mấy đứa bạn hát hò đến khuya mới về nhà lăn ra ngủ. Vì dốt toán nên tôi học ban C (văn chương), ra vẻ ta đây nghệ sĩ.

Đến khi đi thi tú tài một thì trong bụng tôi không có một chữ để làm "hành trang ứng thí". Sách vở từ đầu niên học cho đến cuối năm, bài nào tôi cũng thấy mới tinh! Con người khi gặp khó khăn không biết giải quyết cách nào mới nghĩ đến những đấng vô hình, năn nỉ cầu xin quí vị đó cứu giúp. Tôi tuy không tin những chuyện mơ hồ, nhưng sẵn có lá số tử vi mà ông tôi chấm cho nên tôi giao trách nhiệm thi cử cho ông tôi đảm trách, dù ông tôi không còn trên cõi đời nầy nữa.

Tôi vẫn tiếp tục lười biếng tiếp tục ca hát một cách vô tư như con "Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè..." trong thơ ngụ ngôn của ông La Fontaine. Nhưng đến nhà bạn bè thì đứa nào cũng bận học thi và cha mẹ chúng thường đuổi khéo tôi, nên tôi về nhà hát một mình, đi cà lơ thất thểu ngoài đường phố đến khuya về nhà lăn ra ngủ. Thực tâm tôi cũng muốn học như bạn bè, nhưng bài nhiều quá học sao cho xuể? Thế là tôi đem tất cả sách vở tài liệu để lên bàn thờ ông nội tôi, thắp nhang rồi quì xuống long trọng khấn vái:

- Ông nội chỉ cho con bài nào sẽ ra trong đề thi, con không có thì giờ học hết.

Khi ngẩng lên nhìn ảnh ông tôi quả nhiên tôi thấy hình như ông tôi mỉm cười, vậy là tôi yên tâm. Mỗi môn học tôi lấy quyển sách hay quyển vở, vái ông tôi mấy vái và giở ra độ năm bài theo kiểu tình cờ, và tôi chỉ học có năm bài đó thôi. Môn học nào tôi cũng làm như thế. Vậy mà đi thi tôi trúng tủ đậu bình thứ. Bạn bè thán phục. Chúng biết tôi đã dốt lại lười mà đậu bình thứ, trong khi có nhiều đứa thức khuya dậy sớm, học ngày học đêm mặt mũi xanh lè vì mất ngủ mà vẫn rớt? Chúng thắc mắc tôi phét lác.

- Sang năm tú tài hai tao sẽ đậu tối ưu cho tụi bây coi.

Năm sau thi tú tài hai tôi vẫn mửng đó mà làm. Tôi tin ở lá số tử vi của ông tôi đã chấm cho tôi, thi đâu đậu đó và tin nhất là ông tôi vẫn ở bên tôi, phù hộ tôi dù tôi không thấy được ông.

Thi tú tài hai gồm hai đợt, đậu thi viết mới vào thi vấn đáp. Thi viết thì tôi vẫn trúng tủ, nhưng thi vấn đáp môn vạn vật tôi bị kẹt. Số là khi vào vấn đáp, giám khảo thường để sẵn một số câu hỏi trong hộp nhỏ, thí sinh bốc trúng câu nào trả lời câu đó. Ông giám khảo môn vạn vật nầy nghe nói khó tính lắm. Lạng quạng là ông ta đuổi ra và nói:

- Anh về học lại sang năm đi thi. Tôi cho anh không điểm.

Buổi sáng đó tôi để cho mấy đứa vào thi trước. Đứa nào thi xong bước ra mặt cũng méo xẹo khiến tôi mất tinh thần bụng đánh lô tô, miệng cứ lẩm bẩm kêu cứu ông nội tôi phù hộ độ trì. Tôi giở mấy bài tủ ra coi lại kiểu nhứt chín nhì bù. Đến khi không còn đứa nào nữa tôi mới rón rén bước vào. Ông giám khảo nầy trẻ nhưng coi bộ hắc ám. Mặt hầm hầm như sắp bợp tai thằng thí sinh ngồi đối diện. Tôi trình thẻ học sinh ông không thèm nhìn, chỉ tay vào cái hộp nhỏ đựng câu hỏi. Tôi thò tay bốc một câu mở ra thấy "Tại sao ban đêm, không nên ngủ dưới tàng cây?" Tôi trình câu hỏi cho ông ta. Ông ta bảo.

- Nói đi!

Tôi lặng người! Câu hỏi tôi nghĩ không có trong sách vạn vật chứ đừng nói trong những bài tủ của tôi. Trong đầu tôi hoàn toàn không có một chút ý niệm về chuyện đó, nó sạch bóc như tờ giấy trắng. Tôi biết rõ là vong linh ông nội tôi đang ngồi bên cạnh, nhưng chắc chắn ông tôi cũng lắc đầu thở dài vì vô phương! Thấy tôi cứ ngồi đực ra ông giám khảo lại nhắc.

- Nói đi!

Tôi khiếp quá tự nghĩ nên nói một câu gì đó cho không khí bớt căng thẳng, chứ hột vịt thì chắc chắn tôi đã có sẵn rồi. Bỗng nhiên tôi "liên hệ bản thân" và nói.

- Thưa thầy, ban đêm không nên ngủ dưới tàng cây vì khi ngủ dậy người uể oải, khó chịu.

Ông ta ngẩng lên nhìn tôi.

- Sao anh biết?

Tôi thấy le lói một tia hy vọng.

- Thưa thầy buổi tối em thường đem ghế bố ra sân ngủ, dưới mấy cây vú sữa sáng dậy thấy hơi mệt mỏi trong người.

Ông ta ngước nhìn tôi mặt lạnh tanh.

- Đây là khoa học thực nghiệm chứ không phải khoa học huyền bí. Anh phải chứng minh bằng công thức đàng hoàng. Anh biết khí ốc xi không? Anh biết cạt bô níc là gì không? Viết công thức ra xem?

Tôi gãi đầu! Ốc xi thì tôi viết được, cả đến khí cạt bô níc tôi cũng viết được nữa, nhưng công thức viết thế nào? Thấy đã mớm ý cho mà tôi vẫn ngồi ngẩn ngơ như người thất tình, ông giám khảo mở to mắt ngạc nhiên, có lẽ nghĩ rằng ông đang gặp người ngoài hành tinh gì cũng không biết! Ông cầm thẻ học sinh của tôi lên. Đó là cách đuổi lịch sự. Bỗng nhiên ông nhìn vào thẻ học sinh và hỏi.

- Anh học vạn vật với thầy nào?

- Thưa thầy, em học với thầy Đồng Đen.

Nói xong tôi mới biết mình hớ, biệt danh của các thầy cô là chỉ bọn học trò dùng với nhau để phân biệt thầy cô nầy với thầy cô khác, đây lại đem ra nói với ông giám khảo của mình đúng là tộâi phạm húy! Ông giám khảo trao tôi thẻ học sinh và bảo.

- Gặp thầy Đồng thì thưa với thầy là thầy Bình gửi lời thăm. Tôi cho anh bảy điểm. Còn người nào ngoài kia thì bảo họ vào ngay. Gần hết giờ rồi!

- Thưa thầy em là người chót.

Ông giám khảo nhìn lại danh sách và gật đầu. Tôi cúi chào ông ta và đi thụt lùi ra khỏi phòng. Bạn thử tưởng tượng xem, tôi như một người đang bị đày xuống hỏa ngục, đời đời bị lửa đốt đau đớn mà không thể chết được, rồi thình lình có ông Phật, ông Thánh nào đó cứu ra khỏi hỏa ngục còn cho lên thiên đường ở nữa. Trước đó chỉ năm phút thôi tôi thấy ông giám khảo sao ác ôn quá, ngay sau đó lại thấy ông ta hiền từ như ông Phật! Sướng sao đâu! Tôi sướng đến độ cứ tưởng mình đang bay lơ lửng tưởng như mình nằm mơ. Năm đó tôi đậu tú tài hai mà đậu vớt mới đã! Đúng như ông tôi nói "Thi đâu đậu đó!"

Cũng chưa hên bằng kỳ thi vào trường Hành Chánh của tôi sau nầy. Tôi vào Sài Gòn học Luật và học cả Văn Khoa nữa. Sau thấy trường Hành Chánh tuyển sinh viên ban Đốc Sự tôi cũng nộp đơn, nghĩ rằng sau nầy mình làm lớn (!), phải thông thạo luật lệ và rành về hành chánh. Muốn thi vào trường nầy, tối thiểu phải biết luật Hiến Pháp. Bài bình luận chính trị có đủ điểm trường mới chấm đến các môn thi khác.

Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi chả thèm để ý đến chuyện bài vở. Một buổi tối đi coi xi nê về tiện tay tôi mua tờ báo Chính Luận về nằm đọc chờ giấc ngủ. Khi giở trang trong tôi thấy bài "Hành Pháp" của giáo sư Nguyễn Văn Bông. Không biết xui khiến sao tôi lại học thuộc bài báo nầy, thuộc từ dàn bài đến từng chữ một. Quả nhiên mấy hôm sau đi thi tôi lại trúng tủ, tuy đề thi có hơi khác.

Bạn nào học khóa mười bốn ban Đốc Sự, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ắt còn nhớ rõ đề thi đó. Mà bạn biết thi vào trường Hành Chánh khó cỡ nào không? Năm tôi thi tổng số hơn sáu nghìn sĩ tử, chen nhau một trăm chỗ ngồi, trong một trăm chỗ đó lại ưu tiên lấy mười sinh viên sắc tộc, mười sinh viên nữ, còn lại chỉ có tám mươi chỗ. Nếu tính tỉ lệ thì còn khó hơn thi tiến sĩ thời xưa nữa. Hên cỡ đó bảo sao tôi không tin tưởng vào lá số tử vi của mình được?

Sau bốn năm đèn sách tôi ra trường nhưng học dốt quá nên đội sổ (đứng chót). Khi chọn nhiệm sở mấy đứa học giỏi chọn trước, còn lại mấy tỉnh khỉ ho cò gáy ở miền giới tuyến và trên cao nguyên cho mấy thằng cầm đèn đỏ, cỡ như tôi. Tôi về địa phương lãnh một chức phó quận ở một quận miền núi. Ngồi trong quận đường nhìn ra chỉ thấy đồng bào Thượng, nhìn xa hơn nữa là núi cao rừng thẩm, thỉnh thoảng nghe vọng về tiếng máy bay, tiếng bom đạn.

Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi không bao giờ buồn chán. Tôi rất cẩn thận trong cuộc sống cũng như trong công vụ. Tôi đóng đúng vai một ông quan thanh liêm, luôn thương yêu giúp đỡ đồng bào trong quận. Nói "ông quan thanh liêm" cho oai chứ chức phó quận đâu có quyền hành gì, hơn nữa bọn trẻ chúng tôi đều có lý tưởng, chính phủ đào tạo chúng tôi là để phục vụ tổ quốc, phục vụ đồng bào, chỉ nghĩ đến hai tiếng tham nhũng đã xấu hổ với mọi người rồi.

huynhthanhchiem
22-02-12, 13:20
Tôi còn nghiêm khắc với chính mình. Tôi không bao giờ nhìn đàn bà, con gái dù các cô gái thượng đã đẹp lại để ngực trần nhởn nhơ đi trước mặt. Tôi cũng không rượu chè cờ bạc bao giờ. Chẳng phải tôi thánh thiện gì nhưng nghĩ đến tương lai sáng lạn (?) tôi chả dại mà để cho bọn đối lập sau nầy mang đời tư của tôi ra mà bêu riếu. Thời gian trôi qua tôi bắt đầu sốt ruột, không hiểu phải bao lâu nữa tôi mới ngồi vào cái ghế tể tướng (thủ tướng)? Nếu cứ làm việc ở nơi hẻo lánh nầy mãi, thiên hạ làm sao biết tôi mà mời tôi ra chấp chính?!

Rồi thì tôi được lệnh đi học lớp sĩ quan Thủ Đức. Tôi rất hài lòng khi nghĩ rằng khi tốt nghiệp sĩ quan quân đội, tôi là người "văn võ toàn tài", sẽ không mặc cảm khi (làm lớn) phải chỉ huy mấy ông tướng lãnh. Mãn khóa sĩ quan, tôi được trả về nhiệm sở cũ. Tỉnh điều tôi về làm trưởng ty công vụ tòa hành chánh tỉnh, là ty chuyên việc quản lý hồ sơ, điều động cán bộ, nhân viên trong tỉnh.

Tôi nghĩ bộ máy huyền bí của định mệnh bắt đầu chuyển động và con đường công danh, sự nghiệp của tôi đã mở ra một cách thênh thang đây rồi. Không ngờ ngồi chưa nóng đít ở cái ghế trưởng ty thì xảy ra vụ sập tiệm năm bảy lăm, tôi chạy thẳng một mạch vô tới Sài Gòn rồi chui vô cái rọ tù cải tạo của công sản. Khi có thông cáo tập trung cải tạo, ủy ban quân quản Sài Gòn ghi rõ là đem một tháng tiền ăn. Ai cũng tưởng học tập một tháng rồi về nên hăng hái xin đi học tập, chen nhau vô cổng (tù) đến nỗi bộ đội phải bắn súng để giữ trật tự.

Đến chiều hết giờ nhiều người ở ngoài cổng chưa vào kịp phải trải chiếu nằm ngủ, chờ sáng mai được vô tù sớm! Nơi trình diện học tập cải tạo là các trường học Gia Long, Trưng Vương, Don Bosco (?) Ai cũng tưởng sẽ học ở đó, không ngờ mấy hôm sau, lúc nửa khuya bộ đội dựng đầu dậy lùa ra xe tải chở đi. Xe nào cũng có bộ đội sát khí đằng đằng súng lăm lăm chỉa vào mấy cậu ngụy khiến mấy cậu chới với. Xe tụi tôi được đưa lên làng cô nhi Long Thành, có tên mới là trại cải tạo 15 NV.

Trước đây làng cô nhi nầy nuôi bọn trẻ mồ côi, khi tụi tôi lên thì bọn trẻ biến đâu mất cả có lẽ đã cho tan hàng. Trại gồm hai dãy nhà dài mỗi dãy có sáu căn, giống như sáu dãy trường học. Bọn tù được nhốt mỗi dãy khoảng trên ba trăm tù. Lúc đông nhất cả trại có trên bốn nghìn tù. Giai đoạn đầu tù được thong thả, ăn xong thì làm bản tự khai, nghĩa là khai gia phả ba đời, khai làm chức vụ gì cho Mỹ, Ngụy, đã phạm tội ác gì với cách mạng và nhân dân.

Khai xong nộp cho đội trưởng, đội trưởng (cũng là tù) nộp cho nhà trưởng, nhà trưởng (cũng là tù) nộp cho cán bộ quản giáo phụ trách. Ngoài việc tự khai còn lên hội trường nghe cán bộ chửi Mỹ, Ngụy rồi về làm thu hoạch, nghĩa là tù cải tạo cũng chửi Mỹ, Ngụy, càng giống cán bộ càng tốt. Buổi tối thì học hát những bài hát cách mạng cũng chửi Mỹ, Ngụy. Mấy tên tù nầy đóng kịch ra điều ta đây giác ngộ cách mạng để đánh lừa cán bộ coi tù, vì biết ngoài cửa nhà tù làm gì cũng có cán bộ rình. Đúng y bon một lần bọn tù chúng tôi hát bài "Giải phóng miền Nam", đến câu "Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng..." thì cán bộ Hai Sự phụ trách dãy A, thình lình xuất hiện ngoài cửa, nạt vào.

- Dẹp, không được hát bài ấy nữa. Miền Bắc không anh hùng sao? Cấm hát. Ai hát bài ấy tôi cùm đầu!

Vào nhà tù tôi chưng hửng! Tể tướng, thủ tướng đâu chẳng thấy mà làm thằng tù không biết ngày nào ra? Khổ nổi cán bộ cộng sản lại bảo "Ty Công Vụ" là công an mật vụ, kết tội nặng đày ra Bắc cho chóng chết. Tháng đầu tiên trong trại cải tạo 15 NV được coi là thời sướng nhất trong đời thằng tù cộng sản. Ăn uống đã có nhà thầu Chợ Lớn lo vì đã đóng một tháng tiền ăn. Bữa nào cũng thịt cá ngon miệng, lại sẵn căng tin cậu nào có lận theo tiền thì mua cà phê kẹo bánh. Buổi chiều kéo nhau ra bên hông nhà, nấu cà phê nhâm nhi tán phét tự coi như đi nghỉ hè một tháng. Nhiều ông còn bàn chuyện sau một tháng về nhà sẽ làm gì sinh sống, vì cách mạng vô thì coi như bị thất nghiệp. Ngây thơ đến thế mất nước cũng phải thôi.

Trong trại cải tạo nầy có rất nhiều tay rành tử vi, đẩu số. Những người có học mà nghiên cứu một vấn đề gì tất phải rộng rải sâu sắc lắm. Thế nên nhân một lúc các tay tổ tử vi họp nhau sau hè nói chuyện tướng số, tôi mới đem cái lá số của tôi ra và thắc mắc. Ai cũng hỏi tôi có chắc là đúng ngày sinh tháng đẻ, có đúng giờ chào đời của tôi không? Tôi xác nhận là đúng y trăm phần trăm, họ bấm tay như mấy thầy bói mù, có người đem tờ giấy ra vẽ ngang vẽ dọc.

Rồi ai cũng ngớ ra, lá số của tôi quả có chuyện lạ! Rõ ràng nhất phẩm triều đình nhưng lại ở tù, mà tù VC thì chỉ có nước mục xương hi vọng gì được thả ra. Họ cãi nhau như mổ bò, cuối cùng một ông hỏi tôi, từ trước đến giờ có đóng kịch, hát bội, cải lương lần nào chưa? Có đóng vai thừa tướng, tướng quốc, thủ tướng lần nào chưa? Tôi quả quyết là chưa. Ông ta bảo sau nầy tôi nên theo gánh hát và đóng vai thừa tướng thì xuất sắc lắm. Một ông khác lớn tuổi hỏi tôi một cách nghiêm trang.

huynhthanhchiem
22-02-12, 13:29
- Cậu biết hiện nay cậu làm chức vụ gì trong trại nầy?

- Tôi làm đội trưởng.

- Cậu có biết dưới tay cậu có những ai không?

Tôi kể tên mấy ông trại viên trong đội tôi. Ông A, ông B, ông C...Ông ta lại hỏi.

- Mấy ông đó vì sao vô đây cậu có biết không?

- Thì ông A làm thẩm phán, ông B làm dân biểu, ông C làm giám đốc nha...

Ông bạn tù giải thích.

- Thủ tướng chỉ làm xếp ngành hành pháp thôi. Đây cậu quản lý cả ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, lớn hơn thủ tướng. Vậy là cậu làm tướng quốc, tể tướng đúng với cái lá số của cậu rồi còn phàn nàn gì nữa!?

Tôi nổi sùng.

- Các ông đó đâu còn làm quan chức gì?

- Cậu thấy, thông báo tập trung cải tạo từ phó quận đến tổng thống. Họ nhốt chức vụ vào đây chứ có nhốt tên A, tên B nào đâu. Cậu làm đội trưởng là làm xếp mấy quan chức đó, vậy cậu không phải tướng quốc thì làm gì?

Cả bọn cười vang nhưng tôi không cười. Cha lốc cốc tử nào bên Tàu ngày xưa đã chơi cho tôi một cú đau điếng. Hay là con rồng chưa khép miệng để nuốt ông tôi vô bụng cho con cháu phát vương, phát tướng? Lúc đầu tôi nghĩ như thế cho đến khi bị đày ra Bắc tôi mới hoàn toàn thất vọng. Sau một tháng đã hết tiền ăn mà tù đã nộp, chúng tôi bắt đầu ăn "cơm" tù để hiểu thế nào là thằng tù cải tạo VC.

Từ trại tù Long Thành, chúng tôi lần lượt mỗi đứa được lãnh một cái bao bố, (là loại bao chỉ xanh có thể chứa đến một trăm ký gạo), nghe cán bộ bảo để đựng vật dụng cá nhân, nhưng có người lại bảo để cho thằng tù vô bao bố, thả xuống biển cho mò tôm được nhanh gọn, vì thực sự, chúng tôi có đem gì theo đâu (một bộ đồ, vài cái quần đùi, bàn chải đánh răng...) mà phải dùng bao bố? Chúng tôi xuống tàu thủy ra Bắc. Lúc lên bờ bị "nhân dân" đứng chờ sẵn, mắng nhiếc và ném đá nữa, nhưng khi tù lên vùng rừng núi đi lao động gặp đồng bào, họ lại bảo "Nhân dân miền Bắc chờ các ông ra giải phóng không ngờ các ông ra làm thằng tù!"

Tôi chẳng bao giờ để ý đến những chuyện đó, cũng chẳng suy nghĩ lo lắng cho tương lai bản thân. Nhưng có điều lạ là đi đến trại tù nào, tôi cũng bị cán bộ chỉ định làm đội trưởng, từ chối (cãi lệnh cán bộ) là đi cùm ngay, mà dưới quyền tôi, bao giờ cũng là các ông, trước đây là quan lớn trong các ngành hành pháp, tư pháp, lập pháp... đủ cả.

Gần mười năm tù tôi được thả về. Ở Sài Gòn tôi đạp xích lô, bán vé số, sửa xe đạp sống qua ngày. Tôi cố quên cái lá số tử vi của mình, tôi cũng rất cảnh giác, tuyệt đối không bao giờ thay mặt cho ai, không trưởng toán, tổ trưởng nào cả. Tôi sống một mình và cũng nghĩ rằng cái lá số tử vi của tôi chỉ là những chuyện rắc rối mà mấy chú ba tàu đặt ra để lừa phỉnh, dọa nạt những người ngu dốt, kém hiểu biết để kiếm tiền mà thôi. Thế rồi có vụ HO, tù được đi Mỹ. Tôi nghĩ giỏi lắm tôi làm thằng cu ly. Tiếng tây tiếng u tôi nói như thằng ngọng thì chỉ huy được ai nên tôi yên trí.

Thị trấn tôi ở thuộc vùng Đông Bắc Hoa Kỳ tuy không đông lắm nhưng rất xô bồ. Đủ thứ người. Da đen cũng có, Mễ cũng có, Á Châu cũng có. Lộn xộn bát nháo. Tôi ở trong một chung cư đông người Việt, dơ bẩn nhiều tệ đoan xã hội. Trộm cắp hút xách đánh lộn ngày nào cũng xảy ra. Đậu xe khóa cẩn thận nhưng chúng thấy trong xe có gì vừa ý là đập kiếng xe lấy đi. Đôi khi chúng ăn cắp xe để chở những thứ quốc cấm như xì ke súng đạn hoặc để đi ăn cướp bắt cóc. Nhà có con gái khuya chúng đập cửa kiếng vô mò con người ta, bọn nhỏ la lên cha mẹ chạy ra mở đèn, chúng ngang nhiên mở cửa chính đi ra chẳng ai dám làm gì vì sợ chúng trả thù.

Bọn chúng cùng sắc tộc với nhau thì mặc kệ, nhưng vì người Việt hiền lành chúng quậy luôn cả người Việt. Thấy thế tôi nổi sùng vận động đồng bào người Việt tổ chức thành một cộng đồng nhỏ có gì binh vực giúp đỡ nhau. Bọn bất lương động đến người Việt là tất cả đồng lòng chống trả hoặc gọi cảnh sát đến chỉ tận mặt. Từ đó chúng chừa người Việt không quấy phá nữa. Các chung cư quanh đấy người Việt cũng theo gương mà đoàn kết lại.

huynhthanhchiem
22-02-12, 13:30
Những dịp lễ, tết cộng đồng người Việt họp nhau tổ chức chợ tết tổ chức các ngày kỷ niệm truyền thống... rồi tiến đến thành lập một cộng đồng lớn bầu cử hội đồng quản trị, ban chấp hành, xin giấy phép lập hội để đủ tư cách liên lạc với chính quyền địa phương. Đến đây thì tôi tự động rút lui. Tôi không muốn đại diện hay chỉ huy ai cả. Tôi ngán chức tước lắm rồi. Nhưng nhiều người thấy tôi còn trẻ lại có thiện chí nên năn nỉ tôi tham gia ban chấp hành. Từ chối mãi không được tôi chấp nhận vì nghĩ rằng, mình không đi họp họ sẽ chán tìm người khác thay thế. Nhưng rồi vì một nguyên nhân mà tôi lại bon chen cố cho được chức chủ tịch ban chấp hành.

Số là trong ban chấp hành có một người đẹp. Với người khác không biết thấy cô ra sao nhưng với tôi, mới gặp lần đầu tôi đã ngớ người như bị cô bắt mất vía. Người cô cao ráo, trắng trẻo, mắt lá răm, má lúm đồng tiền, răng trắng đều, môi hồng tự nhiên. Khi cô trò chuyện với ai, tôi la cà đến nhìn sững miệng cô, mặt ngớ ra ai cũng thấy. Sở dĩ mấy ông bà mời cô vào hội vì cô rất thiện chí với đồng hương lại rành tiếng Anh, trước đây khi còn ở Việt nam cô là giáo sư Anh văn. Cô thường giúp đỡ hướng dẫn những người mới qua Mỹ đi làm giấy tờ, xin việc làm... Cô được bầu làm phó chủ tịch ngoại vụ, lo liên hệ với chính quyền địa phương và các cộng đồng Á Châu khác. Cô còn độc thân là con gái một ông cựu thẩm phán (trước bảy lăm). Gia đình cô có một nhà hàng rất đông khách, nhất là về ban đêm. Ban ngày cô rảnh rỗi lo việc cộng đồng.

Từ khi lên chức chủ tịch tôi xin làm buổi tối (tôi làm cu li trong một tiệm buôn), để ban ngày có dịp cùng cô lo việc thiên hạ. Đi đâu tôi cũng năn nỉ cô đi theo viện lý do không rành tiếng Anh. Lúc nào cô cũng vui vẻ nhưng khi chỉ có mình tôi với cô trên xe, cô rất nghiêm trang mắt nhìn thẳng phía trước, tôi pha trò cô không cười như đề phòng tôi đi quá trớn điều gì.

Nhưng khi đã yêu mà phải làm thinh mãi tôi không chịu được nên tìm dịp tỏ tình. Nhân một hôm ra phi trường đón một gia đình HO sắp xuống máy bay, trong lúc chờ đợi, tôi làm bộ buồn rầu báo cho cô biết là tôi sẽ qua tiểu bang khác. "Ở đây buồn quá!" Cô hỏi "Sao lại buồn?" "Tôi thất tình nên buồn" "Anh yêu cô nào mà bị từ chối. Phải không?" "Đúng rồi. Tôi năn nỉ cô ta yêu tôi, nhưng cô lắc đầu" Cô tò mò "Anh có thể cho tôi biết cô nào không? Tên gì? Dung nhan ra sao? Có lẽ đẹp lắm mới lọt mắt xanh một người khô khan như anh".

Tôi phịa ra một chuyện tình "Cô ta tên Ni con gái ông Nam, mới đến Mỹ được ba tháng nay. Cô ta cao ráo, mắt lá răm, má lúm đồng tiền. Khi cô cười nói thì miệng cô đẹp... như tiên" Cô cười "Anh tả tôi cũng mê theo anh. Tôi biết gia đình ông Nam có đưa hai ông bà đi làm giấy tờ, nhưng các con của họ thì tôi không để ý. Khi nào có dịp đến gia đình ông Nam tôi sẽ tìm hiểu cô Ni và tỏ tình giùm anh lần nữa. Đàn bà con gái với nhau dễ thông cảm. Nhưng nếu đẹp như anh tả thì anh không nên hi vọng gì" Thấy cô thản nhiên, tôi biết mình đã thất bại nên nín thinh.

Năm đó khoảng tháng chạp âm lịch, ban chấp hành họp bàn việc tổ chức chợ tết cộng đồng. Sau khi phân công phân nhiệm, tôi báo sẽ đi tiểu bang khác đề nghị bầu chủ tịch mới. Mọi người ngạc nhiên hỏi lý do, tôi nói "Cô phó chủ tịch biết rõ chuyện nầy. Hôm trước tôi có tâm sự với cô. Tôi yêu cô Ni con gái ông Nam nhưng bị từ chối. Quê quá lại buồn nữa nên tôi sẽ qua tiểu bang khác" Mọi người cười nói bàn tán xôn xao, họ đề nghị cô phó chủ tịch làm bà mai dong, đến nhà ông Nam năn nỉ cô Ni chấp nhận tình yêu của tôi.

Tôi cười "Cô phó chủ tịch hay bất cứ ai năn nỉ được cô Ni chấp nhận tôi, tôi xin ghi ơn suốt đời và hứa sẽ ở lại phục vụ đồng hương cho đến khi nào quí vị đuổi tôi ra khỏi hội" Cô phó chủ tịch hứa sẽ cố gắng nhưng cô phải đến nhà ông Nam tìm hiểu cô Ni ra sao trước đã. Cô hẹn tuần sau khi họp ban chấp hành kiểm điểm tiến trình chợ tết cô sẽ cho biết kết quả.

Tuần sau mới vào họp mà mọi người đã sốt ruột hỏi công tác xe duyên của cô phó chủ tịch đến đâu? Kết quả ra sao? Cô đứng lên vừa cười vừa hỏi tôi "Anh tả lại cô Ni, người đẹp làm anh say mê dung nhan ra sao?" Tôi cũng cười và nói "Cô Ni cao ráo mặt trái xoan, mắt lá răm má lúm đồng tiền...Đẹp như tiên" Cô phó chủ tịch đúng là người vô tình vẫn cười "Xin thưa với quí vị. Tôi có đến nhà ông Nam, gia đình ông ta có năm người con, chỉ duy nhất một cô con gái tên là cô Ni.

Nhưng quí vị biết sao không? Cô Ni chỉ là con bé năm tuổi. Làm sao mà cao ráo được? Quí vị bị anh chủ tịch đánh lừa rồi. Lý do đi tiểu bang khác không phải vì thất tình cô Ni đâu" Mọi người lao xao bàn tán, bỗng một bà kêu lên "Mắt lá răm, má lúm đồng tiền, người cao ráo...Đẹp như tiên. Đó là cô phó chủ tịch." Cô phó chủ tịch tái mặt đứng lên đến trước mặt tôi, ném mạnh vào tôi quyển sổ tay và cây bút đang cầm trên tay rồi chạy ra khỏi phòng họp. Cô vừa chạy vừa khóc. Từ đó cô không họp hành sinh hoạt gì trong cộng đồng nữa.

Sau hôm chợ tết ban chấp hành lại họp để nghe kết quả chợ tết, rút ưu, khuyết điểm. Xong buổi họp tôi ngỏ lời từ giả mọi người để ra đi "Xin vị nào, có gặp cô phó chủ tịch nói giùm tôi lời xin lỗi. Tôi còn ở đây mà gặp cô thì mắc cỡ để đâu cho hết". Bà hôm trước phát giác người đẹp như tiên là cô phó chủ tịch lắc đầu nói "Anh đi đâu? Ở đây, tiếp tục phục vụ cộng đồng với chúng tôi. Mọi việc giải quyết xong cả rồi. Hôm trước tụi tôi đến thăm gia đình cô phó chủ tịch có nói chuyện của anh. Ông bà cụ thân sinh cô ta coi bộ mến anh lắm. Họ nói cô con gái cũng thường nói về anh, rằng anh đàng hoàng đứng đắn, có thiện chí hết lòng giúp đỡ cộng đồng. Họ hứa sẽ thuyết phục cô con gái. Kết quả gần trăm phần trăm rồi. Ít lâu nữa chồng làm chủ tịch, vợ phó chủ tịch đúng là ban chấp hành gia đình trị"

Mấy ông kia cũng trấn an tôi "Anh yên tâm. Chúng tôi với bố cô ta là bạn tù cả chục năm với nhau nói một tiếng là xong ngay. Gia đình đó rất nghiêm khắc bố mẹ bảo sao con cái phải vâng lời. Hơn nữa anh được khen là đứng đắn có tư cách, từ thời còn trong tù..." Tôi phát ngượng "Quí vị có cảm tình mà nói vậy thôi, chứ ông bố cô ta có gặp tôi lần nào đâu mà biết để khen tặng quá lời như vậy!" Họ cười "Anh chỉ thấy người đẹp biết người đẹp chứ đâu có biết ai. Hay là anh làm bộ không biết tụi nầy. Ông bố cô phó chủ tịch và tụi nầy cùng đi tù cải tạo ngoài Bắc với anh. Chuyển trại, đổi trại... đi đâu anh cũng làm đội trưởng tụi nầy"

Tôi ngớ ra một lúc mới hiểu. Gần hai mươi năm rồi ai cũng thay đổi, mấy vị nầy lớn tuổi nếu tóc không rụng hết thì cũng bạc phơ, hơn nữa qua xứ Mỹ các vị không còn là những tù nhân trơ xương đi đứng xiêu vẹo lờ quờ, mà mập tròn nhanh nhẹn hoạt bát. Vả lại không ai muốn kể lại nhắc lại thời đi tù cộng sản là những ám ảnh chua cay trong đời, nên tôi không nhận ra (trước đây) họ đều là bạn tù với tôi. Sau khi cưới vợ là cô phó chủ tịch ngoại vụ, tôi tiếp tục làm xếp quí vị (cựu) quan lớn đó, cũng đầy đủ hành pháp, tư pháp, lập pháp. Tôi nói với vợ tôi "Anh không phải là chủ tịch cộng đồng. Anh là tể tướng, tướng quốc như thời Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc bên Tàu ngày xưa. Lá số tử vi của anh khẳng định như vậy".

Phạm Thành Châu

huynhthanhchiem
28-03-12, 22:37
Nhắc đến Kinh Dịch thì đa số nhớ ngay đến cuốn Kinh Dịch - Đạo của người quân tử của Nguyễn Hiến Lê. Cụ không nghiên cứu tử vi nhưng đoạn sau đây của cụ trong hồi ký cho ta thấy tử vi đúng ở một góc độ nào. Đó là những trang cuối trong chương 3 của cuốn Hồi ký Nguyễn Hiến Lê. Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn

BỐN ANH EM TÔI

Cha tôi mất đi, để cho mẹ tôi bốn đứa chúng tôi. Tôi là trưởng, 10 tuổi ta, em trai tôi là Hữu Hùng 7 tuổi, rồi tới hai em gái: Oanh 5 tuổi, và Mùi 2 tuổi, mới được 8, 9 tháng.

Khi lớn lên tôi nghe trong nhà kể lại: trước ngày sinh ra tôi, cha tôi nằm mộng thấy một ông già tóc bạc phơ, chống gậy cầm một trái lê đưa cho cha tôi bảo giữ lấy, vì vậy mà đặt tên cho tôi làHiến Lê: dâng trái lê; và trước người sinh em trai, cha tôi nằm mộng thấy vào sở thú cõng con gấu về, vì vậy mà đặt tên là Hữu Hùng: có con gấu.

Tôi không tin mộng mị, suốt đời cũng chỉ nằm mộng vài ba lần thời nhỏ và thời trẻ, mà đều là những mộng vô nghĩa như tìm thấy một đống bi (hồi tôi ham chơi bi) hoặc gặp một người bạn. Có thể rằng đêm nào tôi cũng mộng nhiều lần như mọi người - các nhà sinh lí học nói vậy - nhưng khi tỉnh dậy, không nhớ gì cả, nên tưởng rằng mình không nằm mộng bao giờ.

Em tôi không có vẻ gì hùng dũng như con gấu cả, có lẽ mộng thấy gấu chỉ có nghĩa là sinh con trai. Còn mộng được ông lão tặng trái lê thì có thể giảng rằng tôi sẽ hiền lương (lê là một loại trái thơm, ngọt mà lành) và thọ như ông lão. Tôi không tin hai mộng đó, chép lại đây để con cháu hiểu ý nghĩa tên của tôi và em tôi thôi.

Nhưng có điều dưới đây thì tôi nghiệm thấy đúng.

Khi tôi mới sinh, nhỏ bé, yếu đuối và đen, coi xấu xí. Cha tôi chắc thất vọng, thấy không hợp với mộng; bác Ba tôi lúc đó chưa vô Nam, lấy số tử vi cho tôi, bảo cha tôi: “Số thằng này dễ nuôi, sau sẽ phú quí, chú thím không muốn nuôi thì cho tôi”.

Sau một người khác coi số cho cả bốn anh em tôi, bảo: Số tôi tốt nhất, số em trai tôi non; còn hai em gái tôi thì một người (Oanh) được nhờ chồng, một người (Mùi) được nhờ con.

Ngày nay, tôi thấy đúng như vậy: em trai tôi cũng yểu như cha tôi, 32 tuổi đã chết; em Oanh tôi chồng cũng khá giả, còn em Mùi tôi thì ngoài 50 góa chồng, nhưng ba đứa con đều học khá, hiện nay đã có một đứa giúp mẹ.

Bốn lá số đều đúng cả bốn, vậy khoa tử vi có chỗ đáng tin, ít nhất là về vài nét chính. Tôi sẽ nhận xét về khoa đó trong một phần sau.

Trích từ Hồi ký Nguyễn Hiến Lê

huynhthanhchiem
28-03-12, 22:43
Truyện Đoàn Nhữ Hài - Đông A Di Sự

Qua các tài liệu còn lại, thì khoa Tử-vi đời Trần có một sắc thái đặc biệt hơn ở Trung-quốc, đó là Phá cách và Trợ cách. Câu chuyện Đoàn Nhữ Hài là một bằng cớ. Nếu Tống Thái-tổ biết Trịnh Ân bị nạn mà cứu không được, thì vua Trần Nhân-Tông biết Đoàn Nhữ Hài bị nạn mà cứu thoát. Câu chuyện như sau:

Đoàn Nhữ Hài là học trò trường Quốc-tử giám ở Thăng-long. Năm 20 tuổi, Hài chuẩn bị để thi Thái-học sinh (tiến sĩ), muốn được thi Thái học sinh thì Hài phải qua một kỳ khảo hạch của trường trước, nếu thấy khá thì mới được cử đi thi. Một hôm ra chùa Diên hựu (chùa Một-cột) chơi, thấy vị tăng ngồi nhìn trời, Hài hỏi:

- Bạch hòa thượng, tiểu sinh nghe rằng người tu hành có thể biết được vận số sau này sẽ ra sao, có đúng không?

Hòa thượng hỏi:

- Tiên sinh muốn biết điều gì?

- Tiểu sinh muốn biết mai sau hoạn lộ ra sao. Tiểu sinh mong sư phụ chỉ giáo cho tương lai.

Hòa thượng hỏi ngày, giờ, tháng, năm sinh của Hài rồi nói:

- Số của tiên sinh là số tá cửu trùng ư kim điện, nghĩa là số phò tá vua ở sân rồng, tức là số làm tới tể tướng. Mệnh lập tại Mùi, Tả, Hữu thủ mệnh là người đa tài, đa năng. Tử-vi kinh nói, Tả-phụ, Hữu-bật bình tính khắc khoan, khắc hậu nên tính tình từ tốn, hành sự cẩn trọng. Cái cách Nhật tại Mão, Nguyệt tại Hợi chiếu là cách Nhật, nguyệt tịnh minh, nên thì sớm gặp minh quân. Nhưng tiên sinh lại có một cách rất xấu Đào-hoa, Hồng loan cư nô, lại gặp Hình, thì tất thế nào cũng vì đàn bà mà tan nát sự nghiệp, đến phải vong mạng. Đáng tiếc, đáng tiếc.

Hài mừng lắm trở về lo học hành, tháng sau trong kỳ thi khảo hạch của trường Quốc-tử giám, Hài bị trượt vì văn ngông nghênh, kênh kiệu quá. Hài giận lắm, tìm vị hòa thượng hỏi:

- Hôm trước đại sư đoán rằng sau này tôi sẽ làm Tể-tướng, thế sao tôi thi trượt? Không đậu thì làm sao thi Thái-học sinh được? Không đậu Thái-học sinh thì sao có thể làm Tể-tướng?

Vị Hòa-thượng cười đáp:

- Từ xưa đến giờ có biết bao nhiêu vị Tể-tướng mà không đậu đại khoa? Bần tăng đoán tiên sinh làm Tể-tướng, chứ có đoán tiên sinh thi đậu đâu? Này năm nay tiểu hạn tiên sinh nhập cung Dậu được Thái-dương miếu địa, Hóa-khoa từ Mão chiếu sang thì thanh vân đắc lộ gặp được thiên-nhan. Nhưng đại hạn đóng ở cung Tỵ. Thiên-mã gặp Đà-la tức là ngựa què. Ngựa đã què lại còn đi đến cung Dậu gặp Tuần thì ngựa bị chặt cụt chân. Vậy khi nào tiên sinh gặp ngưạ cắn hoặc đá là lúc gặp vua, nhưng tiên sinh nhớ một điều:

Khi được gặp vua, nếu hoàng-thượng ban thưởng cho bao nhiêu vàng bạc phải nộp cho lão tăng một nữa. Hài mừng lắm, về nhà, đúng ngày mà hòa thượng đoán gặp vua, không thấy linh nghiệm. Hài tìm đến chùa Diên-hựu để hỏi tội hòa-thượng. Nhưng trên đường đi, Hài bị một người cỡi ngựa đụng phải, té lăn vào bụi cỏ. Hài túm lấy dây cương hạch tội:

- Nhà ngươi đi đâu mà có mắt như mù đụng phải ta?

Người cỡi ngựa, mình chỉ mặc áo lót, mũ đội phía sau ra trước, nhảy xuống ngựa tạ lỗi:

- Xin lỗi tiên sinh, tôi đi tìm cha tôi để tạ lỗi. Tiên sinh có biết chữ không? Tôi muốn nhờ tiên sinh một việc đây!

Hài bực mình nói:

- Ta học trường Quốc-tử giám, sắp thi Thái-học sinh, thì Bách-gia, Chư-tử, Cửu-lưu, Tam-giáo đều thông. Sao lại không biết chữ?

Người cỡi ngựa tiếp:

- Vậy tiên sinh làm dùm tôi bài biểu tạ tội với cha tôi, tôi sẽ bảo quan Quốc-tử giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. Năm sau thi Thái-học sinh tôi sẽ lấy tiên sinh đậu Trạng nguyên, được chăng?

- Nhà ngươi điên à? Nhà ngươi có biết, chỉ có một người cho Thái-học sinh đậu Trạng-nguyên, đó là vua. Nhà ngươi là ai mà dám nói lớn lối như vậy?

Người kia đáp:

- Tôi là Vua đây

huynhthanhchiem
28-03-12, 22:43
Đoàn Nhử Hài nhìn lại mũ người đó, quả là vua, vội thụp xuống đất tạ tội. Người cỡi ngựa chính là vua Trần Anh-tông. Nguyên sau khi chiến thắng Mông-cổ, năm 1293 vua Trần Nhân-tông nhường ngôi cho con là vua Trần Anh-Tông rồi đi tu. Vua Anh-Tông thường hay rượu chè say sưa. Nhân một hôm uống rượu Xương-bồ say quá nằm ngủ, thì Thượng-hoàng từ Thiên-trường về Thăng-long. Các quan trong triều không ai biết cả. Nhân-Tông thong thả xem cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Thái-giám dâng cơm. Thượng-hoàng không thấy vua đâu hỏi thái-giám.

Thái-giám đánh thức vua dậy, nhưng vua say quá không tỉnh được. Thượng-hoàng giận quá bỏ về, lệnh cho các quan về Thiên trường họp, có ý truất phế Anh-tông. Đến giờ Mùi, Anh-tông mới tỉnh dậy, cung nhân đem việc ấy tâu. Vua sợ quá không kịp mặc áo, nhảy lên ngựa chạy tới chùa Từ-phúc, thì đụng phải Đoàn Nhữ Hài. Hai người xuống thuyền về Thiên-trường. Dọc đường Đoàn Nhữ Hài làm tờ biểu dài hai ngàn chữ tạ tội. Nhưng Thượng-hoàng vẫn còn giận, không cho vào. Hai người phải quỳ ở ngoài. Các quan liếc mắt nhìn tờ biểu, thấy văn hay, truyền nhau đọc.

Thượng-hoàng nghe được hỏi:

- Văn ở đâu mà hay như vậy?

Các quan tâu rằng đó là bài biểu tạ tội của vua. Thượng-hoàng truyền:

- Đưa vào đây!

Ý ngài muốn nói rằng đưa bài biểu vào, nhưng các quan hiểu lầm đưa cả Vua và Đoàn Nhử Hài vào. Thượng-hoàng thấy sự đã rồi, đành tiếp biểu xem, thấy lời văn điêu luyện, thống thiết, bèn xá tội cho vua Anh-Tông. Ngài phán rằng:

- Ta đang cần một thiếu niên anh tài phụ tá cho con ta. Nay gặp tiên sinh ở đây thực là may mắn. Hài trình việc gặp hòa thượng ở chùa Diên-hựu, được hòa thượng đoán trước sự việc. Thượng-hoàng phán:

- Khoa Tử-vi do Hoàng Bính truyền sang Đại-Việt, khoa này đâu có truyền ra ngoài dân dã? Hòa thượng xem Tử-vi cho tiên sinh đó là sư phụ của ta, tức Tuệ-Trung Thượng-sĩ đó (tức Trần Quốc Tung).

Hài nghe xong hoảng sợ, nghĩ hôm trước nếu mình gây với hòa thượng thì bị ốm đòn rồi. Bởi Tuệ-Trung là một võ học danh gia đời Trần. Thượng-hoàng hỏi số của Hài, rồi phán:

huynhthanhchiem
28-03-12, 22:44
- Số của tiên sinh là số của bậc tể thần. Sau này làm nên sự nghiệp hiển hách. Nhưng tiếc rằng Đào, Hồng cư Nô, thì thế nào cũng xảy ra một chuyện bất chính trong tình trường, lại thêm Tham, Hình nữa thì thế nào cũng vì má đào mà sự nghiệp tan vỡ, chết vì nghiệp tình, đáng tiếc thay.

Vua Anh-tông tâu rằng:

- Thần nhi nghe nói căn cứ vào khoa Tử-vi có thể cải được số mạng. Thỉnh cầu phụ hoàng có cách nào cứu được Đoàn tiên sinh không?

Thượng-hoàng bèn xé từ bìa kinh Kim-cương viết mấy chữ Tứ đại giai không, miễn tử trao cho Đoàn Nhữ Hài. Tứ đại Giai không là chữ lấy trong kinh Kim-cương:

“Vô nhân tướng, Vô ngã tướng, Vô chúng sinh tướng, Vô thọ giả tướng, tứ đại giai không”. Nghĩa là không có hình tượng của người, của ta, của chúng sinh, không có cái gì lâu dài cả. Bốn cái đó đều là hư ảo..

Thượng-hoàng phán:

- Ta xem số thấy cái vạ vì má đào của tiên sinh sắp tới. Nay ta trao cho tiên sinh mảnh giấy này, khi bị nạn, có thể dùng nó để cứu mạng. Muốn giải cái nạn Hồng, Đào, Hình, Tham thì phải dùng đến Quyền. Nay ta viết chữ miễn tử tức là dùng Quyền rồi, phụ với Hóa-quyền đóng chung ở Tham-lang nữa. Muốn giải hạn Thiên-hình thì dùng đến Không-vong. Ta dùng bìa cuốn kinh Kim-cương, tức là dùng cái Không của đạo Phật. Như vậy mong có thể cứu được tiên sinh.

Trở về Thăng-long, vua Anh-Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự-sử trung tán, đây là lần đầu tiên một người không đậu đạt gì, mới 20 tuổi được phong làm Ngự-sử trung tán. Người thời đó ghanh ghét làm thơ giễu Hài như sau:

Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán. Có nghĩa là: Ôn câu cổ ngữ tại đài Ngự sử. Miệng của Trung-tán Đoàn Nhữ Hài còn hôi sữa.

huynhthanhchiem
28-03-12, 22:45
Ba năm sau hạn của Đoàn Nhữ Hài qua cung Tý gặp Đào, Tham, Quyền, Hồng và Thiên-thương, triều đình khám phá ra mối tình của Đoàn Nhữ Hài với một cung nữ của vua Anh-Tông. Luật triều Trần rất khắt khe với tội ngoại tình. Ngay với thường dân khi ngoại tình xảy ra, gian phu bị tử hình, dâm phụ tùy người chồng tha hay không. Nay tội đó xảy ra giữa một đại thần với một cung nữ. Nên cả hai bị khép tội chém đầu. May nhờ có thủ bút của Thượng hoàng, viết trên bìa cuốn kinh Kim-cương nên cả hai được miễn tử. Vua Anh- Tông truyền gả cung nữ cho Đoàn Nhữ Hài.

II . Huệ Túc Phu Nhân Cứu Đoàn Nhữ Hài

Năm Mậu Tuất (1298), tháng sáu, muà hạ, nhằm niên hiệu Hưng Long thứ 6
Đoàn Nhữ Hài may gập được vua Anh Tông phong cho chức Xử Mật Viện .
Nhập cung bái yết thái hậu và hoành hậu .

Khâm Từ thái hậu (là con gái của Hưng Đạo Vương, vợ vua Nhân Tông, là mẹ Anh Tông so vai vế là cháu gọi Huệ Túc Phu Nhân bằng bà) phán rằng :

Ta tuy là thái hậu, nhưng trên còn có Huệ Túc Thái Hoàng Thái Phi, tiên sinh theo ta vào bái kiến người .

Hài đến cung, phu nhân đón ở lầu Tinh các (lầu nghiên cứu thiên văn). Hài xụp xuống khấu đầu , phu nhân phán :

Sáng nay thấy thủy Tiên nở mười cánh, ta bấm độn biết là có đại thần đến viếng, tiếc rằng ta đón trễ, e không đủ lễ với bậc trung lương .

Khâm Từ thái hậu tâu :

Tâu tổ mẫu, tiểu hài nhi (chỉ vua Anh Tông) vì say rượu suýt bị tội . Được Đoàn tiên sinh đây dùng văn tài tạ tội cho mới thoát .

Phu nhân phán :

huynhthanhchiem
28-03-12, 22:45
Thuả hoàng thượng (chỉ vua Anh Tông) mới ra đời, ta tính số thấy Đồng, Lương, Tang, Mã ở Mệnh thêm Hình …ta đã biết có việc này rồi . Đồng, Lương ham chơi có thể gây ra tai họa . Nhưng là phúc tinh thì không bao giờ bị truất ngôi cả . Có Tang, Hình đắc địa thì sau này càng lớn càng nghiêm cẩn, uy nghi tài ba, thái hậu đừng lo .

Thái hậu lại tâu :

Đoàn tiên sinh được Thái thượng Hoàng (Trần Nhân Tông) và Hưng Nhượng Vương xem số cho phê là : văn mô, vũ lược, chí cả, tâm hùng .

Lại quay lại bảo Hài :

Này Đoàn tiên sinh, Thượng hoàng nhà ta và Hưng nhượng Vương đều được Thái hoàng Thái Phi đây truyền dậy về Tử Vi Đẩu Số đấy .

Hài trình lên niên canh : Tuỗi Kỷ Mão, tháng 9, ngày 1, giờ Mão.

Phu nhân nói :

Cái cách của tiên sinh gọi là Nhật Nguyệt tịnh minh thì thế nào cũng phò tá đế vương . Bậc cao nhất là tể tương . Lại có Xương, Khúc, Long, Phượng, Kỵ thì văn tài xuất chúng . Có Kình miếu thì vũ lược siêu quần, vì thế mà Thượng Hoàng mới phê là văn mô vũ lược, chí cả tâm hùng .

Thái hậu hỏi :

Thần thấy tiên sinh có cách “ Tam hợp minh châu, đa chiết quế” . Ngoại hợp có Khoa, cư trung Xương, Khúc sao tiên sinh không đậu đại khoa . Không đậu đại khoa làm sao lên tới tể tướng được ?

huynhthanhchiem
28-03-12, 22:46
Phán :

Số trời cả . Có bao giờ vua bị học trò túm áo đâu ? Tại sao Đoàn tiên sinh lại túm áo vua ? Lão Thái Sư (Thủ Độ) có đậu đạt gì đâu mà cũng là tể tướng ? Sự nghiệp tiên sinh đây sau này làm tới Hầu, Bá là đàng khác . Còn tại sao tiên sinh không đậu ? là vì hạn còn xấy quá . Hạn xấu thì làm sao mà đậu được . Trong khí số lại có công danh sớm, nên nay có danh mà không có khoa vậy .

Thái hậu hỏi :

Cung Nô của tiên sinh tại Tý có Tham là Phiếm Thủy Đào Hoa , lại thêm Quyền, Tả, Hồng có gì đáng lo chăng ?

Đáp :

Tham cư Nô tại Tý thì thế nào cũng có ngày tỳ thiếp làm rối kỷ cương (***). Quyền, Tả chế được . Tham 3 độ, Đào 3 độ, Hồng 3 độ ở cùng chung nhau thành 27 độ xấu . Quyền 3 độ, Tả 3 độ thành 9 độ không đủ chế 27 độ xấu . Nhưng Mệnh có Xương, Khúc, Kình thì bình thường chế được mà gia cang vững . Sợ là khi hạn gập các dâm tinh thì như giặc ngoài đột nhập, trong nhà khó giữ nổi kỷ cương . Sang năm tới đây, đại hạn tiên sinh ở Tỵ(****), có Cơ, Hình, Mã, Đà. Tang . Tiểu hạn tại Dậu có Riêu, Hao, Hỏa, Hư . Lưu Kình nhập Mệnh, lưu Đà nhập đại hạn . Dâm tinh quá mạnh, cung Nô phát dậy thế nào cũng vì má đào mà gây họa nguy khốn . Phải nhờ lưu Thái Tuế gập Thái âm thành Quyền tinh tại cung Hợi giải cho nên thoát nạn .

Hài tâu :

Thượng Hoàng xem số bảo thần vì má đào mà bị trảm, nên xé bìa kinh Kim Cương viết cho mấy chữ : “Tứ đại giai không . Miễn tử .” để khi hữu sự thì dùng đến .

Phu nhân phán :

Thượng Hoàng cũng là Nô cung của tiên sinh đấy, tờ giấy ấy là Tả, Quyền đấy, tiên sinh đưa cho ta giữ cho .

Tháng tư niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 (1299) trong nội cung khám phá ra chuyện tình giữa Hài và thứ phi Giao Châu . Triều đình nghị án trảm cả hai .

huynhthanhchiem
28-03-12, 22:46
Ông An là chủ một tiệm buôn tơ lụa ở phố Hàng Đào-Hà Nội. Năm nay, ông làm ăn rất phát đạt nên những ngày giáp Tết Nguyên đán, ông nghỉ bán, cùng vợ con về Thái Bình ăn Tết và dự định ra giêng sẽ lên Thái Nguyên thăm ông anh đang làm Tri châu ở tỉnh này.

Về đến nơi, ông liền ghé thăm cụ Đồ Trạch, một vị hưu quan, rất giỏi về Phong Thủy và Tử Vi, Lý Số để hỏi về thời vận và công việc làm ăn năm tới. Cụ vui vẻ nhận lời nhưng nét mặt có vẻ trầm ngâm, suy nghĩ. Ông An lo sợ hỏi:
-"Thưa cụ, chắc số "cháu" sang năm có gì đặc biệt lắm nên cụ phải xem kỹ. Có gì xấu xin cụ cứ cho biết và xin giúp cháu.
Quan sát thật kỹ tam đình, ngũ quan, các phương vị, màu sắc trên khuôn mặt của ông An, cụ nói:
- "Tôi nói thật, đừng buồn mà phải bình tĩnh để ứng phó. Sang năm Tuất tới đây, ông sẽ gặp sát nghiệp. Ông bị cọp vồ".
Nghe xong, ông An thở phào và nói:
- "May quá cháu định ra giêng cháu lên sẽ lên Thái Nguyên thăm anh Châu (Tri Châu), chắc phải gác lại chuyện này và phải đề phòng cho kỹ thì sẽ không sao".
"Cái đó chưa chắc lắm!" - cụ Đồ nói tiếp - "Vì đây là cái nghiệp, ông nên cẩn thận, năm tới ông ở cuối hạn tam tai. Trong tử vi mệnh có tham lang phùng bạch hổ. Đại tiểu hạn trùng phùng, nhiều hung tinh xâm phạm: Kình -đà, không- kiếp, Riêu -y-hình- kỵ, nhưng rất may có được song giải, quan-phúc, quang-quí, và hóa khoa. Sắc mặt bị ám hãm nhẹ và cung phúc rất tốt… nên có thể ông chỉ bị thương mà thôi, nhưng ông phải giải cái "nghiệp" đi bằng cách phóng sinh, làm phúc và cầu nguyện tổ tiên ứng trợ. Suốt tháng giêng nhất là ngày 14, không nên đi đâu cả và phải cẩn thận. Hết xuân sang hạ là hết lo".

Ông An gặng hỏi:
-"Thưa cụ, chỗ cháu ở xa sở thú. Cháu có cần ở luôn trong nhà không ạ".
- Ông cứ bình tĩnh ứng phó, đừng làm kinh động lân bang và đừng làm gia đình kinh sợ, "Đức năng thắng số", ông cứ yên tâm. Đây là chữ của thánh hiền, ông cầm lấy và đeo luôn trong người, sẽ giải hung hóa cát.

Nói xong, cụ Đồ đưa cho ông An một phong bao dặn chỉ giở ra xem khi hữu sự.
Sau khi cám ơn và tạm biệt cụ Đồ Trạch, ông An vội vã thu xếp trở về Hà Nội ngay hôm sau, ông mua chim, cá phóng sinh và mua đồ đến tặng các trại tế bần ở Hà Nội và Hà Đông. Suốt 3 ngày Tết, ông luôn thắp nhang cầu xin trời Phật gia hộ và cầu xin tổ tiên ứng trợ. Ông tạ khách và ở luôn trong phòng riêng, cửa đóng then cài. Ông bàn với vợ là từ nay buôn bán không nên ăn lời nhiều và phải làm nhiều việc thiện hầu tạo "phúc" cho mình và con cái trong tương lai cũng như kiếp lai sinh.

Mười ba ngày xuân rộn ràng tại Hà Nội đã êm ả trôi qua trong nhà ông An. Sáng ngày 14 tháng giêng, ông dậy thật sớm, xem kỹ các cửa rồi ngồi cầu nguyện ơn trên gia hộ. Nghe tiếng gõ cửa, ông cẩn thận nhìn qua khe cửa, thấy đó là người nhà mang thức ăn sáng vào, ông mới mở cái róng ngang và đẩy then mở cửa. Trong lúng túng, bận bịu, đầu cái róng quơ quơ trúng vào bức tranh lộng kính treo trên khung cửa, bức tranh rơi xuống đập trúng vào đầu và vai ông An. Sửng sốt vì tưởng bị cọp vồ, ông té xuống bất tỉnh máu me dầm dề. Người nhà xúm lại gỡ bức tranh và cứu ông tỉnh lại. Thì ra, bức tranh này có vẽ một con cọp và vuốt cọp đã vồ trúng vào đầu ông. Ông vội dở "cẩm nang" của cụ Đồ ra coi, thì đó chỉ là 4 câu thơ "song thất lục bát", nhắc ông nhớ giải nghiệp và tu nhân tích đức:

"Nhờ âm đức, tai qua nạn khỏi
Nguy hay an cũng bởi nghiệp căn
Nghiệp càng sâu, hạn càng thâm
Tu nhân tích đức, khỏi vòng trầm luân".Vừa sợ vừa mừng, ông hối vợ sắm sánh lễ vật tạ ơn Trời Phật, và gia tiên. Ông nguyện làm việc thiện trước khi về Thái Bình tạ ơn cụ Đồ Trạch. Cụ khước từ quà biếu nhưng lại tặng ông một bức "cẩm nang" phòng khi hữu sự.
=o=
Năm 1954, VC và Pháp ký hiệp định Genève chia đôi đất nước, ông tiếc của nên dùng dằng nửa ở nữa đi. Cứu tinh của ông - Cụ Đồ Trạch đã mãn phần nhưng bức cẩm nang còn đó. Ông vội dở ra coi thì thấy chỉ có hai câu chữ Hán:

"Ác địa nan cư
Dĩ đào vi thượng"

Ông chợt hiểu, tỉnh ngộ và vội vàng cùng vợ con bươn bả trốn xuống Hải Phòng. Tháng 10 năm 1954, gia đình ông di cư vào Nam trên chuyến tàu chót chở di dân vào miền Nam tự do. Ông lại thoát nạn "cọp vồ" lần nữa. Vì nếu ông ở lại với tài sản đó, dễ gì được sống còn, chính sách "hà khắc" đâu có khác gì cọp dữ.

Năm 1975, trước các biến động dồn dập, ông cố trấn tĩnh lo cho các con cháu ra đi toàn vẹn. Ông ở lại vì nghĩ mình đã quá già. Khó hội nhập vào đất nước người và ông có thể là cái "đầu cầu" vững chắc cho con cháu trở về khi dựng lại non sông. Nhưng ông đã lầm. Ong đã bị gục ngã ngay trong đợt đánh "tư sản" đầu tiên với nanh vuốt của tụi"cọp người" còn hung bạo hơn dã thú. Có thể là nghiệp căn chưa dứt nên đã đẩy ông vào nẻo cụt, đúng vào niên hạn có riêu + hổ:

"Hạn hành riêu + hổ khó ngừa
Những loài ác thú, phải xa chớ gần."

Qua câu chuyện có thực kể trên, có thể nói "phúc đức" đóng một vai trò quan trọng, quyết định sự "tồn đọng" của một con người. Tử vi, lý số và tướng pháp có thể giúp "con người" hiểu được số mệnh thịnh suy, thành bại, giúp tìm được giải pháp hoá giải nghiệp căn, tạo được một cuộc sống đạo lý vững chắc có hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Nhưng ngoài "phúc đức" và ân điển của cao xanh, con người cần hướng thiện, gieo nhân tốt nơi đất tốt và vun bón cho tốt thì mới có "quả" tốt cho chính mình, con cháu và gia đình mình trong mai hậu. Ông An nghĩ như thế và đã làm như thế nên hai lần thoát được hiểm nghèo và con cháu ông hiện đều có một cuộc sống tốt đẹp và vững chắc nơi vùng đất tạm này. Còn tương lai thì lại tùy thuộc vào lớp con cháu ông hiện nay và cứ thế mà tiếp nối...
__________________
Chớ có đập Phạm Chí
Phạm Chí chớ đập lại
Xấu thay đập Phạm Chí
Đập trả lại, xấu hơn! <<Kinh Pháp Cú 389>>