PDA

View Full Version : Lớp học Tứ Trụ cao cấp tự do cho tất cả mọi người



VULONG
29-10-12, 16:38
Lớp học Tứ Trụ cao cấp tự do cho tất cả mọi người
(Nội dung khóa học này tiếp tục khóa học sơ cấp và trung cấp vẫn thuộc cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi).

Nội dung dậy như sau:
(Ở đây tôi sắp xếp lại thứ tự một số mục cho dễ hiểu)

Bài 17 : Phương pháp tính điểm hạn
Bài 18 : Các yếu tố cơ bản và các giả thiết của chúng
Bài 19 : Điểm hạn và khả năng của thiên can
Bài 20 : Điểm hạn và khả năng của địa chi
Bài 21: Điểm hạn và khả năng của Thiên Khắc Địa Xung (TKĐX)
Bài 22 : Điểm hạn và khả năng của hóa cục
Bài 23 : Điểm hạn và các tính chất của nạp âm
Bài 24 : Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng
Bài 25 : Điểm hạn của hình, tự hình và hại.....
Bài 26 : Định luật giảm và điểm G
Bài 27 : Điểm hạn và tổng điểm hạn được giảm...
Bài 28 : Tiếp tục đi tìm các giả thiết mới

Các bài sau thuộc về phần “Mở Rộng“ của cuốn sách này:

Bài 29 : Khắc phối hôn (có các giả thiết từ 310 đến 332. Phần này có 28 ví dụ mẫu).
Bài 30 : Con cái khắc cha mẹ và cha mẹ khắc con cái (có các giả thiết từ 333 đến 348 . Phần này có 16 ví dụ mẫu).
Bài 31 : Dự đoán về phát Tài
Bài 32 : Dự đoán về phát Quan.

(Bài 31 và 32 tôi mới đang nghiên cứu nên chưa có khả năng đưa được số điểm vào để Cân Đo Đong Đếm xem chúng phát mạnh hay nhẹ như phần dự đoán tai họa).



Bài 17 : Phương pháp tính điểm hạn


Chương 13

Phương pháp tính điểm hạn

Từ chương này, bạn đọc bắt đầu làm quen với Phương Pháp Tính Điểm Hạn. Phương pháp này có khả năng tính điểm hạn (đh) cho từng năm một, nghĩa là xác định xem một năm bất kỳ có hạn hay không, hạn đó nặng hay nhẹ đến mức độ nào và tìm cách giải cứu cho hạn đó .

I – Tìm các quy tắc tính điểm hạn

Muốn biết hạn của một người tại một năm nào đó (được gọi là lưu niên) có hay không, nặng hay nhẹ,…. , ta phải tìm được các quy tắc tính các điểm hạn. Do vậy muốn tìm được các quy tắc này chúng ta phải bắt đầu từ các ví dụ trong thực tế đã xẩy ra các hạn, sau đó đi tìm các yếu tố nào có thể dẫn đến hạn đó. Các yếu tố gây ra hạn đó chính là các quy tắc tính điểm hạn và số điểm của từng quy tắc phải được điều chỉnh sao cho đúng với bản chất thực sự khách quan của chúng (cứ tạm thời coi điểm hạn của các quy tắc này tuân theo định luật Vật lý về mệnh học của Thuyết Vũ Trụ Hẹp). Khi biết được tổng số các điểm hạn đã gây ra hạn của năm đó, ta so sánh số điểm đó với mức độ nặng nhẹ của hạn đã xảy ra, sau đó mới có thể lập lên bảng điểm hạn để diễn tả mức độ hạn nặng nhẹ theo số điểm

II – Các nguyên nhân chính gây ra hạn

1 – Các nguyên nhân trong tứ trụ (từ ví dụ số 1 tới ví dụ số 137).
Phần lớn các hạn do chính các yếu tố trong tứ trụ của người đó gây ra, (chiếm khoảng 60% trong tổng số các hạn?). Các yếu tố này chính là các tổ hợp quá xấu giữa tứ trụ, đại vận, tiểu vận và lưu niên của người đó gây lên (như hình, xung, khắc, hại, hợp ,…..).

2 – Các nguyên nhân bên ngoài tứ trụ (từ ví dụ số 158 đến 203)
Các hạn do các yếu tố bên ngoài tứ trụ gây ra (chiếm khoảng từ 30 đến 40% ?):
a - Vợ khắc chồng, chồng khắc vợ, con cái khắc cha mẹ, cha mẹ khắc con cái... và kể cả các phương tiện vận chuyển giao thông....
b - Do phong thủy (tức là gió và nước trong lòng đất) của ngôi nhà hay khu đất người đó ở, hoặc không may đi vào vùng đất đúng vào giờ phút nó có sát khí quá nặng như vùng sông nước, vùng núi đá hiểm trở nguy hiểm, nơi có động đất, chiến tranh, khí độc...
c – Trong nhà hay dưới mặt đất của ngôi nhà
Đây là yếu tố mà mọi người thường gọi là nhà có ma. Những người ở trong các nhà này nhẹ thì chỉ bị ma quấy rầy, còn nặng thì bị ốm đau, tai nạn, có thể dẫn đến tử vong (thường là do trong nhà này có người chết oan ức hoặc dưới lòng đất của ngôi nhà đó có xương cốt của người chết hay ngôi nhà đó khi động thổ hay cất nóc vào các giờ cấm kỵ, tức là vào giờ tử…). Các yếu tố này thì tôi hoàn toàn không biết bởi vì tôi chưa được đọc một cuốn sách nào về lĩnh vực này.
d - Do chết bất ngờ
Như người đó không may đi trên một chiếc ô-tô, tầu thủy, máy bay….mà phương tiện vận tải đó đến ngày tận số, vì theo mệnh học chúng đều có tứ trụ, tức chúng đều phải có số mệnh (như chiếc tầu Titaníc chẳng hạn),…
Các hạn này do các yếu tố bên ngoài tứ trụ gây lên. Do vậy trong thực tế có rất nhiều tai họa đã xẩy ra (kể cả cái chết) không thể phát hiện bằng tứ trụ (mệnh) của người đó.

3 - Dự đoán hạn
Vì hạn do nhiều yếu tố gây ra như vậy, nên để dự đoán chính xác người ta thường phải kết hợp nhiều phương pháp dự đoán khác nhau. Tất cả các yếu tố này cùng một lúc tác động tới con người để gây ra hạn, và cái mà phản ánh nhanh nhất, chính xác nhất các hạn này chính là khuôn mặt của con người. Do vậy môn xem tướng mặt có thể phát hiện hạn xẩy ra trước vài tháng hay vài ngày, thậm chí có thể trước vài phút. Giá trị của môn xem tướng mặt là nó có thể giúp con người tránh được các hạn dược gây lên bởi các yếu tố bên ngoài của tứ trụ. Bởi vì các yếu tố này con người thường bị bất ngờ vì khó dự đoán trước được (trừ câu 2 phần a). Còn các yếu tố do tứ trụ (mệnh) của con người gây ra thì không có gì là bất ngờ cả, vì con người có thể dự đoán được nó từ khi mới sinh (kể cả câu 2 phần a).
Bởi vì tất cả các yếu tố này cùng một lúc tác động tới con người để gây ra hạn, do vậy phương pháp tính điểm hạn chỉ khi kết hợp được cả hai nguyên nhân này để xét điểm hạn cho mỗi hạn thì khả năng dự đoán chính xác mới có thể cao được (?). Hiện giờ tôi chưa có khả năng kết hợp được 2 nguyên nhân này để xét cho một hạn mà vẫn xét riêng từng nguyên nhân gây ra hạn. Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi giải quyết được vấn đề này.

Ví dụ về môn xem tướng mặt : Con của Trần Đoàn (Trần Đoàn tức Hi Di một nhà mệnh học nổi tiếng của TQ) một lần qua sông trên chiếc thuyền nhỏ, khi thuyền vừa rời bến đã hốt hoảng kêu lên “Không được đi nữa phải quay thuyền vào bờ ngay nếu không sẽ chết đuối hết”. Khi thuyền đã cập lại bờ thì bỗng nhiên có một người què cứ mặc nhiên chống nạng đi xuống thuyền, trong khi mọi người đang vội vã rời khỏi thuyền. Con của Trần Đoàn lúc đó lại kêu lên “Bây giờ thì chúng ta lại qua sông được vì đã có quý nhân đây rồi”. Khi con thuyền ra được giữa sông thì một cơn cuồng phong nổi lên làm con thuyền chao đảo như muốn lật úp, nhưng rồi nó cũng qua được tới bờ sông bên kia an toàn.

Vì sao con của Trần Đoàn lại dự đoán chính xác đến như vậy ? Trong sách có nói qua là khi thuyền vừa rời bờ con của Trần Đoàn nhìn thấy tất cả các lỗ mũi của mọi người trên thuyền đều có sắc ám mầu đen. Vì lỗ mũi là nơi lưu thông của hơi thở (tức là chỗ lưu thông của khí ngũ hành), cho nên khi có sắc ám mầu đen là hành của Thủy thì tất có tai họa về Thủy, do vậy phải rời khỏi sông nước ngay lập tức. Còn khi người què đi xuống thuyền thì lúc đó lỗ mũi của mọi người không còn sắc ám mầu đen nữa lên có thể tiếp tục qua sông. Tai họa này nếu có xẩy ra thì chúng ta không thể phát hiện qua Tứ Trụ của những người này được.

Đây là ví dụ tai họa về Thủy còn tai họa về đường hàng không (hay đường bộ) thì mầu sắc nào xuất hiện trên khuôn mặt hay lỗ mũi của mọi người đi trên máy bay (ô tô, tầu hỏa, …) sẽ báo hiệu sắp bị tai họa ? (hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi trả lời câu hỏi này).

Những người giỏi về tướng mặt họ có thể nhìn và dự đoán khá chính xác mức độ nặng nhẹ của tai họa và khoảng thời gian sẽ xẩy ra tai họa đó.

(Tôi chưa tìm được một ví dụ nào có thể chứng minh tai họa được gây ra bởi cả 2 yếu tố này (bên trong và bên ngoài của tứ trụ)).

VULONG
29-10-12, 16:39
III - Điểm hạn với thực tế

Qua nhiều ví dụ tai họa đã xẩy ra trong thực tế nếu thừa nhận các điểm hạn chuẩn theo dự kiến của tôi như các điểm hạn của dụng thần, ngũ hành... cũng như các điểm hạn của hình, xung, khắc, hợp, hại, …., thì tổng điểm hạn tại một thời điểm của một năm có thể sẽ diễn tả được mức độ nặng hay nhẹ của tai họa đó như sau :

1 - Từ 4đh (điểm hạn) đến 4,4đh, chỉ có hạn nhẹ, có thể phải đến bệnh viện nhưng không phải nằm lại bệnh viện để điều trị.
2 - Từ 4,4đh đến 4,6đh, có hạn nặng, phải nằm điều trị ở bệnh viện, hoặc bị phá tài hay lao tù (dựa theo các thông tin của tứ trụ với tuế vận).
3 - Từ 4,6đh đến 4,8đh, hạn khá nặng có thể phải cấp cứu, hoặc bị phá sản hay lao tù nặng.
4 - Từ 4,8đh đến 4,9đh , hạn rất nặng có thể bị ngất.
5 - Từ 4,9đh đến 4,99đh, hạn cực nặng có thể tới mức chết lâm sàng.
6 - Từ 5,0đh trở lên có thể dẫn tới tử vong nếu không có cách nào giải cứu được.
Theo phương pháp này sai số có thể từ - 0,1đh tới + 0,1đh.

Chú ý: Số điểm này chỉ do các yếu tố giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận gây ra - thường được gọi là yếu tố Tất Định (Trời định), chưa tính tới các yếu tố trong môi trường mà người đó sống tác động vào Tứ Trụ, tuế vận và tiểu vận của người đó - thường được gọi là yếu tố Bất Định (người, môi trường sống cũng như thời thế quyết định).

IV – Các bước bắt buộc phải thực hiện

A – Trong tứ trụ :
1 - Xác định tứ trụ.
2 - Xác định các hợp có hóa hay không hóa cục.
3 - Xác định các thiên khắc địa xung (TKĐX).
4 - Xác định điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm.
5 - Xác định Thân là vượng hay nhược.
6 - Xác định dụng thần chính và vị trí của nó trong tứ trụ.
7 - Xác định các đại vận và thời gian của chúng.
8 - Xác định các cát thần và hung thần có khả năng gây ra điểm hạn của tứ trụ.

B - Tứ trụ với tuế vận (đại vận và lưu niên) và tiểu vận.
1 – Xác định can chi của năm cần dự đoán (lưu niên), cũng như xác định can chi của đại vận và 2 tiểu vận của năm cần dự đoán đó.
2 – Khi vào đại vận cần xác định tất cả các tổ hợp có hóa cục hay không hóa cục cũng như các TKĐX.
Đến lưu niên cũng phải xem như trên để xác định lại các tổ hợp và các TKĐX còn hay mất (vì đại vận thường xuất hiện trước lưu niên).
Xác định điểm vượng trong vùng tâm có phải tính lại hay không.
Xác định điểm hạn của các TKĐX, điểm hạn của các hóa cục cũng như của các Đại Chiến nếu có.
3 - Xác định điểm kỵ vượng của các can và chi.
4 – Xác định điểm hạn của dụng thần ở trong tứ trụ cũng như ở đại vận và lưu niên. Nếu xét hạn tại năm sinh thì dụng thần còn có thêm điểm hạn ở tháng cần dự đoán của năm đó.
5 – Xác định điểm hạn của Nhật can ở đại vận và ở lưu niên. Nếu xét hạn tại năm sinh thì Nhật can còn có thêm điểm hạn ở tháng cần dự đoán của năm đó.
6 – Xác định điểm hạn của các can khắc nhau kể cả các can trong hợp không hóa. Sau đó xác định đh của các can động này theo lệnh tháng, đại vận và lưu niên (thường được gọi là điểm hạn của can), cũng như đh của các cát thần và hung thần của các can chi ở tuế vận và tiểu vận (chú ý các can chi trong hợp hay trong tứ trụ không có điểm hạn của các thần này trừ Tứ Phế) .
7 – Xác định các điểm hạn của hình, tự hình, hại và tứ hình.
8 – Xác định điểm hạn của 4 chi giống nhau hợp với 1 chi không hóa hay 4 can hợp với 1 can.
8 – Xác định nạp âm của các trụ và tính điểm hạn của các nạp âm khắc nhau.
9 – Xác định đh Kình dương.
10 – Xác định đh thương quan gặp quan (chính quan).
11 – Xác định đh tuế vận cùng gặp.
12 – Xác định đh của các hóa cục trong tứ trụ bị phá.
13 - Tính tổng điểm hạn là bao nhiêu và xét xem tổng điểm hạn có được giảm hay không. Cuối cùng đó chính là điểm hạn của năm cần dự đoán, sau đó đối chiếu với bảng điểm hạn sẽ biết được hạn nặng hay nhẹ ra sao.

Qua các thông tin xuất hiện trong từng tai họa, chúng ta có thể dự đoán hạn đó có thể xẩy ra về bệnh tật, tai nạn, phá tài, bại quan hay lao tù. Điều quan trọng là cách giải cứu các hạn đó như thế nào? Nếu may mắn đã có người giải được và cho chúng ta biết thì thật quý báu vô cùng, nếu không chúng ta đành phải tự mình đi tìm cách giải cứu các hạn đó. Theo như sự hiểu biết của tôi thì đã có rất nhiều cách giải hạn hữu hiệu nhưng đáng tiếc hiện giờ chúng đang được cất dấu trong các cuốn sách gia truyền của một số người, không biết đến khi nào họ cho chúng ta biết các cách giải cứu đó?

Hiện tại chúng ta hy vọng những ai đã may mắn được các nhà mệnh học giải cứu sẽ cho chúng ta biết cách giải cứu đó như thế nào cùng với tứ trụ và năm hạn đó của họ cho mọi người biết qua các trang web lý số.

VULONG
29-10-12, 16:49
Bài 18 - Các yếu tố cơ bản và các giả thiết của chúng
(Ở đây tôi sắp xếp lại thứ tự một số mục cho dễ hiểu)

Tuần Thứ Ba

Chương 14

Các yếu tố cơ bản và các giả thiết của chúng

I - Các yếu tố cơ bản gây ra điểm hạn

Thực chất của “Phương pháp tính điểm hạn” là từ các ví dụ cụ thể trong thực tế, chúng ta phải tìm ra các thông tin (giả thiết) có thể gây ra tai họa, sau đó chúng ta phải tự xác định điểm tai họa cho các thông tin này và điều chỉnh các điểm tai họa này cho phù hợp với càng nhiều ví dụ càng tốt.
Để tìm các điểm hạn thì chúng ta phải bắt đầu từ các yếu tố chính gây ra hạn đã được cổ nhân truyền lại tới bây giờ chủ yếu qua các định luật : Hình (1), xung (2), khắc (3), hại (4), hợp (5) ...ngoài ra tôi đã tìm ra một số các yếu tố mới như : Điểm hạn của can, điểm kỵ vượng .... Qua các ví dụ trong thực tế tôi đã xác định được các yếu tố chính này gây ra các điểm hạn (đh) như: +1đh ; +0,75đh, +0,5đh ; +0,25đh ; +0,13đh ; 0đh hay +0,3đh ; +0,15đh …cho các yếu tố xấu có thể gây ra tai họa và -1đh, -0,75đh, -0,5đh ; -0,25đh ; -0,13đh và 0đh cho các yếu tố tốt có thể ngăn chặn tai họa. Theo cách nhìn của các nhà Vật Lý thì các điểm hạn này không tuân theo cơ học cổ điển (các điểm hạn tăng có tính liên tục) mà tuân theo cơ học lượng tử (các điểm hạn tăng theo các bước nhẩy cố định). Do vậy chúng ta liên tưởng tới sự tương tác của ngũ hành là ở dạng khí trong thế giới vi mô (các hạt cơ bản vô cùng nhỏ).
Các yếu tố cơ bản này được viết tắt là cácY và các giả thiết của chúng chưa được xem là các quy tắc chính thức bởi vì hầu như đa số các giả thiết này tôi chưa có thêm các ví dụ để kiểm tra chúng có chính xác hay không.

II - Ứng dụng điểm hạn của ngũ hành

Y2 – Điểm hạn của dụng thần
Chú ý: Can làm dụng thần chính được gọi tắt là dụng thần.

31/20 - Nếu dụng thần ở tử, mộ hay tuyệt (các trạng thái ở tử, mộ hay tuyệt) tại lệnh tháng (chi của trụ tháng) có 0,5đh.
32/1 - Dụng thần ở tử, mộ hay tuyệt tại chi của lưu niên có 1đh.
33/5 - Dụng thần nhược (các trạng thái suy, bệnh, thai và dưỡng) tại lưu niên có 0đh.
34/2 - Dụng thần nhập mộ tại chi của đại vận có 1đh (bất kể Thân vượng hay nhược) :
35/126 - Tại năm sinh dụng thần có thêm điểm hạn ở tháng (chi của tháng đó) cần tính các điểm hạn (như tính ở lưu niên).
36/ (88/130) - Tại năm sinh, dụng thần tàng trong chi của Tứ Trụ bị khắc bởi can đại vận (cùng dấu) tại các tháng của lưu niên nếu can của tháng đó giống với dụng thần.
36a/28 - Vị trí của dụng thần chính trong tứ trụ (xem câu 2 phần I trong chương 10).
37/133 - Tại năm sinh, nếu Thân (Hỏa) vượng mà trong tứ trụ có 4 can là Hỏa, lệnh tháng là Tị hay Ngọ, kiêu ấn ít còn Thổ và Thủy quá yếu thì tại năm sinh dụng thần Thủy tàng chi bị khắc bởi các can Hỏa có cùng dấu ở trong tứ trụ hay ở tuế vận có max 1đh chỉ khi ở tuế vận hay ở các tháng của năm sinh xuất hiện can Hỏa có cùng dấu với dụng thần chính (?).
38/(1;25) - Dụng thần là can lộ hay tàng trong địa chi của tứ trụ, nếu can hay chi này hợp với tuế vận thì dụng thần được xem như vô dụng nên có 1đh, trừ trường hợp can hay chi mà dụng thần tàng hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của dụng thần (ví dụ 1). Nếu chi chứa dụng thần không hóa cục từ khi sinh mà nó không hợp với tuế vận hóa cục thì dụng thần có 1đh chỉ khi hành của dụng thần không giống hành của hóa cục này (ví dụ 25).
39/56- Nếu chi tàng chứa Dụng thần trong Tứ Trụ hợp với chi ở tuế vận có cùng hành với hành của dụng thần thì Dụng thần có thể không có 1đh khi tổ hợp này chỉ là lục hợp hay bán hợp không hóa (?).
40/15 - Can tàng chính tàng trong chi của tứ trụ vẫn có thể là dụng thần chính khi chi này hóa cục không cùng hành từ khi mới sinh.
41/127 - Nếu dụng thần chính tàng trong chi của tứ trụ ở trạng thái Lộc hay Kình Dương tại lệnh tháng mà bị tuế vận hợp thì dụng thần tàng ở trong các chi khác của tứ trụ có thể thay thế để làm dụng thần chính cho dù nó chỉ là can tàng phụ hay chúng chỉ ở trạng thái Lộc.

Y3 - Điểm hạn của Nhật can

61/6 - Nhật can nhập mộ đại vận chỉ khi Thân nhược mới có 1đh.
62/1 - Nhật can ở tử, mộ hay tuyệt ở lưu niên có 1đh.
63/2 - Nhật can nhược (các trạng thái suy, bệnh, thai và dưỡng) ở lưu niên có 0đh.
64/126 - Tại năm sinh Nhật can còn có thêm điểm hạn tại tháng cần tính điểm hạn (như tính ở lưu niên).
64a/ - Nếu nhật Can hợp với can tháng hay can giờ hóa thành hành khác với hành của Nhật Can (Cách hóa khí) thì hành của Nhật Can đã chuyển thành hành hóa khí, vì vậy lúc này Nhật can đã trở thành can giống can tàng trong lệnh tháng dẫn hóa cho hóa cục này.
64b/ - Nếu Nhật Can hợp với tuế vận hóa thành hành khác với hành của Nhật Can thì ta vẫn lấy dấu và hành của Nhật Can cũ để tính điểm hạn của nó ở tuế vận (nghĩa là hành của Thân không thay đổi).

Y5 – Can động và điểm hạn của can động

90 – Can động
90a - Can động, nó có nghĩa là can đó phải khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) các can khác (xem phần lý thuyết về TKĐX) hay nó khắc các hóa cục. Các can động có điểm hạn riêng của chúng và điểm hạn này chỉ có ở các can lộ khi chúng ở trong trạng thái động, gọi tắt là điểm hạn của can. Nếu các can ở trong cùng tổ hợp không hóa khắc nhau thì chỉ có các can này là động (bởi vì chúng không có liên quan gì tới các can giống với chúng ở bên ngoài tổ hợp này).
90b/ - Tất cả các can ở trong hóa cục không có điểm hạn này.
90c/ - Can tiểu vận không có điểm hạn này.

Ví dụ : Bính đại vận hợp với Tân trụ năm không hóa thì Bính và Tân là động (vì Bính khắc Tân), nhưng Bính ở trụ ngày (hay trụ giờ) là tĩnh vì nó không hợp được với Tân trụ năm, nhưng Bính trụ ngày là động nếu khắc được các can khác như Canh ở lưu niên hay nếu nó bị khắc bởi Nhâm hay Quý ở lưu niên cũng như nếu nó khắc được Kim cục.

90d/ - Nếu các can ở tuế vận khắc với nhau hay chúng khắc các can trong tứ trụ thì các can giống với các can này ở trong tứ trụ là động nếu chúng khắc được nhau.

91 – Điểm hạn của các can động (điểm hạn Can)
91a/8 – Với các can ở trong tứ trụ thất lệnh và các can ở tuế vận :
Nếu chúng vượng ở lưu niên thì chúng có điểm hạn đúng bằng điểm hạn của hành của chúng.
Nếu chúng chỉ vượng ở đại vận thì chúng có điểm hạn chỉ bằng ½ điểm hạn của hành của chúng.
Nếu chúng không vượng cả ở đại vận và lưu niên thì chúng có 0đh.
Các điểm hạn này giảm tỉ lệ thuận theo các lực khắc tới các can của chúng.

91b/2 - Với các can ở trong tứ trụ được lệnh :
Nếu chúng vượng ở lưu niên thì chúng không có điểm hạn.
Nếu chúng chỉ vượng ở đại vận thì chúng có điểm hạn chỉ bằng ½ đh của hành của chúng nhưng phải đổi dấu.
Nếu chúng nhược ở tuế vận thì chúng có điểm hạn đúng bằng điểm hạn của hành của chúng nhưng phải đổi dấu.
Các điểm hạn này không bị giảm khi các can của chúng bị khắc (phải thừa nhận).

91c/126 – Các trạng thái của các can tại năm sinh phải được xác định tại chi của tháng cần tính điểm hạn của năm đó.

(Trong Y7) - Điểm hạn của hóa cục
113/1- Điểm hạn của các hóa cục bằng chính tổng số các can hay chi có trong hóa cục đó nhân với ½ số điểm hạn của hành của hóa cục đó (trừ các chi trong tứ trụ đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành).

(Trong Y1) - Điểm hạn kỵ vượng
14/6 - Nếu một hành là kỵ 1 có điểm vượng trong vùng tâm (hay sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hoặc sau khi tính thêm điểm vượng của tuế vận) lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv (sai số có thể từ -0,05đv tới +0,05đv) trở lên thì hành đó được gọi là hành kỵ vượng và nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv đến 19,99đv thì mỗi can hay chi (trừ các chi trong tứ trụ) của hành kỵ vượng có thể có điểm (hạn) kỵ vượng bằng đúng điểm hạn của hành của nó (chú ý điểm kỵ vượng của can hay chi tiểu vận chỉ bằng ½ ), còn nếu nó lớn hơn từ 20đv trở lên thì mỗi can chi của nó có thể có điểm kỵ vượng gấp 2 lần số điểm hạn của hành của nó, trừ các giả thiết 14a/135; 22/17; 23/8; 24/11...).

VULONG
29-10-12, 16:50
Ví dụ mẫu:

Ví dụ 10 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Bé trai Elgin Alexander Fraser (Canada) sinh ngày 10/4/2004 lúc 12,00’. Bị bệnh ung thư từ khi mới 8 tháng tuổi và được sống tới ngày 19/5/2007 lúc 19,45’.

Hình chụp với trung phong (Centre) Mike Fisher gần đây, khi còn sống
http://farm7.staticflickr.com/6199/6038141778_0eb116d28d_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6038141778/)

http://farm7.staticflickr.com/6181/6038153194_9ac910d459_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6038153194/)

Ngày 19/5/2007 là năm Đinh Hợi thuộc đại vận (tức tiểu vận) Giáp Tuất (vì đã qua ngày sinh là 10/4). Mà mệnh này đến tháng 8/2012 mới bước vào đại vận đầu tiên là Kỷ Tị, vì vậy phải lấy tiểu vận để thay thế đại vận .
1 – Mệnh này Thân quá vượng mà kiêu ấn Hỏa ít (vì Ngọ hóa Thổ nhưng vẫn còn Đinh là tạp khí tàng trong Mùi không bị hóa Thổ) và thực thương đủ, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là quan sát Ất tàng trong Thìn trụ tháng. Thổ là kỵ vượng.

.................................................. ................

Qua sơ đồ trên ta thấy:
a - Ất tàng trong Thìn trụ tháng là dụng thần nhập Mộ ở đại vận Tuất nên có 1đh (được ghi bên trái của Tuất đại vận, còn bên phải để ghi cho Nhật can) và Tử (hay Mộ hoặc Tuyệt) ở lưu niên Hợi có 1đh (được ghi bên trái của lưu niên Hợi)..
b - Nhật can Kỷ nhược ở lưu niên Hợi có 0đh (nếu nó vượng có -1đh còn Tử, Mộ hay Tuyệt có 1đh) (được ghi bên phải của lưu niên Hợi).
c - Lục hợp của Giáp đại vận với Kỷ trụ ngày hóa Thổ thành công có 0,5đh (vì tổ hợp này có 2 can mà điểm hạn của hành Thổ là 0,5 nên Thổ cục có 2.0,5.1/2đh = 0,5đh nhưng số điểm này bị Giáp trụ năm khắc mất hết bởi vì Giáp vượng ở lưu niên Hợi.
d - Kỵ thần Thổ có 30,28đv lớn hơn hỷ thần Kim 10đh nên Thổ là hành kỵ vượng và có điểm kỵ vượng. Do vậy mỗi can Giáp và Kỷ trong Thổ cục có 0,5đh kỵ vượng (điểm này không bị giảm khi điểm hạn của Thổ cục bị khắc).
Tuất đại vận xung Thìn trụ tháng nên Tuất là động cũng có 0,5 đh kỵ vượng.
Nếu Thổ có 30,4đv trong vùng tâm tức nó lớn hơn Kim 20đv thì các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi.
e - Đinh lưu niên khắc Canh trụ giờ, vì vậy 2 can này được xem là động. mặc dù lực khắc này có 0đh vì Đinh nhược cả ở đại vận và lưu niên và dĩ nhiên Đinh không có điểm can vượng (nếu nó vượng ở lưu niên Hợi sẽ có 1đh đúng bằng điểm hạn của hành của nó, còn nếu nó chỉ vượng ở đại vận thì có 0,5đh). Canh trụ giờ mặc dù động nhưng nó thất lệnh và nhược cả ở đại vận và lưu niên nên không có điểm hạn can.
Giáp khắc Thổ cục nên Giáp thành động có -1đh, vì nó thất lệnh và vượng ở lưu niên Hợi.
f - Hợi thái tuế (chi của lưu niên) có 2 hung thần có 2.0,25đh (tất cả các hung thần đều có 0,25đh, còn cát thần đều có -0,25đh (nhưng nếu nó ở can chi tiểu vận thì điểm hạn của nó chỉ bằng 1/2).
g - Canh trụ giờ là Thương quan mặc dù gặp Quan là Giáp ở trụ năm nhưng nó không có điểm hạn vì Canh thất lệnh và nhược ở tuế vận.
h - Thân trụ năm hại Hợi thái tuế có 1đh (các điểm hạn về khắc, hình, tự hình hay hại của 1 can hay 1 chi với 1 can hay 1 chi khác đều có điểm lớn nhất là bằng 1đh, nạp âm khắc nạp âm cũng vậy).
k - Lửa đỉnh núi của đại vận có can của nó là Giáp vượng ở lưu niên nên khắc Đất mái nhà của lưu niên có 1đh.

VULONG
29-10-12, 16:52
Bài 19 - Điểm hạn và khả năng của thiên can

Y4 – Điểm hạn và khả năng của thiên can

A - Điểm hạn của thiên can
65a/ - Các can khắc được các can khi hành của chúng khắc được nhau.
65b/ - Can trong tứ trụ không khắc được can ở tiểu vận và ngược lại.
65c/ - Can trong hợp không khắc được các can ngoài hợp và ngược lại.
66/1 - Một can vượng ở lưu niên (thái tuế) (lấy chi của lưu niên để xác định trạng thái vượng hay suy của nó) hay can tiểu vận vượng ở tiểu vận (lấy chi của tiểu vận để xác định trạng thái vượng hay suy của nó), nếu nó chỉ khắc một can có cùng dấu (tức là cùng dấu âm hay cùng dấu dương với nó) hay khác dấu thì lực khắc mà nó được sử dụng chỉ max là 1đk (chú ý các lực khắc của các can không bị giảm khi chúng khắc thêm các hóa cục), còn nếu nó khắc từ 2 can trở lên có cùng dấu hay khác dấu thì nó chỉ được sử dụng max là 1,5đk, nhưng nó chỉ có thể gây ra các điểm hạn như sau :

Nếu nó khắc 1 can cùng dấu thì nó chỉ gây ra max là 1đh.
Nếu……….......2 ………………………………........…... ............1,4 đh.
Nếu ……....…..3 ……………………………....……….... .............1,3 đh
Nếu .............4 .................................................. .....1,2 đh.
Nếu .............5 .................................................. .....1,1 đh.
Nếu .............6 .................................................. .....1,0 đh.

Nếu nó khắc các can khác dấu thì điểm hạn mà nó gây ra tương tự như các trường hợp ở trên nhưng chỉ bằng ½ .

67/16 - Nếu một can chỉ vượng ở đại vận (lấy chi của đại vận để xác định trạng thái vượng hay suy của nó) thì nó chỉ có max 0,5đk để khắc 1 can và nó chỉ có thể gây ra max 0,5đh, cũng như nó chỉ có max 0,75đk để khắc từ 2 can trở lên và nó chỉ có thể gây ra max 0,75đh.
68/1 - Nếu các can ở tuế vận mà nhược ở tuế vận (tức nhược cả ở đại vận và lưu niên) thì chúng không có khả năng khắc các can khác.
69/2 - Nếu các can ở trong tứ trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì chúng chỉ có 0,25đk để khắc 1 hay nhiều can khác và chúng chỉ gây ra được max 0,25đh, còn nếu chúng thất lệnh và nhược ở tuế vận thì chúng không khắc được các can khác.
70/12 – Can đại vận hay can lưu niên khắc can tiểu vận thì điểm khắc của nó vẫn tính như bình thường nhưng điểm hạn mà nó gây ra bị giảm ½ .
71/1 – Can tiểu vận thì lấy chính chi tiểu vận để xác định trạng thái vượng hay suy của nó và điểm hạn mà nó khắc can đại vận và can lưu niên được tính như bình thường.
73/78 - Nếu có từ 4 can trở lên hợp với 1 can có ít nhất 0,5đh, còn từ can thứ 5 trở đi mỗi can được thêm …?đh.
74/8 – Lực khắc của các can bị khắc với các can khác giảm tỷ lệ thuận theo lực khắc chúng.

Ví dụ : Bính trong tứ trụ mà vượng ở lưu niên, nếu nó khắc được 1 Canh ở tuế vận thì khi đó Bính mới khắc được các Canh trong tứ trụ, vì vậy các lực khắc này gây ra các điểm hạn như sau :
a - Nếu nó khắc 2 Canh (một Canh ở tuế vận và một Canh ở trong tứ trụ) thì mỗi lực khắc gây ra 1,4.1/2.đh = 0,7đh với các Canh ở gần ; 0,7.1/2đh = 0,35đh với Canh cách 1 ngôi và 0,7.1/4đh = 0,18đh với Canh cách 2 ngôi.
b - Nếu Bính bị Nhâm hay Quý khắc có tổng cộng có 0,5đh thì mỗi lực của Bính khắc Canh sẽ bị giảm 50%đh.
c - Nếu Bính bị Nhâm hay Quý khắc tổng cộng có từ 1đh trở lên thì Bính không có khả năng khắc các can khác (tức là 1 Can bị khắc tổng cộng có xđh thì lực khắc của Can này với các Can khác bị giảm x%đh).

B – Khả năng và tính chất của thiên can
75/ - Các hóa cục chỉ có các chi trong tứ trụ không được tính trong các trường hợp đưới đây (bởi vì chúng không có khả năng tác động lên trên và các can cũng không có khả năng khắc được chúng) và ta quy ước các can chủ khắc nói dưới đây là vượng ở lưu niên nếu không nói nó nhược hay vượng.
75a/ - Nếu các can trong tứ trụ thất lệnh và nhược ở tuế vận thì chúng không có khả năng khắc các hóa cục.
Nếu các can trong tứ trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì chúng chỉ có thể khắc mất ¼ điểm hạn của hóa cục.
Nếu các can chỉ vượng ở đại vận thì chúng chỉ có thể khắc mất ½ điểm vượng của các hóa cục và nếu các can vượng ở lưu niên thì chúng có thể khắc hết điểm hạn của các hóa cục.
75b/1 - Các can có khả năng dẫn hóa cho các tổ hợp của các địa chi hóa cục, trừ can tiểu vận chỉ dẫn hóa cho tổ hợp của chi tiểu vận hóa cục (xem câu 9 của phần III trong chương 6).
76/83 – Hành đầu tiên của các can hay các chi và hành mới của chúng sau khi chúng hóa cục vẫn có khả năng dẫn hóa cho 2 hành này.
77/29 - Các can trong tứ trụ không có khả năng khắc được các hóa cục của các can ở tuế vận với tiểu vận hay của tuế vận với nhau (bởi vì các hóa cục này ở quá cao) nhưng chúng khắc được các hóa cục này nếu có thêm hóa cục có cùng hành ở dưới (trừ các hóa cục có cùng hành của các chi trong tứ trụ) bởi vì các hóa cục này có khả năng liên kết với nhau và khi đó chúng được xem như một hóa cục.
77a/ - Các can trong tứ trụ có thể khắc hết điểm hạn của một hóa cục chỉ có 2 hoặc 3 can chi và khi đó chúng còn khắc được các can có cùng hành với hóa cục này.
78/30 - Các can trong tứ trụ không thể khắc được các hóa cục (kể cả hóa cục của các can ở tuế vận và tiểu vận bởi vì chúng có thể liên kết với nhau) có cùng hành có tổng số ít nhất 5 can chi nhưng các can có cùng hành với các hóa cục này không bị các can khác khắc chỉ khi các hóa cục này có ít nhất 5 can chi có điểm hạn.
79/31 – Các can trong tứ trụ không khắc được 2 hóa cục có cùng hành có ít nhất 4 can chi và các can cùng hành với các hóa cục này nếu hành của các hóa cục này là kỵ vượng.
80/(32;36;55) – Các can trong tứ trụ không khắc được một hóa cục có 4 hay 5 chi nhưng các can cùng hành với hóa cục này vẫn bị khắc như bình thường nếu hóa cục này không có ít nhất 2 chi có điểm hạn và điểm hạn này phải được gấp đôi.
...........................
86/76 – Hành của Thân là kỵ vượng mà trong tứ trụ có từ 5 can chi tỷ kiếp trở lên (kể cả can trụ ngày), nếu các can tỷ kiếp ở trong tứ trụ chỉ bị can của tuế vận khắc thì các lực khắc này không có điểm hạn nhưng các điểm hạn khác của các can này vẫn có và chúng vẫn bị giảm như bình thường (vd 76), nhưng nếu các can tỷ kiếp ở trong tứ trụ bị 1 can trong tứ trụ khắc thì tất cả các lực khắc sẽ có điểm hạn như bình thường (vd 36).
87/95 - Can đại vận khắc được dụng thần tàng trong chi trong tứ trụ chỉ khi nó cùng dấu với dụng thần và trong tứ trụ phải xuất hiện can giống với nó và can này không bị hợp, khi đó các can giống với nó ở các vị trí khác mới có thể khắc được dụng thần.
88/130 - Tại năm sinh, dụng thần tàng trong chi của Tứ Trụ bị khắc bởi can đại vận (cùng dấu) tại các tháng của lưu niên nếu can của tháng đó giống với dụng thần.
89/131 - Tại năm sinh nếu một can khắc can trụ năm và lưu niên thì điểm hạn của mỗi lực này bị giảm 50%.

VULONG
29-10-12, 16:54
Ví dụ mẫu:

Ví dụ 12 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Nam sinh ngày 21/5/1949 lúc 22,00’. Ônh ta bị phá sản vào năm 1989.

(Đây là ví dụ số 7 trang 539 trong cuốn “Dự Đoán Theo Tứ Trụ” của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa).

Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn và bài giải của tôi :

http://farm7.staticflickr.com/6064/6071359852_b0b87ed9eb_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6071359852/)

Năm 1989 là năm Kỷ Tị thuộc đại vận Ất Sửu, tiểu vận Kỷ Mùi và Mậu Ngọ.
1 – Nếu sử dụng giả thiết 27/12 (190/12) thì mệnh này Thân nhược mà kiêu ấn có 20đv nhiều hơn Thân, vì vậy kiêu ấn đã trở thành kỵ thần và nó là kỵ vượng bởi vì nó có 10đv nhiều hơn kỵ thần 1 là Hỏa (đây là trường hợp đặc biệt, vì Thân nhược thì Kiêu Ấn thường là hỷ thần nên điểm kỵ vượng của nó trong trường hợp này không được gấp đôi). Cho nên dụng thần đầu tiên phải là tỷ kiếp là Canh tàng trong Tị trụ tháng.

Ta nhận thấy Tài tinh Mộc ít và quan sát cũng ít, do vậy Mộc có tác dụng chế ngự kiêu ấn Thổ có lợi hơn là làm hao Thân, vì vậy Mộc là hỷ thần có -0,5đh, Hỏa có 1đh (vì nó sinh cho kỵ thần Thổ và khắc dụng thần Kim là xấu nhất) còn Thổ có 0,5đh và Thủy có 0,5đh.
.................................................. ..

Ta thấy:
a - Ất đại vận vượng ở lưu niên Tị, vì vậy nó có max 1,5đk (điểm khắc) để khắc các can khác. Nhưng ở đây nó khắc 5 can nên chỉ có thể gây ra max là 1,1đh. Do vậy mỗi lực khắc chỉ có thể gây ra 1.1: 5 đh = 0,22 đh , riêng điểm hạn của lực khắc Kỷ tiểu vận bị giảm ½ còn 0,11 đh.

3 Kỷ trong Tứ Trụ thuộc hành Thổ là hành kỵ vượng bị can đại vận khắc nên có điểm kỵ vượng, vì vậy mỗi can này có 0,5 đh kỵ vượng, khi đó Kỷ lưu niên và Kỷ tiểu vận cũng bị khắc mới có điểm kỵ vượng. Kỷ lưu niên có 0,5đh còn Kỷ tiểu vận chỉ có 0,5.1/2 = 0,25 đh kỵ vượng.

Mỗi điểm kỵ vượng này bị khắc 0,22 đh nên chỉ còn 0,5.0,78 = 0,39 đh (chú ý Kỷ lưu niên có thêm 0,5 đh can động, nó cũng bị giảm như điểm kỵ vượng), riêng điểm hạn của Kỷ tiểu vận còn 0,25.0,89 = 0,22 đh.

Ất đại vận vượng ở lưu niên có -0,5đh. Các Kỷ trong Tứ Trụ được lệnh và vượng ở lưu niên nên không có điểm vượng của can động.

....................

Có 2 Hợi trong Tứ Trụ khắc Tị thái tuế nên tổng điểm hạn được giảm 50% (tức chúng có khả năng giải cứu). Điều này hầu như các cao thủ Tử Bình từ Cổ tới Kim không hề biết (?), nếu có biết chắc chỉ có “Manh phái” của người mù biết mà thôi (?), dĩ nhiên nó thuộc Bí Kíp nên họ không bao giờ truyền cho người sáng mắt cả.

VULONG
29-10-12, 17:01
Bài 20 - Điểm hạn và khả năng của địa chi

Y6 – Điểm hạn và khả năng của địa chi

92/ - Theo “Phương Pháp Tính Điểm Hạn” thì chi đại vận ở trạng thái động đầu tiên, vì vậy nó có thể tác động (như xung, khắc, hình, hại, hợp) với các chi khác đầu tiên, sau đó mới đến các chi trong tứ trụ và chi tiểu vận, cuối cùng mới là Thái tuế (chi của lưu niên). Nếu các chi này tác động được với nhau thì khi đó các chi giống với chúng ở trong tứ trụ (không bị hợp) mới có khả năng như vậy (trừ chi tiểu vận).

1 - Điểm hạn của địa chi
92a/ - Các chi động trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận xung hay khắc với nhau gần cũng như chi của đại vận xung hay khắc với chi của lưu niên (thái tuế), mỗi lực có 0,3đh nếu chúng không là Thổ, và 0,15đh nếu chúng là thổ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi). Chi đại vận xung hay khắc với chi tiểu vận cũng như chi của tiểu vận xung hay khắc chi của lưu niên chỉ có 0,15đh nếu chúng không là Thổ và 0,07đh nếu chúng là Thổ. Các chi trong tứ trụ xung hay khắc nhau điểm hạn bị giảm ½ nếu chúng cách 1 ngôi và ¾ nếu chúng cách 2 ngôi.
92b/ – Riêng Thái tuế (chi của lưu niên) bị các chi khác (kể cả chi tiểu vận) khắc, mỗi lực có thêm 1đh, còn Thái tuế bị xung (kể cả các chi là Thổ) mỗi lực có thêm 0,5đh.
92c/ – Riêng lệnh tháng (chi của trụ tháng) bị các chi khác khắc gần có thêm 0,5đh, còn nó bị xung gần có thêm 0,25đh.
(Chú ý : Các lực xung hay khắc gây ra các điểm hạn này không liên quan đến điểm vượng của chúng).

2 - Các lực xung, khắc hay hợp của các địa chi
93a/ - Ở đây, các chi không cần phải động và các lực này chỉ để xét khả năng tranh hay phá hợp của các địa chi. Các lực này hoàn toàn phụ thuộc vào độ vượng của chúng ở lưu niên (năm cần dự đoán).
93b/ - Các chi trong tứ trụ và chi tiểu vận với các chi ở tuế vận cũng như chi đại vận với chi lưu niên (thái tuế), chúng đều được xem là gần nhau.
93c - Lực xung, khắc hay hợp của các địa chi trong tứ trụ từ khi mới sinh (khi tuế vận được xem như chưa xuất hiện) được xác định bởi chính điểm vượng của chúng tại lệnh tháng (chi của trụ tháng).
93d/ - Lực xung, khắc hay hợp của các địa chi tại một năm (lưu niên) bất kỳ được xác định bởi điểm vượng của chúng ở lưu niên đó như sau :
Điểm vượng của các chi trong tứ trụ chính là điểm vượng trung bình của chúng tại lệnh tháng, đại vận và 2 lần tại chi của lưu niên.
Điểm vượng của chi tiểu vận và đại vận chính là điểm vượng trung bình của chúng tại chi đại vận và 2 lần tại chi của lưu niên.
Điểm vượng của chi lưu niên là điểm vượng của nó tại chi của lưu niên. (thái tuế)

a - Lực hợp của các địa chi bị giảm
94/ - Lực hợp của 1 chi với y chi bị giảm :
94a/21 - (y - 1)/y.đv nếu nó hợp với mỗi chi gần.
94b/ - 1/3.(y - 1)/y.đv nếu nó hợp với chi cách 1 ngôi.
94c/ - 1/2.(y - 1)/y.đv ...................................... 2 ngôi.

b - Lực xung hay khắc của các địa chi
95/ Lực của 1 chi xung hay khắc với 1 hay nhiều chi và hợp với y chi bị giảm :
95a/19 - y/(y + 1).đv nếu nó xung hay khắc với mỗi chi gần.
95b/56 - y/(y + 1).đv và thêm 1/3.đv nếu nó xung hay khắc với mỗi chi cách 1 ngôi.
95c/89 - y/(y + 1).đv và thêm 1/2.đv ....................................với mỗi chi cách 2 ngôi.

3 - Các lực trên bị giảm thêm như sau :
96a/(30;70;79;89) - 2/3.đv nếu nó hợp, xung hay khắc với chi cách 1 hay 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) chi gần với nó (chỉ xét về ngũ hành) ở trong tứ trụ giữa chúng (kể cả chi này bị hợp nhưng không hóa cục). (vd 68; 77).
96b/ - ½.đv nếu nó, hợp, xung hay khắc với chi cách 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) chi (chỉ xét...) cách 1 ngôi giữa chúng (kể cả chi này ...).
96c/ - 2/3. ½.đv nếu nó hợp, xung hay khắc với chi cách 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) cả chi gần và cách 1 ngôi (chỉ xét ...) ở trong tứ trụ giữa chúng (kể cả các chi này ...).

4 - Khả năng phá hợp và các tính chất của địa chi
97/ Các quy ước : Một chi xung hay khắc với tam hợp hay tam hội có X chi, nghĩa là tổ hợp này có tổng cộng X chi, còn với lục hợp hay bán hợp có X chi thì có nghĩa là chỉ có nhiều nhất X-1 chi trong tổ hợp hợp với chi này.
98/7 - Nếu các địa chi xung nhau phá được hóa cục thì cũng phá được tổ hợp của nó (còn các TKĐX có thể phá được cả cục và hợp hoặc vẫn còn hợp).
99/77 - Nếu giữa tứ trụ, tiểu vận và tuế vận có 4 chi hợp với 1 chi không hóa thì mỗi chi có 0,4đh, riêng chi tiểu vận có 0,2đh chi thứ 5 trở đi mỗi chi được thêm.... đh ?
100/(19;22;61) - Tý, Ngọ, Mão và Dậu giữa tiểu vận và tuế vận xung với nhau chỉ phá được bán hợp, lục hợp hay tam hợp có 3 chi, trừ chi tiểu vận tử, mộ hay tuyệt ở tuế vận.
101/61 - Nếu Mão hay Dậu ở tiểu vận mà tử, mộ hay tuyệt ở tuế vận thì nó xung tuế vận phá được các bán hợp hay lục hợp chỉ khi có thêm TKĐX với trụ có chi đó.
102/64 - Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung gần với nhau luôn luôn phá được bán hợp hay lục hợp (trừ câu 101/61).
103/ - Dần, Thân, Tị và Hợi hay Thìn, Tuất, Sửu và Mùi xung với nhau phá được các bán hợp hay lục hợp chỉ khi lực xung của nó bằng hay lớn hơn lực hợp và khi chúng xung gần nhau có thể phá được tam hợp không hóa có 3 chi nếu lực xung của chúng bằng hay lớn hơn lực hợp của tam hợp đó.
104/20 - Tý, Ngọ, Mão và Dậu trong tứ trụ xung gần với nhau phá được tam hợp trong tứ trụ hay tam hợp ngoài tứ trụ có 4 chi (bởi vì lực liên kết của tam hợp ngoài tứ trụ có 4 chi chỉ tương đương với tam hợp trong tứ trụ có 3 chi), còn nếu chúng xung với nhau giữa tứ trụ với tuế vận hay giữa lưu niên với đại vận thì chúng chỉ phá được tam hợp có 3 chi không hóa.
105/21 - Tý, Ngọ, Mão và Dậu trong tứ trụ xung nhau gần chỉ phá được tam hội ngoài tứ trụ có 3 chi (bởi vì lực hợp của nó chỉ tương đương với lực hợp của tam hợp trong tứ trụ có 3 chi).
106/61 - Tý, Ngọ, Mão và Dậu cách 1 hay 2 ngôi trong tứ trụ xung nhau không phá được tam hợp hay tam hội nhưng phá được bán hợp hay lục hợp khi lực xung của nó không nhỏ hơn lực hợp.

VULONG
29-10-12, 17:02
Ví dụ mẫu:

Ví dụ 67 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Nam sinh ngày 29/2/1956 lúc 2,30’sáng. Anh ta bị cấp cứu vì bệnh gan vào mùa hè năm 2004.
http://farm7.staticflickr.com/6083/6094963412_4ebf342e86_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6094963412/)

Mùa hè năm 2004, nó là năm Giáp Thân thuộc đại vận Ất Mùi và tiểu vận Mậu Dần.
1 - Tứ trụ này có Thân vượng mà kiêu ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Tân tàng trong Sửu trụ giờ. Mộc là kỵ vượng.
................................................

Theo lý thuyết ta thấy 2 Dần trong Tứ Trụ và Dần Tiểu vận cùng xung thái tuế Thân, trong đó :
Dần trụ ngày xung thái tuế Thân có 0,3đh và thêm 0,5đh (vì thái tuế bị xung)
Dần tiểu vận xung từ trong tiểu vận ra ngoài là thái tuế nên có 0,3đh và thêm 0,5đv (chú ý: chi đại vận xung hay khắc chi tiểu vận chỉ có 0,13đh nếu chi không là Thổ, và 0,07đh nếu chi là Thổ).
Dần trụ tháng xung thái tuế có 0,3 đh và thêm 0,5 đh, khi đó thái tuế khắc lại Dần lệnh tháng có 0,5đh.
Có Dần trong Tứ Trụ xung thái tuế Thân nên nó mới có thể xung được Thân trụ năm, vì vậy Dần trụ ngày xung Thân trụ năm có 0,3.1/2đh = 0,15đh (vì cách 1 ngôi). Dần trụ tháng xung Thân trụ năm có 0,3đh, vì vậy Thân trụ năm khắc lại Dần lệnh tháng có 0,5đh.

Canh trụ tháng hợp với Ất đại vận không hóa nên Canh thất lệnh và vượng ở lưu niên (Thân) có -1đh can động và khắc Ất đại vận có 1.1/2đh = 0,5đh (vì trái dấu). Ất đại vận có 0,5.1/2đh kỵ vượng = 0,25đh (đây là trường hợp đặc biệt, vì chỉ có can đại vận (Ất) thuộc hành kỵ vượng mà bị Can trong Tứ Trụ (Canh) hợp và khắc mới có điểm kỵ vượng còn Giáp lưu niên cũng thuộc hành kỵ vượng hợp và khắc Kỷ trong Tứ Trụ nhưng không có điểm kỵ vượng).

Dần tiểu vận thuộc hành kỵ vượng nên xung thái tuế thành động mới có 0,5.1/2đh = 0,25đh kỵ vượng (vì nó là chi tiểu vận).
Mùi đại vận xung Sửu trụ giờ có 0,15đh.

Có 3 Dần xung thái tuế Thân nên có 2,5G (điểm giảm), nó tương đương với tổng điểm hạn được giảm ¼.

3 Dần (Mộc) xung khắc 2 Thân (Kim), vì vậy Kim và Mộc đều bị tổn thương. Mộc đại diện cho gan, và Mộc tử tuyệt vào mùa hè còn Kim thì vượng (tháng Ngọ và Mùi) nên vào mùa hè người này đã bị bệnh về gan.
.........................

(Chú ý: Tất cả các chi trong Tứ Trụ không có khả năng hình, tự hình hay hại chi đại vận nhưng chi tiểu vận và thái tuế có thể hình, tự hình và hại chi đại vận. Còn khi chi đại vận bị hợp thì tất cả các chi đều có khả năng hợp, xung hay khắc chi đại vận với mục đích chỉ để tranh phá hợp nên các lực này không gây ra điểm hạn.)

VULONG
29-10-12, 17:25
Bài 21: Điểm hạn và khả năng của Thiên Khắc Địa Xung (TKĐX)

Y8 - Điểm hạn và khả năng của TKĐX

A - Điểm hạn của TKĐX hoàn toàn phụ thuộc vào can chủ khắc của nó như sau :

156a/ - 1 trụ TKĐK (có can và chi của nó đều là chủ khắc) với 1 trụ khác:
Nếu can chủ khắc của nó vượng ở lưu niên thì nó có 1đh.
Nếu can chủ khắc của nó chỉ vượng ở đại vận thì nó chỉ có 0,75đh.
Nếu can chủ khắc của nó ở tuế vận mà nhược ở tuế vận thì nó chỉ có 0,5đh.
Nếu can chủ khắc của nó ở trong tứ trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì nó có 0,5đh.
Nếu can chủ khắc của nó ở trong tứ trụ mà thất lệnh và nhược ở tuế vận thì nó chỉ có 0,25đh.

156b/(42;53a;70) - Điểm hạn của TKĐX bị giảm 2/3 nếu can chủ khắc của nó bị khắc bởi ít nhất 1 lực có 1đh (vd 42 ;157c) và TKĐX là vô dụng nếu can chủ khắc của nó bị khắc bởi ít nhất 2 lực cùng có 1đh (vd 70). Ðiểm hạn của TKĐX bị giảm 1/4 nếu can chủ khắc của nó bị khắc it nhất bởi 2 lực cùng có 0,7đh (vd 53a).
157/ – Nếu 1 trụ TKĐX (có can của nó là chủ khắc nhưng chi của nó chỉ là chủ xung hay các chi của nó là Thổ (hành của nó là Thổ)) với 1 trụ khác thì điểm hạn của nó hoàn toàn tương tự như các trường hợp TKĐK nhưng nó bị giảm ½ .
158/(68;161) – TKĐX* (có chi là Thìn và Tý) chỉ có khi các chi của nó ở gần nhau và các chi này không cùng ở trong tam hợp, khi đó điểm hạn của TKĐX* chỉ bằng 2/3 điểm hạn của TKĐX.
159/(12...) - Giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận nếu có các TKĐX (kể cả TKĐX*) thì ngoài điểm hạn chính của chúng, chúng còn được thêm điểm hạn phụ như sau:
Nếu chúng có 2 trụ TKĐX với nhau thì chúng có thêm 0,05đh.
Nếu .............. 3 ................. .............................................0,1đ h.
Nếu................4 .................................................. ............ 0,3đh.
Nếu................5 .................................................. ............ 0,3.2đh.
Nếu................6 .................................................. ............ 0,3.5đh
Nếu ...............7 .................................................. .............0,3.8đh ?

B - Các tính chất của TKĐX

159a/ Một trụ TKĐX (là nói chung cho cả TKĐK, TKĐX* và TKĐK*) với tam hợp hay tam hội có X chi, nghĩa là tổ hợp này có tổng cộng X chi, còn với lục hợp hay bán hợp có X chi thì có nghĩa là chỉ có X-1 chi trong tổ hợp hợp với chi này.
160/(12) - Nếu đại vận hay lưu niên TKĐX với tiểu vận thì điểm hạn của nó bị giảm ¾.
160a/27 - Nếu tiểu vận TKĐX với đại vận hay lưu niên thì điểm hạn của nó được tính như bình thường.
160b/7 – 1 trụ có khả năng TKĐX với các bán hợp và ngũ hợp (ví dụ 125) hay các tam hợp và tam hội không hóa có từ 3 chi trở lên (ví dụ 53a) nhưng nó không có khả năng TKĐX với tam hợp cục hay tam hội cục có ít nhất 4 chi.
(Chú ý : TKĐX với bán hợp hay tam hợp là chỉ tính chi của trụ TKĐX với các chi hợp với nó, còn TKĐX với tam hợp hay tam hội là tính tất cả các chi có trong tổ hợp đó).
161/55 – Nếu có it nhất 2 trụ giống nhau mà chúng chỉ TKĐX với 1 trụ khác thì điểm hạn của mỗi TKĐX được tăng ¼ .
162/(55;113;157a) – Một trụ (hay nhiều trụ giống nhau) TKĐX với ít nhất 2 trụ giống nhau thì điểm hạn của mỗi TKĐX bị giảm ¼ và nếu can chủ khắc khắc được 2 can của 2 trụ giống nhau này có điểm hạn thì điểm hạn của mỗi TKĐX bị giảm thêm ít nhất ¼ đh..
163/62 - Nếu tuế vận cùng gặp hay 2 trụ giống nhau ở trong tứ trụ TKĐK với các trụ khác giống nhau thì điểm hạn chính của mỗi TKĐK này được tăng gấp đôi, khi đó các trụ khác giống với hai trụ này TKĐK với các trụ đó điểm hạn cũng được tăng gấp đôi (hay 25% , 50% ?).
164/ - Các điểm kỵ vượng tại các can chi của một hóa cục vẫn còn khi điểm hạn của hóa cục này bị can khắc mất hết và dĩ nhiên điểm vượng của các can chi của hóa cục này không bị giảm.
165/55 – Nếu 1 trụ TKĐX với các trụ có các chi giống nhau của một tam hợp hay tam hội thì chúng chỉ được coi là TKĐX với 1 trụ của tam hợp hay tam hội đó.
166/(55;60;115) - Nếu lưu niên và trụ trong tứ trụ đang mang vận hạn TKĐX với nhau thì tất cả các điểm hạn của các lực xung hay khắc tới trụ này đều được tăng gấp đôi (riêng với lực của TKĐX được tính cả 2 chiều), nhưng nếu can của lưu niên là chủ khắc mà nhược ở tuế vận thì điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ này không được tăng gấp đôi (trừ khi có thêm ít nhất 1 trụ giống với lưu niên TKĐX với trụ đang mang vận hạn (?)).
167/ - (bỏ vì sai).
168/ – Nếu lưu niên và trụ đang mang vận hạn TKĐX* với nhau thì các điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ này được tăng gấp đôi ? (chưa có ví dụ để chứng minh).
169/128 - Tại năm sinh nếu trụ năm và lưu niên TKĐX với 1 trụ thì điểm hạn của các TKĐX này không được tăng ¼ (nhưng 1 trụ TKĐX với trụ năm và lưu niên vẫn bị giảm ¼ ?)
170/129 – Nếu tại năm sinh có một trụ trong tứ trụ và trụ năm (là trụ đang mang vận hạn) TKĐX với nhau thì tất cả các điểm hạn của các lực tác động vào trụ năm được tăng gấp đôi (kể cả các lực hình, tự hình và hại)
171/134 - Dưới 12 tháng tuổi nhưng khác năm sinh nếu trụ năm bị 1 trụ trong tu tru TKĐX thì các điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ năm chỉ được tăng ½.
172/59 - TKĐX là vô dụng khi nó có ít nhất 1 can của nó là tranh hợp thật hay can chủ khắc của nó hóa cục.

C – Các chi của TKĐX hóa cục

173/(74;157b) - Nếu 4 trụ tạo thành hai cặp TKĐX khác nhau mà 4 chi của chúng hợp với nhau hóa thành 2 cục cùng một lúc và khắc nhau thì các TKĐX này chỉ phá được các hóa cục (trừ tam hội cục) nhưng vẫn còn các tổ hợp của chúng và các TKĐX này không có điểm hạn, trừ trường hợp 2 cặp TKĐX này có ít nhất 1 chi của chúng là Thổ thì các hóa cục này vẫn bị phá (trừ tam hội cục) và các TKĐX vẫn có các điểm hạn như bình thường (riêng tam hợp cục vẫn còn tổ hợp nếu nó chỉ bị TKĐX bởi 2 cặp TKĐX này).
174/146 - 2 chi của TKĐX không phải Thổ đều hóa cục có hành giống hành của chi của chúng, nếu TKĐX và 2 hóa cục này cùng xuất hiện một lúc thì các cục bị phá (trừ tam hợp cục và tam hội cục) nhưng còn lại các tổ hợp của chúng và các TKĐX này không có điểm hạn.
175/57 - Nếu 2 chi của TKĐX không phải Thổ đều hóa cục nhưng ít nhất có một hóa cục có hành không giống hành của chi của nó thì các hóa cục này vẫn bị phá (trừ tam hợp và tam hội) và điểm hạn của TKĐX vẫn có như bình thường.
176/61 - Nếu hai chi của TKĐK không là Thổ hóa thành 2 cục có hành giống hành của các chi của chúng thì TKĐX thành vô dụng khi trong chúng có ít nhất 1 hóa cục có trước TKĐX này.
177/89 – Nếu 2 chi của TKĐK không phải Thổ hóa cục có hành giống hành của các chi của chúng thì các hóa cục này không bị phá mà điểm hạn TKĐX được tăng gấp đôi chỉ khi TKĐX xuất hiện trước 2 hóa cục này hay cùng với một hóa cục nhưng trước hóa cục kia.

D - Khả năng phá hợp của TKĐX

177a/ - Nếu các tổ hợp và các thiên khắc địa xung cùng xuất hiện thì các tổ hợp luôn luôn được tạo thành trước, sau đó chúng mới bị thiên khắc địa xung bởi các trụ.
178/(37;42) – 1 trụ TKĐX với bán hợp cục hay lục hợp cục có thể phá được cục nhưng vẫn còn tổ hợp của nó và phá được tổ hợp nếu nó không hóa cục nhưng nó không thể phá được các hóa cục trong tứ trụ từ khi mới sinh nếu 2 chi của TKĐX này là Thổ.
179/60 – 2 trụ thiên khắc địa xung giữa tuế vận với Tứ trụ hay giữa tuế vận (kể cả tiểu vận) với nhau chỉ có thể phá được tam hợp không hóa có 3 chi giữa Tứ trụ với tuế vận nếu 2 chi của thiên khắc địa xung này là Tý với Ngọ hay Mão với Dậu còn nếu 2 chi này là Dần với Thân hay Tị với Hợi hoặc 2 chi này là Tý với Ngọ hay Mão với Dậu xung cách ngôi trong Tứ Trụ thì lực xung này phải không nhỏ hơn lực hợp.
180/(64;125) - Nếu 1 trụ TKĐK với 1 trụ mà chi của nó hợp với 3 chi giống nhau hóa cục thì TKĐX phá được cục này nhưng vẫn còn hợp và TKĐX phá được tổ hợp nếu chi này hợp với ít nhất 4 chi giống nhau không hóa.
181/136 - Nếu can của ngũ hợp ở tuế vận là chủ khắc hợp với can ở tuế vận và can trong tứ trụ thì liên kết của can chủ khắc với can ở tuế vận bị phá khi trụ của can bị khắc ở tuế vận TKĐX với trụ khác
182/ - (bỏ vì sai)
183/66 - Tam hợp cục bị phá cả cục lẫn hợp của nó khi có ít nhất 3 trụ TKĐX với nó.
184/55 – Nếu 2 trụ TKĐX với 1 trụ của tam hợp cục có 3 hay 4 chi (còn 5, 6...chi ?) thì chúng chỉ phá được cục nhưng vẫn còn hợp của nó và phá được hợp nếu nó không hóa cục.
185/157 - 2 trụ TKĐX với 2 trụ của tam hợp cục phá được cả cục và tổ hợp của nó.
186/(28;49) - Tam hội trong tứ trụ không hóa bị phá khi có ít nhất 2 trụ TKĐX với 2 trụ của nó còn tam hội hóa cục ngoài tứ trụ có 3 chi bị phá cả cục và hợp của nó.
187/146– Từ 3 trụ trở lên TKĐX với ít nhất 2 trụ của tam hội cục trong tứ trụ mới có thể phá được cả cục và hợp của nó.
188/(69;113) - Chỉ có 2 trụ TKĐX* với nhau không phá được bán hợp của Tý với Thìn tại các chi của TKĐX* và TKĐX* này không có điểm hạn nếu 2 chi của nó hóa Thủy nhưng nếu có 2 trụ TKĐX* (hoặc 1 trụ TKĐX và 1 trụ TKĐX*) với 1 trụ của bán hợp này thì chúng phá được cả cục và hợp tại chi của trụ đó.

VULONG
29-10-12, 17:28
Ví dụ mẫu:

Ví dụ 49 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Đây là Tứ Trụ của cụ Thiệu Ung (Thiệu Khang Tiết) một đại sư lừng danh của Trung Quốc (mà cụ Thiệu Vĩ Hoa là cháu nội đời thứ 29) do nick LingLingLing đã đưa ra thách đố tôi dự đoán trong chủ đề “Uyên Hải Tử Bình - Thiệu Vĩ Hoa” tại mục Tử Bình bên trang web tuvilso.com (nay là tuvilyso.org) vào khoảng đầu năm 2007.

Xét hạn năm Đinh Dậu thuộc đại vận Đinh Dậu tức tuế vận gặp nhau

Sơ đồ mô tả các điểm hạn như sau:
http://farm7.staticflickr.com/6199/6124881658_2498561aae_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6124881658/)

Năm cụ Thiệu Ung 46 tuổi là năm Đinh Dậu thuộc đại vận Đinh Dậu, tiểu vận Đinh Hợi và Bính Tuất. Ta xét tiểu vận Bính Tuất.
1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn đủ, quan sát cũng đủ nên dụng thần đầu tiên phải là thực thương Đinh tàng trong Tuất ở trụ giờ.
2 – Trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa.
3 – Năm Đinh Dậu và đại vận Đinh Dậu tức tuế vận cùng gặp có 1đh (vì đinh vượng ở lưu niên).
4 - Dụng thần Đinh mộ ở lệnh tháng nên có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh.
5 - Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh.
6 – Đinh đại vận và Đinh lưu niên đều vượng ở lưu niên có -1đh và khắc 2 Tân, vì vậy mỗi lực có 0,7đh.
2 Tân thất lệnh nhưng vượng ở lưu niên, vì vậy mỗi Tân có -0,5đh nhưng bị 2 Đinh khắc còn -0,5.0,3.0,3đh = .0,05đh.
Dậu thái tuế và Dậu đại vận, mỗi Dậu có 1 hung thần có 0,25đh. Tuất tiểu vận có 1 hung thần có 0,13đh.
7 - Dậu đại vận tự hình Dậu thái tuế có 1đh, hại Tuất trụ giờ có 1đh và hại Tuất tiểu vận có 0,25đh (vì nó là lực thứ 3).
Dậu thái tuế bị hình nên vẫn hại được Tuất trụ giờ có 1đh và hại Tuất tiểu vận có 0,25đh (vì là lực thứ 3 bởi Dậu thái tuế và Dậu đại vận tự hình với nhau).
8 - Nạp âm Lửa dưới núi ở tuế vận có can Đinh vượng ở lưu niên nên khắc kim trang sức trụ năm, đất trên tường trụ tháng và đất mái nhà tiểu vận, vì vậy mỗi lực khắc có 1.1/3đh = 0,33đh (vì Đinh đã sử dụng 1,5đk), riêng lực khắc nạp âm tiểu vận chỉ có 0,33.1/4đh = 0,08đh (khắc nạp âm tiểu vận bị giảm 3/4 đh).
Lửa đỉnh núi trụ giờ có can Giáp được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên khắc đất trên tường và kim trang sức, vì vậy mỗi lực chỉ có 0,5đh .
9 – 2 Đinh ở tuế vận là Thương quan gặp Quan là Tân trụ năm nên mỗi Thương quan có 1đh (vì Đinh vượng ở lưu niên).

Tổng số là 9,81đh. Số điểm này không thể chấp nhận được.
Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải đưa ra giả thiết (nay đã thành quy tắc chính thức) :
“270/49 - Nếu 3 chi của tam hội trong Tứ Trụ liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm ½ chỉ khi có ít nhất 2 trụ của nó động”.

Nếu sử dụng giả thiết này thì ở đây trụ năm và trụ tháng động (vì có 2 can Tân hay 2 nạp âm của nó bị khắc, còn trụ ngày tĩnh vì can, chi và nạp âm của nó không tác động với bên ngoài), do vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 9,81.1/2dp = 4,91đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Cụ Thiệu Ung là một nhà dịch học nổi tiếng nên biết cách giải cứu. Thực tế gia phả của nhà cụ có viết “Mặc dù được vua mời ra làm quan trong triều đình nhưng cụ đã khước từ. Mãi đến khi qua năm Đinh Dậu cụ mới nhận lời và ra làm quan“. Qua đây chúng ta thấy đại vận Đinh Dậu là đại vận Thương quan (Đinh) gặp Quan (Tân ở trụ năm và tháng) và lại là đại vận có hình và hại (bởi vì có Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ và tự hình Dậu thái tuế). Do vậy cụ biết đến năm Đinh Dậu tuế vận cùng gặp là năm hạn rất nặng, nên cụ vẫn chưa ra làm quan mà ở nhà để giải hạn (có thể cụ đã vào chùa hay sống ẩn dật trên núi cao hay rừng sâu để giải hạn).

Ta xét năm Đinh Tị
http://farm7.staticflickr.com/6084/6124347673_7a19a4f8ce_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6124347673/)

Cụ Thiệu Ung mất khi 66 tuổi, đó là năm Đinh Tị thuộc đại vận Ất Mùi, tiểu vận Mậu Thìn và Đinh Mão.
1 - Trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa.
Vào đại vận Ất Mùi và năm Đinh Tị có Tị thái tuế xung hợi trụ năm và thêm Mùi đại vận xung Sửu trụ tháng cũng như giả sử đại vận Ất Mùi TKĐX với trụ tháng Tân Sửu và lưu niên ĐinhTị TKĐX với trụ năm Tân Hợi cũng không thể phá được tam hội này.
2 – Ta đã biết từ 65 tuổi đến 85 tuổi trụ mang vận hạn lại trở về trụ năm, nên tất cả các lực xung hay khắc vào trụ năm đều được tăng gấp đôi. Do vậy Lưu niên Đinh Tị TKĐK trụ năm Tân Hợi có 2.0,5đh (vì Đinh vượng ở lưu). Trụ tháng Tân Sửu TKĐX với đại vận Ất Mùi có 0,13đh (vì can Tân thất lệnh lại còn nhược ở tuế vận).
Có 4 trụ TKĐX với nhau nên có thêm 0,3đh.
3 - Dụng thần Đinh mộ ở lệnh tháng nên có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh.
4 - Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh.
5 – Đinh lưu niên vượng ở lưu nên có -1đh can động và khắc 2 Tân nên mỗi lực có 0,7đh, nhưng lực khắc Tân trụ năm được tăng gấp đôi thành 1,4đh.
Ất đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh can động và khắc Mậu tiểu vận có 1.1/2.1/2 đh = 0,25đh (vì khắc trái dấu và khắc vào can tiểu vận). Ất còn có 1 cát thần có -0,25đh.
6 – Mùi đại vận hình Tuất trụ giờ có 1đh.
7 - Lửa đỉnh núi trụ giờ có can Giáp được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên chỉ khắc được đất trên tường trụ tháng và kim trang sức trụ năm có 1đh, vì vậy mỗi lực có 0,5đh, riêng lực khắc kim trang sức của trụ năm được tăng gấp đôi thành 1đh.
Cát trong đất lưu niên có Đinh vượng ở lưu nên khắc được kim trong cát của đại vận có 1đh.
8 – Đinh lưu niên là Thương quan gặp Quan là Tân ở trụ năm và trụ tháng nên mỗi Thương quan có 1đh (vì Đinh vượng ở lưu niên).
Tổng số có 6,91.1/2đh = 3,96đh (vì tam hội trong tứ trụ có 2 trụ của nó động). Số điểm này không thể chấp nhận được.
Để phù hợp với thực tế của ví dị này chúng ta phải đưa ra giả thiết (nay đã thành quy tắc chính thức) :
"186/(28;49) - Tam hội trong tứ trụ không hóa bị phá khi có ít nhất 2 trụ TKĐX với 2 trụ của nó còn tam hội hóa cục ngoài tứ trụ có 3 chi bị phá cả cục và hợp của nó".

Nếu sử dụng giả thiết này thì tam hội Hợi Tý Sửu trong tứ trụ bị phá.
Tổng số là 8,61đh (số điểm hạn được mô tả ở sơ đồ trên) và nó không được giảm ½ (vì tam hội cục đã bị phá). Vì số điểm hạn quá cao nên cách đây vài trăm năm nhà mệnh học Thiệu Ung đã không tự giải cứu được.

VULONG
29-10-12, 17:39
Bài 22 : Điểm hạn và khả năng của hóa cục

Y7 – Điểm hạn và khả năng của hóa cục

1 - Điểm hạn và các tính chất của hóa cục của các can chi
111/ – Trạng thái hành của hóa cục được xác định như 5 can dương.
112/ - Chỉ có 2 can hợp với nhau mới có khả năng hóa cục nếu có thần dẫn (xem câu 4 và 5 của phần II trong chương 6 hay xem giả thiết 108/(8;114)).
113/ - Các tổ hợp của các địa chi chỉ có thể hóa cục khi có thiên can dẫn hóa (xem câu 9 của phần III trong chương 6).
114/1- Điểm hạn của các hóa cục bằng chính tổng số các can hay chi có trong hóa cục đó nhân với ½ số điểm hạn của hành của hóa cục đó (trừ các chi trong tứ trụ đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành).
115/6 - Hóa cục là kỵ thần không sinh được cho hóa cục là hỷ dụng thần.
116/ - Hóa cục là hỷ dụng thần sinh cho hóa cục cũng là hỷ dụng thần như bình thường nhưng chúng có điểm hạn âm ?
117/24 - Mỗi can chi của hóa cục A sinh được cho hóa cục B ít nhất là 0,6đh chỉ khi hóa cục B là kỵ thần và hành của hóa cục B có 1đh và 0,3đh khi hành của hóa cục B có 0,5đh (can chi tiểu vận chỉ sinh được bằng ½).
118/25 - Thủy cục ở phía trên sinh cho Mộc cục là kỵ thần ở các địa chi trong tứ trụ, vì vậy Thủy cục này cũng có thể khắc Hỏa cục của các địa chi trong tứ trụ để gây ra đại chiến (ĐC).

Giải thích: Thủy ở trên trời là những đám mây mang hơi nước, khi gặp lạnh chúng ngưng tụ thành những hạt nước rơi xuống đất và nuôi cho cây cối phát triển, vì vậy nó cũng có thể dập tắt được lửa.

119/10 - Các điểm kỵ vượng tại các can chi của một hóa cục vẫn còn khi điểm hạn của hóa cục này bị can khắc mất hết và dĩ nhiên điểm vượng của các can chi của hóa cục này không bị giảm.
120/91 - Thủy cục của các chi có thể sinh cho lửa sấm sét cùng trụ, vì vậy tổng số lực khắc của lửa sấm sét này với các nạp âm khác được thêm 0,25đh chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không nhiều hơn tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên.
121/30 - Hóa cục của các chi (trừ hóa cục của các chi trong tứ trụ từ khi mới sinh (?)) có thể sinh cho các nạp âm cùng trụ, vì vậy lực khắc của mỗi nạp âm này với các nạp âm khác được thêm tổng cộng max 0,25đk chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không vượt quá tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên.
122/13 - Giữa tứ trụ với tuế vận có hóa cục, nếu các chi trong tứ trụ của hóa cục mới này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của hóa cục mới này thì chúng không có điểm hạn.
123/8 - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có tam hợp cục hay tam hội cục từ 4 chi trở lên mà hành của nó là kỵ 1 (hoặc sau khi tính lại hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận) thì điểm hạn chính của hóa cục này được tăng gấp đôi và từ chi thứ 4 trở đi có điểm hạn, mỗi chi được thêm 0,25đh.
124/55 – Hóa cục giữa tứ trụ với tuế vận có 4 chi có điểm hạn, nếu điểm hạn của hóa cục này không được tăng gấp đôi thì nó không bị khắc bởi các can nhưng các can cùng hành với nó vẫn bị khắc như bình thường.
125/81 – Nếu hai hóa cục khắc nhau thì chúng có thể được tạo thành trong cùng một lúc nhưng hóa cục bị khắc không thể được tạo thành nếu nó có sau so với hóa cục là chủ khắc (vì nó bị cản phá bởi hóa cục là chủ khắc, trừ khi hóa cục chủ khắc quá yếu, xem ví dụ 86 và ĐC-1).
126/85 - Hóa cục ở can hay chi tiểu vận với can hay chi đại vận hay lưu niên chỉ có 1,5 chi (ở đây ta quy ước can hay chi tiểu vận chỉ được tính là 0,5 can hay 0,5 chi) mặc dù là chủ khắc và có trước nhưng nó quá yếu không thể cản phá được các hóa cục bị khắc có ít nhất 2 can chi mặc dù chúng có sau.

2 – Khả năng phá hợp của các tổ hợp

a – Các quy tắc ưu tiên hợp và hóa của các địa chi
127/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có tam hội, tam hợp, bán hợp hay lục hợp không hóa thì tam hội sẽ được ưu tiên trước nhất sau đó mới đến tam hợp rồi tới bán hợp (nếu lực hợp của lục hợp không lớn hơn lực hợp của bán hợp) và cuối cùng mới đến lục hợp.
128/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có lục hợp, bán hợp, tam hợp hay tam hội có khả năng hóa thành cùng một hành thì tam hội được ưu tiên trước sau đến tam hợp rồi tới bán hợp (nếu bán hợp có lực hợp bằng hay lớn hơn lực hợp của lục hợp) và cuối cùng mới là lục hợp (kể cả các hóa cục của các chi trong tứ trụ từ khi mới sinh).
129/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có các tam hợp cục hay các tam hội cục, khi các hóa cục này bị phá bởi các chi hay các thiên khắc địa xung... thì các quy tắc ưu tiên hợp và hóa với các chi của tam hợp hay tam hội này mới có hiệu lực.

b – Khả năng phá hợp của các tổ hợp
130/ – Lục hợp cục hay bán hợp cục trong tứ trụ từ khi mới sinh chỉ bị phá khi :
a/ – Chi của nó bị xung hay bị khắc bởi chi có lực xung hay lực khắc lớn hơn lực hợp với chi bị xung hay bị khắc (riêng với lực xung hay lực khắc của bán hợp chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp). Riêng các chi Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung gần nhau thì luôn luôn phá được, không cần tính lực xung.
b/ - Theo quy tắc ưu tiên, đầu tiên là tam hội, sau đến tam hợp, cuối cùng mới đến bán hợp nếu hóa cục của chúng cùng một hành (riêng với bán hợp phải tính lực xung hay lực khắc và lực này chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp).
c/88 – Tam hợp cục hay tam hội cục của tuế vận và tiểu vận nếu nó hợp được với ít nhất 1 chi trong hóa cục này.
d/ – TKĐX với hóa cục này nếu 2 chi của nó không phải là Thổ.
e/ - Nếu TKĐX và các hóa cục cùng xuất hiện từ khi mới sinh thì TKĐX có 2 chi là Thổ có thể không phá được các hóa cục này ?

131/(25;197) - Các bán hợp cục hay lục hợp cục bị phá khi lực hợp của các bán hợp hay lục hợp mới lớn hơn lực hợp của các bán hợp cục hay lục hợp cục cũ (riêng lực hợp của bán hợp chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp), nhưng nếu chúng là các hóa cục của các địa chi trong tứ trụ từ khi mới sinh thì điều này chỉ đúng khi các tổ hợp mới này có thể hóa được cục có cùng hành với chúng.
132/ - Nếu hóa cục của can hay chi tiểu vận với tuế vận là chủ khắc chỉ có 1,5 can hay chi (vì can hay chi tiểu vận chỉ được tính là 0,5 can hay chi) thì nó không có khả năng cản được các hóa cục là bị khắc có ít nhất 2 can hay chi được tạo thành sau.
133/88 - Hóa cục chỉ có 2 can là chủ khắc có trước không cản phá được tam hợp cục hay tam hội hóa cục có ít nhất 4 chi là bị khắc có sau (xem thêm giả thiết 126/85).

VULONG
29-10-12, 17:42
3 - Các hóa cục khắc nhau
134/79 – Nếu giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có 2 hóa cục khắc nhau được gọi là Ðại Chiến (ÐC) và điểm hạn của các hóa cục này luôn luôn có dấu dương.
134a/(147;212) – Nếu có 3 hóa cục là A, B và C mà A có thể sinh được cho B và B có thể sinh được cho C thì chúng không có khả năng gây ra ÐC nhưng nếu A phải ngăn cản (khắc) sự tạo thành của C (tức A phải được tạo thành trước C) thì nó không có khả năng sinh cho B và khi đó C vẫn được tạo ra nhưng không có điểm hạn và C không có khả năng nhận được sự sinh từ B (?).
134b/91 – Nếu giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có 3 hóa cục A, B và C mà A có thể khắc B và B có thể khắc C thì chỉ có A và B gây ra ÐC còn B có thể khắc C nhưng không có điểm hạn, vì vậy C không thể sinh được cho A (?).
135/ - Điểm hạn của can hay chi ở tiểu vận tham chiến (nó được gọi là can hay chi phụ tham chiến) chỉ bằng ½ đh của các can chi khác tham chiến.

a - Đại chiến

136/79 - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có ít nhất 2 hóa cục khắc nhau thì chúng được gọi là Đại Chiến (ĐC) và điểm hạn của các hóa cục này luôn luôn dương.

b - Điểm hạn của Đại chiến
137/91 - Nếu hóa cục có 1,5 can chi khắc hóa cục cũng chỉ có 1,5 can chi (tức 2 hóa cục này cùng ở tiểu vận) thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,3đh và hóa cục bị khắc vẫn khắc được các hóa cục khác nhưng lực khắc này không thể gây ra được các loại Ðại Chiến nhưng nó vẫn đủ khả năng khống chế các hóa cục đó không sinh được cho hóa cục khắc nó (?).
138/84 – Nếu hóa cục ở tiểu vận có 1,5 can chi là kỵ thần khắc hóa cục có từ 2 can chi trở lên thì nó vẫn chỉ gây ra ĐC và điểm hạn cho mỗi can hay chi tham chiến là 0,15đh
139/85 - Nếu hóa cục ở tiểu vận có 1,5 can chi là hỷ dụng thần khắc hóa cục cũng là hỷ dụng thần có từ 2 can chi trở lên thì nó vẫn chỉ gây ra ĐC và điểm hạn của mỗi can chi tham chiến là 0,15đh.
140/ – Nếu hóa cục có từ 2 can chi trở nên khắc hóa cục chỉ có 1,5 can chi thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là ...0,4đh (?).
141/79 – Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà ít hơn tổng số can chi của các hóa cục bị khắc thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,2đh.
142/80 – Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà nhiều hơn tổng số can chi của các hóa cục bị khắc cũng có từ 2 can chi trở lên thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,4đh.
143/81 - Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà bằng tổng số can chi của các hóa cục bị khắc thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,3đh.
144/81 - Nếu một hóa cục của ĐC là chủ khắc khi nó bị khắc mà điểm hạn của nó không bị mất hết thì điểm hạn của ĐC không thay đổi (?).
145/(61;84;87) - Nếu các chi trong tứ trụ của các hóa cục tham gia ĐC đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành thì chúng không có điểm hạn trong các hóa cục đó và chúng cũng không có điểm hạn trong đại chiến, trừ trường hợp nếu các hóa cục này không hợp với tuế vận thì mặc dù các chi của chúng không có điểm hạn trong các hóa cục đó nhưng chúng vẫn có điểm hạn trong Đại Chến.
(Chú ý : Tất cả can chi trong các hóa cục tham gia đại chiến đều được tính để xác định tổng số can chi tham chiến của mỗi bên).
146/87 - Các hóa cục của các chi trong tứ trụ không có khả năng khắc các hóa cục ở phía trên và ngược lại, trừ Thủy cục ở phía trên khắc được Hỏa cục của các địa chi trong tứ trụ gây ra ĐC và điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến được thêm ít nhất 0,01đh (vì nước mưa rơi xuống đất có thể dập tắt lửa và đại chiến ở đây là nước với lửa không phải là hơi nước với lửa).
147/88 - Nếu cung phối hôn hợp với tam hợp cục hay tam hội cục của tuế vận với tiểu vận gây ra đại chiến thì điểm hạn của đại chiến này có thêm ít nhất 0,25đh (trừ cung phối hôn đã hóa cục có cùng hành từ khi mới sinh?).
148/(114;206) - Các hóa cục của các can trong tứ trụ có từ khi mới sinh không bị mất khi hành của lệnh tháng thay đổi cũng như chúng không có khả năng cản được các hóa cục được tạo thành sau nhưng chúng vẫn có khả năng gây ra Đại Chiến và mặc dù các hóa cục này không có điểm hạn nhưng các can của chúng vẫn có điểm hạn trong ĐC như bìng thường.
149/158 - Nếu ĐC được gây ra bởi tam hội cục là chủ khắc có thái tuế và hành của nó cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên khi chúng chưa hóa cục thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến được tăng thêm 0,2đh nếu hóa cục chủ khắc có số can chi nhiều hơn 1 can chi so với tổng số can chi của hóa cục bị khắc, 0,4đh nếu nó nhiều hơn là 2 can chi, 0,6đh nếu nó nhiều hơn 3 can chi,... (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này).

c - Đại Chiến-1 và điểm hạn của nó

150/89 - Nếu hóa cục của tiểu vận là hỷ dụng thần có 1,5 can chi khắc hóa cục là kỵ thần có từ 2 can chi trở lên thì nó được gọi là đại chiến 1 (ĐC-1). Nếu hành của hóa cục bị khắc có 0,5đh thì điểm hạn của ĐC-1 là tổng số của các can chi tham gia ĐC-1 nhân với :
0,65 nếu các hóa cục bị khắc có tổng số 2 can chi.
0,7 .................................................. ....3 ............
0,75.............................................. .......4 ............
0,8 .................................................. ....5 ............
0,85.............................................. .......6 ............
0,9 .................................................. ....7 ...........
(Chú ý : Điểm hạn của can hay chi tiểu vận tham chiến chỉ bằng ½).

151/90 - Nếu hành của hóa cục bị khắc có 1đh thì điểm hạn của ĐC-1 giống như giả thiết 150/89 ở trên nhưng các trường hợp tương tự được thêm 0,05đh.
152/92 - Nếu hóa cục chủ khắc trong ĐC-1 bị các can trong tứ trụ khắc mất 25%đh của nó thì điểm hạn của mỗi can hay chi tham chiến được thêm 0,25đh.
153/93 - Nếu hóa cục chủ khắc trong ĐC-1 bị các can trong tứ trụ khắc mất 50%đh của nó thì mỗi can hay chi tham chiến được thêm 0,38đh.

d - Đại Chiến-2 và điểm hạn của nó
154/94 - Nếu hóa cục bị khắc trong ĐC là hỷ dụng thần, khi nó bị các can trong tứ trụ khắc mất 50%đh của nó thì ĐC trở thành đại chiến 2 (ĐC-2) và điểm hạn của ĐC-2 bằng tổng điểm hạn của ĐC và ĐC-1 khi 2 hóa cục này có số can chi bằng nhau, trong đó điểm hạn của ĐC-1 được xác định bởi số can chi của hóa cục chủ khắc.
155/ - Nếu tổng «số can chi tham chiến của các hóa cục bị khắc và chủ khắc trong ĐC-2 là khác nhau hay điểm hạn của hóa cục là hỷ dụng thần chỉ bị khắc mất 25%đh thì điểm hạn của ĐC-2 là …? Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi trả lời các câu hỏi này

VULONG
29-10-12, 17:44
Ví dụ mẫu:

Ví dụ 90 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"):
http://farm7.staticflickr.com/6173/6147412679_ff0c435778_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6147412679/)

Tháng 3/1967 là năm Đinh Mùi thuộc đại vận Tân Tị và tiểu vận Đinh Dậu.
1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là quan sát Canh tàng trong Thân trụ ngày (vì quan sát chỉ có 3 can chi, còn tỷ kiếp có 4 can chi và nắm lệnh). Mộc là kỵ vượng
2 – Trong tứ trụ có ngũ hợp của Giáp với Kỷ và tam hội Thân Dậu Tuất đều không hóa.
Vào đại vận Tân Tị và năm Đinh Mùi có:
Bán hợp của Tị đại vận với Dậu tiểu vận hóa Kim.
Tam hội Thân Dậu Tuất trong tứ trụ hóa Kim.
Bán hợp của Mão trụ tháng với Mùi thái tuế hóa Mộc (vì mặc dù Mộc cục có sau nhưng Kim cục của tiểu vận chỉ có 1,5 chi và tam hội Kim trong tứ trụ đều không có khả năng ngăn cản được nó). Do vậy Kim cục ở tiểu vận và Mộc cục đã tạo thành ĐC-1 (vì Kim cục là hỷ dụng thần có 1,5 chi còn Mộc cục là kỵ thần có 2 chi). Vì vậy bán hợp Kim có 1đh và tam hội Kim có 1,5đh, Mộc cục có 0,5đh và Mùi thái tuế hóa Mộc có 0,5đh kỵ vượng (chú ý : Hóa cục của các chi trong Tứ Trụ không có khả năng tham gia Đại Chiến, trừ khi nó là Hỏa cục bị Thủy cục phía trên khắc).

Nếu sử dụng giả thiết 150/89 thì điểm hạn của ĐC-1 là (3.0,65 + 0,33)đh = 2,28đh (vì Mộc cục là hóa cục bị khắc có 2 chi và hành của nó có 0,5đh).
3 - Dụng thần Canh tàng trong Thân của tam hội cục Kim trong tứ trụ không hóa có 0đh (vì khi tam hội Thân Dậu Tuất hợp với tuế vận hóa Kim có hành giống với hành của dụng thần Canh) và Canh vượng ở lưu niên có -1đh (xem giả thiết 38/1).
4 - Nhật can Giáp mộ ở lưu niên có 1 đh.
5 – Đinh lưu niên vượng ở lưu niên có -0,5đh và khắc Tân đại vận có 1đh. Đinh có 1 cát thần có -0,25đh
Đinh tiểu vận vượng ở tiểu vận nên khắc Tân đại vận có 1đh và Tân có 1 cát thần có -0,13đh.
Ất trụ năm được lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và Ất có 0,5đh kỵ vượng (vì bị Tân đại vận khắc).
Giáp trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên có -0,5đh và Giáp có 0,5đh kỵ vượng (vì bị Tân đại vận khắc).
6 – Tân của lưu niên là Thương quan vượng ở lưu niên, vì vậy nó gặp Ất của đại vận là Quan có 1đh (theo lý thuyết của tôi - cũng như của cụ Thiệu - thì các ví dụ thực tế đã chứng minh rằng Thương và Quan không ở trong hợp thì mới có thể gặp nhau và khi đó mới có thể có điểm hạn Thương gặp Quan. Điều này khác hẳn với các sách từ Cổ tới Kim là họ cho chúng gặp nhau tuốt kể cả khi chúng đã hóa thành cục, thật là "Khủng" ...).
7 - Đất trên thành trụ tháng có Kỷ thất lệnh nhưng vượng ở lưu nên khắc nước mưa lưu niên có 1đh nhưng can chi của nạp âm đều bị hợp trong đó chỉ có Mão hợp với tuế vận hóa cục nên bị giảm 25%đh còn 0,75đh.
Nước mưa lưu niên có Đinh vượng ở lưu nên khắc được lửa đỉnh núi trụ giờ có 1đh nhưng bị đất trên thành khắc mất 75%đh còn 0,25đh.

Tổng số có 9,15đh. Nếu ta sử dụng giả thiết 269/48 (nay đã thành quy tắc chính thức) thì tam hội cục trong tứ trụ không có 3 chi liền nhau nhưng có 2 trụ động nên tổng điểm hạn được giảm 1/3 còn 9,15.2/3.đh = 6,10đh. Số điểm này chấp nhận được.
Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của ĐC-1, nạp âm, Hỏa khắc Kim và Mộc quá vượng đã chống lại Kim. Do vậy ta phải dùng Kim để giải cứu.
Trong tứ trụ có Mão hợp với Mùi thái tuế hóa Mộc gây ra ĐC- 1 và Kim (Tân) bị Hỏa (2 Đinh) khắc, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Mão và nó thuộc mùa Xuân là mùa mà Hỏa và Mộc vượng, còn Kim ở tử tuyệt.
Tai họa này dễ liên quan tới 2 hành là Kim và Mộc.

VULONG
29-10-12, 17:46
Bài 23 - Điểm hạn và các tính chất của nạp âm

Nói chung phần nạp âm này hầu như tôi chỉ dựa vào các ví dụ trong thực tế để xác định điểm hạn của chúng, mặc dù có giải thích một vài trường hợp nhưng chắc cũng chỉ là gượng ép, chưa có tính thuyết phục. Nhiều cái đến giờ tôi vẫn không hiểu được nó là cái gì như Lửa Dưới Núi chẳng hạn cũng như tại sao sách cổ viết về nạp âm của gỗ Lựu là “Gỗ Lựu gặp Lửa Mặt Trời có thể tốt mà cũng có thể xấu” ? Các ví dụ thực tế đã chứng minh chúng đúng là phức tạp như vậy.... Một điều mà ai ai cũng cảm thấy vô lý là sách cổ chỉ nói “Gỗ Đồng Bằng sợ Kim Lưỡi Kiếm” còn các loại gỗ khác không hề sợ, trong khi thực tế thì dao, kiếm, rìu, máy cưa...có ngán loại gỗ nào đâu...

Y10 - Điểm hạn và tính chất của các nạp âm

Chúng ta quy ước gọi nạp âm B có can hay chi C, can hay chi C của nạp âm B, nó có nghĩa là can hay chi C và nạp âm B ở trong cùng trụ.

Điểm hạn của nạp âm khắc các nạp âm khác hoàn toàn phụ thuộc vào độ vượng hay suy theo can của nó như sau :
195/5 - Nếu can của nạp âm vượng ở lưu niên thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác max là 2,5đk để có thể gây ra max 2,5đh, nhưng nạp âm này chỉ được sử dụng phần hiệu số của 2đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng.
196/16 - Nếu can của nạp âm ở tuế vận chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác có max 0,75đk để có thể gây ra max 0,75đh, nhưng nạp âm này chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,75đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng
197/58 - Nếu can của nạp âm được lệnh (tức nó ở trong tứ trụ) nhưng chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác max là 1,75đk để có thể gây ra max 1,75đh. Mặc dù nạp âm này chỉ được sử dụng max 1,5đk để có thể gây ra 1,5đh nhưng nó chỉ được sử dụng phần còn lại của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ.
198/1 - Nếu can của nạp âm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì tổng lực khắc của can và nạp âm của nó với các nạp âm và các can khác max là 1đk để có thể gây ra max 1đh. Mặc dù nạp âm này có thể sử dụng 1đk để có thể gây ra 1đh, nhưng nó chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ.
199/(11;30) - Nếu can của nạp âm thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của can và nạp âm của nó với các nạp âm và các can khác max là 0,75đk. Mặc dù nạp âm này có thể sử dụng max 0,75đk để có thể gây ra 0,75đh nhưng nó chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ.
200/ - Nếu can của nạp âm thất lệnh và nhược ở tuế vận hay can của nạp âm ở tuế vận mà nhược ở tuế vận thì nạp âm này không có khả năng khắc các nạp âm khác.
201/(93;95,157) – Nạp âm là vô dụng (nó không khắc được các nạp âm khác) chỉ khi chi của nạp âm là Ngọ hay Mão bị khắc, trừ lực khắc của lửa mặt trời với các nạp âm khác chỉ bị giảm 50%đh (hay nó không bị giảm ?)
202/63 – Lực khắc của nạp âm với các nạp âm khác không bị giảm khi chi của nó bị xung hay bị khắc trừ giả thiết 201/.
202a/91– Thủy cục của các chi có thể sinh cho lửa sấm sét cùng trụ ...(tương tự như giả thiết 202 /30).
202b/30- - Hóa cục của các chi có thể sinh cho các nạp âm cùng trụ, vì vậy lực khắc của mỗi nạp âm này với các nạp âm khác được thêm tổng cộng max 0,25đk chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không vượt quá tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên.
203/(8;42) – Nếu can của nạp âm bị khắc bởi ít nhất 1 lực có 1đh thì nạp âm trở thành vô dụng còn nếu can của nó bị khắc ít nhất bởi 1 lực có 0,7đh thì điểm hạn của nạp âm khắc các nạp âm khác bị giảm ít nhất 3/4.
204/78 – Nạp âm là vô dụng khi can của nó bị khắc bởi 4 can, nếu mỗi lực này có ít nhất 0,5đh.
205/60 - Nếu lửa đỉnh núi không khắc được nước khe núi thì nước khe núi mới khắc được lửa đỉnh núi, các lực này có max 0,5đh.
206/(47;53;62) - Gỗ lựu gặp Lửa mặt trời có khoảng từ -1đh tới +1đh (vì theo sách cổ để lại thì gỗ lựu gặp lửa mặt trời có thể tốt nhưng cũng có thể xấu). Điểm hạn này phụ thuộc vào hành Kim là hành của can chi của nạp âm gỗ lựu (Canh Thân, Tân Dậu) :
a - Nếu Kim là hỷ dụng thần thì điểm hạn của gỗ lựu gặp lửa mặt trời có dấu dương, nó là xấu (bởi vì nó giúp lửa mặt trời mạnh thêm để khống chế hỷ dụng thần Kim).
b - Nếu Kim khắc hành của hỷ dụng thần thì điểm hạn này có dấu âm, nó là tốt (bởi vì Kim bị khống chế là tốt cho hỷ dụng thần).
c - Nếu can và chi của gỗ lựu ở trạng thái tĩnh hay can của gỗ lựu thất lệnh và nhược ở tuế vận hay gỗ lựu bị khắc bởi một lực có 1 đh thì điểm hạn này có thể là 0đh (?).
207/1 - Mặt trời khắc đất trên tường, lửa đèn, gỗ liễu, kim trang sức, mỗi lực có max 1đh. Lửa sấm sét khắc Kim lưỡi kiếm, đất trên thành....mỗi lực có max 1đh (xem bảng phía dưới).
208/37 - Gỗ đồng bằng khắc gỗ dâu có max 0,25đh.
209/13 - Đất ven đường, đất dịch chuyển, đất trên thành, đất mái nhà và đất trên tường khắc nước mưa, mỗi lực có max 1đh.
210/38 - Mỗi nạp âm khắc các nạp âm khác có max 2đh.
211/7 – Các loại nạp âm có hành là Thủy không khắc được lửa dưới núi. Lửa dưới núi không khắc được kim trang sức. Nước khe và nước suối khắc nước sông, mỗi lực có 0,25đh, còn nước mưa và nước sông khắc nước sông, mỗi lực có ... ?
212/11 - Đất trên thành, đất ven đường, đất mái nhà và đất trên tường khắc nước khe núi, mỗi lực có max 0,5đh, riêng đất dịch chuyển khắc nước khe núi có max 0,75đh

Giải thích: Nước khe núi thực chất bởi 2 phần, phần ở phía trên vẫn còn là xương mù, còn phần ở dưới là phần xương mù đã ngưng tụ thành các hạt nước rơi xuống tạo thành các dòng nước nhỏ chẩy ở vách đá và dưới khe núi. Cho nên đất trên thành, đất trên tường, đất ven đường hay đất mái nhà chỉ khắc được phần nước chẩy ở vách núi và khe núi còn phần xương mù phía trên không khắc được, do vậy chỉ gây ra 0,5đh là hợp lý. Chỉ có đất dịch chuyển (có thể coi như là bụi và dung nham của núi lửa (?)) khắc nước khe có 0,75đh (vì là bụi và dung nham của núi lửa dịch chuyển, nên phần bụi khắc được một phần sương mù phía trên nên có thêm 0,25đh).

213/30 - Đất trên thành, đất ven đường, đất mái nhà đất, trên tường và đất dịch chuyển khắc nước sông và suối, mỗi lực có max 1đh.
214/47a - Nếu can và chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có can của nạp âm hợp với tuế vận mà nó có hành giống với hành của nạp âm và nó không bị khắc bởi chi cùng trụ thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác bị giảm 1/2 đh (?).
215/127 - Tại năm sinh, nạp âm của trụ năm và lưu niên khắc các nạp âm khác bị giảm ½ đh.
216/(6;46) - Nếu can và chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có can hay chi của nó hợp với tuế vận và tổ hợp này phải hóa cục thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác mới bị giảm ¼ đh, nhưng nếu chi của nó hợp với tuế vận hóa cục có cùng hành với nạp âm này thì lực khắc này không bị giảm.
217/(9;24) – Nếu can và chi của nạp âm đều bị tuế vận hợp thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác bị giảm ½ điểm hạn nhưng nếu chi của nó hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của nạp âm này thì lực khắc này không bị giảm.
218/(4;31;16) – Nạp âm tiểu vận khắc nạp âm đại vận bị giảm ½ đh và nạp âm đại vận hay lưu niên khắc nạp âm tiểu vận bị giảm ¾ đh
219/46 - Nếu các nạp âm của nước sông và nước suối trong tứ trụ có các can của chúng được lệnh và vượng ở lưu niên hay chúng ở tuế vận mà vượng ở tuế vận thì lực khắc của chúng với các nạp âm khác không bị giảm mặc dù chúng bị khắc bởi các nạp âm khác.

Giải thích: Nếu can của các nạp âm là nước suối hay nước sông thất lệnh hay không vượng ở lưu niên nên chúng có ít nước, khi chúng bị các con đê chặn lại (bị khắc bởi các loại nạp âm là Thổ) thì chúng không thể tràn qua các con đê để khắc được các nạp âm khác như lửa đỉnh núi.

220/50 - Nếu nạp âm của 1 trụ bị khắc nhưng không có điểm hạn thì trụ đó được xem như nó không bị khắc.
221/(33;105) – Nếu không có lửa đèn tác động tới các nạp âm là gỗ thì khi các nạp âm là gỗ khắc kim giá đèn có 0,5đh chỉ khi can của chúng ở các trạng thái Lộc hay Kình Dương tại lưu niên (trừ gỗ lựu, có thể lực khắc của gỗ lựu bị giảm bởi vì can chi của gỗ lựu cùng có hành kim), còn nếu các nạp âm này ở trong tứ trụ mà các can của chúng nhược ở tuế vận thì chúng khắc kim giá đèn ở trong tứ trụ có 0,5đh chỉ khi các can của chúng phải ở trạng thái Lộc hay Kình Dương của lệnh tháng (trừ gỗ lựu). Ngoài 2 trường hợp này chúng khắc kim giá đèn chỉ có max 0,25đh.

Bảng điểm hạn của các nạp âm khắc nhau

http://farm7.staticflickr.com/6164/6168015524_010701c976_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6168015524/)

http://farm7.staticflickr.com/6173/6168017944_95cac0a2a0_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6168017944/)

Chú ý :
1 – Kim giá đèn * xem giả thiết 221/(33;105).
2 - Dấu * của Gỗ Lựu có thể từ -1đh tới +1đh.
3 - Các điểm hạn trong bảng này là lớn nhất khi chúng khắc nhau (tức can của chúng vượng ở lưu niên) mà tôi đã tìm ra được từ trong các ví dụ đã xẩy ra trong thực tế, tuy nhiên số ví dụ để kiểm tra chúng là quá ít, vì vậy các điểm hạn này có thể chưa chính xác.
4 - Ở đây tôi mới tìm được 1 trường hợp của nạp âm gỗ lựu gặp lửa mặt trời trong một vài trường hợp có điểm hạn âm.
Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi tìm thêm các điểm hạn mang dấu âm và dương mới cũng như kiểm tra lại tất cả các điểm hạn trong cuốn sách này.

VULONG
29-10-12, 17:48
Ví dụ mẫu:

Ví dụ 46 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Tứ trụ của minh tinh màn bạc Hollywood Christopher Reeve (thủ vai Superman).

http://farm7.staticflickr.com/6151/6167522495_5752a317ca_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6167522495/)

Ngày 27/5/1995 là năm Ất Hợi thuộc đại vận Quý Sửu và tiểu vận Quý Sửu.
1 - Mệnh này Thân nhược mà Kim là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn/ Nhâm ở trụ năm.
2 – Trong tứ trụ có ngũ hợp của Giáp với Kỷ không hóa, lục hợp của Thìn với Dậu hóa Kim và bán hợp của Ngọ với Tuất không hóa (với nam, trong tứ trụ có 3 tổ hợp thường là người nổi tiếng).
Vào đại vận Quý Sửu và đến năm Ất Hợi có ngũ hợp của Ất trụ giờ với Canh ở lưu niên hóa Kim nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng của tuế vận, kỵ thần Kim có 18,1đv, còn các hành khác không thay đổi. Do vậy Kim là kỵ vượng, vì vậy Kim cục có 0,5đh, Ất và Canh mỗi can và chi có 0,5đh kỵ vượng.
3 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh .
4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh .
5 - Lửa đỉnh núi của trụ ngày có Giáp vượng ở lưu niên khắc được đất dịch chuyển của trụ tháng có 1đh, vì vậy đất dịch chuyển thành vô dụng (vì sao thì tôi chưa giải thích được, chỉ thấy áp dụng như vậy thì mới đúng cho các ví dụ tương tự khác).
Lửa đỉnh núi của lưu niên có Ất nhược ở tuế vận nên thành vô dụng.
Đất ven đường của trụ giờ có Canh được lệnh nên khắc được nước sông có 1đh nhưng vì can chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có Canh hợp với tuế vận hóa Kim, nếu sử dụng giả thiết 216/6 thì lực khắc này chỉ bị giảm ¼ đh còn 1.3/4.đh = 0,75đh.

Nếu sử dụng giả thiết 219/46 thì nước sông có Nhâm được lệnh và vượng ở lưu niên khắc lửa đỉnh núi của trụ ngày và lưu niên mỗi lực có 1đh
6 – Trong tứ trụ đã có Thìn, Dậu và Ngọ đến năm Hợi có đủ tứ tự hình nên có 1đh.
Tổng số có 5đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (vì các bác sĩ giỏi cấp cứu kịp thời, sự giải cứu này tương đương với khoảng -0,1đh, vì vậy anh ta mới thoát chết).

Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của các nạp âm, tứ hình và do Kim quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu (vì Thân Mộc là nhược) và kết hợp với giải cứu về tứ hình (giống như hình và hại).
Hạn đã xẩy ra vào tháng Tân Tị bởi vì nó TKĐK với lưu niên Ất Hợi và nó là tháng và mùa mà dụng thần Thủy ở tử tuyệt, còn Kim bắt đầu vượng, vì vậy Thủy không có khả năng làm dụng thần thông quan để hóa Kim sinh cho Thân (Mộc).

Christopher Reeve mất ngày 10/10/2004, đó là năm Giáp Thân thuộc đại vận Giáp Dần, tiểu vận Quý Hợi.

http://farm7.staticflickr.com/6153/6167489215_60535ea65d_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6167489215/)


1 – Trong tứ trụ có:
Lục hợp của Thìn với Dậu hóa Kim:
Ngũ hợp của Giáp với Kỷ và bán hợp của Ngọ với tuất là không hóa.
Vào đại vận Giáp Dần có:
Tam hợp Dần Ngọ Tuất không hóa.
Ngũ hợp của Giáp đại vận và Giáp trụ ngày với Kỷ trụ tháng.
Đến năm Giáp Thân có:
Tam hội Thân Dậu Tuất hóa Kim (vì theo quy tắc ưu tiên lục hợp Kim bị phá bởi tam hội Kim là cùng hành và tam hợp Dần Ngọ Tuất bị phá vì nó không hóa cục).
Lục hợp của Hợi tiểu vận với Dần đại vận không hóa bởi vì Kim cục có trước đã ngăn cản.
Bởi vì Kim cục trong tứ trụ bị phá và chi Dậu của nó hợp với tuế vận hóa cục nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng của tuế vận, kỵ thần Kim có 29,9đv, còn hỷ thần Mộc có 18,47đv. Do vậy Kim có điểm kỵ vượng. Tam hợp Kim cục có 0,75đv và Thân thái tuế có 0,5đh kỵ vượng.
Lục hợp Kim cục có 2 chi trong tứ trụ bị phá có -0,5đh, chi Thìn có 1đh và chi Dậu có 0,5đh.
2 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh.
3 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh.
4 – Giáp đại vận và Giáp lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên mỗi Giáp có -0,25đh can động và khắc Kỷ, vì vậy mỗi lực khắc có 0,25đh.
Giáp trụ ngày thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Kỷ có 0,25đh.
5 - Lửa đỉnh núi của trụ ngày có Giáp thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên chỉ khắc được đất dịch chuyển của trụ tháng có 0,25.1/2.đh = 0,13đh (bởi vì Giáp đã dùng mất 0,5đh và can chi của nạp âm đều hợp với tuế vận).
Nếu sử dụng giả thiết 213/30 thì đất dịch chuyển của trụ tháng có Kỷ được lệnh và vượng ở lưu niên khắc được nước sông của trụ năm và nước suối của đại vận, mỗi lực có 1.1/2.87%đh = 0,44đh (vì can chi của nạp âm đều hợp với tuế vận và bị lửa đỉnh núi khắc mất 13%đh).
Đất ven đường của trụ giờ có Canh được lệnh và vượng ở lưu niên khắc được nước sông và nước suối, vì vậy mỗi lực có 1đh.
Nếu sử dụng giả thiết 219/46 thì nước sông của trụ năm có can Nhâm được lệnh lại vượng ở lưu khắc lửa đỉnh núi của trụ ngày có 1đh (mặc dù nó bị khắc bởi các loại nạp âm là Thổ).
Nước suối của đại vận có Giáp chỉ vượng ở đại vận nên nó không thể khắc được lửa đỉnh núi (vì nó bị khắc 1đp bởi đất ven đường).

Tổng số có 6,26đh. Tam hội kim cục ngoài tứ trụ có 2 chi khác nhau trong tứ trụ, vì vậy điểm hạn được giảm 1đh. Do vậy tổng số chỉ còn 5,26đh. Số điểm này chấp nhận được.
Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của các nạp âm và Kim quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu.
Trong tứ trụ có Dậu và Tuất hợp với Thân thái tuế hóa Kim cục đã gây ra tai họa, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào các tháng Dậu hay Tuất. Ở đây, tại sao tai họa không xẩy ra vào tháng Quý Dậu mà lại xẩy ra vào tháng Giáp Tuất ? Có thể giữa tứ trụ với tuế vận có 3 Giáp hợp với Kỷ trụ tháng, vì vậy vào tháng Giáp Tuất, có thêm Giáp đã tác động tới Kỷ thì tai họa mới xẩy ra (?)

VULONG
29-10-12, 17:51
Bài 24 – Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng

Y1 – Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng

Đây là phần quan trọng nhất của phương pháp tính điểm hạn này. Thường thì các can chi trong tứ trụ không thay đổi hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm của chúng không thay đổi, nhưng vào một năm nào đó can chi trong tứ trụ có sự hợp hóa thành hành khác thì điểm vượng vùng tâm của chúng có thể bị thay đổi. Trong một số trường hợp can chi trong tứ trụ thay đổi hành của chúng thì điểm vượng vùng tâm của các hành phải được tính lại. Sau đó ta phải xác định lại dụng thần và điểm hạn của các hành. Tiếp theo có thể ta phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận và tiểu vận để xác định chính xác độ lớn của các hành ở năm đó (điểm vượng tính thêm ở tuế vận này không có khả năng làm thay đổi dụng thần cũng như điểm hạn của các hành, trừ một vài trường hợp ngoại lệ).

A – Hành kỵ 1 và hành kỵ vượng

Nếu 1 hành là kỵ thần có điểm vượng vùng tâm (hay sau khi tính lại hoặc tính thêm các can và chi động ở tuế vận) lớn hơn các kỵ thần khác thì nó được gọi là hành kỵ 1 và nếu nó lớn hơn các hành là hỷ dụng thần từ 10đv trở lên thì nó được gọi là hành kỵ vượng và can hay chi của nó trong một số trường hợp có điểm hạn và các điểm hạn này được gọi là các điểm kỵ vượng.

B - Tính lại điểm vượng trong vùng tâm

Cách tính lại các điểm vượng trong vùng tâm là lấy chính điểm vượng trong vùng tâm của các can hay các chi này từ khi mới sinh (điểm vượng này được tính từ khi mới sinh nên chúng không bao giờ thay đổi). Do vậy nếu 1 can hay 1 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của can hay chi này thì hành của hóa cục đó được thêm số điểm của các can hay chi này còn hành của các can hay chi này bị giảm đi số điểm như vậy. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành thay đổi, vì vậy dụng thần hay điểm hạn của các hành trong vùng tâm có thể thay đổi. Đối với các sách cổ về mệnh học thì dụng thần thay đổi là phần khó nhất, nhưng với phương pháp này thì nó không phải là quá khó.

1B - Điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại trong các trường hợp sau :
1/(10;35;86;206) - Nếu có ít nhất 1 can trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục. Khi đó các can chi động trong tứ trụ được tính như bình thường và các điểm vượng ở lưu niên của các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục cũng được tính vào trong vùng tâm, nhưng các điểm vượng ở lưu niên của các chi ở tuế vận hợp với các chi trong tứ trụ hóa cục không được tính vào trong vùng tâm.
2/ - Tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận (?).
Riêng trường hợp này thì sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành được xác định như từ khi mới sinh (nghĩa là các can chi ở tuế vận hóa cục được xem như ở trong Tứ Trụ từ khi mới sinh).
3/30 - Nếu các can của tuế vận và can tiểu vận hóa cục mà có thêm hóa cục của các địa chi có cùng hành liên kết giữa tứ trụ với tuế vận.
4/13 - Trong tứ trụ có hóa cục từ khi mới sinh nếu nó hợp với tuế vận hóa cục có cùng hành.
5/6 - Giữa tứ trụ với tuế vận có các hóa cục, trong đó có ít nhất 2 chi ở trong tứ trụ của các hóa cục này thay đổi hành của chúng.
6/29 - Hóa cục trong tứ trụ từ khi mới sinh bị phá mà có ít nhất 1 chi của nó hợp với tuế vận hóa cục.
7/9 – Các chi tuế vận đều hóa cục có cùng hành và có tổ hợp của thiên can liên kết tứ trụ với tuế vận.

2B - Điểm vượng vùng tâm không phải tính lại
8/28 - Nếu các chi trong tứ trụ ở trong hay ở ngoài các tổ hợp không hóa thì khi chúng hợp với tuế vận hóa cục mà trong chúng chỉ có 1 chi trong tứ trụ của các hóa cục này thay đổi hành.
9/53 - Các tổ hợp của các địa chi trong tứ trụ không hợp với tuế vận hóa cục (khi có thần dẫn ở tuế vận) hoặc chúng bị phá (kể cả chúng hóa cục từ khi mới sinh).

3B – Tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận
(Các can chi ở tuế vận và tiểu vận được xem là động khi nó xung, khắc hay hợp với các can chi khác)

10/6 – Sau khi tính lại các điểm vượng trong vùng tâm (chỉ xét các can chi trong tứ trụ và các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục) nếu hành kỵ thần 1 ở trạng thái động thì phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận (viết tắt là tính thêm điểm vượng ở tuế vận), nếu hành kỵ 1 là tĩnh thì không phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận (trừ một vài trường hợp ngoại lệ như câu 11/30...).
11/30 - Sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm nếu một hành là kỵ thần nhưng không phải là kỵ 1 hay hành kỵ 1 là tĩnh, mà các hóa cục của nó có tổng cộng từ 6 can chi trở lên thì phải tính thêm điểm vượng tuế vận (đây là một trường hợp ngoại lệ).
11a/ - Nếu tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân vượng thì khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, quan sát không bao giờ là kỵ 1 hay kỵ vượng cho dù nó lớn hơn các hành khác từ 10đv trở lên.
12/50 - Nếu tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân thay đổi hay không thay đổi thì khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn của các hành sẽ không thay đổi (trừ các trường hợp ngoại lệ: 2/ ; 12a/215; 29/(98;99) ;...), nói chung hành kỵ vượng sẽ mất nếu điểm vượng của nó nhỏ hơn điểm vượng của hỷ dụng thần, nhưng nếu nó có tam hợp hay tam hội cục trong Tứ Trụ thì các điểm kỵ vượng của nó chỉ bị giảm 50% nếu điểm vượng của hành kỵ vượng này không nhỏ hơn điểm vượng của hỷ dụng thần 10đv (?).
12a/215 - Nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà cách "Lưỡng Vượng" (kể cả các cách độc vượng (?)) bị phá thì sau khi tính thêm các điểm vượng ở tuế vận điểm hạn của ngũ hành mới có thể được thay đổi như bình thường.

VULONG
29-10-12, 17:52
4B - Cách tính thêm điểm vượng ở tuế vận
13a/ - Điểm vượng của can đại vận cũng như can và chi của lưu niên chính là điểm vượng của chúng tại lưu niên (nghĩa là tại chi của lưu niên (thái tuế) và xem thái tuế như lệnh tháng), chúng được viết ngắn điểm vượng của chúng tại lưu niên, nhưng với chi của lưu niên thì số điểm vượng này được tăng gấp đôi, trừ trường hợp trong tứ trụ không tồn tại hành của nó (kể cả can tàng là tạp khí) - (ví dụ 197), còn với can lưu niên thì số điểm vượng này cũng được tăng gấp đôi, trừ khi nó hợp với can trong tứ trụ hóa cục (ví dụ 212).
13b/ - Điểm vượng của can tiểu vận chính là điểm vượng của nó tại tiểu vận (nghĩa là tại chi của tiểu vận và xem chi tiểu vận như lệnh tháng).
13c/ – Điểm vượng của chi đại vận và chi tiểu vận là điểm vượng trung bình của chúng tại đại vận (nghĩa là tại chi của đại vận và xem chi đại vận như lệnh tháng) và 2 lần điểm vượng của chúng tại lưu niên (thái tuế).
13d/208 - Nếu Nhật can hợp với tuế vận hóa thành cục nhưng điểm hạn của hóa cục này bị các can khắc mất hết hoặc chúng hóa thành cục có hành khác với hành của Nhật can thì điểm vượng trong vùng tâm từ khi mới sinh của Nhật can không bị mất và hành mới hóa cục không được thêm số điểm này.
. 13e/ - Nếu các can là tranh hợp thật thì các can này không có điểm vượng (?).
13f/10 - Nếu điểm hạn của hóa cục bị khắc mất x% thì chỉ có các điểm vượng của các can (hay các chi ?) có điểm hạn của hóa cục này mới bị giảm x%, nhưng các điểm kỵ vượng của chúng (nếu có) không bị giảm.

Ví dụ : Nếu đại vận là Bính Thân, tiểu vận là Kỷ Dậu và năm Nhâm Ngọ thì điểm vượng của các can chi này ở năm Nhâm Ngọ được tính như sau:
1 - Kỷ tiểu vận có 6đv tại Dậu tiểu vận .
2 - Bính đại vận có 10đv tại Ngọ của lưu niên (thái tuế).
3 - Nhâm lưu niên có 4,1đv tại Ngọ lưu niên nhưng nó được tăng gấp đôi thành 4,1.2đv, nếu Nhâm hợp với can trong tứ trụ hóa cục thì điểm vượng này không được gấp đôi.
4 - Ngọ lưu niên có 10đv tại chi Ngọ lưu niên nhưng nó được tăng gấp đôi thành 10.2đv
5 - Dậu tiểu vận có 10đv tại Thân của đại vận và 4,8đv tại Ngọ của lưu niên nhưng nó được gấp đôi thành 2.4,8đv, vì vậy điểm vượng của Dậu ở lưu niên là (10đv + 4,8.2đv).1/3 đv = 6,53đv.
6 – Thân đại vận có 9đv tại Thân của đại vận và 7.2đv = 1,4đv tại Ngọ của lưu niên, vì vậy điểm vượng của Thân ở lưu niên là (9đv + 7.2đv).1/3 = 7,67đv.

C – Hành và điểm kỵ vượng
14/6 - Nếu một hành là kỵ 1 có điểm vượng vùng tâm (hay sau khi tính lại điểm vượng của vùng tâm hoặc sau khi tính thêm điểm vượng của tuế vận) lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv (sai số có thể từ -0,05đv tới +0,05đv) trở lên thì hành đó được gọi là hành kỵ vượng và nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv đến 19,99đv thì mỗi can hay chi (trừ các chi trong tứ trụ) của hành kỵ vượng có thể có điểm (hạn) kỵ vượng bằng đúng điểm hạn của hành của nó (chú ý điểm kỵ vượng của can hay chi tiểu vận chỉ bằng ½ ), còn nếu nó lớn hơn từ 20đv trở lên thì mỗi can chi của nó có thể có điểm kỵ vượng gấp 2 lần số điểm hạn của hành của nó, trừ các giả thiết 14a/135; 22/17; 23/8; 24/11...)..
14a/135 - Nếu dưới 12 tháng tuổi thì điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi mặc dù hành kỵ vượng lớn hơn hỷ dụng thần 20đv trở lên.
15/9 - Nếu can đại vận là kỵ vượng khi khắc được can trong tứ trụ mới có điểm kỵ vượng (kể cả khi nó bị hợp), khi đó các can kỵ vượng ở các vị chí khác có điểm kỵ vượng chỉ khi chúng ở trong các trạng thái động.
16/(12;176) - Các can trong tứ trụ là kỵ vượng bị can đại vận khắc thì chúng mới có điểm kỵ vượng, khi đó các can kỵ vượng khác ở trong trạng thái động mới có điểm kỵ vượng. Điểm kỵ vượng của các can bị khắc giảm tỷ lệ thuận theo các lực khắc chúng.
17/67a - Nếu can đại vận là kỵ vượng hợp với can trong tứ trụ thì nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó bị khắc bởi can trong tứ trụ có hành của dụng thần, khi đó các can khác trong tổ hợp này là kỵ vượng mới có điểm kỵ vượng.
18/12 - Nếu các chi trong tứ trụ, tuế vận và tiểu vận là kỵ vượng xung khắc nhau thì chỉ có các chi ở tuế vận, tiểu vận mới có điểm kỵ vượng. Các điểm kỵ vượng của các chi không bị giảm khi chúng bị xung hay bị khắc.
19/10 - Nếu các can ở trong các hóa cục giữa tứ trụ với tuế vận hay giữa tuế vận và tiểu vận mà hành của các hóa cục này là kỵ vượng thì chúng có điểm kỵ vượng.
20/8 - Nếu các chi ở tuế vận hay tiểu vận ở trong các hóa cục mà hành của các hóa cục này là kỵ vượng thì chúng có điểm kỵ vượng.
21/(10;101) - Điểm kỵ vượng của các can hay các chi trong hóa cục không bị giảm khi điểm hạn hóa cục của chúng bị khắc.
22/17 - Một hành sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mới là kỵ 1 và nếu nó là kỵ vượng thì các điểm kỵ vượng này không được tăng gấp đôi mặc dù nó có 20đv nhiều hơn hỷ dụng thần
23/8 - Nếu sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà một hành mới là kỵ 1 và khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà nó vẫn là kỵ 1 thì mặc dù nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 20đv trở lên, các điểm kỵ vượng của nó không được tăng gấp đôi.
24/11 - Nếu điểm vượng vùng tâm của kỵ 1 từ khi mới sinh không lớn hơn điểm vượng vùng tâm của hỷ dụng thần và khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà nó vẫn là kỵ 1 thì mặc dù nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 20đv trở lên, điểm kỵ vượng của nó không được tăng gấp đôi.
25/210a – Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, hành kỵ vượng sẽ mất nếu điểm vượng của nó nhỏ hơn điểm vượng của các hành là hỷ dụng thần hoặc nó nhỏ hơn hành kỵ thần mới (sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận) ít nhất 10đv.
26/15 - Nếu điểm kỵ vượng vẫn được tăng gấp đôi cả khi tính lại điểm vượng vùng tâm thì khi tính thêm điểm vượng tuế vận nếu điểm vượng của hỷ dụng thần không lớn hơn điểm vượng của kỵ vượng thì điểm kỵ vượng vẫn được tăng gấp đôi.

D - Các trường hợp ngoại lệ
27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên.
28/100 – Thân nhược và khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận, Kiêu Ấn trở thành kỵ thần có 0,5đh, nếu nó lớn hơn Thân ít nhất 20đv. Nhưng nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm, Kiêu Ấn chỉ được thêm không quá 10đv mà nó đã lớn hơn Thân 20đv thì Kiêu Ấn trở thành kỵ thần chỉ có 0,38đh và Kiêu Ấn trở thành kỵ vượng.... giống như giả thiết 27/12.
29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu).
30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng 5/4 nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, 3 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 30đv, 4 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 40đv, 5 lần nếu....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược hay ngược lại)).

VULONG
29-10-12, 17:53
Ví dụ mẫu

Ví dụ 6 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Nam sinh ngày 25/9/1990 lúc 13,00’. Tháng 7/1991 bị mổ u não may thoát chết.
http://farm7.staticflickr.com/6162/6194434086_8db44b7530_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6194434086/)

Tháng 8/1991 là năm Tân Mùi thuộc đại vận (tức tiểu vận) Kỷ Mùi.
1 - Mệnh này Thân nhược mà Quan Sát Thổ là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Canh ở trụ năm.
2 – Trong tứ trụ có Tị hợp với Dậu và Ất hợp với Canh đều hóa Kim.
Vào đại vận Kỷ Mùi và năm Tân Mùi, 2 Mùi hợp với 2 Ngọ hóa Thổ (bởi vì bán hợp Kim của Tị với Dậu trong tứ trụ không bị phá nên tam hội Tị Ngọ Mùi không thể được tạo thành).
Nếu sử dụng giả thiết 5/6 thì trong Thổ cục có 2 chi Ngọ ở trong tứ trụ thay đổi hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm phải được tính lại. Thổ có 4đv được thêm 1,5đv của Ngọ trụ năm và 1,8đv của Ngọ trụ giờ thành 7,3đv. Hỏa có 3,3đv, nó bị mất hết (vì hóa thành Thổ). Vì vậy Thổ vẫn là kỵ 1.
Bán hợp Thổ cục có 1đh và có thêm 0,25đh (vì Thổ cục có chi thứ 4).
Nếu sử dụng giả thiết 114/6 thì Thổ cục là kỵ thần không sinh được cho Kim cục là hỷ dụng thần.
3 - Dụng thần Canh vượng ở lưu nên có -1đh.
4 - Nếu sử dụng giả thiết 61/6 thì Nhật can Quý mộ ở đại vận có 1đh (vì Thân nhược) và Quý mộ ở lưu niên có 1đh.
5 – Tân lưu niên có 1 cát thần có -0,25đh.
6 - Nếu sử dụng giả thiết 216/6 thì đất ven đường của trụ năm có Canh được lệnh nên khắc nước sông của trụ ngày có 1đh (không bị giảm ¼ đh, vì mặc dù can và chi của nạp âm này đều bị hợp nhưng có chi Ngọ của nó hợp với tuế vận hóa Thổ có hành giống với hành của nạp âm).
Đất trên tường đại vận có Kỷ vượng ở lưu niên khắc nước sông có 1đh.

Tổng số là 4,00đh. Số điểm này không thể chấp nhận được.
Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra áp dụng giả thiết 10/6 thì sau khi tính lại điểm vượng vùng tâm Thổ vẫn là kỵ 1 và động nên phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Thổ có 7,43đv được thêm 8đv của Mùi đại vận và 8.2đv của Mùi lưu niên, vì vậy (hành) Thổ tại năm Tân Mùi có 7,43đv +24đv = 31,43đv (can Tân và Kỷ ở tuế vận không động nên điểm vượng của chúng không được tính).
Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra áp dụng tiếp các giả thiết 13a/ và 14/6 thì Thổ là kỵ vượng, vì vậy mỗi chi Mùi ở tuế vận có 0,5đh kỵ vượng (chú ý : Nếu điểm vượng tại lưu niên của Mùi thái tuế không được tăng gấp đôi thì Thổ không phải là kỵ vượng). Tổng số là 5,00đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được (vì phương pháp này có sai số từ -0,1đh đến +0,1đh).

Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và Thổ quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu, bởi vì Thủy là hành của Thân và nó có thể hóa Kim (Kim khá mạnh đủ để hóa Thổ để sinh cho Thủy, vì vậy nó không cần thêm) để sinh cho Mộc, Mộc trở thành vượng mới có thể chế ngự được kỵ thần Thổ (bởi vì Mộc là kỵ thần nhưng nó quá yếu mà Thổ thì quá vượng).
Trong tứ trụ có Ngọ hợp với Mùi thái tuế hóa Thổ gây ra hạn cho nên tai họa dễ xẩy ra vào tháng Ngọ nhưng ở đây nó đã xẩy ra vào tháng Mùi bởi vì tháng Mùi là tháng mà Mộc nhập Mộ và nó đã tác động với 2 Ngọ trong tứ trụ làm cho tai họa xẩy ra.

Ất (Mộc) trong tứ trụ ở trạng thái tử tuyệt và nó bị hóa thành Kim mà Kim là quá vượng còn được Thổ cục sinh cho, vì vậy nó cực vượng còn Mộc nhập mộ 3 lần (ở đại vận, lưu niên và tháng Mùi). Do vậy người này bị khối u ở não (vì Mộc đại diện cho đầu, thần kinh, gan...).
Qua ví dụ này chúng ta nhận thấy nếu một hành quá nhược thì nó không cần phải bị khắc hay bị phản khắc bởi một hành khác, nó vẫn có thể gây ra tai họa liên quan tới hành đó.

- Nếu không có điểm kỵ vượng thì điểm hạn quá thấp nên không thể chấp nhận được.
- Nếu tam hội Tị Ngọ Mùi phá được Kim cục thì cũng không hóa được Hỏa (vì không có thần dẫn) thì điểm hạn quá thấp cũng không thể chấp nhận được.
- Nếu Thổ cục là kỵ thần sinh được cho Kim cục là hỷ dụng thần thì điểm hạn quá thấp cũng không thể chấp nhận được.
- Nếu lực khắc của nạp âm vẫn bị giảm ¼ thì tổng điểm hạn là 4,75 có thể là hơi thấp.

VULONG
29-10-12, 17:58
Các ví dụ mẫu
Ví dụ 18 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Bé trai sinh ngày 6/1/1983 lúc 0,00’ sáng. Chết vào tháng 7 năm 1983.
http://farm7.staticflickr.com/6176/6196566340_37d9a1d9a3_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6196566340/)

Tháng 7/1983 là năm Quý Hợi thuộc đại vận Quý Sửu (tiểu vận Quý Sửu).
1 - Tứ trụ này có Thân vượng và kiêu ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Mậu tàng trong Tuất trụ năm. Thủy là kỵ vượng.
2 - Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158), 105/18 và 123/6 thì vào đại vận Quý Sửu và năm Quý Hợi, giữa tứ trụ với tuế vận có tam hội Hợi Tý Sửu hóa Thủy cục có 4 chi có (1.2 + 0,25)đh = 2,25đva, Sửu và Hợi ở tuế vận, mỗi chi có 0,5.5/4đh = 0,63đh kỵ vượng (bởi vì Ngọ trụ ngày xung gần 2 Tý trong tứ trụ không thể phá được tam hội có 4 chi, cũng như điểm hạn của Thủy cục được tăng gấp đôi và điểm kỵ vượng được tăng 1/4)
3 - Dụng thần Mậu tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh.
5 – 2 Quý ở tuế vận, mỗi Quý có 1 cát thần có -0,25đh.
6 - Nước biển ở trụ năm và lưu niên có Nhâm và Quý vượng ở lưu niên khắc kim trong cát, mỗi lực có 1đh.
Tổng số là 5,01đh. Số điểm này là chấp nhận được. Từ ví dụ này chúng ta khẳng định tam hội cục ngoài tứ trụ chỉ có 2 chi trong tứ trụ mà 2 chi này giống nhau thì điểm hạn không được giảm (giả thiết 267/(26;18).
Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và Thủy là quá vượng. Do vậy ta phải dùng Hỏa và Thổ, nhất là Thổ để giải cứu (năm 1983, đứa bé này phải được đưa về phương nam và sống trong....như câu 2 phần II ở chương 18).
Năm Quý Hợi là năm mà Thủy vượng còn có thêm tam hội Thủy, Thủy là quá vượng, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Thân bởi vì nó là tháng mà Hỏa và Thổ bắt đầu suy yếu còn Thủy bắt đầu vượng khắc Hỏa và sinh cho Thân (Mộc). Thân (Mộc) càng thêm vượng khắc dụng thần Thổ.

Chị của bé trai đã kể :
“Trước đây rất nhiều người bảo phải bán khoán đứa em này cho nhà chùa thì mới nuôi được. Tuy nhiên bố mẹ tôi không tin nên hậu quả là khi bị bệnh rồi thì không còn kịp nữa. Em của tôi bị bệnh mà các bác sỹ không chuẩn đoán ra bệnh gì. Nó khóc 23 hôm thì mất”.

Nếu theo tứ trụ này thì chúng ta nhận thấy vào năm Quý Hợi xuất hiện tam hội Hợi Tý Sửu, nó đại diện cho các vị thần linh, vì vậy nó thường là tốt. Nhưng ở đây nó hóa Thủy mà trong tứ trụ Thủy là kỵ thần đã quá vượng và không có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ nên điểm hạn không được giảm, vì vậy nó trở thành cực kỳ xấu cho cháu bé (nghĩa là các vị thần đã xuất hiện nhưng lại muốn mang cháu bé đi theo họ chăng ?).

Ví dụ 158 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ") : Ngày 15/4/1912 Tầu Titanic bị tai nạn. Nghĩa của từ Titanic là khổng lồ, vĩ đại, vì vậy nó mang tính của phái mạnh tức đàn ông.
http://farm7.staticflickr.com/6174/6196045603_d42b35a16e_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6196045603/)

Ngày 15 tháng 4 năm 1912 là năm Nhâm Tý thuộc đại vận Mậu Tuất (tiểu vận đầu tiên).
1 - Mệnh này Thân vượng kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Giáp tàng trong Hợi trụ năm.
2 – Vào đại vận Mậu Tuất và năm Nhâm Tý có.
Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý trụ tháng hóa Hỏa (xuất hiện trước, năm 1911) và tam hội Hợi Tý Sửu có 4 chi hóa Thủy (xuất hiện sau, năm 1912), vì vậy Hỏa cục và Thủy cục đã gây ra đại chiến.
Vì có Quý ở trụ tháng hợp với tuế vận hóa cục nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Thổ có 20đv bị mất 10đv của Sửu còn 10đv. Thủy có 5đv được thêm 10đv của Sửu thành 15đv.
Điểm hạn và điểm vượng vùng tâm đã thay đổi như sau :

1............0,5..........-1.........-0,5............0,5
Mộc......Hỏa........Thổ..........Kim........ ....Thủy
#4,8.........2.........10............9,8.......... ...15

Thân trở thành nhược và thực thương Thủy là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn Kỷ ở trụ giờ.
Thủy là kỵ 1 (động) nên phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 2đv được thêm 2,62đv của Quý trụ tháng và 4,1đv của Mậu đại vận, thành 8,72đv. Thủy có 15đv bị mất 2,62đv của Quý trụ tháng, thêm 2.10đv của Tý thái tuế và 2.10đv của Nhâm lưu niên thành 52,38đv. Do vậy Thủy lớn hơn hỷ dụng thần Thổ và Kim trên 40đv.
Điểm hạn của tam hội Thủy cục có 4 chi có 1.2đh +0,25đh (vì Thủy là kỵ 1). Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158) thì điểm kỵ vượng của Tý thái tuế được tăng gấp 4 lần có 4.0,5đh = 2đh. Hỏa cục có 0,5đh và điểm hạn của ĐC có 6.0,4đh = 2,4đh.
3 - Trụ tháng Quý Tị TKĐK với trụ giờ Kỷ Hợi có (0,25 + 0,05)đh = 0,3đh (vì Kỷ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận).
4 - Dụng thần Kỷ tuyệt ở lưu niên nên có 1đh.
5 - Nhật can Tân vượng ở lưu nên có -1đh.
6 - Kỷ trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên có 1đh và khắc Nhâm lưu niên có 0đh (vì Thủy cục có 4 chi có điểm hạn và điểm hạn được tăng gấp đôi - giả thiết 80/(32;36;55) - “Các can trong tứ trụ không khắc được một hóa cục có 4 hay 5 chi nhưng các can cùng hành với hóa cục này vẫn bị khắc như bình thường nếu hóa cục này không có ít nhất 2 chi có điểm hạn và điểm hạn này phải được gấp đôi”.
7 - Đất trên tường trụ ngày có Tân vượng ở lưu nên khắc nước sông trụ tháng có 1đh, vì vậy nước sông không khắc được kim trang sức ở trụ năm.
Gỗ đồng bằng trụ giờ có Kỷ được lệnh nên khắc được gỗ dâu lưu niên có 0,25đh.
Tổng số là 10,2đh. Tam hội 4 chi ngoài tứ trụ mà trong tứ trụ có 3 chi mà có 2 chi khác nhau nên điểm hạn được giảm 1,25đh và 2 trong 3 chi này là Hợi cùng hành với Thủy cục. Do vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn (10,2 -1,25).1/2.đh = 4,48đh. Số điểm này không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 149/158:

“Nếu ĐC được gây ra bởi tam hội cục là chủ khắc có thái tuế và hành của nó cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên khi chúng chưa hóa cục thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến có 0,5đh nếu hóa cục chủ khắc có 1 can chi nhiều hơn so với can chi của hóa cục bị khắc, 0,6đh nếu nó có 2 can chi nhiều hơn, 0,7đh nếu nó có 3 can chi nhiều hơn,...” (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này).
(Chú ý: Tôi vừa mới sửa lại giả thiết này nên nó có khác một chút với Bài 22).

Nếu áp dụng giả thiết này thì tam hội Thủy cục là chủ khắc có nhiều hơn Hỏa cục 2 chi nên điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,6đh. Vì vậy điểm hạn của ĐC này là 6.0,6đh = 3,6đh. Tổng số là (11,4 -1,25).1/2.đh = 5,08đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Có Thủy khắc Hỏa và trong tứ trụ có Hợi và Sửu hợp với thái tuế hóa Thủy gây ra ĐC, do vậy vào các tháng Hợi và Sửu của mùa Đông tai họa dễ xẩy ra. Nhưng đại vận Mậu Tuất của năm Nhâm Tý (từ 4/2/1912 tới 31/5/1912) chỉ có các tháng Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn và Ất Tị. Trong đó chỉ có tháng Ất Tị là xấu nhất bởi vì nó TKĐX với trụ giờ Kỷ Hợi và nó là tháng và mùa mà Hỏa vượng còn Thủy ở tử tuyệt. Nhưng ở đây tai họa đã xẩy ra vào tháng Giáp Thìn. Tại sao như vậy ? Có thể tháng Giáp Thìn TKĐX với đại vận Mậu Tuất và nó là tháng mà Hỏa vượng còn Thủy nhập Mộ.
Các nguyên nhân chính gây ra hạn ở đây là các điểm hạn của ĐC và nạp âm thì hiện giờ Tôi chưa có cách nào để ngăn chặn.

Hy vọng thời gian tới, tôi hoặc ai đó sẽ tìm được giờ sinh khác hoặc cách chứng minh khác cho tai họa của con tầu Titanic có tính thuyết phục hơn cách chứng minh này.

VULONG
29-10-12, 18:03
Bài viết để tham khảo

LamPhong đã viết trong chủ đề “Tổng kết các case đoán“ trong mục Tử Vi bên trang web tuvilyso.org):

“Case 1:
- Chủ thớt: Thienkyquy
- Đề: Đây là số của người cầm tù vợ trong nhà vì tính ghen và tính chiếm hữu, khi vợ trốn về nhà mẹ ở miền Tây, đã rượt theo và bắn 5 phát vào ngực và đầu ngày 13 tháng 9 năm 1947 lúc 9:30 sáng. Sau đó bắn vào đầu mình tự sát lúc 9:30 sáng và đến chiều lúc 16:03 thì chết. Nam sinh năm tháng ngày giờ Âm Lịch Bính Ngọ (1906) ngày 26 tháng 9 giơ gì???? (lá số lập từ giấy khai sinh). Chúng ta thử tìm xem có thể tìm đúng giờ sinh này không?

Kết quả: Giờ Hợi“

Và đây là chủ đề “Chồng giết vợ“ của ThienPhucThienQuan (cũng trong mục Tử Vi bên tuvilysso.org):

“Hồ sơ Chồng giết Vợ xong rồi tự sát quả thật lý thú vì tôi truy cập thêm tin tức và biết ngày giờ tháng năm sinh của người vợ. Lập lá số thấy rùng mình vì lá số của người vợ quá trùng khớp với lá số chồng, càng xác định chồng sinh giờ Thân.

Tôi sẽ trình làng sự luận giải dùng phép Lưu Cung và Thái Tuế Nhập Quái để cho thấy biến cố dữ dội xãy ra không phải là vô cớ, nhất là sự trùng cung và sự truyền tinh thể hiện quá sắc nét qua cặp hồ sơ hi hữu này.

Vợ người Mỹ, sinh ngày 16 tháng 11 DL, 1912, giờ Mão
Chồng nguời Mỹ, sinh ngày 12 tháng 11 DL, 1906, giờ Thân

Lá số vợ: http://www.lyso.vn/d...47/Vobigiet.jpg

Trích:
American homicide victim who was shot five times in the head and chest by her jealous husband at her mom's home where she had taken refuge on 9/13/1947, 9:30 PST, Los Angeles, CA. The husband then turned the gun on himself; he died later that day.

Born on 16 November 1912 at 05:30 (= 05:30 AM )
Sửa bởi ThienPhucThienQuan: 14/09/2011 - 07:40 AM“

Vậy thì trong 2 giờ, Hợi và Thân thì giờ nào đúng?

Theo phương pháp tính điểm hạn của tôi thì sơ đồ tính điểm hạn của năm Đinh Hợi (1947) theo giờ Hợi như sau:
http://farm7.staticflickr.com/6011/6201903082_0eb52a3b35_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6201903082/)

Ngày 13/9/1947, đó là năm Đinh Hợi thuộc đại vận Quý Mão và tiểu vận Mậu Thìn.
1 - Ta thấy Thân vượng mà Thực Thương Thủy nhiều (có 2 Hợi được lệnh), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh Mộc tàng trong Hợi trụ tháng.
2 – Ta thấy Nhâm đại vận hợp với 2 Đinh và Dần đại vận hợp với 3 Hợi đều không hóa (vì lực hợp của Ngọ trụ năm với Dần đại vận cũng như lực xung của Thân trụ ngày với Dần đại vận nhỏ hơn lực hợp của 3 Hợi với Dần).
3 - Dụng thần Giáp tàng trong Hợi trụ tháng hợp với tuế vận có 1đh, và nó vượng ở lưu niên có -1đh.
4 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh.
5 – Nhâm đại vận vượng ở lưu niên có -0,5đh và khắc 2 Đinh, vì vậy mỗi lực khắc có 1,4.1/2.1/2 đh = 0,35đh.
3 Hợi trong tổ hợp không hóa nên chúnh tự hình với nhau như bình thường. Hợi trụ tháng và Hợi trụ giờ tự hình Hợi thái tuế, mỗi lực có 1đh. Do vậy Hợi trụ tháng tự hình Hợi trụ giờ có 0,5.1/2 đh = 0,25đh (vì cách 1 ngôi).
6 - Đất mái nhà ở trụ giờ và lưu niên có Đinh thất lệnh (với Đinh trong Tứ Trụ) và nhược ở tuế vận nên không khắc được nước mưa ở trụ năm.

Tổng điểm hạn chỉ có 2,45đh. Nếu không xét đến các yếu tố tác động từ bên ngoài thì với số điểm này không thể gây ra bất kỳ một tai họa nào cả. Và với sơ đồ trên thì tôi không thể “BÓI“ ra được 1 giả thiết nào để cho số điểm hạn tăng thêm.

Còn theo giờ Thân thì sơ đồ tính điểm hạn của năm Đinh Hợi như sau:

http://farm7.staticflickr.com/6132/6201393269_1ef7c193b4_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6201393269/)

Theo giờ Thân thì tai họa xẩy ra ở tiểu vận Ất Sửu.
1 - Ta thấy Thân vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương ít, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát Đinh tàng trong Ngọ trụ năm.
2 - Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì Dần đại vận hợp với Hợi trụ tháng và Hợi lưu niên hóa Mộc có -0,75đh. Nhâm đại vận hợp với Đinh lưu niên hóa Mộc có -0,5đh.
3 - Dụng thần Đinh nhược ở lưu niên có 0đh.
4 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh.

Tổng điểm hạn là -1,25đh. Số điểm này càng không thể gây ra bất kỳ 1 tai họa nào cả (nếu không tính đến các tác động ở bên ngoài).

Nếu chúng ta đưa ra giả thiết là phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì sau khi tính lại, ta thấy chỉ có Thực Thương (Thủy) mất 3đv còn điểm của Tài Mộc tăng từ 1,6đv thành 4,6đv. Số điểm này không làm cho Thân và dụng thần thay đổi.

Đến đây nếu ta đưa tiếp ra giả thiết là phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận thì Mộc có 4,6đv được thêm (9 + 2.6).1/3 đv = 7đv; 2.10đv của Hợi thái tuế; 9đv của Nhâm đại vận và 2.4,1đv của Đinh lưu niên, vì vậy Mộc có tới 48,8đv. Theo như bình thường thì sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn của ngũ hành không thay đổi. Nhưng nếu như vậy thì hành Mộc vẫn có điểm hạn âm thì tổng điểm hạn vẫn là số âm nên cũng không thể chấp nhận được.

Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải “BÓI“ ra giả thiết :

“2/ - Nếu tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận thì phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận, và nếu sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà Thân mới bị thay đổi thì dụng thần và điểm hạn của ngũ hành được xác định như bình thường“.

(Tôi đã sửa lại giả thiết số 2/ trong Bài 24 cho ngắn gọn và chính xác hơn).

Nếu sử dụng giả thiết này thì Thân sẽ là nhược mà Tài tinh Mộc là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp/ Canh tàng trong Thân ở trụ ngày. Mộc là kỵ vượng và điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi (vì nó lớn hơn hỷ dụng trên 20đv).
Bán hợp Mộc có 0,75đh. Lục hợp Mộc có 0,5đh. Các can chi Nhâm, Đinh, Dần và Hợi ở tuế vận, mỗi can chi có 2.0,5đh kỵ vượng.
Dụng thần Canh và Nhật can Canh đều nhược ở lưu niên nên đều có 0đh.
Tổng điểm hạn là 5,25đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Từ ví dụ này tôi mới đưa ra giả thiết số 2/ này, vì vậy nó chưa có gì là chắc chắn cả, cần phải có nhiều ví dụ tương tự để kiểm tra. Nhưng về lý thì giả thiết này có thể đúng vì theo Tử Bình, Mộc của Tứ Trụ này là Tài mà Tài đại diện cho Tiền, Vợ và Cha. Mà rõ ràng tai họa này gây ra bởi số điểm hạn toàn là của hành Mộc và thực tế đúng là ông ta chết vì gen tuông vợ. Do vậy Tài gây ra tai họa ở đây không phải Tiền hay Cha mà chính là liên quan tới Vợ của ông ta.

Nếu như không tính đến các điểm hạn do bên ngoài gây ra thì dĩ nhiên sinh giờ Thân mới có thể giải thích được tai họa này.

VULONG
29-10-12, 18:07
Bài 25 - Điểm hạn của hình, tự hình và hại.....

Y9 - Kiêu ấn và điểm hạn của nó

190/ – Xem giả thiết 27/12
(27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên.)
192/ - Xem giả thiết 28/100 và 29/(98;99
(28/100 – Thân nhược và khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận, Kiêu Ấn trở thành kỵ thần có 0,5đh nếu nó lớn hơn Thân ít nhất 20đv, trừ trường hợp nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm, Kiêu Ấn chỉ được thêm không quá 10đv mà nó đã lớn hơn Thân 20đv thì Kiêu Ấn trở thành kỵ thần chỉ có 0,38đh. Kiêu Ấn trở thành kỵ vượng.... giống như giả thiết 27/12.
29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu).)

Y11 – Điểm hạn của hình, tự hình và hại

B - Các chi không bị xung hay bị khắc mà hình, tự hình hay hại các chi khác
Như trên đã nói ở trên chi đại vận phải được xem là động đầu tiên, sau mới đến các chi trong tứ trụ và chi tiểu vận, cuối cùng mới đến thái tuế (chi của lưu niên) và ở đây nói về Hình thường bao hàm cả Tự hình.

222/124 - Mỗi chi hình hay tự hình nhiều chi, mỗi loại có tổng cộng max 2 đh.
223/108 - Mỗi chi hại nhiều chi có tổng cộng max 2 đh.
224/4 - Chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 1đh.
225/40 – Chi đại vận hình, tự hình hay hại các chi trong tứ trụ mỗi lực có 1đh và khi đó các chi trong tứ trụ giống chi đại vận mới có thể hình, tự hình hay hại được với các chi trong tứ trụ này, nhưng số điểm hạn của mỗi lực chỉ có 0,5đh nếu là chi gần, 0,25đh nếu cách 1 ngôi và 0,13đh nếu cách 2 ngôi (nó nghĩa là các lực hình, tự hình hay hại với chi cách 1 ngôi bị giảm ½ đh và ¾ đh nếu cách 2 ngôi).
226/2 – Các chi trong tứ trụ hình, tự hình hay hại thái tuế mỗi lực có 1đh và khi đó các chi này mới hình, tự hình hay hại được các chi giống chi thái tuế ở trong tứ trụ có điểm hạn giống như câu trên nhưng nó không hình hay hại được với chi đại vận và tiểu vận.
227/20 – Chi tiểu vận hình hay hại chi đại vận hay thái tuế, mỗi lực có 0,5đh nhưng nó không hình hay hại được các chi trong tứ trụ.
228/66 - Thái tuế hình hay hại chi đại vận hay chi trong tứ trụ mỗi lực có 1đh.
229/(15;38;109) - Thái tuế hay chi đại vận hình hay hại chi tiểu vận có 0,5đh chỉ khi lực tác động này không phải là lực thứ 3 trở nên (riêng Dần ở tuế vận hình và hại Tị tiểu vận chỉ được tính là 1 lực), riêng Thân thái tuế hay đại vận hình Dần tiểu vận có 0,5đh nếu lực này mới là lực thứ 5, ngoài ra các lực này chỉ có 0,25đh, và riêng mỗi lực hợp được tính là 0,5 lực và nếu chi tuế vận hình hay hại chi tiểu vận mới là 2,5 lực thì mỗi điểm hình hay hại này chỉ bị giảm 1/3 đh.
230/39 - Các chi trong một tổ hợp giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận không hóa vẫn hình hay hại được với nhau và có điểm hạn như bình thường.
231/40 – Chi bị hại không hình và hại được các chi khác.
232/40 – Chi bị hình không hình được chi khác (trừ Thái tuế) nhưng chúng vẫn hại được các chi khác và có điểm hạn như bình thường.
233/40 – Chi bị tự hình vẫn hình, tự hình hay hại các chi khác có điểm hạn như bình thường.

B – Các chi bị xung hay bị khắc mà hình hay hại các chi khác

Chú ý : Ở đây, các lực xung hay khắc các chi này phải có điểm hạn.

234/ - Lực hình, tự hình hay hại của các chi bị xung hay bị khắc với các chi khác bị giảm tỉ lệ thuận theo lực xung hay khắc chúng, các lực này chỉ xét về ngũ hành và nếu chúng ta quy ước các lực xung hay khắc này là 1 (nghĩa là các lực này không liên quan tới điểm vượng của các chi của chúng) thì các lực này bị giảm giống như giả thiết 95/ nhưng chúng không có điểm vượng.
235/ - Mỗi lực xung hay khắc với mỗi chi của giả thiết 95/ còn bị giảm thêm giống như giả thiết 96/ nhưng không có điểm vượng.
236/(54;159) - Nếu 1 chi xung gần với 1 chi thì lực này bị giảm ¼ với các chi Thổ (vd 54) và ½ với các chi không phải Thổ (ví dụ 159), các lực này bị giảm thêm ...nếu nó xung 1 chi cách 1 hay 2 ngôi như các giả thiết 234/ và 235/.
237/(30;106) - Nếu 1 chi xung với 2 chi thì mỗi lực xung này bị giảm ½ khi nó xung với các chi là Thổ (ví dụ 106) và 2/3 với các chi không phải là Thổ (ví dụ 30; 66), nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/.
237a/106 - Nếu lực hình hay tự hình của một chi với một chi bị giảm x% đh thì lực hình của chi bị hình này với các chi khác bị giảm (100-x)% đh,
238/(43;113) - Nếu 1 chi xung với 3 chi thì mỗi lực xung này bị giảm 7/8 khi nó xung gần với các chi là Thổ (ví dụ 43) và 15/16 với các chi không phải là Thổ (ví dụ 30; 66), nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/.
238a/104 - Nếu 1 chi xung với 4 chi thì mỗi lực xung này bị giảm 15/16 khi nó xung gần với các chi là Thổ và 31/32 đv với các chi không phải là Thổ, nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/.
239/(50;68) - Nếu từ 2 chi trở lên chỉ xung với 1 chi thì chi bị xung này không hình hay hại được các chi khác chỉ khi chúng xung gần với nhau (riêng chi Tý cũng được coi là bị xung bởi Thìn nếu nó bị xung bởi TKĐX* có điểm hạn - ví dụ 68), các lực này bị giảm thêm... như câu 234/30 và 235/30.
240/(115;131) - Nếu 1 chi khắc với 1; 2; 3; 4 chi thì các chi bị khắc gần không hình hay hại được các chi khác, nhưng lực hình hay hại của chi bị khắc cách 1 ngôi với các chi khác bị giảm ...?, và cách 2 ngôi.... bị giảm....?
Nếu 1 chi khắc ít nhất 5 chi thì....(?).
Hy vọng bạn đọc giúp tôi trả lời các câu hỏi này.

VULONG
29-10-12, 18:09
Y12 - Điểm hạn của Tứ hình

241/ Tứ hình là phải có đủ 4 chi của tự hình là Thìn, Ngọ, Dậu và Hợi
242/41 – Nếu trong tứ trụ có ít nhất 3 chi khác nhau và chỉ khi có thêm chi lưu niên (thái tuế) mới đủ tứ hình thì nó mới có 1đh (kể cả khi chúng hóa cục), sau đó mới tính đến các chi thứ 5 trở đi của tứ hình ở trong tứ trụ, đại vận và tiểu vận, mỗi chi được thêm 0,25đh (riêng chi tiểu vận chỉ được thêm 0,13đh).

Y13 – Điểm hạn của Thương quan gặp Quan

245/ – Thương quan lộ gặp được Quan cũng lộ thì mới có điểm hạn và điểm hạn này được gọi là điểm hạn của thương quan gặp quan. Nếu Quan hay Thương quan ở trong hợp thì chúng được xem như không gặp được nhau.
Các điểm hạn của thương quan gặp quan không bị giảm khi Thương quan bị khắc.
Điểm Thương quan gặp Quan phụ thuộc vào các trạng thái vượng hay suy của thương quan như sau :
245a/ - Thương quan ở tuế vận mà nó vượng ở lưu niên có 1đh, nó chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, còn nó nhược ở tuế vận có 0đh.
245b/ - Thương quan ở trong tứ trụ mà nó vượng ở lưu niên có 1đh, nếu nó chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, nếu nó được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 0,25đh, còn nếu nó thất lệnh và nhược ở tuế vận có 0đh.
246/120 - Thương quan ở tiểu vận gặp Quan ở tuế vận không có điểm hạn.

Y14 – Điểm hạn của các thần sát

248a/ - Mỗi cát thần ở can hay chi của đại vận hay lưu niên có -0,25đh (ở tiểu vận chỉ có -0,13đh), còn mỗi hung thần có 0,25đh (nó chỉ có 0,13đh ở can hay chi của tiểu vận).
248b/ - Thần sát của các can và chi trong các tổ hợp và trong tứ trụ không có điểm hạn (trừ Tứ Phế hay Kình Dương).
248c/ - Điểm hạn của các thần sát ở thiên can bị giảm tỉ lệ thuận theo các lực khắc chúng, còn điểm hạn của các thần sát ở địa chi mất hết khi chúng bị xung hay bị khắc.
249/(2;109) - Nếu can tiểu vận ở trạng thái tử, mộ hay tuyệt ở tiểu vận và nhược ở cả lưu niên và đại vận cũng như can đại vận hay can lưu niên mà ở tử, mộ hay tuyệt ở cả lưu niên và đại vận thì các thần sát của chúng không có điểm hạn. Nếu can đại vận hay can lưu niên nhược ở cả đại vận và lưu niên mà bị khắc ít nhất bởi 1 lực có 0.7 đh thì tất cả điểm hạn của các cát thần của nó bị mất hết.
250/(7;11) – Kình dương ở đại vận hay lưu niên không bị hợp mới có 1đh, khi đó Kình dương ở các vị trí khác không bị hợp mới có 1đh và điểm hạn của Kình Dương không bị giảm khi nó bị khắc.
250a/(28;149) - Ðiểm hạn của Kình Dương tại lưu niên bị giảm ít nhất 50% nếu thái tuế bị xung hay khắc bởi TKÐX, trừ khi chi xung thái tuế bị xung hay bị khắc bởi chi đại vận (tức chi đại vận cũng là Kình Dương).)
251/133 - Tại năm sinh, Kình dương ở chi của các tháng của lưu niên cũng có điểm hạn (nếu nó không bị hợp).
252/2 - Trụ ngày là tứ phế có 1đh. Nếu trụ ngày là Tứ Phế thiên khắc địa khắc với trụ tháng (tức can và chi trụ ngày đều là chủ khắc) thì điểm Tứ Phế được tăng ít nhất 0,25đh.
253/ - Nếu không sống ở phương (so với nơi sinh của người có tứ trụ) của Nguyên thần (theo hành của Nguyên Thần) thì Nguyên Thần có thể không có điểm hạn (?). .
254/27 - Nếu can và chi của Không Vong ở tuế vận (hay tiểu vận) không bị hợp thì Không Vong mới có 0,25đh (0,13đh với tiểu vận), điểm hạn này bị giảm tỉ lệ thuận theo lực khắc can của nó và nó không có điểm hạn khi chi của nó bị xung hay bị khắc.
255/(147;150) - Nếu trong tứ trụ có kim thần thì Hỏa cục luôn luôn có điểm hạn âm, trừ khi có Mộc cục sinh cho nó hay Hỏa cục có ít nhất có 4 chi có điểm hạn (trừ Hỏa cục của các chi trong tứ trụ (?)) bởi vì khi Hỏa quá mạnh, nó sẽ làm kim thần ra tro).

Y15 - Điểm hạn của thiên la và địa võng

256/73 - Nếu thiên la (TL) hay địa võng (ĐV) ở trụ ngày trong tứ trụ thì khi nó gặp thái tuế cũng là TL hay ĐV có ít nhất 0,3đh (vì theo các sách cổ thì TL và ĐV là 2 hung thần).
257/75 - Nếu TL hay ĐV ở trụ năm trong tứ trụ thì khi nó gặp TL hay ĐV ở lưu niên có 0,15đh.
258/76 - Nếu TL hay ĐV ở trụ năm trong tứ trụ thì khi nó gặp TL hay ĐV ở lưu niên mà có Kình dương ở trong tứ trụ hợp với thái tuế và chi giống với thái tuế trong tứ trụ hóa thành cục có hành giống với hành của Kình dương thì thiên la hay địa võng có 0,38đh.
259/75 – Nếu trong tứ trụ có Thiên La hay Địa Võng, tới năm Thiên La hay Địa Võng thì tất cả điểm hạn của các thần sát tại thái tuế sẽ bị mất.

Y16 - Tuế vận gặp nhau

260/ - Tuế vận gặp nhau (can và chi của đại vận và lưu niên giống nhau) mà can của chúng vượng ở lưu niên có 1đh, nếu chúng chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, còn nếu chúng nhược ở tuế vận có 0,25đh
261/(62;105) - Nếu tuế vận cùng gặp mà các can của nó là Quan Sát của dụng thần (nghĩa là hành của các can này khắc hành của dụng thần) không bị hợp thì điểm hạn của tuế vận cùng gặp được tăng thêm 50%.

VULONG
29-10-12, 18:11
Các ví dụ mẫu:

Ví dụ 40 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ") : Nữ sinh ngày 6/6/1961 lúc 7,01’ sáng. Năm 1963 bị liệt 2 chân vì sốt cao.
http://farm7.staticflickr.com/6102/6218842104_3e4dc34029_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6218842104/)

1963 là năm Quý Mão thuộc đại vận Nhâm Ngọ và Quý Mùi (tức tiểu vận). Ta xét đại vận Nhâm Ngọ (vì điểm hạn ở đại vận Quý Mùi quá thấp).
1 – Mệnh này Thân vượng mà Kiêu Ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Ất tàng trong Thìn trụ giờ.
2 - Dụng thần Ất vượng ở lưu niên có -1đh.
3 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh.
4 - Ngọ đại vận hại Sửu trụ năm có 1đh, tự hình Ngọ trụ tháng và Ngọ trụ ngày mỗi lực có 1đh.
Sửu trụ năm bị hại, vì vậy nó không hình hay hại được các chi khác, còn mặc dù 2 Ngọ trong tứ trụ bị tự hình bởi Ngọ đại vận nhưng chúng vẫn hình, tự hình hay hại được với các chi khác (giả thiết 233/40). Do vậy 2 Ngọ trong tứ trụ tự hình với nhau có 0,5đh, Ngọ trụ tháng hại Sửu trụ năm có 0,5đh và Ngọ trụ ngày hại Sửu trụ năm có 0,25đh (vì cách 1 ngôi).
Thìn trụ giờ hại Mão thái tuế có 1đh.
na
5 – Quý lưu niên có 1 cát thần có -0,25đh. Ngọ đại vận có 2 cát thần có -2.0,25đh. Mão lưu niên có 1 hung thần có 0,25đh.
6 - Đất ven đường trụ ngày có Canh được lệnh nên khắc được kim trong cát trụ tháng có 1đh.

Tổng số là 4,75đh. Số điểm này có thể chấp nhận được.
Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của tự hình và hại. Vì vậy ta phải giải cứu về tự hình và hại.
2 Ngọ trong tứ trụ bị tự hình bởi Ngọ đại vận và 3 Ngọ hại Sửu trụ năm, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào tháng Ngọ.

Ví dụ 54 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Nam sinh ngày 5/8/1950 lúc 0,00’ sáng. Tháng 4/2006 mất Quan vào tù.
http://farm7.staticflickr.com/6221/6218323941_a0bd5b5670_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6218323941/)

Tháng 4/2006 là năm Bính Tuất thuộc đại vận Kỷ Sửu và tiểu vận Bính Thân.
1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là tài tinh/ Đinh tàng trong Mùi trụ tháng. Thủy là kỵ vượng.
2 – Trong tứ trụ có bán hợp của Thân với Tý hóa Thủy.
Vào đại vận Kỷ Sửu và năm Bính Tuất có đại vận Kỷ Sửu TKĐX với trụ tháng Quý Mùi có 0,25đh +0,05đh (vì Kỷ nhược ở tuế vận).
3 - Dụng thần Đin la nhập Mộ ở đại vận Sửu nên có 1đh và nhược ở lưu niên có 0đh.
4 - Nhật can Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh.
5 – Quý trụ tháng thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh và khắc Bính lưu niên có 0,25đh.
Nhâm trụ ngày thất lệnh nhưng vượng ở lưu nên có 1đh và khắc Bính lưu niên có 1đh.
Sửu đại vận xung Mùi trụ tháng có 0,4đh (vì lệnh tháng Mùi bị xung bởi Mùi)
Tuất lưu niên có 1 hung thần có 0,25đh.
6 – Ta thấy Mùi trụ tháng hình hay không hình được Tuất lưu niên thì Tuất lưu niên vẫn hình được Sửu đại vận có 1đh, vì vậy Sửu đại vận không thể hình được Mùi trụ tháng.
Nếu sử dụng giả thiết 236/(54;159) và 237a/106 thì Mùi trụ tháng bị xung gần bởi Sửu đại vận nên lực hình của nó với Tuất thái tuế bị giảm ¾ , vì vậy điểm hình của nó với Tuất thái tuế có 1đh bị giảm ¾ còn 1.1/4 đh = 0,25đh.

Tổng số là 4,95đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì quá cao).
Nếu sử dụng giả thiết 254/27 thì Không Vong không có điểm hạn (vì can của Không Vong là Bính bị Nhâm khắc một lực có 1đh), vì vậy tổng số điểm hạn chỉ còn (4,95 - 0,25)đh = 4,7đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của TKĐX, Hurt, Thủy quá vượng khắc Hỏa, trong khi dụng thần Hỏa quá nhược (vì Hỏa chỉ là can tàng tạp khí). Do vậy ta phải dùng Mộc và Hỏa, nhất là Hỏa để giải cứu và kết hợp với giải cứu về hình.
Thủy quá vượng khắc Hỏa quá nhược, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Nhâm Thìn bởi vì nó TKĐX với lưu niên Bính Tuất và nó là tháng mà Hỏa vượng còn Thủy nhập Mộ.
Hỏa bị tổn thương mà Hỏa của tứ trụ này là Tài (tiền), vì vậy người này vì tiền mà phải vào tù.
Người này mất quan và vào tù bởi vì đại vận là đại vận hình (Sửu đại vận hình Mùi trong tứ trụ), vào năm Bính Tuất giữa tứ trụ với đại vận và lưu niên có đủ tam hình Sửu Mùi Tuất.

Thân vượng mà Tài (Đinh) và Quan (Kỷ) tàng trong Mùi đều vượng. Đó là mệnh của người phú quý và thường đại phát vào các vận tài hay quan. Thực tế người này đã làm đến cục trưởng. Ở đây đại vận là Quan (Kỷ) nhưng đáng tiếc đại vận Quan bị hình hại là xấu.
Tổng điểm hạn ở tiểu vận Đinh Dậu là 4,92 nhưng trong thực tế người này không bị thêm tai họa nào bởi vì có thể phần lớn số điểm hạn này đã gây ra tai họa ở tiểu vận Bính Thân hay ông ta vẫn đang còn ngồi trong tù (?).

VULONG
29-10-12, 18:14
Ví dụ mẫu
Ví dụ 30 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Trương Chấn Hoàn chủ nhiệm ủy ban khoa học kỹ thuật quốc phòng (TQ), sinh ngày 21/10/1915 lúc 12,00’ sáng. Năm 1993 có hạn cực nặng.
http://farm7.staticflickr.com/6158/6218861566_324a97c50a_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6218861566/)

1993 là năm Quý Dậu thuộc đại vận Mậu Dần, tiểu vận Giáp Tý và Quý Hợi. Ta xét tiểu vận Giáp Tý.
1 - Mệnh này Thân nhược mà quan sát Kim là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn/ Nhâm ở trụ giờ.
2 – Trong tứ trụ có lục hợp của Mão với Tuất bị phá. Bởi vì lực xung của Dậu trụ ngày với Mão trụ năm có 8.2/3 đv = 5,33đv (vì cách 1 ngôi) là lớn hơn lực hợp của Tuất trụ tháng với Mão trụ năm chỉ có 3.1/2đv = 1,5đv (vì Tuất phải hợp với Ngọ trụ giờ).
Vào đại vận Mậu Dần và năm Quý Dậu có:
Tam hợp Dần Ngọ Tuất hóa Hỏa.
Ngũ hợp của Mậu với Quý hóa Hỏa (vì chi đại vận hay lệnh tháng là Hỏa dẫn hóa).

Nếu sử dụng giả thiết 3/30 thì điểm vượng vùng tâm phải tính lại. Hỏa có 3,3đv được thêm 0,96đv của Tuất trụ tháng thành 4,26đv. Thổ có 0,96đv bị mất hết. Do vậy Kim vẫn là kỵ 1 và động (vì Mão trụ năm xung Dậu trụ ngày). Do vậy ta phải tính thêm điểm vượng tuế vận. Kim có 6,4đv được thêm 2.9đv của Dậu thái tuế thành 24,4đv. Hỏa có 4,26đv được thêm 5,75đv của Dần đại vận, 2.4,8đv của Quý và 3đv của Mậu đại vận thành 22,61đv. Kim lớn hơn hỷ dụng thần Thủy và Mộc trên 10đv nên Kim là kỵ vượng.

Nếu sử dụng giả thiết 77/29 và 78/30 thì Nhâm không khắc được 2 Hỏa cục có tổng cộng 5 can chi. Vì vậy tam hợp Hỏa cục có 0,75đh và ngũ hợp Hỏa cục có 0,5đh.
3 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên niên có -1đh.
4 - Nhật can Ất tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
5 – Mão trụ năm xung thái tuế Dậu có 0,8đh và Mão xung Dậu trụ ngày có 0,15đh (vì cách 1 ngôi).
Dậu thái tuế có 1 hung thần có 0,25đh nhưng nó bị Mão xung mất hết.
Tý tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh và 1 hung thần có 0,13đh.
Nếu sử dụng giả thiết 15/12 thì Dậu thái tuế bị Mão xung có 0,5đh kỵ vượng.
6 – Nếu sử dụng các giả thiết 237/, 234/và 235a/ thì lực xung của Mão trụ năm với Dậu trụ ngày bị giảm 2/3 (vì Mão xung 2 Dậu không phải Thổ) còn 1/3 nhưng nó bị giảm thêm 1/3 (vì cách 1 ngôi), nó còn 1/3.2/3 và Mão phải sinh cho Hỏa cục động tại Tuất, nó bị giảm thêm 2/3, vì vậy lực này chỉ còn 1/3.2/3.1/3 = 0,07. Cho nên Dậu trụ ngày tự hình Dậu thái tuế có 1đh nhưng nó bị giảm 7%đh còn 1.93%.đh = 0,93đh.
7 - Đất trên thành của đại vận có can Mậu chỉ vượng ở đại vận nên khắc được nước suối của trụ năm có 0,75đh nhưng can chi của nạp âm đều bị tuế vận hợp nên bị giảm ½ đh còn 0,38đh.
Đất mái nhà trụ tháng có Bính thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên chỉ khắc nước suối có 0,75đh.

Tổng số có 4,62đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì nó quá thấp so với thực tế).

Nếu sử dụng giả thiết 121/30 thì đất mái nhà của trụ tháng khắc nước suối của trụ năm có (0,75 + 0,25)đh = 1đh và đất trên thành khắc nước suối có (0,75 + 0,25).1/2đh = 0,5đh (vì các nạp âm này nhận được sự sinh từ Hỏa cục cùng trụ).

Tổng số là 5,00đh. Số điểm này mới phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết: “ Khắp nơi các cao sư khí công đều kéo về cứu giúp. Thầy Thiệu Vĩ Hoa cũng dốc hết sức mình cố kéo dài tuổi thọ cho ông “.

Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm, Mộc xung Kim và Hỏa quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu.
Trong tứ tự có Mão xung Dậu thái tuế và vào đại vận Mậu Dần có Hỏa quá vượng, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào các tháng của mùa Xuân và mùa Hè, nhất là tháng Mão. Hỏa quá vượng, vì vậy người này bị bệnh Tim bởi vì Hỏa đặc trưng cho Tim,...
Nếu Nhâm trụ giờ vượng ở lưu khắc hết tổng điểm hạn của 2 Hỏa cục có 5 can chi thì số điểm hạn quá thấp là không thể chấp nhận được.
Nếu điểm kỵ vượng ở thái tuế bị giảm 1/3 khi nó bị Mão xung còn 0,33 thì tổng số là 4,75đh, nó là quá thấp so với thực tế nên không thể chấp nhận được.

Ta xét tiểu vận Quý Hợi của năm Quý Dậu:
http://farm7.staticflickr.com/6161/6218344877_10d3d66f4c_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6218344877/)

Ở tiểu vận Quý Hợi của năm Quý Dậu (bắt đầu từ ngày 21/10/1993), nếu sử dụng giả thiết 78/30 thì điểm hạn của Hỏa cục bị Nhâm trụ giờ vượng ở lưu niên khắc mất hết, vì vậy đất trên thành và đất mái nhà không được sinh bởi Hỏa cục.
Các điểm hạn ở tiểu vận Quý Hợi được mô tả ở sơ đồ trên.
1 – Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý lưu niên và Quý tiểu vận.
Điểm hạn của Hỏa cục có 3 chi bị Nhâm vượng ở lưu niên khắc mất hết.
Mậu chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh và khắc 2 Quý có 0,75đh, nên mỗi lực có 0,75.1/2.1/2.đh = 0,19đh, riêng lực khắc Quý tiểu vận chỉ có 0,19/2đh = 0,1đh (vì khắc tiểu vận điểm hạn giảm một nửa).
Quý lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên có -0,5đh bị khắc mất 19% nên còn -0,5.0,81đh = -0,41đh.
2 – Nước biển ở tiểu vận có Quý vượng ở tiểu vận khắc khắc đất trên thành của đại vận có 0,5đh.
Đất trên thành đại vận có Mậu chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối trụ năm có 0đh (vì Mậu đã dùng tất cả 0,75đh để khắc 2 Quý)
Đất mái nhà trụ tháng có Bính thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối trụ năm có 0,75đh.
....................

Tổng số là 3,51đh. Số điểm này là chấp nhận được bởi vì nó phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết “Ngày 24/10/1993 sau khi bệnh đỡ đã ra viện đi ăn dưỡng, trong nửa năm đó ông lại cố gắng làm việc”.

Nếu điểm hạn của Hỏa cục không bị Nhâm khắc mất hết thì tổng số là 4,57đh (vì Hỏa cục có 0,75đh, đất mái nhà và đất trên thành khắc nước suối có (0,75 + 0,25)đh = 1đh và 0,25.1/2.1/2 đh = 0,06đh)). Số điểm này không thể chấp nhận được bởi vì với số điểm này ông ta không thể rời khỏi bệnh viện.

Ta xét điểm hạn của năm 1994:
http://farm7.staticflickr.com/6155/6218875290_76e9160043_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6218875290/)

1 – 23/3/1993 đó là năm Giáp Tuất thuộc đại vận Mậu Dần và tiểu vận Quý Hợi có:
Tam hợp Dần Ngọ Tuất có 4 chi hóa Hỏa, vì vậy Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý tiểu vận hóa Hỏa. Nếu sử dụng giả thiết 11/30 (Nếu các hóa cục cùng hành giữa tứ trụ với tuế vận có tổng cộng từ 6 can chi trở lên (trừ hóa cục của các địa chi trong Tứ Trụ) thì phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng tuế vận mặc dù kỵ 1 là tĩnh (đây là một trường hợp ngoại lệ)) thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Hỏa có 3,3đv được thêm 0,96đv của Tuất trụ tháng thành 4,26đv. Kim vẫn có 6,4đv, vì vậy Thân vẫn nhược và dụng thần không thay đổi. Ta phải tính tiếp các điểm vượng ở tuế vận.
Hỏa có 4,26đv được thêm 2.3đv của Tuất thái tuế, 5,8đv của Dần đại vận, 3đv của Mậu đại vận và 10đv của Quý tiểu vận thành 29,06đv. Nếu sử dụng giả thiết 22/17 thì Hỏa đã thành kỵ 1 (vì nó lớn hơn Kim là kỵ 1 trên 10đv) và Hỏa có điểm kỵ vượng (vì lớn hơn hỷ dụng thần trên 20đv) nhưng các điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi (vì Hỏa không phải là kỵ 1 từ khi mới sinh). Do vậy nếu sử dụng giả thiết 101/29 thì điểm hạn chính của tam hợp Hỏa có 4 chi được tăng gấp đôi là 1.2đh + 0,25đh và Dần, Tuất và Mậu mỗi can và chi có 0,5đh kỵ vượng còn Quý tiểu vận chỉ có 0,25đh kỵ vượng.
2 - Dụng Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh.
3 - Nhật can Ất mộ ở lưu niên niên có 1đh.
4 – Nhâm trụ giờ vượng ở lưu niên nhưng nó không thể khắc được Hỏa cục có tổng cộng 6 can chi.
5 - Nước biển của tiểu vận Quý Hợi có can Quý vượng ở tiểu vận khắc lửa đỉnh núi của lưu niên có 1đh và khắc đất trên thành của đại vận có 0,5đh (vì khắc đại vận bị giảm ½).
Đất trên thành của đại vận có can Mậu chỉ vượng ở đại vận nên khắc nước suối của trụ năm có (0,75 + 0,25)đh = 1đh (vì nó được Hỏa cục trong cùng trụ sinh cho), nhưng nó bị giảm ½ đh (vì nước biển khắc) và ½ đh (vì can và chi của nạp âm đều bị hợp ở tuế vận), nó chỉ còn 1.1/2.1/2.đh = 0,25đh.
Lửa đỉnh núi của lưu niên có can Giáp chỉ vượng ở đại vận nên khắc đất mái nhà và gỗ liễu có 0,75đh, vì vậy mỗi lực có 0,38đh (chú ý lửa đỉnh núi là lửa của núi lửa nên nó không bị giảm khi nó bị khắc bởi các loại nạp âm của nước).
Đất mái nhà có Bính thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối có (0,75 + 0,25)đh = 1đh (vì nó được sinh bởi Hỏa cục cùng trụ), nhưng nó bị giảm 38%đh (vì lửa đỉnh núi khắc), nó còn 0,62đh.

Tổng số là 7,63đh. Số điểm này chấp nhận được bởi vì nó phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết : “Cấp cứu nhưng không có hiệu quả, đã tạ thế ở Bắc Kinh hồi 23,30’ ngày 23 tháng 3 năm 1994 hưởng thọ 79 tuổi“ (theo Tử Bình đã sang ngày 24/3).
Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và do Hỏa quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu.
Thân nhược mà thực thương quá mạnh, vì vậy kiêu ấn ở đây vô cùng quan trọng bởi vì nó có chế ngự thực thương Hỏa và sinh cho Thân. Tai họa đã xẩy ra vào tháng Mão của mùa Xuân. Bởi vì vào tháng Mão dụng thần Thủy bắt đầu ở trạng thái tử tuyệt nên nó không có khả năng chế ngự Hỏa và sinh cho Thân.

Qua ví dụ này cho ta biết khả năng giải hạn của các cao thủ Tử Bình và khí công Trung Quốc chưa đạt tới 7,63đh (nếu số điểm này chính xác).

Đây là mệnh quý hiển vì Thân nhược có Ấn vượng sinh Thân và chế ngự Thương nhược nên thực sự đúng với câu : «Thương quan mang ấn quý hết chỗ nói».
Nếu không tính thêm điểm vượng của tuế vận thì Hỏa không phải là kỵ 1 nên điểm hạn của hóa cục không được tăng gấp đôi và không có các điểm kỵ vượng, vì vậy tổng số là 4,76đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

VULONG
29-10-12, 18:20
Bài 26 - Định luật giảm và điểm G

Chương 16

Định luật giảm và điểm G

I - Định luật Giảm

Đây là phần phức tạp nhất của Phương Pháp Tính Điểm Hạn. Định luật giảm có nghĩa là tổng điểm hạn sẽ được giảm theo một tỷ lệ nhất định nào đó, nó phụ thuộc vào các yếu tố giữa tứ trụ với tuế vận mà ở trên ta đã biết trong các dạng đơn giản nhất như tam hợp, tam hội, hóa cục của các chi giống nhau trong tứ trụ ... còn ở phần này bạn đọc sẽ được biết đến một dạng khác.

Khi thái tuế hay các chi trong tứ trụ bị các chi khác hình, xung, khắc hay hại thì trong một số trường hợp các lực này có điểm giảm được gọi là điểm G. Tổng các điểm G này tương đương với tổng điểm hạn được giảm theo một tỷ lệ nhất định nào đó. Để cho đơn giản tôi tạm thời phân ra thành 10 trường hợp tổng điểm hạn được giảm theo các điểm G như sau :

Bảng G
http://farm7.staticflickr.com/6052/6244699149_95979a42a8_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6244699149/)

Dòng đầu tiên trong bảng là số thứ tự, dòng thứ hai là điểm G và dòng thứ ba là tỉ lệ tổng điểm hạn được giảm tương ứng theo điểm G.
Nếu số điểm G ít nhất bằng điểm giữa của 2 mức giảm thì tổng điểm hạn mới được giảm ở mức trung bình của 2 mức giảm đó (vd 106; 107).
Trong phần này hình và tự hình có tác dụng khác nhau

II - Điểm giảm G

A - Có 5 dạng chính gây ra các điểm G

E1 – Các chi ở tuế vận tác động tới các chi trong tứ trụ.
E2 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế
E3 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ khắc thái tuế
E4 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ tự hình thái tuế.
E5 – Có ít nhất 3 chi giống nhau trong tứ trụ xung, khắc, tự hình, hình hay hại thái tuế.

E1 - Tuế vận tác động tới các chi giống nhau trong tứ trụ

281/(101 ;102) : Các trường hợp như sau:
1 - Dần đại vận hình và hại 2 Tị trong Tứ Trụ.
2 - Sửu đại vận hình và xung 2 Mùi trong Tứ Trụ.
3 - Thân đại vận khắc và hình 2 Dần trong Tứ Trụ.
4 - Tý ở tuế vận cùng hại 2 Mùi trong Tứ Trụ.
5 - Mùi ở tuế vận cùng hại 2 Tý trong Tứ Trụ.
6 - ........ ????
Các lực này mới có các điểm G và chúng được xác định như sau :
a - Thái tuế hình hay hại có 1G.
b - Đại vận khắc hay xung có 1G và hình hay hại có 0,5G.

282/(105;106;107) – Nếu trong tứ trụ có 2 chi giống nhau là Thổ mà mỗi chi này chỉ có 1 lực tác động tới thái tuế hay nếu 2 chi giống nhau này không là thổ mà mỗi chi chỉ có 1 lực hình hay hại thái tuế thì các lực này có điểm G chỉ khi các chi này bị tác động bởi 2 lực của đại vận, khi đó điểm G của các lực này được xác định như sau :
a - Mỗi lực xung thái tuế có 0,5G.
b - Mỗi lực hình hay hại thái tuế có 0,25G ?
(Chú ý dấu ?, nó nghĩa là các giả thiết đó chưa có ví dụ để kiểm tra).

283/108 - Chi tuế vận tác động với ba chi giống nhau trong tứ trụ :
a - Mỗi lực hình hay hại của chi đại vận với mỗi chi trong Tứ Trụ có 1,1G
b - Mỗi lực xung hay khắc của chi đại vận với mỗi chi trong Tứ Trụ có ...?
c - Mỗi lực hình hay hại của thái tuế với mỗi chi trong Tứ Trụ có... ?

E2 - 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế

1 – Các chi là Thổ

284/(105;109) – 1 hay 2 chi Sửu trong tứ trụ hình và xung Mùi thái tuế có điểm G, còn nếu trong tứ trụ chỉ có 2 chi giống nhau, khi chúng chỉ có 1 lực xung thái tuế thì mỗi lực này có 0,5G chỉ khi chúng bị đại vận tác động có điểm G.
285/70 – Trong tứ trụ có 1 hay 2 chi là Mùi, Tuất hay Thìn xung thái tuế và có ít nhất 1 chi hình, tự hình hay hại thái tuế thì các lực này có điểm G hay không (chưa có ví dụ để kiểm tra) ?

2 – Các chi không là Thổ

286/ 113 - Nếu trong Tứ Trụ chỉ có một chi xung thái tuế (không có các lực hình hay hại thái tuế, trừ lực tự hình thái tuế) thì các lực tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có chi đại vận xung thái tuế.
287/112 - Nếu các tổ hợp trong tứ trụ bị phá mà chúng có ít nhất 1 chi xung và 1 chi hình hay hại thái tuế thì các lực này không có điểm G nhưng các lực khác vẫn có điểm G khi có chi đại vận tác động tới thái tuế (trừ lực tự hình).
288/111 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có ít nhất một chi xung và 1 chi hình (trừ tự hình) hay hại thái tuế.
289/114 – Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi có ít nhất hai chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế.

E3 - 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ khắc thái tuế

290/115 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có ít nhất 1 chi khắc và 1 chi hình (trừ tự hình) hay hại Thái tuế.
291/(116;117;118) - Nếu trong tứ trụ chỉ có 1 chi khắc Thái tuế, ngoài ra không có các lực tác động khác (trừ chi Thân nếu nó hình được thái tuế và các chi trong tứ trụ tự hình thái tuế) thì tất cả các lực tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có thêm lực của chi đại vận hay tiểu vận tác động với thái tuế (kể cả lực tự hình), còn nếu nó ở trong tổ hợp trong tứ trụ từ khi mới sinh bị phá thì các lực này tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có chi đại vận khắc thái tuế.
292/118 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có Thân khắc và hình Dần thái tuế.
293/120 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có 2 chi khắc thái tuế.
294/121 – Các lực tác động tới thái tuế không có điểm G khi 2 chi trong tứ trụ và chi đại vận hay tiểu vận giống nhau là các chi thuộc loại tự hình khắc thái tuế.

E4 – Thái tuế bị tự hình bởi các chi trong tứ trụ

295/123 - Nếu trong tứ trụ chỉ có 1 hay 2 chi tự hình với thái tuế thì các lực này có điểm G chỉ khi có thêm chi đại vận cũng tự hình thái tuế, khi đó điểm G của các lực được xác định như sau :
Mỗi chi trong tứ trụ tự hình thái tuế có 2G.
Chi đại vận tự hình thái tuế có 1G.
Chi tiểu vận tự hình, hình hay hại thái tuế có 0,5G, còn xung hay khắc thái tuế có 1G.
Chi đại vận tự hình các chi trong tứ trụ, mỗi lực có 0,5G, trong đó mỗi lực tự hình với lệnh tháng có thêm 0,25đh..
Các chi trong tứ trụ tự hình gần với nhau, mỗi lực có 0,25G, trong đó mỗi lực tác động gần với lệnh tháng có thêm 0,13G

E5 - Ba chi giống nhau trong tứ trụ tác động với thái tuế

296/125 - 3 chi trong tứ trụ tự hình thái tuế, mỗi lực có ít nhất 1.5G và mỗi lực hình, hại thái tuế có ... ?
297/211 – 3 chi giống nhau là Thổ trong tứ trụ xung thái tuế, mỗi lực có 1,25G (còn nếu 3 chi giống nhau này không là Thổ ?) và mỗi lực hình, tự hình và hại của các chi trong tứ trụ với thái tuế có 0.5G (?), khi đó :
- Chi đại vận xung thái tuế có 0.5G (?) và mỗi lực hình, tự hình và hại thái tuế có 0.25G (?).
- Chi tiểu vận xung thái tuế có 0,25G (?) và mỗi lực hình, tự hình và hại thái tuế có 0.13G.

B – Nói chung E1, E2 và E3 tuân theo các giả thiết sau đây:

298/109 - Mỗi chi trong tứ trụ xung thái tuế có 1G và mỗi chi hình hay hại thái tuế có 0,5G, còn chi đại vận hay chi tiểu vận xung thái tuế có 0,5G và hình hay hại thái tuế có 0,25G.
299/(116...) - Mỗi chi trong tứ trụ khắc thái tuế có 2G và hình hay hại thái tuế có 1G, khi đó chi đại vận khắc thái tuế có 2G (riêng Thân đại vận khắc thái tuế chỉ có 1G) nhưng chi tiểu vận khắc thái tuế chỉ có 1G, còn chi đại vận và chi tiểu vận hình hay hại thái tuế mỗi lực có 0,5G. Tất cả các lực này không có điểm G chỉ khi có 3 hay 4 chi giống nhau là tự hình khắc thái tuế mà ở trong tứ trụ chỉ có 2 trong 3 hay 4 chi này (vd 121 ;122).
300/ - Nếu chi đại vận xung thái tuế có điểm G thì nó xung với mỗi chi giống với thái tuế ở trong tứ trụ mới có điểm G như vậy.
301/ - Nếu chi đại vận khắc thái tuế có điểm G thì nó khắc với mỗi chi giống với thái tuế ở trong tứ trụ mới có điểm G nhưng chúng chỉ bằng ½ điểm G như vậy (trừ lực khắc của Thân đại vận không bị giảm - ví dụ 118).
301a/ - Nếu chi trong Tứ Trụ khắc thái tuế có 2G và chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 0,5G thì chi đại vận hình, tự hình hay hại các chi trong Tứ Trụ cũng có 0,5G chỉ khi trong chúng có ít nhất một chi giống thái tuế (?).
301b/ - Nếu chi trong Tứ Trụ xung thái tuế có 1G và chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 0,25g thì chi đại vận hình, tự hình hay hại với mỗi chi trong Tứ Trụ có 0,13G chỉ khi trong chúng có ít nhất một chi giống thái tuế (?).
302/103 - Nếu chi đại vận tác động với các chi trong tứ trụ có điểm G thì các chi giống với chi đại vận ở trong tứ trụ tác động với các chi này mới có điểm G nhưng chúng chỉ bằng ½ .
303/101 - Nếu mỗi lực của chi đại vận tác động với lệnh tháng có điểm G thì mỗi lực đó được thêm 0,25G và khi đó mỗi lực của thái tuế tác động tới lệnh tháng có điểm G, mỗi lực này mới được thêm 0,25G.
304/103 - Nếu mỗi lực của các chi trong tứ trụ tác động với lệnh tháng có điểm G thì mỗi lực này cũng được thêm 0,13G.

Chú ý : Các điểm G ở đây được xác định bởi các chi tác động gần với nhau, còn chúng bị giảm ½ G nếu chúng cách 1 ngôi và ¾ G nếu chúng cách 2 ngôi.

VULONG
29-10-12, 18:23
Các ví dụ mẫu:

Ví dụ 108 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Nam sinh ngày 14/11/1977 lúc 21,30’. Năm 2005 không có hạn.
http://farm7.staticflickr.com/6162/6245259850_26f084837f_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6245259850/)

Năm 2005 là năm Ất Dậu thuộc đại vận Mậu Thân, tiểu vận Kỷ Mùi và Mậu Ngọ .
1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên lấy tài tinh là Mậu tàng trong Tị trụ năm.
2 - Vào đại vận Mậu Thân có lục hợp của Thân đại vận với Tị trụ năm không hóa bị phá bởi trụ tháng Tân Hợi TKĐX với trụ năm Đinh Tị.
Tới năm Ất Dậu có bán hợp của thái tuế Dậu với Tị trụ năm hóa Kim nhưng cũng bị TKĐX này phá tan Kim cục nhưng nó còn lại tổ hợp (vì lực xung của Hợi với Tị là 5,65đv là nhỏ hơn lực hợp của Dậu với Tị là 9đv), vì vậy TKĐX có 0,5đh + 0,05đh (vì Đinh vượng ở lưu niên).
4 - Dụng thần Mậu tàng trong Tị trụ giờ bị tuế vận hợp có 1đh và tử ở lưu niên có 1đh.
5 - Nhật can Ất tuyệt ở lưu niên có 1đh.
6 – Tân trụ tháng vượng ở lưu nên khắc 2 Ất, vì vậy mỗi lực có 0,7đh.
Ất lưu niên có 2 cát thần có -2.0,25đh nhưng bị Tân khắc mất 70% chỉ còn -0,15đh.
Thân đại vận có 4 hung thần và 1 cát thần có tổng cộng 0,75đh.
7 – Thân đại vận hại 3 Hợi nên có tổng cộng 2đh.

Tổng số có 7,55đh. Nếu sử dụng giả thiết 283/108 và 303/101 thì tổng số có 3,55G (thêm 0,25G vì lệnh tháng bị hại) nên tổng điểm hạn được giảm 5/12, vì vậy nó còn 7,55.7/12đh = 4,40đh. Số điểm này là cao nhất có thể chấp nhận được.
Nếu mỗi lực hại chỉ có 1,0G thì tổng cộng có 3,25G, vì vậy tổng điểm hạn được giảm ở giữa 2 mức 1/3 và 5/12, nó còn 7,55.(2/3 + 7/12).đh = 4,72đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

.................................................. ......................

Chủ đề “Nhiệm lý lá số hạn nặng“ của GiáoViên trong mục Tử Vi bên trang web tuvilyso.org nói về một phụ nữ trẻ có Tứ Trụ :

Nhâm Tuất – Canh Tuất – ngày Kỷ Tị - Giáp Tuất

Giáo Viên đã viết:

“Cô bé này, tháng 11 năm ngoái (2010) sinh con gái. Trước hôm đi sinh con 1 tuần, thì phát hiện ra bị liệt một chân, sau đó bác sỹ mổ lấy con ra, rồi nghi là mẹ bị lao xuơng, chuyển qua viện lao nằm 1 tháng.
...............................................
Tháng 1 năm 2011, bác sỹ quyết định mổ cột sống. Nhưng mổ ra, mới biết không phải lao xuơng, mà là một thứ bệnh quái lạ, ung thư đốt sống cùng. Xét nghiệm là tế bào ác, kháng điều trị, và hiện đang chuyển về nhà chờ........
.................................................. .........
Bé Vân mất sáng nay rồi (8/10/2011), chiều GV đi Ninhbinh viếng, có gì về sẽ update với mọi người sau.

Buồn quá .................“ .

Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn ở tiểu vận Ất Tị (sau ngày sinh 13/10/2010) của năm 2010.
http://farm7.staticflickr.com/6118/6244749603_b2cfd15449_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6244749603/)

11/2010 là năm Canh Dần thuộc đại vận Đinh Mùi và tiểu vận Ất Tị.
1 - Tứ Trụ này có Thân vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương đều ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Giáp ở trụ giờ.
2 – Ta thấy Nhâm trụ năm hợp với Đinh đại vận và Ất tiểu vận hợp với Canh lưu niên đều không hóa.
3 - Dụng thần Giáp nhập Mộ ở đại vậnMùi có 1đh và vượng ở lưu niên có -1đh.
4 - Nhật can Kỷ tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
5 – Nhâm trụ năm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 0,5đh can và khắc Đinh đại vận có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì khắc trái dấu). Do vậy Đinh đại vận chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh can nhưng nó bị giảm 13% (bị khắc bởi Nhâm) còn 0,5.0,67đh = 0,34đh..
Canh lưu niên cũng chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Ất tiểu vận có 0,5.1/2.1/2 đh= 0,13đh (vì khắc trái dấu và khắc vào chi tiểu vận).
Mùi đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Tị tiểu vận có 1 cát thần và 1 hung thần.
6 – Mùi đại vận hình 3 Tuất trong Tứ Trụ có tổng cộng max 2đh.
Tị trụ ngày và Tị tiểu vận hại Dần thái tuế có 1đh và 0,5đh, vì vậy Dần thái tuế không hình và hại được 2 Tị.
7 – Nước biển ở tụ năm có Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận, vì vậy nó khắc Kim trang sức, Lửa trên núi và gỗ Tùng có tổng cộng 0,75đh (vì Nhâm đã sử dụng 0,25đk).
Nước mưa đại vận có Đinh chỉ vượng ở đại vận nên khắc Lửa đỉnh núi có 0,75đh.
Lửa trên núi có Giáp vượng ở lưu niên khắc Kim trang sức có 1đh (lực khắc của Lửa đỉnh núi với các nạp âm khác không bị giảm khi nó bị khắc).

Tổng số là 8,1đh. Nếu ta sử dụng giả thiết 283/108 thì Mùi đại vận hình 3 Tuất có tổng cộng 3,55G (mỗi lực hình có 1,1G và thêm 0,25G vì lệnh tháng bị hình), vì vậy tổng điểm hạn được giảm 5/12, nó còn 8,1.7/12 đh = 4,73đh. Số điểm này có thể chấp nhận được.

Ở tiểu vận Bính Ngọ có Bính khắc Canh lưu niên có 1đh và Bính có 3 cát thần có -3.0,13đh. Dần thái tuế hợp với Ngọ tiểu vận có 1đh. Tổng số là 8,33đh, nó cũng được giảm 5/12 còn 8,33.7/12 đh = 4,86đh. Với số điểm cao như vậy, tại sao tai họa không xẩy ra ? Cụ Thiệu Vĩ Hoa có nói tới trong cuốn «Dự Đoán Theo Tứ Trụ» là có thai và sinh con có thể giảm được một phần hạn. Điều này có thể được giải thích đơn giản là khi đứa con còn trong bụng mẹ, nó có thể Cõng Giúp cho mẹ nó ít nhất khoảng 0,5đh, vì vậy chỉ còn 4,36đh. Với số điểm này khá thấp nên nó không thể gây ra tai họa nào cả.

Đến tiểu vận Ất Tị, đáng tiếc là với 4,73đh còn khá cao nên chúng ta dự đoán : Đứa trẻ chưa ra đời, nó mới có thể Cõng Giúp hạn cho mẹ nó còn khi đứa bé đã ra đời thì nó không còn giúp được gì cho mẹ nó nữa (?).

Nếu sự lý luận này là đúng thì nó là một cách giải hạn vô cùng hữu hiệu cho phái nữ, bởi vì ngày nay người ta sinh đẻ có thể chủ động qua việc thụ tinh bên ngoài ống nghiệm.

Nếu mỗi lực hình có 1,2G thì tổng cộng có 3,85G, nó tương đương với tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 5/12 và ½ còn 8,1.(7/12 + ½).1/2đh = 4,39đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì nó không phù hợp với thực tế). Kết hợp với ví dụ trên thì các lực hình hay hại này có 1,1G là tin cậy được.

Sơ đồ tính điểm hạn ngày 8/10/2011 như sau :
http://farm7.staticflickr.com/6055/6244740055_27315d922a_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6244740055/)

8/10/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Đinh Mùi và tiểu vận Ất Tị.
1 – Ta thấy Nhâm trụ năm hợp với Đinh đại vận không hóa và lục hợp của 3 Tuất trong Tứ Trụ hợp với Mão thái tuế hóa Hỏa (vì lực hợp của Mùi đại vận với Mão thái tuế có 5,87đv là nhỏ hơn lực hợp của 3 Tuất với Mão thái tuế có 3.5,03đv). Vì trong Tứ Trụ có 3 chi hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại.
Hỏa có 4,2đv được thêm 1,5đv của Tuất trụ năm, 1,8đv của Tuất trụ tháng và 0,9đv của Tuất trụ giờ thành 8,4đv. Thổ có 11,3đv bị mất 4,2đv của 3 Tuất còn 7,1đv. Ta thấy Thân vẫn vượng nhưng Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Nhâm ở trụ năm. Vì Hỏa là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 8,4đv được thêm 2.9đv của Mão thái tuế và 4,8đv của Đinh đại vận thành 31,2đv. Kim có 5,28đv được thêm 2.3,1đv của Tân lưu niên thành 11,48đv. Mộc có 4,2đv được thêm 7đv của Ất tiểu vận thành 11,2đv (Tân và Ất động vì Tân khắc Ất tiểu vận). Tị tiểu vận và Mùi đại vận ở trạng thái tĩnh nên điểm vượng của chúng không được tính. Hỏa là kỵ vượng.
Hỏa cục có 1đh + 0,25đh (vì Hỏa cục có chi thứ 4) và Mão thái tuế hóa Hỏa có 0,5đh kỵ vượng.
2 - Dụng thần Nhâm bị tuế vận hợp có 1đh và tử tuyệt tại lưu niên có 1đh.
3 - Nhật can Kỷ nhược ở lưu niên có 0đh.
4 – Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 1đh và khắc Đinh đại vận có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì khắc trái dấu). Đinh đại vận chỉ vượng ở đại vận có 0,25đh và nếu sử dụng giả thiết 17/67a thì Đinh đại vận có 0,5đh kỵ vượng nhưng 2 điểm hạn này đều bị giảm 13% (vì bị Nhâm khắc) còn 0,25.0,65đh = 0,22đh và 0,5.0,67đh = 0,44đh.
Mùi đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Tị tiểu vận có 1 cát thần và 1 hung thần.
5 - Nước biển trụ năm có Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận khắc Kim trang sức và gỗ Tùng có tổng cộng 0,75đh (vì Nhâm đã sử dụng 0,25đk).
Nước mưa đại vận có Đinh chỉ vượng ở đại vận nên khắc Lửa đỉnh núi chỉ có 0,75đh.
Lửa đỉnh núi có Giáp vượng ở lưu niên nên khắc Kim trang sức có 1đh.

Tổng số là 8,29đh. Nếu sử dụng giả thiết 278/38 ( - Nếu trong tứ trụ có 3 chi giống nhau, khi tất cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm 2/3, còn nếu chỉ có 3 chi giống nhau trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12 (trước ví dụ này tôi đã dự đoán được giảm tới ½ nhưng nay thấy không phải như vậy)) thì tổng số các điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12, nó còn 8,29(2/3 + 7/12).1/2 đh = 5,18đh. Số điểm này có thể chấp nhận được.

Vì tai họa chủ yếu do điểm hạn của 3 Tuất trong Tứ trụ hợp với tuế vận hóa Hỏa nên tai họa dễ xẩy ra vào mùa hè và tháng Tuất. Thực tế cho thấy bệnh của người này đã phát nặng vào mùa hè và cái chết đáng nhẽ phải xẩy ra vào tháng Tuất nhưng đến 23,57' ngày 8/10/2011, tức còn ít nhất 12 tiếng nữa mới sang tháng Tuất. Tại sao lại như vậy? Phải chăng giờ giao lệnh người ta đã xác định sai?

Ở đây ta thấy chỉ có Hỏa quá vượng và có sự xung khắc của Thủy (Nhâm) với Hỏa (Đinh) nên Thủy và Hỏa đều bị tổn thương, nhất là Thủy. Ta đã biết Thủy đại diện cho bệnh ung thư, vì vậy người này đã bị bệnh ung thư. Còn Hỏa đã đại diện cho xương chăng ?

VULONG
29-10-12, 18:30
Ví dụ tham khảo:

Xác định giờ sinh với Tứ Trụ của Steve Jobs là khá dễ dàng với phương pháp của tôi. Bởi vì Tứ Trụ này chỉ có thể vượng khi Kiêu Ấn sinh được 50% đv của nó cho Thân. Điều này xẩy ra khi điểm vượng của Kiêu Ấn ít nhất phải bằng điểm vượng của Thực Thương (vì Kiêu Ấn đã lớn hơn Tài tinh và Nhật can đã được lệnh hoặc Thân đã lớn hơn Tài Quan).
Chưa tính can chi trụ giờ thì Mộc đã có 11,4đv còn Thổ có 6,1đv nếu Thìn trụ ngày bị khắc, và 8,5đv nếu Thìn trụ ngày không bị khắc. Nếu tính lần lượt từng giờ thì chỉ có giờ Mậu Tý và Mậu Tuất là Thân nhược nên Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (Đinh, Bính, Ất, Giáp) mới là hỷ dụng phù hợp với các vận của Steve Jobs. Trong đó giờ Mậu Tý có tổng số điểm hạn quá thấp (với năm 2011) là không thể chấp nhận được cho dù phải hay không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Do vậy Steve Jobs sinh giờ Tuất là một điều không thể chối cãi được.

Nếu Steve Jobs sinh giờ Tuất thì sơ đồ tính điểm hạn vào ngày 5/10/2011 như sau :
http://farm7.staticflickr.com/6119/6240212884_aae32b4c8b_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6240212884/)

5/10/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Tân Sửu.
1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Thực Thương là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Ất ở trụ năm.
2 – Vào đại vận Quý Dậu và năm Tân Mão có :
2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật.
Bính trụ ngày hợp với Tân lưu niên không hóa.
Tam hội Dần Mão Thìn hóa Mộc (vì Dậu đại vận xung gần Mão không thể phá được tam hội cục).
Đến tiểu vận Tân Sửu có Dậu hợp với Sửu tiểu vận hóa Kim.
Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì tổng điểm hạn rất thấp là không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

"Nếu 2 can trong Tứ Trụ hợp với tuế vận là tranh hợp thật mà có ít nhất một địa chi trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của nó thì phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm".

Nếu sử dụng giả thiết này thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Mộc có 11,4đv được thêm 3,6đv của Thìn trụ ngày thành 15đv. Thổ có 15,06 mất 3,6đv của Thìn còn 11,46đv (nếu điểm vượng của 2 Mậu cũng bị mất thì Thổ chỉ còn 4,6đv). Ta thấy Kiêu Ấn sinh được cho Thân 50% đv của nó, vì vậy Thân có 13,5đv. Thân trở thành vượng mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ. Mộc là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Mộc có 15đv được thêm 2.9đv của Mão thái tuế thành 33đv. Kim có 0đv được thêm 2.3,1đv của Tân lưu niên, 5,07đv của Dậu đại vận và 5,02đv của Sửu tiểu vận thành 10,27đv. Mộc là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được gấp đôi (vì Mộc không phải kỵ 1 từ khi mới sinh).

Kim cục ở tiểu vận chỉ có 1,5 chi là hỷ dụng khắc Mộc cục là kỵ thần có 3 chi, vì vậy Mộc cục và Kim cục đã gây ra ĐC-1 có (0,7.4 + 0,35) đv = 3,15đh, vì vậy Kim cục có 1đh còn Mộc cục có 0,75đh. Thái tuế Mão có 0,5đh kỵ vượng.
3 - Dụng thần Tân tử tuyệt tại lưu niên có 1đh.
4 - Nhật can Bính vượng ở lưu niên có -1đh.
5 – Bính trụ ngày vượng ở lưu niên khắc Tân có 0,5đh, vì vậy Tân chỉ vượng ở đại vận có -0,5đh, nhưng nó bị giảm 50% còn -0,25đh.

Tổng số là 5,65đh. Tam hội Dần Mão Thìn ngoài Tứ Trụ hóa Mộc có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ được giảm 1đh nên tổng số còn 4,65đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải áp dụng giả thiết 202/63 (xem tai họa năm 2009 phía dưới) thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên (là can tranh hợp thật) nên khắc gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.3/4 đh = 0,75đh. Tổng điểm hạn là 5,4. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Ví dụ này đã chứng minh rằng các can tranh hợp thật không phải hoàn toàn vô dụng như tôi đã kết luận mà nó vẫn còn khả năng quyết định được lực khắc của các nạp âm của chúng.


Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ để cấy ghép gen vào tháng 6/2009 do sự mất cân bằng hocmon :
http://farm7.staticflickr.com/6238/6239699985_e184cb4e16_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6239699985/)

6/2009 là năm Kỷ Sửu thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Quý Mão.
1 – Thân nhược và dụng thần là Ất ở trụ năm.
2 – 2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật.
Mão tiểu vận xung Dậu đại vận phá tan bán hợp hay lục hợp của Dậu với Sửu thái tuế hay Thìn trụ ngày.
3 - Trụ năm Ất Mùi TKĐX với lưu niên Kỷ Sửu có 0,25đh + 0,05đh (vì Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận).
4 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh.
5 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh.
6 - Ất trụ năm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 1đh và khắc Kỷ lưu niên có 0,25đh.
Kỷ lưu niên chỉ vượng ở đại vận có 0,25đh nhưng bị giảm 25% (bị khắc bởi Kỷ) chỉ còn 0,25.0,75đh = 0,19đh. Kỷ khắc Quý tiểu vận có 0,5.1/2= 0,25đh (vì khắc can tiểu vận) nhưng cũng bị giảm 25% còn 0,19đh (vì bị Ất khắc). Quý tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh nhưng bị giảm 19% do Kỷ khắc còn -0,11đh.
Dậu đại vận xung Mão tiểu vận có 0,15đh và hại Tuất trụ giờ có 1đh., vì vậy Tuất không hình được Sửu thái tuế.
Mùi trụ năm xung Sửu thái tuế có 0,65đh, vì vậy Sửu thái tuế hình Mùi trụ năm có 1đh nhưng bị giảm ¾ còn 1.1/4 đh = 0,25đh.
7 – Sét ở lưu niên có Kỷ chỉ vượng ở đại vận nên khắc Kim lưỡi kiếm ở đại vận và Đất trên thành ở trụ tháng, mỗi lực có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Kỷ đã sử dụng 0,5đk).

Tổng số là 4,13đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 202/63 (tôi mới bổ xung thêm từ ví dụ này):

"202/63 – Lực khắc của nạp âm với các nạp âm khác không bị giảm khi chi của nó bị xung hay bị khắc (trừ giả thiết 201/) nhưng bị giảm khoảng ¼ nếu can của nó là tranh hợp thật".

Nếu áp dụng giả thiết này thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên nhưng là can tranh hợp thật nên lực khắc gỗ đồng bằng ở trụ giờ bị giảm 1/4 và bị giảm thêm 13% do bị sét khắc còn 1.3/4.0,87đh = 0,65đh.

Tổng số là 4,78đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Nếu lực khắc của Kim lưỡi kiếm ở đại vận với gỗ đồng bằng không bị giảm 1/4 thì tổng số là 5,00đh. Số điểm này có thể là hơi cao (?).

Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ vào tháng 8/2004 bởi ung thư tuyến tụy :
http://farm7.staticflickr.com/6170/6260236058_8bc2b8135b_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6260236058/)

8/2004 là năm GiápThân thuộc đại vận Quý Dậu, tiểu vận Mậu Thân và tháng 8 của lưu niên là Nhâm Thân.
1 - Tứ Trụ này có Thân nhược, dụng thần là Ất ở trụ năm.
2 – Có 3 Mậu hợp với Quý đại vận và tam hội Thân Dậu Tuất ngoài Tứ Trụ có 3 chi không hóa. Nhìn qua ta thấy tổng điểm hạn là một số âm vì mỗi Mậu trong Tứ Trụ khắc Quý có -0,5đh can trong khi chỉ có 0,5đh + 0,05đh của trụ tháng Mậu Dần TKĐX với lưu niên GiápThân (vì Giáp nhược ở tuế vận). Do vậy nếu giờ sinh là đúng và không có các điểm hạn dương do bên ngoài tác động vào mệnh của người này thì bắt buộc tam hội Thân Dậu Tuất phải bị phá mới có hy vọng giải thích được tai họa này.
Nhưng với các giả thiết đã có thì chỉ có Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung nhau gần trong Tứ Trụ mới có thể phá được tam hội ngoài Tứ Trụ có 3 chi, mà ở đây chỉ có Dần xung Thân thái tuế. Vậy thì làm sao có thể «Bói» ra giả thiết như thế nào mà có thể phá được tam hội này ?

Giả thiết này có thể phát biểu như sau :

"Tam hội có 3 chi không hóa ngoài Tứ Trụ có thể bị phá khi có ít nhất một trụ của nó TKĐX với một trụ ở bên ngoài và có ít nhất 2 chi của nó bị xung hay bị khắc gần bởi 2 chi ở bên ngoài".

Nếu áp dụng giả thiết này thì rõ ràng có lưu niên Giáp Thân TKĐX với trụ tháng Mậu Dần, Dần xung Thân và Thìn xung Tuất đều là xung gần, vì vậy tam hội đã bị phá.
3 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh.
4 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh
5 – 2 Mậu trong Tứ Trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Mậu có -0,5đh can động và khắc Quý đại vận mỗi lực có 0,13đh.
Dần trụ tháng xung Thân thái tuế có 0,65đh , vì vậy Thái tuế xung lại lệnh tháng có 0,5đh và hình lại Dần trụ tháng có 1.1/2 đh = 0,5đh (vì bị Dần xung).
Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ có 1đh.

Tổng số là 2,46đh. Số điểm này quá thấp là không thể chấp nhận được. Vậy thì đành phải bó tay sao ? Theo châm ngôn : "Còn nước còn tát" hay "Thà Giết Nhầm còn hơn Bỏ Sót" mà "Binh Pháp của Đạo XXX" gì đó đã dạy mang áp dụng vào đây thành "Thà Sai còn hơn Sót Bỏ" như sau :

"Nếu lưu niên và trụ tháng của lưu niên có chi giống nhau cùng TKĐX với ít nhất 1 trụ trong Tứ Trụ mà các chi của chúng không bị hợp thì can, chi và nạp âm của trụ tháng này chỉ có thể tác động được với các can, chi và nạp âm trong tứ trụ và ngược lại nhưng điểm hạn của chúng bị giảm ít nhất 5/12".

Nếu áp dụng giả thiết này thì Dần xung 2 Thân nên Thân thái tuế hình lại Dần chỉ bị giảm 1/3 còn 1.2/3 đh = 0,67đh.
Dần xung Thân (của trụ tháng Nhâm Thân) bị giảm 5/12 còn 0,8.7/12 đh = 0,47đh và Thân trụ tháng này hình Dần có 0,65.7/12 đh = 0,39đh.
Nhâm vượng ở lưu niên có 0,5đh can và khắc Bính trụ ngày có 1.1/2 đh = 0,5đh. Bính trụ ngày được lệnh nhưng nhược ở lưu niên có -0,5đh (các điểm hạn can không bị giảm vì chúng không phải là các điểm hạn xung khắc hay hình hại nhau).
Kim lưỡi kiếm ở trụ Nhâm Thân có Nhâm vượng ở lưu niên khắc Gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.1/2 đh = 0,5đh.
Trụ tháng Mậu Dần TKĐX với trụ Nhâm Thân có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Mậu được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). Có 3 trụ TKĐX với nhau có thêm 0,1đh.

Tổng số là 4,87đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được

(Chú ý : ở đây ta mới chỉ xét đến các thông tin giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận, còn nếu tai họa này là do các thông tin bên ngoài tác động vào mệnh của người này gây lên thì giả thiết này là sai).

VULONG
29-10-12, 18:31
Ví dụ tham khảo:

Trong chủ đề "Giải đáp các thắc mắc về khoá học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp" bác Học Hỏi đã hỏi tôi về cách tính điểm hạn của tai họa sau :

"Tôi có 1 người bạn cùng tuổi. sinh ngày 31-7-1930 giờ Hợi. Ngày 7-9-2011 bạn tôi bị sốt mấy ngày, ngày 20 hết sốt thì sáng 21 khi ngủ dậy thấy bị liệt 1 tay phải, phải đi nằm viện mãi đến giữa tháng 10 mới gần bình phục hoàn toàn".

Sơ đồ tính điểm hạn tháng 9/2011 :
http://farm7.staticflickr.com/6031/6248247842_bc6833b944_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6248247842/)

9/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Tân Mão và tiểu vận Quý Dậu.
1 – Tứ Trụ này có Thân vượng (vì Kiêu Ấn sinh được 50% ddvcủa nó cho Thân, Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Đinh tàng trong Ngọ trụ năm.
2 - Trong Tứ Trụ có lục hợp của 2 Ngọ hợp với Mùi là tranh hợp giả không hóa.
Đến đại vận Tân Mão và năm Tân Mão có tam hợp Hợi Mão Mùi có 4 chi không hóa phá tan lục hợp. Dậu tiểu vận tử tuyệt tại tuế vận xung 2 Mão không phá được tam hợp có 4 chi này.
3 - Dụng thần Đinh nhược ở lưu niên có 0đh.
4 - Nhật can Nhâm tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
5 - Tuế vận cùng gặp có 0,25đh.(vì 2 Tân nhược ở tuế vận).
Tổng số là 1,25đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

Nếu như tai họa này không phải do các nguyên nhân tác động từ bên ngoài gây ra thì ta bắt buộc phải sử dụng đến tháng 9 mà tai họa đã xẩy ra là tháng Đinh Dậu nó TKĐX với tuế vận. Nếu áp dụng giả thiết 179/60 thì trụ tháng của lưu niên là Đinh Dậu TKĐX với 2 trụ Tân Mão đã phá tan tam hợp cục có 4 chi (bới vì 2 trụ là Mão của tam hợp không hóa đều bị TKĐX nên ta có thể coi tam hợp cớ 4 chi chỉ như có 3 chi).
6 - Ta có thêm 0,15đh của Mão đại vận xung Dậu tiểu vận và 1,3đh của Dậu tiểu vận khắc Mão thái tuế. Dậu tiểu vận có điểm hạn của 2 hung thần nhưng bị Mão đại vận xung mất hết.

Tổng số là 2,7đh. Số điểm này cũng không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

"Nếu trụ tháng của lưu niên chỉ TKĐX với 2 trụ của tuế vận cùng gặp thì can, chi và nạp âm của trụ tháng này chỉ có thể tác động tới các can, chi và nạp âm của tuế vận và ngược lại nhưng các điểm hạn của các lực này bị giảm ¼ cũng như can chi đại vận với can chi của trụ tháng này được coi như cách nhau 1 ngôi và độ vượng suy của can này được xác định tại chi của nó".

Nếu sử dụng giả thiết này thì ta có thêm các điểm hạn sau :
7 – Mão đại vận xung Dậu trụ tháng của lưu niên có 0,3.1/2.3/4 đh = 0,11đh.
Dậu trụ tháng này khắc Mão thái tuế có 1,3.3/4 đh = 0,98đh.
Đinh trụ tháng này vượng ở Dậu nên có -1đh can và khắc 2 Tân có 1.4.1/2.3/4 đh = 0,53đh, trong đó lực khắc Tân đại vận bị giảm thêm ½ còn 0,53.1/2 đh = 0,27đh (vì cách 1 ngôi). Đinh có 1 cát thần có -0,25đh (điểm hạn can động và của các thần sát không bị giảm ¼ vì nó không phải là điểm hạn xung, khắc, hình, hại).
8 - Trụ tháng Đinh Dậu TKĐX với 2 trụ giống nhau là Tân Mão, vì vậy mỗi lực bị giảm ¼ và bị giảm thêm ¼ do giả thiết trên còn 1.3/4.3/4 đh = 0,56đh. Có 3 trụ TKĐX với nhau có thêm 0,1đh.

Tổng số là 4,56đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Trường hợp này kết hợp với trường hợp trên của Steve Jobs thì chúng ta còn thiếu trường hợp trụ tháng của lưu niên TKĐX với cả tuế vận và các trụ trong Tứ Trụ.

VULONG
30-10-12, 04:40
Bài 27 - Điểm hạn và tổng điểm hạn được giảm...

Chương 15

Điểm hạn và tổng điểm hạn được giảm

1 - Tam hợp .

263/5 – Nếu giữa tứ trụ và tuế vận có tam hợp không hóa có ít nhất 4 chi, trong chúng có ít nhất 3 chi trong tứ trụ thì điểm hạn được giảm 1đh và từ chi thứ 4 trở nên mỗi chi được giảm thêm 0,25đh (riêng chi tiểu vận chỉ được giảm thêm 0,13đh), nếu 3 chi trong tứ trụ tạo thành tam hợp có chi tháng thì được giảm thêm 0,5đh.
264/(7;14;32) - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận có tam hợp cục có từ 4 chi trở nên, trong đó có ít nhất 3 chi trong tứ trụ và tam hợp có ít nhất 4 chi có điểm hạn thì điểm hạn mới được giảm 1đh và từ chi thứ 4 có điểm hạn trở nên, mỗi chi được giảm thêm 0,25đh (riêng chi tiểu vận chỉ được giảm thêm 0,13đh) và khi đó nếu trong tứ trụ có 3 chi tạo thành tam hợp có chi tháng thì điểm hạn mới được giảm thêm 0,5đh.
(Chú ý : Các chi trong tứ trụ của tam hợp cục này đã hóa cục có cùng hành từ khi mới sinh thì các chi này mới không có điểm hạn).

265/35 - Giữa tứ trụ với tuế vận có tam hợp cục có từ 4 chi trở nên, trong đó có ít nhất 3 chi trong tứ trụ, nếu 2 trong 3 chi này giống nhau mà tam hợp cục có hành giống với hành của 2 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm ½ , còn nếu 2 trong 3 chi này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của tam hợp cục thì tổng điểm hạn chỉ được giảm 1/3.

2 – Tam hội trong và ngoài tứ trụ

266a/ - Tam hội ngoài tứ trụ, nó nghĩa là chỉ khi có thêm chi của tuế vận mới có tam hội.
266b/ - Tam hội trong tứ trụ là trong tứ trụ đã có đủ 3 chi để tạo thành tam hội.
266c/50 - Một trụ được coi là động khi can, chi hay nạp âm của nó xung hay khắc với các can, chi hay nạp âm khác cũng như can hay chi của nó hợp với tuế vận (nếu nạp âm bị khắc hay khắc với các nạp âm khác không có điểm hạn thì nó được coi là tĩnh).
266d/52 - Nếu tam hội trong tứ trụ hợp với tuế vận thì cả 3 trụ của nó được coi là động.
267/(26;18;210) - Nếu tam hội ngoài tứ trụ có ít nhất 2 chi khác nhau trong tứ trụ thì điểm hạn được giảm 1đh và từ chi thứ 4 trở đi mỗi chi được giảm thêm 0,25đh (chi tiểu vận chỉ được giảm thêm 0,13đh), nhưng nếu các chi của tam hội tự hình và hại được với nhau thì tổng điểm hạn không được giảm.
268/34 - Tam hội cục ngoài tứ trụ có ít nhất 3 chi trong tứ trụ, nếu 2 trong 3 chi này giống nhau mà tam hội cục có hành giống với hành của 2 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm ½ , còn nếu 2 trong 3 chi này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của tam hội cục thì tổng điểm hạn chỉ được giảm 1/3.
269/48 - Nếu trong tứ trụ có tam hội mà 3 chi của nó không liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm 1/3 khi có ít nhất 2 trụ của nó động.
270/49 - Nếu 3 chi của tam hội trong tứ trụ liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm ½ khi có ít nhất 2 trụ của nó động.
272/51 - Tam hội trong tứ trụ không được giảm thêm điểm hạn của tam hội ngoài tứ trụ.

3 – Hình và Hại

272b/ 206 - Tổng điểm hạn được giảm 5/12 nếu tất cả 7 chi của tứ trụ, tuế vận và tiểu vận hình và hại nhau, và giữa hai mức 1/3 và 5/12 nếu chỉ có 6 chi hình và hại nhau chỉ khi các chi này không bị hợp.

4 – Hóa cục có các chi giống nhau trong tứ trụ

273/33 - Nếu trong tứ trụ có 2 chi giống nhau mà 1 trong 2 chi này cùng 1 chi khác trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của 2 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm 1/3.
274/36 - Nếu trong tứ trụ có ít nhất 2 chi giống nhau mà tất cả 4 chi trong tứ trụ đã hóa thành bán hợp cục hay lục hợp cục từ khi mới sinh có hành giống với hành của các chi giống nhau này thì mặc dù chúng có hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của các chi giống nhau này thì tổng điểm hạn không được giảm.
275/82 - 4 chi trong tứ trụ hợp với nhau tạo nên 1 bán hợp hay lục hợp không hóa và trong chúng có 2 chi giống nhau, nếu nó không hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của các chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức ½ và 7/12, còn nếu nó hợp với tuế vận hóa cục vẫn là bán hợp hay lục hợp thì tổng điểm hạn được giảm 7/12 (?).
276/42 - Nếu trong tứ trụ có 2 chi giống nhau và trong chúng chỉ có 1 trong 2 chi này hợp với 1 chi khác trong tứ trụ hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của 2 chi giống nhau này còn chi thứ hai không bị hợp thì tổng điểm hạn được giảm ¼.
277/37 - Nếu trong tứ trụ có 3 chi giống nhau, khi 1 trong 3 chi này hợp với chi thứ 4 trong tứ trụ hóa cục có hành giống hành của 3 chi này thì tổng điểm hạn được giảm 1/3.
278/38 - Nếu trong tứ trụ có 3 chi giống nhau, khi tất cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm 2/3, còn nếu chỉ có 3 chi giống nhau trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12.
279/ - Nếu 3 chi trong tứ trụ giống nhau, khi có 3 chi hay cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm...?
280/ - Nếu 4 chi trong tứ trụ giống nhau, khi cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành giống hay khác với hành của 4 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm .... ?.

(Chú ý : Tổng điểm hạn được giảm theo các chi giống nhau trong tứ trụ và giảm theo tam hợp hay tam hội trong tứ trụ hay ngoài tứ trụ là khác nhau).

Chương 17

Dự đoán về thời gian và các lĩnh vực dễ xẩy ra hạn

I – Dự đoán về thời gian xẩy ra tai họa

1 - Các tháng trong một năm

305/ - Nếu một trong các nguyên nhân chính gây ra tai họa là hóa cục thì hạn thường xẩy ra vào mùa có hành giống với hành của hóa cục này, nhất là vào các tháng có chi giống với các chi trong tứ trụ của hóa cục này.
306/ - Nếu một trong các nguyên nhân chính gây ra tai họa bởi các chi trong tứ trụ xung hay khắc thái tuế thì tai họa thường xẩy ra vào các tháng của lưu niên có các chi giống như vậy.
307/ - Nếu một trong các nguyên nhân chính gây ra tai họa là các trụ trong tứ trụ và tuế vận TKĐX với nhau thì tai họa dễ xẩy ra vào các tháng của năm đó TKĐX với lưu niên hay các trụ trong tứ trụ....

2 - Tiểu vận và các tháng của năm sinh
308/ - Tại một năm (lưu niên) nếu hạn đã xẩy ra ở tiểu vận đầu thì sang tiểu vận sau thường không có hạn, mặc dù tổng điểm hạn ở tiểu vận sau vẫn cao (bởi vì đa số các điểm hạn đã gây ra tai họa ở tiểu vận đầu).
309/ - Tại năm sinh nếu hạn đã phát ra ở một tháng nào đó thì các tháng sau nó không còn khả năng gây ra hạn, cho dù ở các tháng đó vẫn có các điểm hạn cao (bởi vì....tương tự như câu trên).

..................................................

Giả thiết số 309/ đã kết thúc phần lý thuyết chính của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ (đến nay đã có thêm hàng chục giả thiết mới). Sau phần lý thuyết này là 136 ví dụ minh họa cho lý thuyết. Thực chất của 136 ví dụ này là những ví dụ mẫu để từ đó đưa ra 309 giả thiết trên. Trong các ví dụ mẫu này tôi đã diễn giải chi tiết cách xác định dụng thần và cách tính các điểm hạn theo 309 giả thiết này cũng như đưa ra cách giải cứu....

Tới bây giờ từ các ví dụ mới tôi vẫn tiếp tục đưa ra những giả thiết mới. Số lượng các giả thiết là khá nhiều, đến nỗi tôi cũng không thể nhớ nổi chúng mà thường là phải xem lại như tra Từ Điển khi nghiên cứu 1 ví dụ nào đó. Tôi hy vọng sau này có ai đó sẽ rút gọn hay tóm tắt được các giả thiết này bằng một lý thuyết hay những cách nào đó (tất nhiên chỉ với các giả thiết đã được kiểm tra là đúng).

Phần lý thuyết sau thuộc về phần “Mở Rộng“ của cuốn sách này. Tôi sẽ trình bầy nội dung chúng qua các bài :

Bài 28 : Khắc phối hôn (có các giả thiết từ 310 đến 332. Phần này có 28 ví dụ mẫu).
Bài 29 : Con cái khắc cha mẹ và cha mẹ khắc con cái (có các giả thiết từ 333 đến 348 . Phần này có 16 ví dụ mẫu).
Bài 30 : Dự đoán về phát Tài
Bài 31 : Dự đoán về phát Quan.

Hai bài cuối cùng này tôi mới đang nghiên cứu nên chưa có khả năng đưa được số điểm vào để Cân Đo Đong Đếm xem chúng phát mạnh hay nhẹ như phần dự đoán tai họa.

VULONG
30-10-12, 05:01
Ví dụ mẫu:

Ví dụ 48 (trong cuốn Giải Mã Tứ Trụ):
[img]http://farm9.staticflickr.com/8043/8147686054_a46ec3697c_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/8147686054/)

9/2/2001 là năm Tân Tị thuộc đại vận Giáp Thìn và tiểu vận Giáp Dần .
1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn đủ nên dụng thần đầu tiên phải là thực thương/ Nhâm tàng trong Thân trụ tháng.
2 – Trong trụ có tam hội Thân Dậu Tuất hóa Kim cục.
3 - Dụng thần Nhâm tử tuyệt ở lưu nên có 1đh và nhập mộ ở đại vận nên có 1đh.
4 - Nhật can Tân tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
5 – Đinh trụ năm vượng ở lưu niên khắc 2 Tân nên lực khắc Tân lưu niên có 1,4.1/2 đh = 0,7đh còn khắc Tân trụ ngày có 0,7.1/2 đh = 0,35đh (vì cách 1 ngôi).
Tân trụ ngày được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên khắc Giáp đại vận chỉ có 0,25.0,65.1/2 đh= 0,08đh (giảm 35% vì bị Đinh khắc và giảm 1/2 do khắc Giáp trái dấu).
Giáp đại vận nhược ở tuế vận khắc 2 Mậu trong tứ trụ, mỗi lực có 0đh và Giáp có 1 cát thần có -0,25.92%đh = -0,23 đh (vì Giáp đại vận bị Tân trụ ngày khắc).
2 Mậu trong tứ trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Mậu có 1đh.
Giáp tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh. Dần tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh và 3 hung thần có 3 .0,13đh.
Tân lưu niên có 1 cát thần có 0đh (vì Tân tử tuyệt ở tuế vận).
6 - Dần tiểu vận hình và hại thái tuế, vì vậy mỗi lực có 0,5đh.
7 - Lửa dưới núi trụ năm có Đinh được lệnh nên khắc đất dịch chuyển trụ tháng có 1đh (phải thừa nhận), vì vậy đất dịch chuyển không khắc được Lửa đèn ở đại vận.
Kim giá đèn không bị gỗ đồng bằng khắc bởi vì có lửa yếu là lửa đèn (vì theo các sách cổ đã viết như vậy, hy vọng sẽ có bạn đọc giúp tôi giải thích điều này).

Tổng số là 7,52đh. Số điểm này quá cao là không thể chấp nhận được.
Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra và sử dụng giả thiết 269/48 thì tổng số điểm hạn được giảm 1/3 còn 7,52.2/3 đh = 5,01đh (vì cả 3 trụ của tam hội cục đều động). Số điểm này mới có thể chấp nhận được .

Các nguyên nhân chính gây ra hạn này là các điểm hạn của nạp âm, hình, hại và năm Tị có Hỏa quá vượng khắc Kim (tức Kim bị thương tổn chứ không phải do Kim quá vượng như VIETHA đã dự đoán, mặc dù đoán đúng năm Canh Tân). Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu và kết hợp với giải cứu về hình và hại.

Người này đã may mắn thoát chết bởi vì anh ta sống ở phương tây bắc nên Thủy nhiều phù trợ cho dụng thần Nhâm (thủy) và nó làm cho Hỏa bị suy yếu đi một phần (tam hội ở đây đã chứng minh đúng như thực tế là đã có các Quý Nhân và Thần Linh phù hộ). Nếu anh ta biết trước để giải cứu thêm về hình và hại thì có thể làm cho hạn nhẹ thêm hoặc không có (thực tế đây là một vụ ám sát chính trị bằng khí độc).
Có Dần tiểu vận hình và hại Tị thái tuế nên vào tháng Dần và ngày Quý Mão (ngày 9/2/2001) đã TKĐX với trụ năm Đinh Dậu, đó chính là 2 nguyên nhân đã tác động làm tai họa xẩy ra.
Có Hỏa (Đinh) khắc Kim (Tân), vì vậy người này đã bị phẫu thuật phổi bởi vì Hỏa đại diện cho tim, máu,... còn Kim đại diện cho phổi, máu,... và dao, kéo,...

Tứ Trụ của ví dụ này chính là Tứ Trụ trên bìa của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ” và nó cũng chính là Tứ Trụ trong chủ đề “Tứ Trụ của Thánh Nhân” trong mục Tử Vi hay chủ đề “Thánh Nhân trong Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm” trong mục Tử Bình-Bát Tự tại trang web "Diễn đàn Lý Học Đông Phương" (trong đó tôi có nói qua về tiểu sử của người này).

Người có Tứ Trụ này là bạn thân của tôi học bên khoa toán. Mặc dù khác khoa nhưng chúng tôi chơi rất thân với nhau.... và cùng vượt biên giới sang tị nạn tại Đức. Và mọi cái được bắt đầu từ các câu hỏi của bạn tôi: “Tại sao tai họa lại xẩy ra đúng ngày Quý Mão (9/2/2001) nó thiên khắc địa xung với trụ năm Đinh Dậu ?”... “Tại sao nó không lệnh đi trước hay sau một ngày?” Là một nhà “Vật Lý” thất nghiệp (đang tị nạn) tôi đã cố gắng suy nghĩ nhưng vẫn không thể giải thích được. Từ hồ nghi rồi đi đến khẳng định rằng: Không, không.... không thể là duy tâm, mê tín dị đoan như cả một hệ thống tuyên truyền trong cái xã hội “Văn Minh-Khoa Học” đã nhồi nhét vào đầu những người như chúng tôi từ khi mới lọt lòng mẹ. Chắc chắn nó phải được xây dựng trên một lý thuyết chính thống của Khoa Học thì mới tồn tại và còn chính xác đến ngày nay như vậy.

Vâng chính từ điều khẳng định này mà những kiến thức Vật Lý của tôi sau 4 năm học ở trường đã không uổng phí, nhất là khi đang thất nghiệp (tị nạn) này. Đó là lý do sự ra đời của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ”.

Tất cả những gì tôi muốn nói thêm ở đây đã được viết trong “Lời Nói Đầu” của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ”.

VULONG
30-10-12, 05:06
Ví dụ mẫu:

Ví dụ 146 (trong cuốn Giải Mã Tứ Trụ): Adolf Hitler sinh ngày 20/4/1889 lúc 6,00’ (?). Ta xét điểm hạn năm 1944.
http://farm7.staticflickr.com/6055/6284208813_0b5dcc019c_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6284208813/)

Adolf Hitler đã làm lên chuyện kinh thiên động địa ắt hẳn ông ta phải có tứ trụ đặc biệt.

Chúng ta xét các giờ của ngày sinh có can Bính là: Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, .... đến Kỷ Hợi, ta dễ nhận thấy giờ Tân Mão có khả năng đúng nhất. Bởi vì tứ trụ có Bính hợp với Tân là tướng nắm binh quyền, Thực và Thương sinh Tài thì “phú quý tự nhiên đến” thêm tam hội cục Dần Mão Thìn cho biết có cả thế giới hữu hình (người dương) và vô hình (người âm) giúp đỡ. Thực tế có rất nhiều câu chuyện nói về Hitler thoát chết một cách kỳ lạ mà chúng ta đã biết. Các yếu tố này đã đưa Adol Hitler nên đỉnh cao của quyền lực. Tất nhiên ông ta chỉ có thể phát quan ở các vận hỷ dụng thần là Đinh Mão (từ 6/1894 đến 6/1904), Bính Dần, Ất Sửu, Giáp Tý, còn đại vận Quý Hợi (từ tháng 6/1934 tới tháng 6/1944) là kỵ vận nhưng can Quý là kỵ thần hợp với Mậu trụ tháng, mà Mậu và Quý đều là kỵ thần nên từ vận xấu thành vận không xấu, và rất may cho Quý là Quan bị hợp cho nên Quan tránh được tai họa do gặp Thương quan Kỷ ở trụ năm. Do vậy vận này vẫn có thể phát quan.
Đại vận Nhâm Tuất là kỵ vận nhưng Nhâm là Sát bị Mậu là (Thực) trụ tháng chế ngự thì đáng nhẽ đại vận này đúng với câu “Thực thần chế ngự Sát anh hùng áp đảo vạn người”. Nhưng đáng tiếc là Sát (Nhâm) vượng còn Thực (Mậu) nhập mộ, vì vậy Thực không thể chế ngự được kỵ thần Sát, còn thêm Thân nhược mà dụng thần Ất và Nhật can Bính đều nhập mộ ở đại vận Tuất nên đại vận này thành hung vận. Do vậy ở đại vận này ông ta dễ gặp tai họa về Quan và tuyệt mạng.

146a - Ta xét đại vận Nhâm Tuất bắt đầu từ tháng 6/1944.
http://farm7.staticflickr.com/6224/6284730674_4572860811_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6284730674/)

6/1944 là năm Giáp Tuất, nó bắt đầu thuộc đại vận Nhâm Tuất và tiểu vận Ất Mùi.
1 - Mệnh này Thân nhược thực thương Thổ là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên lấy kiêu ấn là Ất tàng trong Mão trụ giờ.
2 - Kỷ trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục, vì vậy ta phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng ở tuế vận, dụng thần không thay đổi.
3 – Trụ tháng Mậu Thìn TKĐX với đại vận Nhâm Tuất có 0,25đh + 0,05đh (vì Mậu được lệnh nhưng nhược ở tuế vận).
.....................................
Tổng số có 4,81đh (theo sơ đồ trên). Tam hội trong tứ trụ có 3 chi liền nhau và có 2 trụ của nó động, vì vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 4,81.1/2đh = 2,41đh. Số điểm này chấp nhận được.
......................................

146b - Điểm hạn ở tiểu vận Ất Mùi của năm 1945:
http://farm7.staticflickr.com/6035/6284733590_4a1f84d19a_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6284733590/)

1945 là năm Ất Dậu thuộc đại vận Nhâm Tuất, ta xét tiểu vận Ất Mùi .
Trong tứ trụ có tam hội Dần Mão Thìn hóa Mộc (vì Ất lưu niên dẫn hóa) có -1,5đh và bán hợp của Dậu lưu niên với Sửu trụ năm hóa Kim có 1đh.

Nếu sử dụng giả thiết 174/146 thì TKĐX và 2 hóa cục ở chi của nó có cùng hành với các chi đó cùng xuất hiện một lúc nên TKĐX phá được Kim cục nhưng vẫn còn hợp của nó và TKĐX không phá được tam hội cục. Vì vậy TKĐX không có điểm hạn. Tam hội Mộc có -1,5đh.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải đưa ra và ứng dụng giả thiết 187/146 thì tam hội cục không bị phá. Tổng số là 9,56đh (theo sơ đồ trên). Nếu sử dụng giả thiết 270/50 thì tổng số của các điểm được giảm ½ đh còn 9,56.1/2.đh = 4,78đh (vì tam hội cục có 3 trụ động). Số điểm này có thể chấp nhận được (vì người bại trận cũng giống như người bị phá sản).

Nếu tổng điểm hạn chỉ được giảm 1/3 hay TKĐX không phá được Kim cục hoặc vẫn có điểm hạn TKĐX thì tổng điểm hạn quá cao là không thể chấp nhận được.

Nếu 2 trụ TKĐX vào 1 hoặc 2 trụ của tam hội hóa cục mà phá được cục của nó thì tổng điểm hạn cũng là quá cao nên không thể chấp nhận được (vì trước ngày 20/4/1945 Adolf Hitler vẫn còn sống).

146c - Điểm hạn ở tiểu vận Giáp Ngọ, 1945:
http://farm7.staticflickr.com/6114/6284738172_63bff6d00b_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6284738172/)

Nếu theo sơ đồ trên thì ở tiểu vận Giáp Ngọ có Tuất đại vận hợp với Ngọ tiểu vận hóa Hỏa có -0,5đh ....
Tổng số là 8,21đh. Số điểm này được giảm ½ còn là 8,21.1/2 = 4,11đh. Điều này chứng tỏ cuối năm 1945 Hitler vẫn còn sống.

146d - Điểm hạn ở năm 1946
http://farm7.staticflickr.com/6039/6284220873_a43e0ef0d9_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6284220873/)


1946 là năm Bính Tuất thuộc đại vận Nhâm Tuất, tiểu vận Giáp Ngọ và Quý Tị. Ta xét tiểu vận Quý Tị (vì điểm hạn ở tiểu vận Giáp Ngọ là thấp, do Ngọ tiểu vận hợp với 2 Tuất của tuế vận).
Tổng số có 9,57đh (theo sơ đồ trên và ứng dụng giả thiết 214a/47a;60). Tam hội trong tứ trụ có 3 trụ của nó động, vì vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 9,57.1/2.đh = 4,79đh. Số điểm này chứng tỏ năm 1946 Adolf Hitler vẫn còn sống và theo tin đồn Adolf Hitler đã sống trên 80 tuổi ở Argentinien (?).

VULONG
30-10-12, 05:10
Ví dụ minh họa:

Cập nhật 18/10/2011 06:22 :00 AM (GMT+7) Vietnam.net.

Trùm phát xít Hitler chết già ở Argentina?
Trùm phát xít Adolf Hitler không tự sát ở Berlin vào năm 1945 mà sống ở Argentina cho tới tận khi chết già năm 1962, một cuốn sách mới khẳng định.
http://farm7.staticflickr.com/6231/6294073248_44f24c0714_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6294073248/)
Adolf Hitler ném một cây gậy cho con chó Blondi của ông ta.

Các tác giả của cuốn sách khẳng định họ tìm thấy "quá nhiều bằng chứng" cho thấy lãnh đạo Đức Quốc xã và người tình Eva Braun đã được đưa ra khỏi nước Đức bằng máy bay và tới Argentina.

Hầu hết các sử gia đều cho rằng trùm phát xít chết trong boongke của ông ta ở Berlin năm 1945, Tuy nhiên, đồng tác giả Gerrard William, một nhà báo Anh, nói nghiên cứu của họ nghi ngờ điều này.

Ông cho biết: "Không có bằng chứng pháp lý về cái chết của ông ta hoặc của Eva Braun và chuyện của các nhân chứng về sự sống sót của họ ở Argentina rất thuyết phục".

"Chúng tôi không muốn viết lại lịch sử, nhưng chứng cứ chúng tôi phát hiện ra về sự tẩu thoát của Adolf Hitler là quá nhiều để mà bỏ qua", ông nói thêm.

Cuốn sách có tựa đề "Sói sám: Sự tẩu thoát của Adolf Hitler" còn cáo buộc tình báo Mỹ đã cho nhà độc tài này chạy trốn để đổi lấy việc tiếp cận công nghệ chiến tranh của Đức Quốc xã.

Cuốn sách mới cho rằng "các mảnh hộp sọ của Hitler" mà người Nga nắm giữ thực tế là của một người phụ nữ.

Williams và đồng tác giả Simon Dunstan đã nghiên cứu các tài liệu mới được giải mật và các thử nghiệm pháp y.

Thanh Hảo (Theo The Sun, Sky News)

Xét điểm hạn năm 1962:
http://farm7.staticflickr.com/6114/6293554585_1667360d17_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6293554585/)

1962 là năm Nhâm Dần thuộc đại vận Tân Dậu, tiểu vận Mậu Dần và Đinh Sửu. Ta xét tiểu vận Đinh Sửu (vì tiểu vận Mậu Dần có tổng điểm hạn thấp).
1 – Vào đại vận Tân Dậu có Bính trụ ngày hợp với Tân trụ giờ và Tân đại vận, Dậu đại vận hợp với Sửu trụ năm hóa Kim.
Đến năm Nhâm Dần và tiểu vận Đinh Sửu có :
Tam hội Dần Mão Thìn trong Tứ Trụ hợp với Dần thái tuế không hóa.
Nhâm lưu niên hợp với Đinh tiểu vận không hóa được Mộc mặc dù có Dần thái tuế động có khả năng dẫn hóa (vì Kim cục có trước ngăn cản).
..........
Tổng điểm hạn quá thấp không thể chấp nhận được.

Nếu Adolf Hitler thật sự chết vào năm 1962 thì để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

“Bán hợp hay lục hợp chỉ có 2 can-chi là chủ khắc có trước không thể cản được các hóa cục bị khắc có tổng cộng ít nhất 6 can-chi cùng xuất hiện có sau (trừ hóa cục chỉ có các chi trong Tứ Trụ)”.

Nếu sử dụng giả thiết này thì lục hợp và tam hội cục có tổng cộng 6 can-chi cùng hóa Mộc.
Vì trong Tứ Trụ có Sửu và Thìn hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm phải tính lại. Mộc có 9,9đv được thêm 2,56đv của Thìn trụ tháng thành 12,46đv. Thổ có 16,17đv bị giảm 2,56đv còn 11,06đv. Ta thấy Kiêu Ấn sinh được 50% đv của nó cho Thân, vì vậy Thân có 12,46.1/2 đv + 8đv = 14,23đv. Thân trở thành vượng mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Sửu trụ tháng. Vì Hỏa là kỵ 1 động (Bính hợp với tuế vận) nên phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Mộc có 12,46đv được thêm 2.9đv của Dần thái tuế, 2.4,8đv của Nhâm lưu niên và 3đv của Đinh tiểu vận thành 43,06đv. Kim có 4,55đv được thêm 5,73đv của Dậu đại vận và 4,1đv Tân đại vận thành 14,38đv. Mộc trở thành kỵ 1 và là kỵ vượng. Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158) thì điểm kỵ vượng được tăng 2 lần. Kim cục và Mộc cục đã gây ra Đại Chiến có (0,2.7 + 0,1)đh = 1,5đh. Kim cục có 1đh và lục hợp Mộc cục có 0,5đh còn tam hội cục có (1.2 + 0,25)đh = 2,25đh. Nhâm và Dần lưu niên mỗi can-chi có 2.0,5đh kỵ vượng, còn Đinh tiểu vận có 2.0,5đh kỵ vượng.
..............................
Tổng số là 7,79.1/2 đh = 3,9đh (vì tam hội có 3 chi liền nhau trong Tứ Trụ và có 2 trụ động). Số điểm này là không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa tiếp ra giả thiết :

“149a/ - Nếu ĐC được gây ra bởi hóa cục chủ khắc là hỷ dụng thần với các hóa cục có cùng hành trong đó có tam hội cục có thái tuế và hành của tam hội cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên (đòi hỏi thái tuế khi hóa cục không được thay đổi hành (?)) thì điểm hạn cho mỗi can-chi tham chiến là 0,35đh nếu hóa cục bị khắc (hành của tam hội cục) có số can-chi nhiều hơn 1 can-chi so với tổng số can-chi của hóa cục chủ khắc, 0,4đh nếu nó nhiều hơn là 2 can-chi, 0,45đh nếu nó nhiều hơn 3 can-chi, 0,5đh nếu nó nhiều hơn 4 can-chi, 0,55đh... (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này)”.

Loại ĐC này là một dạng tương tự như ĐC-1.

Nếu sử dụng giả thiết này thì Đại chiến có (0,5.7 + 0,25)đh = 3,75đh. Tổng số là 10,04.1/2 đh = 5,02đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Ta thấy nếu năm 1962 mà Adolf Hitler không chết thì cái chết khó mà với tới được ông ta. Bởi vì trong Tứ Trụ có tới 5 can-chi trong các tổ hợp (nó giảm được rất nhiều các điểm hạn bởi hình, xung, khắc, hại...), còn thêm tam hội có 3 chi liền nhau (giảm được tới 50% tổng điểm hạn). Vận Bính Tuất là một hung vận có dụng thần và Nhật can đều nhập Mộ ở đại vận và cùng tử tuyệt tại nhiều năm của lưu niên, cộng thêm có 2 trụ TKĐX với tam hội mà còn không phá được tam hội... nên ông ta đã may mắn thoát chết (vì TKĐX vào đúng năm Ất Dậu, tam hội đã kịp hóa cục nên không nhằm nhò gì khi chỉ có 2 trụ TKĐX) huống hồ về sau không có đại vận nào có 2 trụ TKĐX với tam hội cả và dụng thần, Nhật can không nhập Mộ....

Năm 1962 có tam hội cục mà tam hội cục này có thái tuế mà hành của nó cùng hành với hành của can chi lưu niên. Điều này cho biết các vị thần đã xuất hiện để đón Adolf Hitler đi, tương tự như họ đã xuất hiện để đón con tầu Titanic đi là rất hợp lý, có thể tin được (?).

VULONG
30-10-12, 16:52
Bài 28 : Tiếp tục đi tìm các giả thiết mới

Dương Chấn Ninh nhà Noben về Vật Lý (TQ) đã viết:

“Nếu nói tôi có một quan điểm có tính cách mạng nào, thì đó là tôi đã vạch ra vết thương chí mạng ấy. Cho nên người ta không thích... Phương Tây có thái độ đối với học thuật khác với TQ: Người TQ quá tôn sư trọng đạo. Tiền nhân nói gì, Khổng Tử, Mạnh Tử nói gì thì không được bình luận mà phải coi là tuyệt đối đúng. Lời thầy giáo cũng tuyệt đối đúng... Thái độ ấy quá ư thâm căn cố đế...”.

Và trong diễn văn của tỷ phú Steve Jobs tại ĐH Stanford năm 2005, có đoạn viết:

“....Thời gian của các bạn là có giới hạn, vì thế đừng phí phạm thời gian do sống bởi đời sống của kẻ khác. Ðừng bị mắc kẹt trong những điều giáo lý vốn [chỉ] sống với các kết quả suy nghĩ của người khác. Ðừng để sự ồn ào của những ý kiến, quan điểm của người khác dìm chết tiếng nói trong tâm hồn, con tim và trực giác của chính bạn. Bằng cách nào đó, chúng đã biết bạn thực sự muốn trở thành cái gì. Tất cả những cái khác chỉ là thứ yếu…“.

Nên tôi tạm thời dừng lại không giới thiệu tiếp “Phần Mở rộng“ như đã dự kiến mà tiếp tục Bài 28 có chủ đề này để mọi người có thể hiểu rõ phương pháp nghiên cứu của tôi đã được trình bầy qua 27 bài trên.

Ví dụ 1 :

Chủ đề : “Giải mã cái chết Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ dưới góc nhìn Tứ Trụ Mệnh Lý“ của GIANGHA trong mục “Xem Tứ Trụ“ bên trang web “Tuvisaigon.com“ đã viết :

“Cái chết của Tây Sở Bá Vương Hạng Võ được nhiều người nhắc đến trong mệnh lý học Tử vi với câu phú nổi tiếng “ Hạng Võ anh hùng, ngộ Thiên Không táng quốc,Thạch Sùng hào phú, phùng Địa Kiếp vong gia”. Câu phú trên là đúng hay sai đối với cái chết của Tây Sở Bá Vương theo góc nhìn của khoa Tử vi, tôi sẽ phân tích về phần này ở một bài viết khác. Hôm nay tôi muốn phân tích cái chết của Hạng Võ dưới góc nhìn của khoa Tứ Trụ.

Đương số: HẠNG VŨ
Giới tính: Nam

CÀN TẠO: ĐINH MÃO- KỶ DẬU- BÍNH TUẤT- TÂN MÃO

Phân tích mệnh cục:
..................

SƠ LUẬN
Mệnh cách;
Mệnh cách thân nhược, gặp can hợp chi hợp, vừa hại vừa xung, nên con người không bình thường. Người có khả năng lãnh đạo, chí lớn, có cái uy dũng của bậc vạn phu bất địch nhưng cũng sẽ vì cái uy dũng đó mà hại thân (mệnh có Bạch Hổ xung Tướng Tinh).
Là người không được hưởng phúc ấm của tổ tiên, phúc bạc, phá bại tổ nghiệp (Kiếp đóng trụ năm, lệnh tháng bị xung). Thân nhược, lại Thực thương nhiều và vượng, nên số đoản thọ.

Sự nghiệp:
Thực Vận (8-17 tuổi):
Nằm trong vận Thực Thần là kỵ vận của bản mệnh. Nên cha mất sớm, bản thân phải về sống với người chú là Hạng Lương. Học chữ cũng không thông, đòi học kiếm cung, học kiếm cung cũng chẳng ra hồn.
Sau khi Hạng Lương giết chết người, 2 chú cháu bèn cùng nhau chốn đến đất Ngô Trung.

Kiếp Vận (18-27 tuổi):

Năm Canh Dần (209 TCN): Hạng Vũ và chú lập mưu giết chết Thái thú quận Cối Kê. Hạng Lương tự xưng làm thái thú Cối Kê, Hạng Vũ làm kì tướng, chiêu hàng các huyện trong quận.

Năm Tân Mão (208 TCN): Cùng với Lưu Bang sát cánh đánh quân Tần.

Nhìn chung, trong vận trình này Hạng Vũ đã từng bước tạo được các chiến công và uy danh hiển hách: Chém Tống Nghĩa, Đại phá Vương Ly, Thu hàng Chương Hàm nhưng một sự kiện làm ai cũng rùng rợn là Hạng Vũ cho chôn sống hơn 20 vạn lính Tần ở phía tây thành Tây An.

Tỷ vận (28-37 tuổi):

Đây là hỉ dụng thần, do đại vận Bính Ngọ, hỏa quá đầy đủ, lẽ ra Hạng Võ sẽ thống nhất được Trung Hoa và đánh bại Lưu Bang nếu như trong đại hạn này không gặp Không Vong. Hỉ thần gặp Không Vong thì sẽ trở thành Kỵ Thần, ngược lại hung thần gặp Không Vong thì tốt lại nhiều hơn xấu. Vận trình này Hạng Võ lần lượt thất bại liên tiếp: mất Mất Tam Tần, Sa lầy ở nước Tề, mất đất phía tây, Tây tiến thất bại, Mắc lừa mất Phạm Tăng, Hạ thành Huỳnh Dương, truy kích Thành Cao, Trận Cai Hạ.

Anh hùng mạc vận

.........................

Sau đây là bài luận của tôi:

Qua tiểu sử về Hạng Vũ trong đại vận Đinh Mùi (tức Kiếp vận):

“Kiếp Vận (18-27 tuổi):

Nhìn chung, trong vận trình này Hạng Vũ đã từng bước tạo được các chiến công và uy danh hiển hách: Chém Tống Nghĩa, Đại phá Vương Ly, Thu hàng Chương Hàm“.

Và đại vận Bính Ngọ (tức Tỷ vận) :

“Tỷ vận (28-37 tuổi):

Nhìn chung, trong vận trình này Hạng Vũ đã từng bước tạo được các chiến công và uy danh hiển hách: Chém Tống Nghĩa, Đại phá Vương Ly, Thu hàng Chương Hàm“.

Chúng ta nhận thấy 2 đại vận này hoàn toàn trái ngược nhau nên mặc dù cùng là hành Hỏa (Bính và Đinh) nhưng đại vận Bính Ngọ không thể là hỷ hay dụng thần được mà nó phải là kỵ vận thì mới đúng theo thực tế đã xẩy ra của người này (vì toàn bị thất bại liên tiếp, dồn dập …., nó hoàn toàn khác với đại vận Đinh Mùi liên tiếp thành công). Điều này đủ để ta khẳng định Thân của Tứ Trụ này vào đại vận Bính Ngọ không còn là nhược nữa mà phải là vượng thì đại vận Bính Ngọ mới trở thành kỵ thần.

Một điều vô cùng hợp lý là vào đại vận Bính Ngọ chỉ có Thân vượng thì Bính đại vận là Tỷ Kiếp hợp và khắc Tân là Tài trong Tứ Trụ mới thể hiện sự tranh đoạt Tài với Thân. Điều này phù hợp với thực tế của ví dụ này là vì Tài ở đây đại diện cho đất đai, lãnh thổ, tài nguyên, con người… của Hạng Vũ dần dần bị mất vào tay đối phương là Lưu Bang (Tỷ Kiếp).

VULONG
30-10-12, 16:52
(Tiếp)
1 - Sơ đồ tính điểm hạn năm Mậu Tuất:
http://farm8.staticflickr.com/7018/6406687563_0eb3ce9ac1_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6406687563/)

Năm Mậu Tuất thuộc đại vận Bính Ngọ, tiểu vận Canh Thân và Kỷ Mùi.
1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Tài tinh là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp/ Đinh ở trụ năm.
2 – Trong Tứ Trụ có Bính trụ ngày hợp với Tân trụ giờ không hóa.
Vào đại vận Bính Ngọ và năm Mậu Tuất có:
Bính đại vận cùng Bính trụ ngày hợp với Tân trụ giờ.
Lực hợp của Tuất trụ ngày và Tuất thái tuế với 2 Mão nhỏ hơn lực xung của Dậu trụ tháng với 2 Mão nên 2 Tuất không hợp được với 2 Mão, vì vậy mà Ngọ đại vận hợp được với 2 Tuất hóa Hỏa.
Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì Hỏa là dụng thần nên Hỏa cục và Bính đại vận có điểm hạn âm cũng như không có các điểm hạn kỵ vượng của Hỏa nên tổng điểm hạn là rất thấp không thể chấp nhận được. Nhưng xem lại các giả thiết đã có thì trường hợp này không thuộc vào các trường hợp phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Từ đây ta có thể nghĩ ngay ra rằng: Có thể đây là một trường hợp mới về tính lại điểm vượng trong vùng tâm chăng? Nhìn vào sơ đồ ta thấy Nhật can là Bính lại vào đại vận Bính Ngọ là vận Kình Dương lại còn Kình dương hóa cục Kình Dương nên Hỏa khá mạnh có thể Thân đã trở thành vượng là có lý.

Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết như sau:

“6a/ - Nếu can chi của đại vận cùng hành mà chi đại vận là Kình Dương hợp với chi trong Tứ Trụ hóa cục Kình Dương thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại chỉ khi can đại vận hợp với can trong Tứ Trụ (?)“.

Nếu sử dụng giả thiết này thì điểm vượng của Hỏa chỉ được thêm 2đv của Tuất trụ ngày và 3đv của Bính ở đại vận nên Thân vẫn nhược (vì Hỏa chỉ có 11,6đv vẫn nhỏ hơn Kim có 11,76đv). Do vậy ta phải bổ sung thêm vào giả thiết 13a/ như sau :

13a/ - Điểm vượng của can đại vận cũng như can và chi của lưu niên chính là điểm vượng của chúng tại lưu niên (nghĩa là tại chi của lưu niên (thái tuế) và xem thái tuế như lệnh tháng), chúng được viết ngắn điểm vượng của chúng tại lưu niên, số điểm này được tính như sau :
1 - Với chi của lưu niên (thái tuế) thì số điểm vượng này được tăng gấp đôi, trừ trường hợp trong tứ trụ không tồn tại hành của nó (kể cả can tàng là tạp khí) - (ví dụ 197).
2 - Với can lưu niên thì số điểm vượng này cũng được tăng gấp đôi, trừ khi nó hợp với can trong tứ trụ hóa cục (ví dụ 212).
3 - Với can đại vận thì số điểm này bằng chính điểm vượng của nó ở lưu niên, trừ khi nó hợp với can trong Tứ Trụ mà chi đại vận là Kình Dương lại hợp hóa cục Kình Dương thì điểm vượng của nó ở lưu niên được tính tương tự như của chi đại vận hay chi tiểu vận (vì trường hợp này can đại vận chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi chi đại vận).

Nếu sử dụng điều bổ sung này thì Bính đại vận có (10 + 2.3)1/2 đv = 5,33đv. Thân trở thành vượng (vì nó có 6,6 + 2 + 5,33 = 13,93đv) mà Kiêu Ấn đủ nên dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương/ Kỷ ở trụ tháng. Ở đây ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có thêm 5,33đv của Ngọ đại vận và 2.3đv của Tuất thái tuế thành 25,26đv. Do vậy Hỏa là kỵ vượng.

Theo sơ đồ trên thì tổng điểm hạn là 6,65đv. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Từ trước tới nay hầu như chưa có một cuốn sách nào hay một người nào đả động tới khái niệm “Thân có thể thay đổi“ mà chỉ thấy nói “dụng thần có thể thay đổi“, cho nên gặp các ví dụ như trường hợp này người luận thường phải “Gọt Chân Cho Vừa Giầy“. Cụ thể như bài luận trên, người luận chỉ còn bấu víu vào can chi lưu niên là Thực Thương, Ngọ đại vận và Mùi tiểu vận là Không Vong mà thôi. Nhưng Tuất thái tuế và Ngọ đại vận đã hóa Hỏa là dụng thần thì họ lại giả bộ như không nhìn thấy. Bởi vì nếu nhìn thấy thì chả nhẽ Hỏa cục này không đủ bù vào phần hao hụt do Thân bị xì hơi bởi Mậu hay sao ? Nhưng thực tế Mậu lưu niên và Kỷ trong Tứ Trụ đều ở trạng thái tĩnh (còn Tuất thái tuế đã hóa Hỏa) nên khả năng xì hơi Thân của chúng coi như là không đáng kể. Còn Không Vong thì có giá trị gì khi nó bị hợp ? Mùi ở tiểu vận là Không Vong thì phá được cái gì ở đây ngoài giá trị là có 0,13đh ?

Theo tôi Không Vong chỉ có khả năng làm mất tính chất tốt xấu của các thần sát chứ nó không thể làm mất tính chất hỷ hay kỵ của các hành được, cũng như nó chỉ có tác dụng tốt hay xấu tại trụ mà nó đóng. Không Vong cũng như các thần sát và các khái niệm khác trong Tử Bình (như can, chi, tổ hợp, hóa cục, thiên khắc địa xung, nạp âm, hình, hại ....) đều có mặt mạnh và mặt yếu của chúng. Có lúc chúng mạnh có lúc chúng thành vô dụng.... nhưng điều này hình như chưa có sách nào nói tới thì phải (mà giả dụ có nói thì người luận cũng giả bộ không nhìn thấy như trên tôi đã viết). Cho nên kể cả các sách được cho là Kinh Điển vẫn thường thấy sử dụng các Tuyệt Chiêu “Gọt Chân Cho Vừa Giầy“ để luận, chắc họ cố tình tung hỏa mù để giấu Bí Kíp chăng?

2 - Sơ đồ tính điểm hạn năm Giáp Ngọ:
http://farm8.staticflickr.com/7035/6406691757_3ac56a3c22_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6406691757/)

Năm Giáp Ngọ thuộc đại vận Bính Nggo, tiểu vận Giáp Tý và Quý Hợi.
1 – Nếu sử dụng điều bổ xung trên thì các năm thuộc đại vận Bính Ngọ là Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu và Mậu Tuất thường phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và Thân thường là vượng, dụng thần thường là Kỷ ở trụ tháng (một vài trường hợp ngoại lệ như ở tiểu vận Giáp Tý này có Tý xung 2 Ngọ nên bán hợp của Ngọ bị phá, vì vậy ở tiểu vận này không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm).
2 - .............

Theo sơ đồ trên thì tổng điểm hạn là 8,62. Nếu như không tính tới các yếu tố bên ngoài tác động vào mệnh của người này (vì chúng có thể làm cho số điểm này thay đổi) thì số điểm này là quá cao không thể chấp nhận được

Do vậy để phù hợp với thực tế của trường hợp này ta phải đưa ra giả thiết :

280a/ - Nếu các can chi của tuế vận đều hợp với can chi trong Tứ Trụ mà các tổ hợp này có tổng cộng ít nhất 8 can-chi thì tổng điểm hạn được giảm ít nhất giữa 2 mức 5/12 và ½ (hay ½ ?) chỉ khi chi tuế vận đều hóa cục có cùng hành (vì ở đây không những chỉ có can chi lưu niên đều hợp với can chi trong Tứ Trụ báo hiệu có tin mừng mà còn thêm can chi đại vận cũng vậy nên giả thiết tổng điểm hạn được giảm có một chút hợp lý).

Nếu sử dụng giả thiết này thì tổng điểm hạn còn 8,62(7/12 + ½).1/2 đh = 4,67đh. Số điểm này có thể là chấp nhận được nếu năm Giáp Ngọ Hạng Vũ thất trận để mất đất..., còn nếu năm Giáp Ngọ Hạng Vũ không bị thất trận thì tổng điểm hạn của giả thiết này phải được giảm 1/2 còn 8,62.1/2 đh = 4,3đh.

Tất cả các giả thiết được đưa ra trong ví dụ này đều có phần nào hợp lý cho dù là ít hay nhiều. Những giả thiết này sẽ được kiểm tra trong những ví dụ tương tự và thường thường chúng được hiệu chỉnh cho ngày càng chính xác, còn nếu thấy sai nhiều thì cần loại bỏ để tìm ra những giả thiết khác có tính thuyết phục hơn.

Phương pháp nghiên cứu này liệu có đúng với lời khuyên của nhà Noben Vật Lý Dương Chấn Ninh và nhà tỷ phú Steve Jobs ở trên hay không ?

VULONG
30-10-12, 16:58
Ví dụ 2 : Chủ đề : “Đương số liệu có tuyệt mạng năm 2013 ?" của Dunghoa trong mục Tử Bình bên trang Web "Tuvilyso.org" :

“Chào các bác,

Dunghoa có một người bạn hiện đang phải chạy thận 1 tuần 3 lần kể từ khi bắt đầu phát hiện bệnh năm 2010. Dunghoa thấy đại hạn này xấu, năm 2013 xấu nhưng không biết năm 2013 liệu có xảy ra sự cố trầm trọng cho bạn dunghoa không nên mong mọi người góp ý, và xin cho biết đương số có qua được đại hạn này không, cách hóa giải nếu có.

Sơ lược về đương số:
Cao hơn 1.7m, nước da bình thường không trắng không đen, trước kia to béo giờ rất gầy.
Hồi nhỏ và khi lớn nhiều lần gặp tai nạn nặng nhưng không chết, phải khâu mặt, khâu đầu. Mắt phải bị lác.
Bố đã mất khoảng gần 10 năm, mẹ ở nước ngoài. Có anh em dị bào. Năm 2008 lấy vợ, năm 2009 ly hôn, năm 2010 suy thận. Tình duyên cũng trắc trở không thành vài lần trước khi cưới. Chưa có con.
Công danh lận đận, hồi bé rất vất vả khó khăn, lớn lên mới được mẹ trợ cấp thêm kinh tế.
Dunghoa xin cảm ơn, ".

Sau đây là bài luận của tôi:

Sơ đồ tính điểm hạn năm 2010 :
http://farm8.staticflickr.com/7004/6510398205_673fd2d0d9_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6510398205/)

2010 là năm Canh Dần thuộc đại vận Ất Tị, tiểu vận Đinh Sửu và Bính Tý.
1 - Tứ Trụ này có Thân quá vượng mà Kiêu Ấn không có nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ (vì nó vượng hơn Canh lộ ở trụ giờ).
2 – Trong Tứ Trụ có 2 Tị hợp với Thân là tranh hợp giả không hóa (vì 3 cho đều ở trong Tứ Trụ hoặc 2 Tị là chủ khắc nhưng mang dấu âm nên thuộc phái nữ).
Vào đại vận Ất Tị và năm Canh Dần có :
Canh trụ giờ và Canh lưu niên hợp với Ất đại vận.
Lục hợp của 3 Tị với Thân trụ tháng không hóa (vì lực xung của Dần thái tuế với Thân trụ tháng chỉ có 9đv là nhỏ hơn lực hợp của 3 Tị với Thân trụ tháng có (5,33 + 2.5,75)đv = 10,83đv).
3 - Dụng thần Tân nhược ở lưu niên nên có 0đh.
4 - Nhật can Đinh tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
5 – Canh trụ giờ được lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh can động và khắc Ất đại vận có 0,25đh.
Canh lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên có -0,5đh can động và khắc Ất đại vận có 0,25đh.
Do vậy Ất đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh can động nhưng bị giảm 2 lần 25% do 2 Canh khắc nên còn 0,5.0,75.0,75 đh = 0,28đh.
Sửu tiểu vận có 1 hung thần có 0,13đh.
Dần thái tuế có 3 hung thần nên có 3.0,25đh.
6 - Lực hợp của 3 Tị với Thân không hóa nên Tị đại vận hình Thân trụ tháng có 1đh, khi đó Tị trụ năm và Tị trụ ngày mới hình được Thân, mỗi lực có 0,5đh.
7 - Đất dịch chuyển trụ tháng có Mậu vượng ở lưu niên nên khắc Lửa ngọn đèn đại vận có 1đh.

Tổng số là 5,66đh. Với trường hợp này nếu không có các yếu tố bên ngoài tác động cũng như không thể BÓI ra được một giả thiết nào để làm cho tổng điểm hạn được giảm thì cách duy nhất còn lại là chúng ta có quyền nghi ngờ dụng thần có thể đã xác định sai.
Ta thấy Thân quá vượng (Thân lớn hơn Tài tinh, Quan Sát và Thực Thương trên 20đv) trong khi Kiêu Ấn không có nên dụng thần đầu tiên không thể là Tài tinh được mà phải là Thực Thương (trừ khi Thực Thương nhiều mới đủ sức hóa Thân sinh cho Tài thì Tài mới không bị tổn thương). Điều này có logic, vì vậy ta đưa ra giả thiết :

1 - "Nếu Thân lớn hơn Tài, Thực Thương và Quan Sát ít nhất 20đv mà Kiêu Ấn không có thì dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương chỉ khi Thực Thương không nhiều".

Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn năm Canh Dần khi Thực Thương là dụng thần :
http://farm8.staticflickr.com/7149/6510414075_65d5bde625_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6510414075/)

Nếu áp dụng giả thiết vừa đưa ra thì dụng thần đầu tiên phải là Thực Thượng/ Mậu ở trụ tháng.
Theo như sơ đồ trên thì tổng số là 4,94đh. Số điểm này là hơi cao.
Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa tiếp ra giả thiết :

2 - "Nếu can chi của tiểu vận đều nhập Mộ ở tiểu vận thì các thần sát ở chi tiểu vận không có điểm hạn".
(Vì nhìn đi nhìn lại chỉ có thông tin này là phù hợp.)

Nếu áp dụng giả thiết này thì Không Vong ở Sửu tiểu vận không có điểm hạn nên tổng số chỉ là 4,81đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Qua ví dụ này chúng ta đã tìm thêm được 2 giả thiết mới. Hy vọng 2 giả thiết này sẽ trở thành các quy tắc chính thức (hiện giờ tôi mới kiểm tra được giả thiết thứ 2 này trong 216 ví dụ mẫu trong sách của tôi, nó đã làm cho tổng số điểm của các ví dụ mẫu này càng thêm chính xác).

VULONG
30-10-12, 17:06
Ví dụ 3 : Tìm cách giải cứu

Tsunami trong chủ đề : "Nghiệm lý: Một việc rất quan trọng xảy ra với người này trong năm 2011" trong mục Tử Vi bên trang web tuvilyso.org đã viết :

"Thưa các cô chú, anh chị trên diễn đàn. Em có đứa em họ, năm nay tầm cuối tháng 9 dương lịch có 1 sự kiện rất lớn xảy ra với nó. Em đưa lá số của nó lên đây để mọi người nghiệm lý.
Sự kiện gì thì em sẽ cung cấp sau. Rất mong các thành viên mạnh dạn cho ý kiến ạ.
Lá số của nó đây ạ:
Nam mệnh : Giáp Tuất - Ất Hợi – ngày Giáp Thìn – Đinh Mão
.................................................. ..............
Em chưa thấy cao thủ nào luận rõ ràng cả. Thôi em đưa đáp án để cả nhà luận xem tại sao lại xảy ra vậy và bộ sao nào dẫn tới kết cục đó.
Đầu tháng 9 âm, chú em em bị tai nạn xe máy, bất tỉnh 1 tuần trong viện, sau đó thì mất.
Xin nói thêm là trong gia đình nhà này thì có nhiều người chết trẻ, có người chú ruột định sang cát mấy lần nhưng không được vì cứ dự định sang cát thì năm đó trong gia đình lại có người mất, lại phải hoãn. Năm nay cũng thế, nhưng trong lúc thằng em em đang nằm bất tỉnh (chắc chắn sẽ ra đi, khi nào rút ống thở thì nó sẽ đi) thì gia đình quyết định sang cát cho ông chú. Xong xuôi rồi thì rút ống thở, đưa được thằng em từ viện về đến nhà thì nó mất.
Em biết là việc cũng đã rồi, gia đình em ai cũng buồn nhưng sau 1 thời gian vẫn cố gạn hỏi chú xem em sinh giờ nào để nghiệm lý lá số.
Mong các bậc cao thủ cho ý kiến ạ".

Sau đây là bài luận của tôi :
http://farm8.staticflickr.com/7174/6594498651_862b166aa5_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6594498651/)

Tháng 9/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Bính Tý và tiểu vận Giáp Thân.
1 – Thân vượng mà Kiêu Ấn / Hợi ở lệnh tháng có 6đ v trong vùng tâm nên được xem là Kiêu Ấn đủ, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương/ Đinh ở trụ giờ.
2 – Vào đại vận Bính Tý và năm Tân Mão ta thấy Bính đại vận hợp với Tân lưu niên hóa Thủy, vì vậy Thìn trụ ngày hợp với Tý đại vận mới hóa được Thủy (vì lực hợp của Thân tiểu vận với Tý đại vận chỉ có 3,73đv là nhỏ hơn lực hợp của Thìn trụ ngày với Tý đại vận có 4,8đv. Cũng như lực xung của Tuất trụ năm với Thìn trụ ngày quá nhỏ (vì Tuất phải hợp với 2 Mão và xung cách ngôi 4,8.1/3.2/3= 1,6đv, chưa kể Tuất phải khắc Hợi trụ tháng - giảm thêm ¾ đv) so với lực hợp của Tý đại vận với Thìn là 5,33.1/2=2,67đv, vì Tý phải hợp với Thân tiểu vận).
Hợi trụ tháng hợp với Mão thái tuế hóa Mộc (vì lực hợp của Hợi với Mão có 7,75.1/2= 3,88đv là lớn hơn lực hợp của Tuất trụ năm với Mão chỉ có 4,8.1/2= 2,4đv (vì Hợi và Tuất đều phải hợp với Mão trụ giờ).
Ta thấy Hợi và Thìn trong Tứ Trụ hợp với tuế vận đều hóa cục có hành khác với hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại. Thổ có 1,24đv bị mất 0,74đv của Thìn trụ ngày còn 0,5đv. Thủy có 6đv bị mất 6đv của Hợi trụ tháng nhưng được thêm 0,74đv của Thìn trụ ngày thành 0,74đv.
Ta thấy Thân vượng mà Kiêu Ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Tân tàng trong Tuất trụ năm. Hành Mộc là kỵ vượng và các điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi (vì Mộc lớn hơn hỷ dụng thần trên 20đv). Do vậy Mộc cục có 0,5đh, Mão thái tuế có 2.0,5đh kỵ vượng. Mỗi Thủy cục có 1đh và mỗi Thủy cục sinh cho Mộc cục có 2.0,3đv = 0,6đh (vì hành Mộc chỉ có 0,5đh).
3 - Dụng thần Tân tử tuyệt tại lưu niên có 1đh.
4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh.
5 – Giáp tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh.
6 - Lửa đỉnh núi ở trụ năm và trụ tháng có Giáp và Ất đều vượng ở lưu niên khắc nước khe đại vận, mỗi lực có 0,5đh.

Tổng số là 5,44đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (nếu sinh vào các giờ Bính Dần hay Mậu Thìn thì tổng số các điểm hạn là quá thấp không thể chấp nhận được).

(Không cần biết "Âm Dương ngũ hành tứ thời luận" là gì cả, mọi người cứ áp dụng các Giả Thiết đã có của tôi sẽ tìm ra 5,44đh này. Số điểm hạn này cho biết người này có hạn rất nặng vào năm 2011. Vậy thì "Phương Pháp tính Điểm Hạn" của tôi có đủ để chứng minh môn Tử Bình là một môn Khoa Học giống như các môn khoa học của phương tây 1 + 1 = 2 hay không ?)

Điều bất ngờ đầu tiên là : Tai họa này chủ yếu do điểm hạn của hành Thủy và Mộc gây ra mà không có can chi, đại chiến xung khắc nhau thì thường ứng vào bệnh tật có liên quan tới Thủy và Mộc. Ở đây Mộc quá vượng lại còn được Thủy vượng sinh cho nên dễ bị các bệnh về gan hay thần kinh, đầu .... nhưng tại sao lại là tai nạn giao thông, có thể do tháng Đinh Dậu (tháng 9) đã thiên khắc địa xung với lưu niên Tân Mão gây ra chăng ?

Điều bất ngờ thứ 2 là : Vào mùa Thu Kim đang vượng còn Mộc đang hưu tù tử tuyệt nên nó không thể nhận được 2.0,6đh của 2 Thủy cục sinh cho. Vậy mà tổng số chỉ có (5,44 – 1,2)đh = 4,24đh mà tai họa vẫn xẩy ra. Tại sao lại như vậy ?
Điều này chứng tỏ Mộc ở trạng thái Thai ở tháng Dậu nó đã nhận được phần lớn số điểm này và dĩ nhiên tới tháng Hợi, Mộc bắt đầu ở trạng thái trường sinh nó sẽ nhận được tất cả số điểm này.
Nhưng nếu vậy thì tiểu vận Giáp Thân từ ngày 4/2 tới 14/11 có tháng Dần và Mão Mộc cực vượng, còn tháng Thìn và Tị Mộc hưu tù, vậy thì tại sao tai họa không xẩy ra ? Có thể khi đó mặc dù Mộc có thể nhận được sự sinh từ Thủy nhưng Thủy lại đang ở trạng thái hưu tù tử tuyệt nên Thủy không thể sinh được cho Mộc (?).

Nếu các điều suy luận này là đúng thì liệu chúng ta có thể tìm ra các cách để giải cứu cho những người có cùng Tứ Trụ này được không ?

Dĩ nhiên nếu chúng ta biết được môi trường và hoàn cảnh của những người có cùng Tứ Trụ này đang còn sống (vì không bị tai họa hoặc bị rất nhẹ) thì chúng ta dễ dàng tìm ra các nguyên nhân đã làm cho tổng điểm hạn được giảm. Đó chính là các cách để giải cứu mà bây giờ chúng ta đành phải mò mẫm đi tìm.

Hiện nay trên thế giới có 7 tỷ người. Cho nên một điều chắc chắn rằng sẽ có trên (13.1/2 =) 6,5 nghìn người nam có cùng Tứ Trụ này (trên 13 nghìn người nếu kể cả nam và nữ) nhưng không thể tất cả đều gặp tai họa nặng và chết như người này. Do vậy tôi hy vọng mọi người cùng tham gia tìm các cách giải cứu mà những người may mắn không chết do được các yếu tố âm dương ngũ hành bên ngoài tác động vào âm dương ngũ hành trong Tứ Trụ của những người này làm cho tổng điểm hạn được giảm.

VULONG
30-10-12, 17:11
(Tiếp)
Trong tất cả các trường phái Tử Bình từ trước tới nay thì chỉ có trường phái của cụ Thiệu mới đưa ra và áp dụng quy tắc: “Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa cục không có khả năng tác động với các can chi bên ngoài và ngược lại“. Chính quy tắc này là nền tảng để xây dựng nên “Phương pháp tính điểm hạn“ của tôi. Do vậy với sơ đồ trên thì không có chuyện Đinh trụ giờ là Thương quan gặp được Tân ở lưu niên là Quan (vì Tân đã bị hợp hóa cục) và cũng không thể có chuyện Mão trụ giờ và Mão thái tuế cùng Thìn trụ ngày hại được với nhau (vì Thìn đã bị hợp và hóa cục), hay cũng không thể có chuyện Tý đại vận và 2 Mão hình được với nhau (vì Tý đã hợp hóa cục). Trong khi các sách cho là Kinh Điển như: “Trích Thiên Tủy“, “Tử Bình Chân Thuyên“,… cũng như các sách mới xuất hiện gần đây như : “Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa“ của Hoàng Đại Lục hay các sách về “Manh Phái“ của Đoàn Kiến Nghiệp, …. đều bác bỏ quy tắc này, thậm chí họ còn không có một quy tắc rõ ràng nào cả về tranh hợp giữa các tổ hợp như: lục hợp, bán hợp, tam hợp và tam hội. Khi 2 hay 3 tổ hợp này cùng xuất hiện thì họ thích cho tổ hợp nào được tạo thành thì họ cho, miễn là phù hợp ý muốn của họ (cụ thể như các sách về “Manh Phái“ của Đoàn Kiến Nghiệp). Một điều cần nói thêm nữa là hầu như họ cũng không quan tâm lắm tới độ vượng suy của các can chi đang luận phải phụ thuộc vào lưu niên đó (tại thái tuế - tức chi của lưu niên) thì phải (?).

Cho nên để đi tìm cách giải cứu cho ví dụ trên theo trường phái của cụ Thiệu, ta thấy không hề có các điểm hạn về Thương quan gặp Quan; không hề có các điểm hại nhau của Thìn và Mão; không hề có sự hình nhau của Tý với Mão và cũng không hề có các điểm xung khắc nhau của các can chi…. Trên sơ đồ ta chỉ thấy các điểm hạn gây lên tai họa này là các điểm hạn của Thủy cục, Mộc cục và của Thủy cục sinh cho Mộc cục. Ngoài ra còn có điểm hạn của nạp âm khắc nhau nhưng với điểm hạn này thì tôi chưa có được một ý tưởng nào để ngăn chặn nó.

Do vậy ở đây ta chỉ cần tập chung vào tìm cách giải cứu để ngăn cản các điểm hạn của Thủy cục (2đh), Mộc cục (0,5đh) và điểm hạn của Thủy cục sinh cho Mộc cục (2.0,6đh = 1,2đh).
Như tôi đã thắc mắc là tại sao tai họa lại xẩy ra vào tháng Dậu mà không xẩy ra vào các tháng Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi và Thân (vì chúng cùng ở tiểu vận Giáp Thìn) ? Phải chăng Mộc không ở các trạng thái Tử, Mộ và Tuyệt tại các tháng Dần, Mão, Thìn và Tị nên nó có thể nhận được sự sinh từ Thủy nhưng tai họa không xẩy ra chỉ vì Thủy lại ở các trạng thái hưu tù tử tuyệt ở các tháng này nên nó không có khả năng sinh cho Mộc ? Còn các tháng Ngọ, Mùi và Thân thì Thủy ở các trạng thái Thai, Dưỡng và nhất là Trường sinh ở tháng Thân có thể sinh được cho Mộc cục nhưng tai họa vẫn không xẩy ra bởi vì Mộc lại ở các trạng thái Tử, Mộ và Tuyệt tại các tháng này nên Mộc không có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy chăng ? Cho nên đến tháng Dậu Thủy vượng còn Mộc ở trạng thái Thai (tức bắt đầu tiến khí) nên nó có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy. Chính vì lúc này số điểm quá cao, vì vậy gặp ngày Tân Mão (3/10 dương lịch) cùng lưu niên Tân Mão thiên khắc địa xung với trụ tháng Đinh Dậu (tháng 9) đã tác động cho số điểm hạn này phát ra gây nên tai họa này chăng ?

Nếu sự suy luận này là đúng thì đơn giản nhất là chúng ta tìm cách nào đó để Thủy không có khả năng sinh được cho Mộc hoặc Mộc không có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy là được. Rõ ràng chúng ta thấy 6 tháng đầu năm đã thỏa mãn điều kiện này (như đã phân tích ở trên), vậy thì chúng ta dễ dàng nhận thấy cách giải cứu đơn giản nhất là …… Cho dù đây mới chỉ là lý thuyết cần có thực nghiệm để kiểm chứng, nhưng chả sao cả. Chúng ta cứ mạnh dạn đưa ra ý tưởng (tức lý thuyết) đi cho dù là sai (bởi vì từ trước tới nay hầu như là lý thuyết bao giờ cũng có trước sau đó mới có các thực nghiệm kiểm tra lý thuyết đó).

Hy vọng có ai đó dựa vào câu tôi tô đậm ở trên có thể điền vào chỗ bỏ trống (…..) cách giải cứu mới mẻ này.

Nếu như không thừa nhận quy tắc: “Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa cục không có khả năng tác động với các can chi bên ngoài và ngược lại“ thì với sơ đồ tính điểm hạn trên sẽ xuất hiện thêm rất nhiều điểm hạn nữa như:

1 – Bính đại vận khắcTân lưu niên (mặc dù Bính đã hợp với Tân hóa Thủy).
2 – Đinh trụ giờ là Thương quan gặp (khắc) Tân lưu niên là Quan (cho dù Tân đã hóa Thủy).
3 – Tân lưu niên khắc Giáp hay Ất tiểu vận, khắc 2 Giáp và Ất trong Tứ Trụ (cho dù Tân đã hóa Thủy).
4 – Mão trụ giờ và Mão thái tuế cùng Tý đại vận hình nhau (cho dù Tý và Mão thái tuế đã hợp hóa cục).
5 – Mão thái tuế và Mão trụ giờ cùng Thìn trụ ngày hại nhau (mặc dù Mão thái tuế và Thìn đã hóa cục).
6 - Tuất trụ năm hợp với Tuất thái tuế hóa Hỏa.
7 – Tuất trụ năm xung Thìn trụ ngày (mặc dù Thìn đã hóa cục).
8 - Ở đây chưa đả động gì tới các nạp âm khắc nhau (vì hình như tất cả các sách từ cổ tới kim không nói gì tới các nạp âm khắc nhau có thể gây ra các điểm hạn thì phải (?)).

Tất cả các thông tin ở trên đều có thể gây ra các điểm hạn và hầu như tất cả các cao thủ Tử Bình từ Cổ tới Kim đều thích bơi, ngụp lặn trong cái mớ Hổ Đốn này thì phải (?). Có cao thủ cho rằng vì Tuất trụ năm (đại diện cho cha mẹ) xung với Thìn trụ ngày (đại diện cho bản thân người có Tứ Trụ) đã gây ra hạn nên muốn giải cứu hạn này thì cha con phải sống xa nhau. Có cao thủ cho rằng tai họa này do Đinh trụ giờ là Thương quan gặp Tân lưu niên là Quan gây ra. Có cao thủ cho rằng vì 2 Mão và Thìn hại nhau hay Tý và 2 Mão hình nhau mà gây ra tai họa. Còn có cao thủ cho rằng Đinh trụ giờ khắc Tân lưu niên là thái tuế và họ cho rằng phạm thái tuế chỉ có toi mạng mà thôi...

Khi không thừa nhận quy tắc: “Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa cục không có khả năng tác động với các can chi bên ngoài và ngược lại“ thì nó sẽ xẩy ra trăm nghìn cách gây ra tai họa như nêu trên và dĩ nhiên chúng đều sai bởi một điều vô cùng đơn giản là chính các cao thủ Tử Bình đều phải thừa nhận và áp dụng một câu kinh điển: “Hợp Quan lưu Sát“ hay “Hợp Sát lưu Quan“. Chính câu Kinh Điển này đã khẳng định là phải thừa nhận quy tắc đã nói ở trên. Bởi vì nếu không thừa nhận quy tắc này thì Quan và Sát vẫn gặp nhau cho dù chúng đã bị hợp. Còn nếu ai cho rằng câu này chỉ áp dụng cho Quan và Sát thôi mà không được áp dụng cho các thần sát hay các can chi khác thì xin hãy trích dẫn các câu trong các sách cổ điển để chứng minh.

Bây giờ chúng ta quay lại với ví dụ trên. Như tôi đã chứng minh trong 6 tháng đầu năm, nếu các tháng Thủy sinh được cho Mộc cục thì may mắn các tháng đó Mộc cục lại không có khả năng nhận được sự sinh đó, còn các tháng khác thì ngược lại. Do vậy trong 6 tháng đầu năm không có 1,2đh của Thủy cục sinh cho Mộc cục nên tai họa đã không thể xẩy ra. Nếu điều suy luận này đúng thì chúng ta biết các mùa của Bắc bán cầu và Nam bán cầu luôn luôn ngược nhau (ví dụ nếu Bắc bán cầu đang là mùa Xuân và Hạ thì Nam bán cầu đang là mùa Thu và Đông và ngược lại). Do vậy 6 tháng ở bắc bán cầu là mùa Xuân và Hạ người này không bị tai họa thì sang 6 tháng cuối năm là mùa Thu và mùa Đông của bắc bán cầu mà muốn không gặp tai họa thì người này phải sống ở Nam bán cầu, bởi vì khi đó Nam bán cầu đang là mùa Xuân và Hạ.

Về lý thuyết thì rất đơn giản như vậy nhưng trong thực hiện lại không hề đơn giản tý nào. Bởi vì có mấy ai đủ tiền để đi du lịch xa tới 6 tháng như vậy, đấy là chưa kể tới khó khăn khi xin VISA nhập cảnh...

Nhưng trong thực tế thì chắc rằng đa số những người nam có cùng Tứ Trụ này vẫn sống tại chỗ mà vẫn bình yên, không hề gặp tai họa nào cả. Đây mới chính là điều mà chúng ta phải nghiên cứu để tìm cho ra lời giải đáp.

VULONG
30-10-12, 17:24
Ví dụ 4 : Thêm một giả thiết mới quan trọng

Ví dụ số 142 trong "Chương 21 : Luận tinh thần vô quan cách cục – Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú" đăng bên trang web "Tử bình - Mệnh lý".

"Nam mệnh : Tân Tị / Tân Sửu / Canh Thân / Tân Tị

Đại vận: Canh Tý -Kỷ Hợi -Mậu Tuất -Đinh Dậu -Bính Thân -Ất Mùi -Giáp Ngọ

Kim gặp tháng rét thổ, cần dụng hỏa Điều hậu. Mà Tị Sửu hội hợp, Tị Thân hình hợp, cách cục liền chuyển đổi. Khí toàn kim thủy, đành phải thuận theo vượng khí, nên hành vận thổ kim thủy là mỹ vận. Đây là mệnh Lý Quốc Kiệt, người Hợp Phì (tỉnh An Huy). Tân kim tạp xuất mà chỉ có một Canh kim đắc quý, tuy anh em rất đông mà một mình mình kế tục ngôi vị, "quý do di ấm" là chổ đó, cho nên niên nguyệt trụ thích hợp đóng quý nhân. Vừa vào vận Mùi, lưỡng quý tương xung, hơn nữa gặp phải lưu niên Giáp Tuất, tam hình hội hợp, hình thương đến lưỡng quý mà bị họa tù ngục. Tứ trụ này nếu như thời thấu một thủy thì vận cuối không đến nỗi cùng khốn. Có thể thấy Thần sát không hoàn toàn vô căn cứ".

Sau đây là bài luận của tôi :
http://farm8.staticflickr.com/7147/6826438493_4dc5efb2ca_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6826438493/)

Năm Giáp Tuất thuộc đại vận Ất Mùi, tiểu vận Mậu Tý và Đinh Hợi. Ở đây ta xét tiểu vận Mậu Tý.
1 - Tứ Trụ này có Thân vượng mà Kiêu Ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Bính tàng trong Tị trụ năm. Kim là kỵ vượng.
2 – Trong Tứ Trụ có Tị hợp với Thân không hóa.
Vào đại vận Ất Mùi và năm Giáp Tuất có Ất đại vận hợp với Canh trụ ngày không hóa.
Trụ tháng Tân Sửu thiên khắc địa xung với đại vận Ất Mùi có 0,5đh + 0,05đh (vì Tân vượng ở lưu niên).
3 – Dụng thần Bính tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
4 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh.
5 – Canh trụ ngày thất lệnh và chỉ vượng ở đại vận nên có 0,25đh can động và khắc Ất đại vận có 0,25đh.
3 Tân trong Tứ Trụ thất lệnh và chỉ vượng ở đại vận khắc Giáp lưu niên nên mỗi lực có 0,5đh và mỗi can có 0,5đh can động.
Mùi đại vận xung Sửu lệnh tháng có 0,4đh.
Tuất thái tuế có 1 hung thần có 0,25đh.
6 – Mùi đại vận hình Tuất thái tuế có 1đh và hại Tý tiểu vận có 0,25đh (vì là lực thứ 3). Tuất thái tuế bị hình nhưng vẫn hành được Sửu trụ tháng có 1đh.
7 - Gỗ Lựu trụ tháng có Canh thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên khắc Kim giá đèn ở trụ năm và trụ giờ có tổng cộng 0,25đh ( vì Canh đã sử dụng 0,5đk).

Tổng số là 8,2đh. Số điểm này quá cao là không thể chấp nhận được.

Nếu như không có sự tác động của ngũ hành trong môi trường mà người này sống vào mệnh của người này để làm giảm bớt số điểm hạn này thì bắt buộc chúng ta phải tìm xem trong sơ đồ này có thể xuất hiện các điểm hạn âm hay không ? Nếu như không có thì ta phải xem tiếp liệu có yếu tố nào có thể làm cho tổng điểm hạn này được giảm hay không ? Nhìn đi nhìn lại ta thấy có một điều khác lạ ở đây là có tới 3 Tân không bị hợp cùng khắc Giáp lưu niên.

Do vậy ta có thể đưa ra giả thiết mới là:

"Nếu trong Tứ Trụ có 3 can giống nhau không bị hợp cùng khắc can của lưu niên thì mỗi lực khắc này có 1G nếu là khắc trái dấu và 2G nếu là khắc cùng dấu (?)".

Nếu vậy thì tổng cộng có 3G tương đương với mức giảm là 1/3. Do vậy tổng điểm hạn còn 8,2.2/3 đh = 5,47đh . Số điểm này vẫn còn quá cao nên không thể chấp nhận được.

Để ý ta thấy Mùi đại vận hình Tuất thái tuế, vì vậy ta thấy là hợp lý nếu cho lực này có 0,5G. Nếu như vậy thì có 3,5G tương đương với mức giảm 5/12. Khi đó tổng điểm hạn còn 8,2.7/12 đh = 4,78đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Do vậy giả thiết trên phải bổ xung thêm như sau:

"Nếu trong Tứ Trụ có 3 can giống nhau không bị hợp cùng khắc can của lưu niên thì mỗi lực khắc này có 1G nếu là khắc trái dấu và 2G nếu là khắc cùng dấu (?), khi đó chi đại vận Hình hay Hại thái tuế có 0,5G" còn xung có ...?G và khắc có ...?G.

Ví dụ này đúng với câu Thân vượng có nhiều tỷ kiếp mà trong Tứ Trụ không có Tài thì vào vận Tài dễ vì Tài mà gặp tai họa. Do vậy người này chắc mất Quan do tam hình và vào tù vì Tài (tam hình này có thể liên quan tới Tài, tức tiền hay gái).

Bạn đọc thử thay 1 Tân thành Quý xem tổng điểm hạn có thấp đến mức không bị "cùng khốn" như bài luận ở trên hay không ?

VULONG
30-10-12, 17:48
Ví dụ 5:

Sơ đồ tính điểm hạn (hạn chết) năm Nhâm Thìn (2012) của ca sĩ nổi danh Whitney Houston (USA) :
http://farm8.staticflickr.com/7186/6903043855_fb9e4de82a_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6903043855/)

11/2/2012 là năm Nhâm Thìn thuộc đại vận Giáp Tý và tiểu vận Quý Hợi.
1 - Theo sơ đồ trên thì Tứ Trụ này có Thân nhược mà Quan Sát là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Nhâm tàng trong Thân ở trụ tháng. Kim là hành kỵ vượng.
2 - Ta thấy 2 Thân trong Tứ Trụ hợp với Tý và Thìn ở tuế vận hóa Thủy thay đổi hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Thủy có 1,86đv được thêm 9đv của Thân trụ ngày và 5,4đv của Thân trụ tháng thành 16,26đv. Kim có 23,4đv bị mất 9đv của Thân trụ ngày và 5,4đv của Thân trụ tháng còn 9đv. Thân vẫn nhược và dụng thần vẫn không thay đổi. Vì Kim là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Thủy có 16,26đv được thêm 5,33đv của Tý đại vận và 2.8đv của Thìn thái tuế thành 39,59đv. Mộc có 4,41đv được thêm 5,1đv của Giáp đại vận (Giáp động vì nó bị Canh trong Tứ Trụ khắc) thành 9,51đv.

Bình thường sau khi tính thêm các điểm vượng ở tuế vận thì điểm hạn của các hành không được phép thay đổi. Nhưng nếu áp dụng điều này ở đây thì Thủy vẫn là dụng thần nên tổng điểm hạn quá thấp là không thể chấp nhận được (vì Thủy cục 4 chi có điểm hạn âm, điểm hạn can động của 3 Giáp cũng là âm...). Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải thừa nhận sau khi tính thêm các điểm vượng ở tuế vận thì điểm hạn của ngũ hành phải được xác định như bình thường. Nếu như vậy thì ta phải sửa lại giả thiết đã được đưa ra ở ví dụ minh họa "Giờ Thân hay Hợi ?" trong "Bài 24 - Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng", ở tại chủ đề này (vì 2 ví dụ này có 1 điểm giống nhau) :

“2/ - Nếu tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận thì phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận, và nếu sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà Thân mới bị thay đổi thì dụng thần và điểm hạn của ngũ hành được xác định như bình thường“.

Thành 2 giả thiết độc lập như sau :

7b/ - Nếu tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận thì phải tính lại điểm vượng ở vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận.

30a/ - Nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà Thân không thay đổi nhưng khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận Thân bị thay đổi thì dụng thần và điểm hạn của ngũ hành được xác định như từ khi mới sinh chỉ khi có tổ hợp của chi đại vận và thái tuế cùng với chi trong Tứ Trụ hóa cục cũng như hóa cục này không tham gia Đại Chiến.

Nếu áp dụng giả thiết 30a/ thì trường hợp này ta thấy chi đại vận, thái tuế và chi trong Tứ Trụ tạo thành tam hợp hóa Thủy cũng như Kiêu Ấn lớn hơn Tài và Thực Thương cộng thêm Thân lớn hơn Tài và Quan Sát (vì Thân lúc này có 9,51đv còn Tài có 1,44đv và Quan Sát có 9đv) nên Kiêu Ấn có thể sinh được cho Thân 50% đv của nó. Thân đã trở thành vượng (vì nó có (39,59.1/2 + 9,51)đv = 29,39đv) mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Mậu tàng trong Tuất ở trụ giờ. Thủy là kỵ vượng và các điểm kỵ vượng được tăng gấp 3 lần (nếu áp dụng giả thiết : 30/(18;158) – Nếu hành của tam hợp cục hay tam hội cục có ít nhất 4 chi có thái tuế là kỵ 1, khi hành này giống với hành của can lưu niên mà can lưu niên không bị hợp thì điểm kỵ vượng của hành này (đoạn này đã được sửa lại cho chính xác hơn) mới được tăng 5/4 nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, 3 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 30đv, 4 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 40đv, .... (kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược hay ngược lại)).

Do vậy Thủy cục có 1.2đh + 0,25đh. Tý đại vận và Thìn thái tuế mỗi chi có 3.0,5đh kỵ vượng.

3 - Dụng thần Mậu vượng ở lưu niên có -1đh.
4 - Nhật can Gi áp nhược ở lưu niên có 0đh.
5 – Canh trụ tháng được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có -0,5đh và khắc 3 Giáp có tổng cộng 0,25đh, vì vậy mỗi lực có 0,08đh, riêng lực khắc Giáp trụ giờ chỉ có 0,04đh (vì cách 1 ngôi). Do vậy Giáp đại vận chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh nhưng bị giảm 8% còn 0,46đh can vượng (vì bị Canh khắc), Giáp trụ ngày thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh nhưng cũng bị giảm 8% chỉ còn 0,46đh, Giáp trụ giờ cũng có 0,5đh nhưng chỉ bị giảm 4% còn 0,48đh.
Giáp đại vận có 1 cát thần có -0,25đh nhưng bị giảm 8% (do Canh khắc) chỉ còn -0,23đh. Nhâm lưu niên có 2 cat thần có -2.0,25đh. Quý tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh. Hợi tiểu vận có 1 hung thần có 0,13đh.
6 - Nước sông ở lưu niên có Nhâm chỉ vượng ở đại vận khắc Lửa đỉnh núi ở trụ giờ có 0,75đh.

Tổng số là 5,24đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Qua sơ đồ này rõ ràng người này đã chết chủ yếu bởi các điểm hạn về Thủy (tức chết vì nước), vậy mà pháp y khám nghiệm đã kết luận không phải chết đuối vì trong phổi không có nhiều nước. Có thể thủ phạm (nếu có) đã dốc ngược đương số để cho nước trong phổi thoát ra ngoài (như cấp cứu người chết đuối) trước khi pháp y khám nghiệm chăng ?

VULONG
30-10-12, 17:52
(Tiếp)
Qua Wikipedia tiếng Việt của Whitney Houston cho ta thấy tiểu sử của nữ ca sĩ này huy hoàng nhất vào các vận Nhâm Tuất và Quý Hợi đúng như dụng thần là Thủy mà "Phương Pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần" của tôi đã chỉ ra. Điều này là một bằng chứng để chứng minh thêm một lần nữa phương pháp của tôi theo "Vượng Suy Pháp" hay "Dụng Thần thăng bằng" là đúng.

Nhưng vì sao vào vận Giáp Tý là vận hỷ thần có Giáp vượng ở đại vận Tý và chi đại vận Tý hợp với 2 Thân trong Tứ Trụ hóa Thủy là dụng thần mà sự nghiệp của người này lại tụt dốc và cuối cùng đã kết thúc bi thảm bằng cái chết như vậy ?

Nói chung ngoài những người theo trường phái của cụ Thiệu (lấy Can đại vận làm trọng) thì hầu như các cao thủ lẫn các đại cao thủ Tử Bình (như Trưởng Lão Hoàng Đại Lục đại diện cho "Cách Cục Pháp", Đoàn Kiến Nghiệp đại diện cho "Manh Phái",....) đều lấy Chi đại vận làm trọng. Điều này dễ dẫn họ đi đến kết luận Thủy phải là kỵ thần (vì vào vận Tý - Thủy nên người này thất bại liên tiếp và kết cục bằng cái chết). Nếu vậy thì họ sẽ giải thích ra sao với vận Quý Hợi có can chi toàn Thủy là kỵ thần mà người này vẫn huy hoàng như vậy ? Chắc là họ cho rằng 10 năm của đại vận này đương số đã sống và biểu diễn ở xa mạc SAHARA ở châu Phi, cho nên kỵ thần Thủy ở đó bị "Bốc Hơi Hết" còn hỷ dụng là Hỏa và Thổ cường vượng (vì xa mạc này ở phương nam lại gần đường xích đạo nên lúc nào cũng nóng ấy mà). Còn vận Nhâm Tuất thì chắc chắn họ cho rằng Tuất là Thổ là hành hỷ dụng thần nên mới đẹp như vậy. Chính vì lấy Chi đại vận làm trọng (ở đây chưa xét đến khả năng xác định Thân vượng hay nhược của họ), cho nên họ đã không thể giải thích được đa số các ví dụ trong thực tế. Chính vì vậy mà họ đã phủ nhận trường phái "Dụng Thần thăng bằng" để đi đến thừa nhận các trường phái khác.

Theo trường phái "Dụng Thần thăng bằng" lấy Can đại vận làm trọng của tôi thì giải đáp câu hỏi ở trên ra sao ? Nếu nhìn qua thì dễ dàng cho rằng đại vận Giáp Tý có chi hóa Thủy là dụng thần còn can Giáp là hỷ thần lại vượng ở đại vận Tý thì đây phải là một vận có nhiều thành công hơn là thất bại nhưng trong thực tế thì lại hoàn toàn ngược lại. Muốn giải thích điều này thì phải thừa nhận sự vượng suy của tất cả các can chi phải được xác định tại chi lưu niên (tức lấy thái tuế làm "Lệnh Lưu Niên" tương tự như lấy chi tháng làm "Lệnh Tháng" trong Tứ Trụ).

Nếu chấp nhận như vậy thì vận Giáp Tý bắt đầu vào tháng 7/2003.
Các năm Quý Mùi (2003), Giáp Thân (2004), và Ất Dậu (2005), Canh trụ tháng vượng ở lưu niên khắc 3 Giáp ở đại vận, trụ ngày và trụ giờ (đều nhược ở lưu niên), vì vậy 3 Giáp bị tổn thương nên hầu như không có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy cục. Điều này dẫn đến Thân đã nhược càng thêm nhược không thể thắng được Tài Quan, vì vậy 3 năm này đương số chỉ vùi mình vào nghiện ngập Ma Túy, sự nghiệp không có gì cả.

Năm Bính Tuất (2006) mặc dù Canh bắt đầu suy nhược ở lưu niên nhưng nó vẫn khắc được 3 Giáp (vì nó được lệnh tháng) và mặc dù lực khắc yếu hơn nhưng bù vào là can lưu niên Bính Hỏa là kỵ thần, cộng thêm Tuất thái tuế hợp chặt Mão trong Tứ Trụ nên Thân coi như bị mất Mão nên Thân đã suy nhược (vì không nhận được sự sinh từ Thủy cục) lại càng thêm nhược. Chính đều này đã dẫn đến sự bại tài (thực tế có thể coi như là phá sản) của Whitney Houston vào năm 2006 (mất quyền sở hữu khu đất ở Atlanta vì phải thế chấp, bán đồ đạc, quần áo, nhạc cụ và nhất là phải bán biệt thự trị giá 5,6 triệu đô la để trả nợ....vào tháng 1/2007 (theo Tử Bình vẫn thuộc năm 2006).

Sơ đồ hạn phát Tài tháng Sửu năm Ất Dậu (2005) của ca sĩ Whitney Houston như sau:
http://farm8.staticflickr.com/7065/6910105187_a2577f6e1e_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6910105187/)

Tháng Sửu năm Ất Dậu thuộc đại vận Giáp Tý và tiểu vận Đinh Tị.
Vào đại vận Giáp Tý có Tý đại vận hợp với 2 Thân trong Tứ Trụ hóa Thủy.
Tới năm Ất Dậu có :
1 - Canh trụ tháng hợp với Ất lưu niên hóa Kim thành công (vì có lệnh tháng dẫn hóa, nếu không thì Dậu thái tuế cũng trở thành thần dẫn do bị Mão trụ năm xung).
2 - Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

"Nếu bán hợp hay lục hợp của chi đại vận với ít nhất 2 chi giống nhau trong Tứ Trụ đã hóa cục thì tam hợp hay tam hội của thái tuế với 2 chi giống nhau này mất quyền ưu tiên khi thái tuế bị xung khắc bởi Tý, Ngọ, Mão, Dậu, khi đó tam hợp hay tam hội này muốn tranh được hợp thì lực hợp của nó phải ít nhất bằng lực hợp của bán hợp hay lục hợp cục này".

Nếu sử dụng giả thiết này thì Mão trụ năm xung Dậu thái tuế nên tam hội Thân Dậu Tuất bị mất quyền được ưu tiên. Do vậy tam hội này muốn phá được bán hợp Thủy thì lực hợp của Dậu với mỗi Thân phải ít nhất là bằng lực hợp của Tý với mỗi Thân. Ta thấy lực của Dậu hợp với mỗi Thân là 9.1/4đv = 2,25đv (vì Dậu thái tuế có 9đv phải hợp với 4 chi gồm 2 Thân, Tuất trong Tứ Trụ và thêm Tị tiểu vận) là nhỏ hơn lực hợp của Tý đại vận với mỗi Thân là 8.1/2 đv = 4đv (vì điểm vượng của Tý tại lưu niên là (10 + 2.7).1/3 đv = 8đv và Tý chỉ hợp với 2 Thân). Do vậy tam hội không phá được Thủy cục.

Rõ ràng Canh trụ tháng đã hợp với Ất lưu niên hóa Kim nên nó không còn khả năng khắc 3 Giáp. 3 Giáp không bị thương tổn sẽ nhận được sự sinh từ Thủy cục nên năm Ất Dậu là một năm đẹp đã phát tài. Cho dù Ất lưu niên hóa Kim nhưng vì Ất chỉ ở trạng thái tử tuyệt ở lưu niên nên điểm thêm của Ất hóa Kim là quá nhỏ (chỉ có 3đv) so với sự mất của Kim bởi 2 Thân trong Tứ Trụ hóa Thủy (tới 14,4đv). Chính vì vậy mà Thân không còn quá nhược so với Quan Sát, nên Mão và Dậu thái tuế xung nhau không còn đáng ngại nữa.

Ở tiểu vận Bính Thìn Thủy cục cũng không bị phá vì lực hợp của Tý với mỗi Thân có 8.1/3 đv = 2,67đv (vì Tý phải hợp thêm với Thìn tiểu vận) vẫn lớn hơn lực hợp của Dậu với mỗi Thân là 2,25đv (vì Dậu vẫn phải hợp với Thìn tiểu vận).

Kết luận năm Ất Dậu là 1 năm đẹp.

Qua đây cho biết hầu như tất cả các trường phái Tử Bình từ cổ tới kim hầu như không hề biết đến khả năng tranh phá hợp của các địa chi này (ở đây chỉ đề cập tới các sách đã được in bán công khai).

VULONG
30-10-12, 18:16
Ví Dụ 6

Đây là ví dụ thứ 4 của Vương Khánh trong chủ đề "Trăm năm mệnh lý què quặt" được dịch bởi Durobi bên trang web "Tử Bình Mệnh Lý".

Sau đây là bài luận của tôi:

Sơ đồ tính điểm hạn chết năm Mậu Tý :
http://farm8.staticflickr.com/7194/6936478579_ce332bfe8d_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6936478579/)

Năm Mậu Tý thuộc đại vận Mậu Tuất, tiểu vận Kỷ Mùi và Mậu Ngọ. Ta xét điểm hạn ở tiểu vận Kỷ Mùi (vì tiểu vận Mậu Ngọ cũng tương tự).
1 – Trong Tứ Trụ có Ngọ hợp Tuất hóa Hỏa.
Vào đại vận Mậu Tuất có Hỏa cục trong Tứ Trụ hợp với Tuất đại vận hóa Hỏa, vì vậy Mậu đại vận hợp với Quý trụ tháng mới hóa được Hỏa (chú ý: Dậu xung Mão gần nên lục hợp của Mão trụ tháng với Tuất đại vận luôn luôn bị phá).
Đến năm Mậu Tý có 2 Mậu là chủ khắc cùng hợp với Quý là tranh hợp thật nên Hỏa cục không những bị phá mà 3 can này là vô dụng. Tý thái tuế xung Ngọ trụ ngày phá tan Hỏa cục. Do vậy Hỏa cục bị phá có -0,5đh, chi Ngọ có 0,5đh và Tuất có 1đh.
Trụ tháng Quý Mão không thể thiên khắc địa xung với trụ năm Đinh Dậu (vì Quý là can chủ khắc là tranh hợp thật).
2 - Dụng thần Quý bị tuế vận hợp có 1đh và vượng ở lưu niên có -1đh.
3 - Nhật can Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh.
4 - Ngọ trụ ngày xung Tý thái tuế có 0,8đh.
Tý thái tuế là Kình Dương có 1đh.
5 – Mão trụ tháng hình Tý thái tuế có 1đh.
Mùi tiểu vận hình Tuất đại vận có 0,5đh và hại Tý thái tuế có 0,5đh.
Tuất đại vận mặc dù bị hình nhưng vẫn hại được Dậu trụ năm có 1đh, do vậy mà Tuất trụ giờ mới hại được Dậu trụ năm có 0,13đh (vì cách 2 ngôi)

Tổng số là 4,93đh. Nếu áp dụng giả thiết 287/112 thì Ngọ trong hợp bị phá nên xung Tý thái tuế không có điểm giảm nhưng Mão trụ tháng hình Tý thái tuế có 0,5G và Mùi tiểu vận hại Tý thái tuế có nhiều nhất là 0,25G. Tổng số có 0,75G , nó tương đương với tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/7 và 1/8. Do vậc tổng điểm hạn còn 4,93.(6/7 + 7/8)đh = 4,27đh. Số điểm này là quá thấp nên không thể chấp nhận được.

Nếu như không tìm được thêm một yếu tố nào giữa Tứ Trụ với Tuế vận và tiểu vận để có thể gây ra điểm hạn nữa thì chúng ta bắt buộc phải thừa nhận là tai họa này đã có sự tham gia của các yếu tố trong môi trường sống đã tác động vào mệnh của người này. Các yếu tố này phải có ít nhất khoảng 1đh, bởi vì (4,93 + 1).(6/7 + 7/8)đh = 5,14đh thì mới có thể chấp nhận được.

Nhìn lại sơ đồ chúng ta thấy dụng thần Quý bị tuế vận hợp có 1đh nhưng ở đây Quý còn trở thành vô dụng vì tranh hợp thật nên ta có thể đưa ra giả thiết là trong trờng hợp này dụng thần Quý phải có thêm 1đh. Giả thiết này mặc dù có lý nhưng vẫn cần phải có thêm các ví dụ tương tự để chứng minh nó đúng như vậy hay không.

Do vậy ta phải bổ xung thêm vào giả thiết 38/(1;25) như sau:

38/(1;25) - Dụng thần là can lộ hay tàng trong địa chi của tứ trụ, nếu can hay chi này hợp với tuế vận thì dụng thần được xem như vô dụng nên có 1đh (trừ trường hợp can hay chi mà dụng thần tàng hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của dụng thần - ví dụ 1), nếu can lộ này là dụng thần là tranh hợp thật thì dụng thần có thêm 1đh. Còn nếu chi chứa dụng thần không hóa cục từ khi sinh mà nó không hợp với tuế vận hóa cục thì dụng thần có 1đh chỉ khi hành của dụng thần không giống hành của hóa cục này (ví dụ 25).

VULONG
30-10-12, 18:20
Ví dụ 7 :

Ví dụ này Maianha đã đưa ra trong chủ đề : Luận mệnh theo "Trường phái cách cục" trong mục mục Tử Bình bên trang web tuvilyso.org.

"Càn tạo : Bính Dần - Canh Tý - ngày Kỷ dậu - Ất Sửu

Vận : Tân sửu (2-11) / Nhâm dần (12-21). Chết đuối năm Bính tuất .

Lá số này từng có nhiều ý kiến khác nhau vì sao chết năm Bính tuất trên trang diễn đàn cũ.... ".

Ở đây tôi thấy không cần thiết trích dẫn bài luận của Maianha (nếu ai cần xin vào đọc chủ đề "Luận mệnh theo "Trường phái cách cục"" trong mục "Tử Bình - Tứ Trụ" bên trang web "Nhân Trắc Học").

Sơ đồ tính điểm hạn năm Bính Tuất (2006) :
http://farm8.staticflickr.com/7207/6936608687_2621ff874b_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6936608687/)

Năm Bính Tuất thuộc đại vận Nhâm Dần, tiểu vận Ất Dậu và Bính Tuất.
1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Thực Thương là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Bính ở trụ năm.
2 - Trong Tứ Trụ có bán hợp của Dậu với Sửu hóa Kim.
3 - Dụng thần Bính tử tuyệt tại lưu niên có 1đh.
4 - Nhật can Kỷ nhược ở lưu niên có 0đh.
5 - Nhâm đại vận vượng ở lưu niên nên có 1đh can động và khắc 2 Bính nên mỗi lực khắc có 1,4.1/2 đh = 0,7đh. Nhâm có 2 cát thần có -2.0,25đh.
Bính lưu niên chỉ vượng ở đại vận có -0,5 đ h can động nhưng bị giảm 70% còn -0,5.30% đh = -0,15đh và khắc Canh trụ tháng có 0,5đh nhưng cũng bị giảm 70% còn 0,15đh. Bính có 1 cát thần có -0,25đh, cũng bị giảm 70% còn 0,08đh.
Bính trụ năm thất lệnh chỉ vượng ở đại vận có -0,5đh can động nhưng bị giảm 70% còn -0,15đh và khắc Canh trụ tháng có 0,5đh nhưng cũng bị giảm còn 0,15đh.
Dần đại vận có 2 hung thần có 2.0,25đh. Dậu tiểu vận có 2 cát thần và 1 hung thần có -0,13đh.
6 - Dậu tiểu vận hại Tuất thái tuế có 0,5đh.

Tổng số là 3,69đh. Số điểm này quá thấp là không thể chấp nhận được.
Nếu như không có thêm các yếu tố từ bên ngoài tác dụng vào mệnh cục làm tăng thêm số điểm hạn thì để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

87a/ - Nếu dụng thần lộ trong Tứ Trụ và ở tuế vận đều bị khắc thì điểm hạn của các lực khắc các dụng thần này được tăng gấp đôi.

Nếu áp dụng giả thiết này thì mỗi lực khắc dụng thần Bính có 2.0,7đh, khi đó các điểm hạn của can động, của các cát/ hung thần và lực khắc của 2 Bính đều bằng 0. Tổng số sẽ là 5,17đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Chắc đây mới chính là điều mà các sách Kinh Điển thường nói : "Dụng thần rất sợ bị khắc". Bởi vì ngoài trường hợp này thì điểm hạn của dụng thần bị khắc cũng chỉ như các can hỷ hay kỵ thần khác bị khắc (trừ điểm can động của hỷ dụng thần và kỵ thần thì tùy theo vị trí khác nhau của chúng có thể có các điểm hạn âm dương khác nhau).

VULONG
21-11-13, 16:36
Vì diễn đạt không rõ nghĩa nên tôi xin sửa lại đoạn viết như sau:

Bài 24: Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng

…………………………..
B - Tính lại điểm vượng trong vùng tâm

Cách tính lại các điểm vượng trong vùng tâm là lấy chính điểm vượng trong vùng tâm của các can hay các chi này từ khi mới sinh (điểm vượng này được tính từ khi mới sinh nên chúng không bao giờ thay đổi). Do vậy nếu 1 can hay 1 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của can hay chi này thì hành của hóa cục đó được thêm số điểm của các can hay chi này còn hành của các can hay chi này bị giảm đi số điểm như vậy. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành thay đổi, vì vậy dụng thần hay điểm hạn của các hành trong vùng tâm có thể thay đổi. Đối với các sách cổ về mệnh học thì dụng thần thay đổi là phần khó nhất, nhưng với phương pháp này thì nó không phải là quá khó.

1B - Điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại trong các trường hợp sau :
1/(10;35;86;206) - Nếu có ít nhất 1 can trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục. Khi đó các can chi động trong tứ trụ được tính như bình thường và các điểm vượng ở lưu niên của các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục cũng được tính vào trong vùng tâm, nhưng các điểm vượng ở lưu niên của các chi ở tuế vận hợp với các chi trong tứ trụ hóa cục không được tính vào trong vùng tâm.
…………………………………

Xin sửa lại là:

Bài 24: Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng

……………………
B - Tính lại điểm vượng trong vùng tâm

Cách tính lại các điểm vượng trong vùng tâm là lấy chính điểm vượng trong vùng tâm của các can hay các chi này từ khi mới sinh (điểm vượng này được tính từ khi mới sinh nên chúng không bao giờ thay đổi). Do vậy nếu 1 can hay 1 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của can hay chi này thì hành của hóa cục đó được thêm số điểm của các can hay chi này còn hành của các can hay chi này bị giảm đi số điểm như vậy. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành thay đổi, vì vậy dụng thần hay điểm hạn của các hành trong vùng tâm có thể thay đổi. Đối với các sách cổ về mệnh học thì dụng thần thay đổi là phần khó nhất, nhưng với phương pháp này thì nó không phải là quá khó.

Khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm có 2 bước:
1 – Bước thứ nhất thì các can chi động trong tứ trụ vẫn được tính lại như bình thường và chỉ có điểm vượng của các can ở tuế vận hợp với các can trong Tứ Trụ hóa cục mới được tính vào trong vùng tâm còn các chi ở tuế vận hợp với các chi trong Tứ Trụ hóa cục và các can chi động khác ở tuế vận không được tính vào trong vùng tâm. Các điểm vượng này có thể làm cho điểm hạn của ngũ hành trong vùng tâm thay đổi dẫn đến dụng thần có thể thay đổi.
2 - Bước thứ hai là sau bước thứ nhất thì có thể phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận vào trong vùng tâm nhưng các điểm vượng này không làm cho điểm hạn của các hành trong vùng tâm thay đổi (trừ một số trường hợp ngoại lệ). Các điểm vượng này chỉ có mục đích xác định hành kỵ vượng trong vùng tâm còn hay mất hay mới xuất hiện; điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi hay không….

1B - Điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại trong các trường hợp sau :
1/(10;35;86;206) - Nếu có ít nhất 1 can trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục.
.........................................

VULONG
03-09-17, 14:55
Chủ đề này chính là nội dung "Tuần Thứ Ba" của cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi.