PDA

View Full Version : Hành Lang Thanh Nang Áo Ngữ Đồ Giải



vantinh1983
14-11-12, 12:38
cảm ơn anh Nam Phong đã đưa những tài liệu quý giá cho ACE trong diễn đàn học hỏi.
mong anh tiết tục.

hoachithanh
14-11-12, 13:54
Cảm ơn anh Nam Phong. Xin up bài anh lên trang đầu cho mọi người biết để theo dõi.

sonthuy
14-11-12, 22:36
Rất cảm ơn anh NamPhong đã chia sẻ kiến thức đỉnh cao của Phong thủy cho diễn đàn.
Chúc anh NamPhong cùng gia đình Vui vẻ Hạnh Phúc.
ST

vhlacviet
15-11-12, 12:54
Rất cảm ơn anh Nam Phong đã chia xẻ những kiến thức vô cùng quý báu.
Chúc Anh vạn sự an lành !

conan135
15-11-12, 17:30
Huynh Namphong đúng là cao thâm, kết hợp cả tiên hậu thiên giao hợp pháp lẫn lưỡng thiên xích thuận nghịch hành để giải Khôn Nhâm Ất, tiểu sinh vẫn luôn tin "tòng đầu xuất" trong Khôn Nhâm Ất là chìa khoá khởi tinh nay đã rõ, nói tòng đầu xuất tức là đối hướng mà tính chứ không phải Cự Môn xuất đầu hướng vậy thì đã thạo thành thể nhất quán với 3 câu kia

VinhL
15-11-12, 22:06
Huynh Namphong đúng là cao thâm, kết hợp cả tiên hậu thiên giao hợp pháp lẫn lưỡng thiên xích thuận nghịch hành để giải Khôn Nhâm Ất, tiểu sinh vẫn luôn tin "tòng đầu xuất" trong Khôn Nhâm Ất là chìa khoá khởi tinh nay đã rõ, nói tòng đầu xuất tức là đối hướng mà tính chứ không phải Cự Môn xuất đầu hướng vậy thì đã thạo thành thể nhất quán với 3 câu kia

Lão Đế,
Kết hợp luôn Tam Hợp thật hay nhỉ!!!
Đang chờ 3 câu tiếp!
Thanks

Lão Barba,
Lão hiểu rồi thì thử bày Tốn Thìn Hợi xem?
Hihihihihihihi

conan135
15-11-12, 22:50
Lão Đế,
Kết hợp luôn Tam Hợp thật hay nhỉ!!!
Đang chờ 3 câu tiếp!
Thanks

Lão Barba,
Lão hiểu rồi thì thử bày Tốn Thìn Hợi xem?
Hihihihihihihi

Lão cứ làm khó tiểu sinh hoài, lão tinh thông kỳ môn thì giải luôn cái thằng Tốn 5 luôn đi

VinhL
15-11-12, 23:19
Lão cứ làm khó tiểu sinh hoài, lão tinh thông kỳ môn thì giải luôn cái thằng Tốn 5 luôn đi

Xin phép lão Đế cái nhé, có gì sơ xót lão chỉ điểm cho tiểu sinh nhé.
Tốn Thìn Hợi Vũ Khúc.
Phi Thuận
6422944
6000002
3007009
5007009
5005007
8000008
1113368

Phi Nghịch
6811388
6000001
9005003
7005003
7007005
4000004
2229964

Hihihihihihihihihi

conan135
16-11-12, 07:17
Xin phép lão Đế cái nhé, có gì sơ xót lão chỉ điểm cho tiểu sinh nhé.
Tốn Thìn Hợi Vũ Khúc.
Phi Thuận
6422944
6000002
3007009
5007009
5005007
8000008
1113368

Phi Nghịch
6811388
6000001
9005003
7005003
7007005
4000004
2229964

Hihihihihihihihihi

lão đi nghịch tinh nhưng không nghịch cung à ? thôi mỗi người mỗi ý nếu phi theo cách của ông Namphong thì không thể có hai tinh bằng số nhau trong cùng một cung. Hạ hồi phân chia

hoachithanh
16-11-12, 10:00
Em xin đặt gạch hóng hớt tới phần Đại quái xuất hiện ạ. Em cố thử theo cách bài bác NP (các bác đừng cười em nha, vì có khi không đúng) thử giải bài thìn tốn hợi theo mẫu Khôn Nhâm Ất thấy Tốn 77, Thìn được 66, hợi 63. Tốn Thìn Hợi, tận thị Vũ Khúc vị. Vậy câu Tận thị Vũ khúc vị phải đợi bác NP luận giải.

Em thử làm theo cách này: Tốn tại Hậu thiên, Trong Tiên Thiên thì Tốn Chấn đối giao. Khởi 2 (âm) tại Sửu...Nghịch hành theo Lường thiên xích....Sau khi hoàn tất 3 quẻ thì ứng với Tốn Thìn Hợi là 766.

Trong thông căn Liên thành thì Sửu (âm) thông căn với Canh (Dương) nên khởi 7 tại Canh thuận hành. Thì cuối cùng được kết quả như trên: 77, 66, 63 (vì cụ Conan đã nói phi theo cách này thì không thể có 2 số trong một cung để luận như Khôn Nhâm Ất). Xin đừng ném đá em nha, nếu sai.

Em thấy các bác Quản trị có nên lập hành lang để cho bọn hậu bối chúng em đặt câu hỏi trao đổi làm hiểu thêm chút nào hay chút đó có được không ạ. Chứ hỏi ở đây thật áy náy sợ loãng mất các ý tưởng của Cụ NP.

hoachithanh
16-11-12, 11:41
Em lại sai rồi, may các bác không nỡ ném đá em. Vậy luôn khởi đầu bằng 1 (Tham Lang)

Em thấy hình vuông thứ 2 đã bắt đầu xuất hiện rồi. Giống như người ngủ mê bao năm nay thấy hết cao thủ này đễn cao thủ khác xuất hiện. HKLS.COM hấp dẫn người ta còn hơn cả truyện Kim Dung.

http://i40.servimg.com/u/f40/11/70/80/38/00123.png

conan135
16-11-12, 11:53
Xin phép lão Đế cái nhé, có gì sơ xót lão chỉ điểm cho tiểu sinh nhé.
Tốn Thìn Hợi Vũ Khúc.
Phi Thuận
6422944
6000002
3007009
5007009
5005007
8000008
1113368

Phi Nghịch
6811388
6000001
9005003
7005003
7007005
4000004
2229964

Hihihihihihihihihi

Tốn ở đây là sao 5 bay tới Vinh lão à, 5 kí tốn 4, 5 kí vũ 6 như vậy là trung nguyên kí thượng hạ nguyên tiếp nối 2 câu trên, đúng là cổ nhân lập thuyết đầy đủ chỉ hậu nhân không hiểu mà thôi.

hoachithanh
16-11-12, 18:40
Tốn ở đây là sao 5 bay tới Vinh lão à, 5 kí tốn 4, 5 kí vũ 6 như vậy là trung nguyên kí thượng hạ nguyên tiếp nối 2 câu trên, đúng là cổ nhân lập thuyết đầy đủ chỉ hậu nhân không hiểu mà thôi.

Cụ Conan ơi, như vậy là Tốn có sao 5 bay tới, thì sao 5 nó có thể là cư tại 4 (Thượng nguyên) hoặc 6 (Hạ nguyên). Như vậy là có thể luận nửa sau là 6 vì vậy nó đã đúng với câu quyết. Thìn Tốn Hợi đều có tinh 6 đắc tới. Vậy còn trường hợp cư tại 4 (Thượng nguyên) thì luận sao cho đúng và hợp lý ạ?
Mong 2 cụ vén cho em một chút. Đợi cụ Nam Đế mà đói rủn cả chân tay, phím F5 của em gần mòn hết cả. Hồi hộp quá, cho em xin một chút thịt nguội để đỡ đói lòng, mà còn sống được tới trưa mai, đặng ăn tiệc cụ Đế chiêu đãi ạ.

Up, Up ủng hộ cho 3 cụ, không biết cụ Hoàng Lão tà đi đâu mà chẳng thấy, nhớ cụ ấy ghê. Chỉ điểm cho em biết được sai số độ toàn cầu (độ từ thiên) rồi mất tích luôn. Có cụ ấy thì có lẽ quần hùng sẽ được chiêm ngưỡng nhiều hơn nữa.

conan135
16-11-12, 20:33
Cụ Conan ơi, như vậy là Tốn có sao 5 bay tới, thì sao 5 nó có thể là cư tại 4 (Thượng nguyên) hoặc 6 (Hạ nguyên). Như vậy là có thể luận nửa sau là 6 vì vậy nó đã đúng với câu quyết. Thìn Tốn Hợi đều có tinh 6 đắc tới. Vậy còn trường hợp cư tại 4 (Thượng nguyên) thì luận sao cho đúng và hợp lý ạ?
Mong 2 cụ vén cho em một chút. Đợi cụ Nam Đế mà đói rủn cả chân tay, phím F5 của em gần mòn hết cả. Hồi hộp quá, cho em xin một chút thịt nguội để đỡ đói lòng, mà còn sống được tới trưa mai, đặng ăn tiệc cụ Đế chiêu đãi ạ.

Up, Up ủng hộ cho 3 cụ, không biết cụ Hoàng Lão tà đi đâu mà chẳng thấy, nhớ cụ ấy ghê. Chỉ điểm cho em biết được sai số độ toàn cầu (độ từ thiên) rồi mất tích luôn. Có cụ ấy thì có lẽ quần hùng sẽ được chiêm ngưỡng nhiều hơn nữa.

Tốn Thìn Hợi 3 sơn nhưng chỉ nằm tại 2 cung, tốn thìn đều nằm ở cung 4, chỉ Hợi nằm ở cung 6 nên cho Tốn 5 dù không có 6 bay tới cũng gọp chung với Vũ khúc 6 ý là nói Tốn đại diện cho 5 và chia đều cho 4 và 6 vậy(tốn vừa nằm ở 4 lại vừa nói ở 6 chia đều cho hai cung cũng như Khôn Nhâm Ất 1 2 3 Cấn Bính Tân 7 8 9, 3 sơn 3 cung thượng hạ nguyên) , tạm thời tiểu sinh biết vậy chờ bác Namphong lý giải thôi

ĐôngPhong
16-11-12, 23:09
cám ơn nam phong đã viết bài rất có ích

vantinh1983
17-11-12, 08:33
các bác cho em hỏi tại sao (càn và tuất, cấn và khôn) thông căn không?

hoachithanh
17-11-12, 08:49
các bác cho em hỏi tại sao (càn và tuất, cấn và khôn) thông căn không?
Ô bác đã vào được phòng thảo luận mà chưa đọc bài của cụ Conan a? Không phải là Quái Càn mà là Sơn Bính thông căn với Sơn Tuất.
Vào đây tìm hiểu vậy (http://huyenkhonglyso.com/showthread.php?t=3436)

d5nguyenvan
17-11-12, 09:28
CHào anh Thanh,

EM click vào link của anh cho nó đòi password là sao anh?

THân ái,

hoachithanh
17-11-12, 12:12
CHào anh Thanh,

EM click vào link của anh cho nó đòi password là sao anh?

THân ái,

Bác vào đây đọc hết phần này rồi trả lời các câu hỏi theo hướng dẫn của anh Văn Hoài. Nếu cố gắng trả lời thì bác sẽ được các bác quản trị cấp pass vào phòng thảo luận ạ, em chỉ biết đến vậy:

http://huyenkhonglyso.com/showthread.php?t=3284 (http://huyenkhonglyso.com/showthread.php?t=3284)

VinhL
17-11-12, 14:16
Cái bản Tiên Hậu Thiên hợp 9 tinh đồ của lão Đế, tiểu sinh tìm thấy nó trong quyển "Tam Nguyên Bí Bổn - Địa Lý Học Nhân Hiếu Tất Đọc"!!!

Vậy không biết lão Đế có đọc qua quyển đó không nhỉ?

vantinh1983
17-11-12, 16:00
cản ơn bác Hoàng Chí Thành.

conan135
18-11-12, 20:06
Cái phép ai tinh mới cho Liên Thành phái nó tương tự như phép kinh tứ cách bát tìm phụ mẫu thông căn quái không biết huynh Namphong có ý kiến gì giải thích thêm không vì kinh tứ cách bát có hai chiều thuận và nghịch để thông căn sơn và thông căn thuỷ (bàng cấu) ?

namphong
20-11-12, 09:31
VinhL: Cái bản Tiên Hậu Thiên hợp 9 tinh đồ của lão Đế, tiểu sinh tìm thấy nó trong quyển "Tam Nguyên Bí Bổn - Địa Lý Học Nhân Hiếu Tất Đọc"!!!
Vậy không biết lão Đế có đọc qua quyển đó không nhỉ?

Quyển này Nam Phong chưa đọc, đồ hình này Nam Phong giải từ Ai tinh đại giao cấu của Nguyên không pháp giám, tuy nhiên ngay cả quyển Nguyên không pháp giám cũng có mấy cái chưa ổn :003:

Conan: Cái phép ai tinh mới cho Liên Thành phái nó tương tự như phép kinh tứ cách bát tìm phụ mẫu thông căn quái không biết huynh Namphong có ý kiến gì giải thích thêm không vì kinh tứ cách bát có hai chiều thuận và nghịch để thông căn sơn và thông căn thuỷ (bàng cấu) ?


Thông căn quyết Sơn và Thủy của Liên thành với kinh tứ vị khởi phụ mẫu liên quan nhau chứ không phải là một. Kinh tứ vị khởi phụ mẫu tức là 24 sơn, 8 sơn Địa nguyên đều cách nhau 4 vị, 8 sơn Thiên nguyên đều cách nhau 4 vị, 8 sơn Nhân nguyên đều cách nhau 4 vị. Dùng Địa nguyên thì Giáp Canh Nhâm Bính là phụ, Thìn Tuất Sửu Mùi là mẫu, 16 sơn còn lại là huynh đệ tử tôn. Dùng Thiên nguyên thì Tý Ngọ Mão Dậu là phụ, Càn Khôn Cấn Tốn là mẫu, 16 sơn còn lại là huynh đệ tử tôn. Dùng Nhân nguyên thì Ất Tân Đinh Quý là phụ, Dần Thân Tị Hợi là mẫu, 16 sơn còn lại là huynh đệ tử tôn.
Thông căn quyết của Liên Thành trước nay vẫn dùng cách ai tinh trên 8 quái và trung cung mà thôi, tuy nhiên trong sách của phái này các đồ hình có hé lộ đầu mối ai tinh 24 sơn như cách Nam Phong trình bài.

Mấy hôm nay máy tính bị sự cố mất nhiều dữ liệu, Nam Phong đang cố gắng khôi phục, vài hôm nữa mới viết tiếp được.

conan135
20-11-12, 09:39
VinhL: Cái bản Tiên Hậu Thiên hợp 9 tinh đồ của lão Đế, tiểu sinh tìm thấy nó trong quyển "Tam Nguyên Bí Bổn - Địa Lý Học Nhân Hiếu Tất Đọc"!!!
Vậy không biết lão Đế có đọc qua quyển đó không nhỉ?

Quyển này Nam Phong chưa đọc, đồ hình này Nam Phong giải từ Ai tinh đại giao cấu của Nguyên không pháp giám, tuy nhiên ngay cả quyển Nguyên không pháp giám cũng có mấy cái chưa ổn :003:

Conan: Cái phép ai tinh mới cho Liên Thành phái nó tương tự như phép kinh tứ cách bát tìm phụ mẫu thông căn quái không biết huynh Namphong có ý kiến gì giải thích thêm không vì kinh tứ cách bát có hai chiều thuận và nghịch để thông căn sơn và thông căn thuỷ (bàng cấu) ?


Thông căn quyết Sơn và Thủy của Liên thành với kinh tứ vị khởi phụ mẫu liên quan nhau chứ không phải là một. Kinh tứ vị khởi phụ mẫu tức là 24 sơn, 8 sơn Địa nguyên đều cách nhau 4 vị, 8 sơn Thiên nguyên đều cách nhau 4 vị, 8 sơn Nhân nguyên đều cách nhau 4 vị. Dùng Địa nguyên thì Giáp Canh Nhâm Bính là phụ, Thìn Tuất Sửu Mùi là mẫu, 16 sơn còn lại là huynh đệ tử tôn. Dùng Thiên nguyên thì Tý Ngọ Mão Dậu là phụ, Càn Khôn Cấn Tốn là mẫu, 16 sơn còn lại là huynh đệ tử tôn. Dùng Nhân nguyên thì Ất Tân Đinh Quý là phụ, Dần Thân Tị Hợi là mẫu, 16 sơn còn lại là huynh đệ tử tôn.
Thông căn quyết của Liên Thành trước nay vẫn dùng cách ai tinh trên 8 quái và trung cung mà thôi, tuy nhiên trong sách của phái này các đồ hình có hé lộ đầu mối ai tinh 24 sơn như cách Nam Phong trình bài.

Mấy hôm nay máy tính bị sự cố mất nhiều dữ liệu, Nam Phong đang cố gắng khôi phục, vài hôm nữa mới viết tiếp được.
Tại tiểu sinh đọc được tài liệu nói rằng sở dĩ có thông căn quyết là nhờ phép kinh tứ cách bát, kinh tứ chính là bàng cấu hợp 5 hợp 15 cách bát tức là trải qua 8 sơn, ví dụ như Nhâm sơn nằm ở 1 thì kinh tứ tức sẽ có thông căn tại cung 4, Nhâm là địa nguyên nên dùng Thìn từ Thìn khởi 4 đi nghịch, Thìn 4 Ất 5 Mão 6 Giáp 7 Dần 8 Sửu 9 Cấn 1 Quý 2 Tý 3 Nhâm 4 gặp lại thìn 4 cho nên Thìn và Nhâm thông căn sơn, thấy nó cũng tương tự như phép ai tinh mới cho Liên Thành của huynh, tuy nhiên cách kinh tứ cách bát chỉ giải thích cho nguyên tắc thông căn chư không phải ứng dụng vào việc đoán nghiệm sơn thuỷ nên tiểu sinh mới có thắc mắc này.

hoachithanh
22-11-12, 17:47
Thìn Tốn Tỵ thật là một trường hợp đặc biệt của đặc biệt. Chia làm 2 nửa. Nửa đầu thuận, nửa sau nghịch quả thật không ai ngờ.

Khi đào được bức tượng này (Thần Vệ nữ) (http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C6%B0%E1%BB%A3ng_th%E1%BA%A7n_V%E1%BB%87_N%E1%BB %AF). Người ta đã tổ chức thi khôi phục lại hai tay cho bức tượng. Đã biết bao nhiêu thế tay đã được ráp vào... Nhưng không thành công. Vì bất cứ thế tay nào lắp vào cũng làm phá đi nét đẹp tuyệt vời của nó. Vì vậy bức tượng từ đó tới nay dù gọi là Thần Vệ Nữ (Sắc đẹp) nhưng vẫn chịu cảnh cụt hai tay, và nửa bàn chân trái...


http://i40.servimg.com/u/f40/11/70/80/38/120px-11.jpg

May thay Thanh nang Áo ngữ xem ra không chịu chung số phận như vậy...
Các bác thử xem nếu bức tượng này mà khi đào lên nếu cụt hai tay thì liệu có ai nghĩ ra được hai thế tay khác thường này không, ngoại trừ chính tác giả của nó...


http://i40.servimg.com/u/f40/11/70/80/38/07_taa10.jpg

conan135
22-11-12, 18:09
Huynh Namphong: Thuộc Nguyên thuận ai, xuất nguyên nghịch ai, vậy có phải như câu Nhị thập tứ sơn song song khởi, khi vận dụng thì Long thuận nguyên bày thuận, thuỷ khẩu xuất nguyên bài nghịch hoặc ngược lại vì Long và thuỷ khẩu đối nhau như câu Giang Nam lai long Giang Bắc vọng ?
Giải thích cả 3 câu đầu là dùng cho 3 sơn Khôn Cấn Tốn đều là tứ duy sơn, vậy can chi sơn đi kèm với 3 duy sơn kia như Khôn sơn thì Mùi Thân đều đựa vào đối của Tiên thiên Khôn là Càn khởi tinh hay sao ? Riêng câu Giáp Quý Thân chắc là cách khởi cho tứ chính sơn để nghe huynh chỉ dạy vậy.

conan135
24-11-12, 11:50
Xin hỏi huynh Namphong là nguyên ở đây căn cứ vào đâu để biết đương nguyên hay xuất nguyên ?

haidang
25-11-12, 00:04
Đọc sách thường có câu cuối đại ý nói rằng: "Chớ tự cho mình là thông minh, để phá giải quyết.... chỉ có được sư chân truyền, nếu không chỉ có chuốt họa vào thân". Quả thật là không đơn giải .... Để nghiệm chứng phân biệt khẩu quyết cũng là một vấn đề khó phân biệt rồi....
Vài lời tảng mạng .... mong mọi người thông cảm, chớ tin các dòng linh tin này.

VinhL
25-11-12, 01:10
Đọc sách thường có câu cuối đại ý nói rằng: "Chớ tự cho mình là thông minh, để phá giải quyết.... chỉ có được sư chân truyền, nếu không chỉ có chuốt họa vào thân". Quả thật là không đơn giải .... Để nghiệm chứng phân biệt khẩu quyết cũng là một vấn đề khó phân biệt rồi....
Vài lời tảng mạng .... mong mọi người thông cảm, chớ tin các dòng linh tin này.

Đó chính là sự suy nghỉ cổ lổ xỉ lạc hậu của xã hội Phong Kiến, lấy nó làm tôn chỉ để cầu tiền thì thật là sở đoản. Nhìn nơi Phương Tây mà học cái phương pháp, không có gì là bí mật mãi dưới muôn ngàn bộ óc suy nghỉ tìm tòi nghiên cứu khám phá!
Tất cả các nguyên lý đều phải được phơi bày để được kiểm nghiệm.
Muốn phát triển thì phải phơi bày, để mọi người chỉ trích, tìm ra cái sai, cái sơ sót, cái không hợp lý, thu lượm để mà cãi tạo, sửa đổi, để hoành chỉnh, đó chính là phương pháp để đi tới Chân Lý!!!

Nếu mà cái câu "Không Thầy Đố Mầy Làm Nên" mà áp dụng thì làm gì xã hội lại xuất ra các tên tuổi Newton, Enstein, Sigmund Freud, Carl Jung, vv.....

d5nguyenvan
25-11-12, 01:18
Anh Vinh nói chí phải, lĩnh vực nào cũng vậy. Điều quan trọng không phải ở đây ai nghĩ mình là thông minh hay không mà chính là chia sẽ kiến thức mà mình thâu lượm được để mọi người cùng nhau khám phá cái kho tàng tri thức. Sở học là vô tận nhưng nếu không chia sẽ thì suốt đời có ai khám phá được.

Nhìn cách học của những người phương tây, họ học theo phương thức lớp sau đứng trên tri thức mà lớp trước đã khám phá để tiếp tục hướng đến chân lý. Còn ở Phương Đông chúng ta nói chung và ngay tại Việt Nam chúng ta nói riêng thì lớp sau cứ tiếp tục cày bới cái lớp trước đã khám phá vì cái sự gọi là "không sẻ chia" đó. Nên thiết nghĩ rằng, mọi người nên chia sẽ kiến thức của mình để chúng ta ngày càng khám phá được nhiều hơn.

VP
25-11-12, 08:18
Đọc sách thường có câu cuối đại ý nói rằng: "Chớ tự cho mình là thông minh, để phá giải quyết.... chỉ có được sư chân truyền, nếu không chỉ có chuốt họa vào thân". Quả thật là không đơn giải .... Để nghiệm chứng phân biệt khẩu quyết cũng là một vấn đề khó phân biệt rồi....
Vài lời tảng mạng .... mong mọi người thông cảm, chớ tin các dòng linh tin này.

Kính Tiền bối!
VP thắc mắc là tiền nhân viết sách để lại làm gì. Liệu đó có phải là tự chuốc họa cho mình, đổ họa cho người, gieo họa khắp nơi không? Hay để hậu nhân phân biệt nước trong mà lành để uống. Cho dù có phơi bày hết chân pháp thì các thày địa lý ko sợ thất nghiệp đâu. Mặt khác nó lại giúp hành nghề đúng với chân pháp, vô tình mà tích đức. Các tiền nhân biết được cũng cười tươi nơi chín suối vậy.
Chúc các Tiền bối mạnh khỏe để tiếp trục truyền pháp.

namphong
25-11-12, 10:30
Connan:
Nguyên có 2 nghĩa, như vận 8 này là đương nguyên và hạ nguyên cũng là đương nguyên; dương trạch trọng vận 8, âm trạch trọng cả hạ nguyên 6789.

Các bạn:
Đây mới chỉ là mở đầu Áo ngữ và cũng chưa phải phần quan trọng nhất, cái quan trọng nhất là "Thừa sinh khí", đây mới là phần khó và rất ít người có thể hiểu.

hoachithanh
25-11-12, 10:37
Connan:
Nguyên có 2 nghĩa, như vận 8 này là đương nguyên và hạ nguyên cũng là đương nguyên; dương trạch trọng vận 8, âm trạch trọng cả hạ nguyên 6789.

Các bạn:
Đây mới chỉ là mở đầu Áo ngữ và cũng chưa phải phần quan trọng nhất, cái quan trọng nhất là "Thừa sinh khí", đây mới là phần khó và rất ít người có thể hiểu.

Em lại lót gạch nghe tiếp bài của bác. 55 câu quyết, chỉ mới được có 4 câu thì thật quá ít ỏi... Nhưng thật sự đã gây được mối quan tâm của nhiều người...

hieunv74
29-11-12, 09:22
Vòng ngoài cùng là Tam hợp, Thủy cục trường sinh khởi tại Khôn Thân thuận bài, Mộc dục tại Canh Dậu, Quan đới tại Tân Tuất, Lâm quan tại Càn Hợi, Đế vượng tại Nhâm Tý, Suy tại Quý Sửu, Bệnh tại Cấn Dần, Tử tại Giáp Mão, Mộ tại Ất Thìn, Tuyệt tại Tốn Tị, Thai tại Bính Ngọ, Dưỡng tại Đinh Mùi. Sinh-Vượng-Mộ của Thủy cục đều tại Khôn Nhâm Ất, Tam hợp phân kim dùng lệch 2-3 độ thực để kiêm dùng lấy cái chân của Ai tinh, thủy cục kiêm dùng lấy Tham lang cát tinh. Tam hợp hiện nay dùng căn cứ thủy tả toàn là dương hữu toàn là âm mà khởi Trường sinh, theo hậu thiên mà luận ngũ hành của cục, đều là nằm mộng mà chưa hiểu được Ai tinh, chẳng trách sao Tưởng Công bài Tam hợp, đó là ngụy Tam hợp mà thôi.

Cổ quyết viết “Hậu thiên lai long Tiên thiên hướng”, ý nghĩa câu này rất cao thâm, đồ trên Khôn long(hậu thiên), Khôn hướng(tiên thiên), Khôn thủy(Ất tại Chấn hậu thiên, Chấn tiên thiên nhập Khôn hậu thiên). Long-Hướng-Thủy đều định tại Cự môn, Khôn long kiêm dùng Thân tức Cự môn kiêm dùng Tham lang, hướng Nhâm kiêm dùng Tý cũng là Cự môn kiêm dùng Tham lang. Cự môn vốn chủ phú quý lâu dài nên:
“Khôn sơn Khôn hướng Khôn thủy lưu, phú quý vĩnh vô hưu”
“Phong tủng Càn cung Ất thủy khứ
Khôn long Nhâm hướng phúc đa tài”



Kong fu của lão Nam Phong đúng là cao thâm khó lường thật! Đa tạ đa tạ lão chỉ điểm không thì khó mà ngộ được!

Các Lão ơi, cho đệ hỏi 1 tí tí nhé: Nếu tổng hợp cả Ai tinh, cả thông căn -OK nhưng cho vòng trường sinh vào đây thì ở: Khôn Nhâm Ất: thủy tại Ất/thìn là phương mộ khố thì thu thủy thì không được vì suy khí, thế có phải phương Ất/thìn là thủy khứ không?

Cám ơn các lão :5887:

conan135
29-11-12, 09:50
Nó là mộ nhưng không phải là mộ, vòng mộ đó là của long chứ không phải của thuỷ, có long hợp cách với thuỷ mà cũng có long không hợp cách với thuỷ, long hợp với thuỷ thì là chân địa cục, long không hợp thuỷ thì là giả cục tạp cục, nhưng nếu hình thế tốt thì có thể thu ngoại khí để tạm phát sau đó tìm ngôi khác mà táng thêm nên gọi là thừa sinh khí.

VinhL
29-11-12, 14:35
Nó là mộ nhưng không phải là mộ, vòng mộ đó là của long chứ không phải của thuỷ, có long hợp cách với thuỷ mà cũng có long không hợp cách với thuỷ, long hợp với thuỷ thì là chân địa cục, long không hợp thuỷ thì là giả cục tạp cục, nhưng nếu hình thế tốt thì có thể thu ngoại khí để tạm phát sau đó tìm ngôi khác mà táng thêm nên gọi là thừa sinh khí.

Lão Barbarian,
Lão hiểu chử thừa như thế nào trong câu
Khí thừa phong tắc tản, giới thủy tắc chỉ
??????

conan135
29-11-12, 17:57
Lão Barbarian,
Lão hiểu chử thừa như thế nào trong câu
Khí thừa phong tắc tản, giới thủy tắc chỉ
??????

gió mạnh làm khí tản mát, thuỷ làm khí tụ lại, hai câu này chính là ứng dụng cho cái hồ cá đó. Thừa sinh khí là hoặc thu được cả khí long mạch khí giới thuỷ hoặc chỉ thu được khí long hoặc chỉ thu được khí thuỷ, khí thuỷ là khí trong không gian khí long mạch chính là những đường đứt gãy của địa cầu vậy.

VinhL
29-11-12, 21:49
gió mạnh làm khí tản mát, thuỷ làm khí tụ lại, hai câu này chính là ứng dụng cho cái hồ cá đó. Thừa sinh khí là hoặc thu được cả khí long mạch khí giới thuỷ hoặc chỉ thu được khí long hoặc chỉ thu được khí thuỷ, khí thuỷ là khí trong không gian khí long mạch chính là những đường đứt gãy của địa cầu vậy.

Theo tiểu sinh hiểu thì thừa ở đây là tương thừa.
Ngũ hành có Tương Thừa Tương Vũ. Kim khắc Mộc ở thế quân bình thì Kim điều hành, quản lý Mộc, nếu Kim quá mạnh thì sẻ làm Mộc hư. Đó là Kim Thừa Mộc Thái Quá. Nếu ngược lại hành Mộc quá yếu so sánh với sử tương khắc ở trạng thái quân bình, thì Mộc củng bị hư, đó là Kim Thừa Mộc Bất Cập.
Nếu Mộc quá mạnh thì Kim khắc Mộc không nổi, mà ngược lại tổn hại mình đó là Mộc Vũ Kim Thái Quá. Nếu ngược lại Kim quá yếu không khắc nổi Mộc đó là Mộc Vũ Kim mà do Bất Cập.

Táng thư nói, Khí thừa Phong tắc Tản. Như vậy cho thấy cái ẩn ý trọng sự quân bình, nếu khí quá nhiều, hoặc phong quá ít, thì khí sẻ tản hoặc không tụ. Nếu hiểu là Khí gặp gió sẻ tản thì hoàn toàn hiểu lầm vấn đề. Hiểu như vậy sẻ dẫn đến sự loại bỏ một yếu tố quan trọng của Phong Thủy, tức là không cần đến Phong. Nếu như vậy sao mộ huyệt không làm thành như cái hộp thì khỏi sợ Phong nửa nhỉ???
Xem các mộ xưa, chúng ta đều thấy có hình dáng như âm hộ, bia dựng cao, hai cánh uốn vòng bao bọc, cao rồi thấp dần. Đó chính là tạo thành cái thế làm cho gió xoáy nhẹ. Các bạn thử để ý các nơi có hai vách, thường vào mùa thu, gió xoáy cuốn lá thành ụ. Đó chính là cái nguyên lý của Tụ Khí vậy!!!
Nhìn vào các hình cách cục mộ huyệt trong các sách cổ, đều thấy Huyền Vũ phía sau, hai tay long hổ uốn , đó chính là hình thế tạo thành vòng gió xoáy nhẹ, để tụ khí phía trước minh đường chu tước. Gió gặp núi sẻ đi hoành qua sườn mà uốn vào hai bên, từ trên dóc nhẹ xuống trước, đêm khí đến minh đường hai tay long hổ sẻ uốn gió thành những cơn xoáy nhẹ, để tụ khí. Chổ táng thì cất thành hình như âm hộ củng có hai cánh uốn vào. Hình tượng củng y như con người, mang thai tại cái bụng phía trên âm hộ, trên bụng là phổi ruột bao tử, cung cấp khí và thức ăn dinh dưỡng, tả hữu là hai cánh tay bảo vệ.

Vạn vật trong thiên nhiên đều cần gió, nhờ nó điều hòa thiên khí, đêm khí ấm đến chổ lạnh. Cây cỏ hoa lá đều cần gió, mang nhụy hoa đi khắp nơi để reo hạt, kết quả, để mang thải khí đi. Âm trạch cần nó để mà tụ khí, dương trạch nhà ở cần nó để mang dưỡng khí vào nhà, mà thãi đi uế khí. Cái chổ trọng yếu đó là ở sự quân bình. Tàng phong không phải là tránh gió, không cần gió, mà giữ gió, để nó tụ khí. Làm sao tụ? Tạo thành hình thế để gió xoáy (như gió mùa thu cuộn lá thành ụ, một nguyên lý của Phong Thủy từ trong thiên nhiên!!! Hihihihihihi).

Địa khí hành tàng phía dưới, cần Thiên khí đến để âm dương tương giao mà kết huyệt, không nhờ gió thì thiên khí lấy gì để hành? Không có gió thì lấy gì để đưa mây đi khắp nơi, đêm mưa tưới lên vạn vật, để nước tụ thành sông ngòi??? (mà máy bay lấy gì để bay nếu không nhờ gió nâng cánh lên???)

Trên trái đất, thì đâu đâu củng có phong, nếu nói không cần phong thì đó chính là sự tạo tác đi ngược lại với thiên nhiên rồi vậy, và hoàn toàn hiểu sai các yếu tố trong Phong Thủy.

Gió lên đi cho quân ta mau khô!
Hihihihihihihihihihì

conan135
29-11-12, 22:18
Gió xoáy trong huyệt như thế nào thì tiểu sinh không biết, nhưng chắc chắn huyệt phải tàng phong, đứng trong huyệt chắc chắn sẽ không có cảm giác bị gió từ bốn phương tám hướng thổi vào, nên phương nào bị gió thổi thông vào thì gây hoạ vậy. Gió đưa khí di chuyển đó là điều hiển nhiên, cũng như nước cản gió tạo thành sóng, gió mạnh sẽ gây sóng dữ, gió nhẹ sẽ lăn tăn gợn sóng, gió mạnh thì tán khí, gió nhẹ thì tụ khí, nước lớn thì cản khí lớn, nước nhỏ thì cản khí nhỏ. Nhưng cái này là ngoại khí, còn long mạch tự chứa nội khí, ngoại khí chóng phát chóng tàn củng bởi gió mà ra vậy.

kolname
29-11-12, 22:32
Khôn hậu thiên,(Có phải anh đang nói đến Cự Môn không ạ?)

Tiên thiên Khôn Càn đối giao( xem Tiên Hậu thiên hợp 9 tinh đồ). Phương vị tại Hậu thiên, Lý tại Tiên thiên, khởi Tham lang tại Càn Tiên thiên, Càn dương thuận bài 3 quẻ Địa Thiên Nhân.

Điều này dùng tiên thiên lý luận để khởi ai tinh OK



dụng phương vị Hậu thiên là quẻ Ly-Bính Ngọ Đinh, từ Bính khởi Tham lang 1 thuận bài, Cự môn 2 tại Nhâm, Lộc tồn 3 tại Mùi, Văn khúc 4 tại Giáp, Liêm trinh 5 tại Thìn, Vũ khúc 6 nhập trung cung, Phá quân 7 tại Tuất, Tả phụ 8 tại Canh, Hữu bật 9 tại Sửu, hoàn tất quẻ 1.

Hữu bật 9 nối tiếp khởi tại Ngọ, Tham lang 1 tại Tý, Cự môn 2 tại Khôn, Lộc tồn 3 tại Mão, Văn khúc 4 tại Tốn, Liêm trinh 5 nhập trung, Vũ khúc 6 tại Càn, Phá quân 7 tại Đoài, Tả phụ 8 tại Cấn, hoàn tất quẻ 2.

Tả phụ 8 nối tiếp khởi tại Đinh, Hữu bật 9 tại Quý, Tham lang 1 tại Thân, Cự môn 2 tại Ất, Lộc tồn 3 tại Tị, Văn khúc nhập trung, Liêm trinh 5 tại Hợi, Vũ khúc 6 tại Tân, Phá quân 7 tại Dần, hoàn tất quẻ 3.

Trên đây là phi tinh theo Lường thiên Xích(hậu thiên) - OK

Khôn Nhâm Ất đều là Cự môn, lấy đây mà định quái, quán sơn xét thủy theo nguyên vận mà luận cát hung, đây mới là phép Ai tinh chân chính. Phép An tinh của Phi tinh bài 9 tinh trên 9 cung toàn dùng Hậu thiên so với phép này còn cách nhau xa lắm.


Kính anh NP, Anh cho em hỏi nguyên tắc luận cát hung thế nào ạ, Em cảm ơn sự hảo tâm của anh nhiều lắm.

VinhL
30-11-12, 08:12
Lão Nam Đế,
Cho tiểu sinh hỏi,

Tả vi dương, Tý Quý chí Hợi Nhâm
Hữu vi âm, Ngọ Đinh chí Tị Bính.

Như vậy cái ranh giới của Âm Dương phải tại nơi giữa Tý Nhâm và Ngọ Bính, nhưng trong hình của lão lại đặt tại sửu mùi là như thế nào, nhờ lão giải thích giùm. Thanks

namphong
30-11-12, 09:46
Khôn hậu thiên,(Có phải anh đang nói đến Cự Môn không ạ?)

Khôn Nhâm Ất đều là Cự môn, lấy đây mà định quái, quán sơn xét thủy theo nguyên vận mà luận cát hung, đây mới là phép Ai tinh chân chính. Phép An tinh của Phi tinh bài 9 tinh trên 9 cung toàn dùng Hậu thiên so với phép này còn cách nhau xa lắm.


Kính anh NP, Anh cho em hỏi nguyên tắc luận cát hung thế nào ạ, Em cảm ơn sự hảo tâm của anh nhiều lắm.

Kolname:
Khôn hậu thiên tình cờ trùng hợp mà thôi chứ không phải vì nó là Cự môn nên khởi tinh như vậy.
Luận cát hung phải kết hợp Hình-Khí(hình thể và lý khí), nếu chỉ dùng lý khí Ai tinh để luận cát hung thì sai nặng, do vậy Nam Phong mới không đề cập chuyện luận cát hung ở đây, bạn cứ từ từ theo dõi phần sau sẽ có câu trả lời. Áo Ngữ không dễ tiếp nhận vì nó có những cái ngược hoàn toàn với suy nghĩ trước nay của mọi người, do vậy Tằng Công viết Thanh nang tự mới cảm khái mà nói "thiên hạ chư thư đối bất đồng"(không giống với các sách vở trên đời).

namphong
30-11-12, 09:57
Lão Nam Đế,
Cho tiểu sinh hỏi,

Tả vi dương, Tý Quý chí Hợi Nhâm
Hữu vi âm, Ngọ Đinh chí Tị Bính.

Như vậy cái ranh giới của Âm Dương phải tại nơi giữa Tý Nhâm và Ngọ Bính, nhưng trong hình của lão lại đặt tại sửu mùi là như thế nào, nhờ lão giải thích giùm. Thanks

Chào anh VinhL
Ranh giới của âm dương đúng là nơi Tý Ngọ, trong hình lại là Sửu Mùi vì cái quả đất này nó nghiêng như vậy(Nam Phong không bàn sâu việc 22,5 độ và 23,4 độ). Anh xem thử Thái Cực đồ nó cũng ở Sửu Mùi, tuy nhiên Thái Cực đồ vẫn khẳng định bản thể của âm dương ở Tý Ngọ(hai cái chấm nhỏ). Thái cực đồ bên trái là nửa vòng dương, có một chấm nhỏ âm, tượng hình là dương bao bên ngoài âm ở bên trong, trong 8 quẻ bát quái tiên thiên thì đó là Ly(trên hào dương, dưới hào dương, giữa hào âm); bên phải là nửa vòng âm, có một chấm nhỏ dương, tượng hình là âm bao bên ngoài dương ở bên trong, trong 8 quẻ bát quái tiên thiên thì đó là quẻ Khảm(trên dưới hào âm, giữa hào dương). Do vậy đồ hình bên trên sâu xa thực ra là lấy Thái cực đồ giải nghĩa vòng chu thiên của Âm Dương.

VinhL
05-12-12, 21:28
"Minh nguyên không chỉ tại Ngũ hành trung
Tri thử pháp, bất tu tầm nạp giáp"

..........................
Nạp giáp vốn là biến hóa của Thái âm, Thái âm lại chỉ là một trong Thất chính bên trên, cái phép biến hóa của Thái âm do vậy không ra ngoài Thất chính. Nên nếu rõ nguyên không 9 tinh thì đã thâu tóm cả nạp giáp bên trong đó, cần gì phải tìm cầu Nạp giáp nửa. "Tri thử pháp, bất tu tầm nạp giáp" là nói ý này chứ không phải nói Nạp giáp là ngụy pháp.

Lão Đế nói về Nạp Giáp chí phải!!!
Nhiều người cứ nghỉ phép Nạp Giáp là ngụy, nhưng nó chẳng ngụy chút nào bỡi gì nó căn cứ vào cái Mặt Trăng!!!
Sự ảnh hưởng của Mặt Trăng thì quá rõ ràng, thủy triều lên xuống, chu kỳ kinh nguyệt trong phái nữ, vv....

Trãi qua mấy ngàn năm, vật đổi sao dời, tuyệt học bí truyền lại không ai hiểu rỏ để mà sửa đổi, sự liên quan giữa 9 phi tinh và Thất Chính Tứ Dư củng theo đó mà sai sót, đó chính là cái tai hại của những kiến thức mà cổ nhân gọi là Bí Bí Bí để rồi giữ nó Mật Mật Mật. (Nhất là thời Phong Kiến thì dần thường làm gì mà thấy được quyển sách viết về Thiên Văn!)

Như là cái Đẩu Tiêu, giờ đâu còn chỉ vào chi Dần ở đầu tháng Giêng nửa đâu nhỉ ??? (điều này thì có thể dùng trình thiên văn để xem)

quy_co99
05-12-12, 22:58
Nghe nói anh chuẩn bị mở nhà hàng mới hả anh, món ngon Thất chính tứ dư có liên quan gì đến 12 cung hoàng đạo của Phương Tây ko anh??? ai nói gì nói nhưng em phải công nhận là cái tính cách theo cung hoàng đạo sao mà đọc thấy đúng rất nhiều hơn 70% ấy chứ. Em xin đặt gạch ngồi đợi anh :2335:

VinhL
06-12-12, 05:07
Nghe nói anh chuẩn bị mở nhà hàng mới hả anh, món ngon Thất chính tứ dư có liên quan gì đến 12 cung hoàng đạo của Phương Tây ko anh??? ai nói gì nói nhưng em phải công nhận là cái tính cách theo cung hoàng đạo sao mà đọc thấy đúng rất nhiều hơn 70% ấy chứ. Em xin đặt gạch ngồi đợi anh :2335:


Tiểu sinh khâm phục cập nhãn Loan Hình của lão lắm lắm. Giờ phải gọi lão là Loan Nhãn The Barbarian!!! Hihihihihihihihihi
Nếu lão rảnh rỗi, mỡ ra mục Loan Đầu cho anh em học hỏi với nhé.
Nếu được thì tiểu sinh củng mở mục Thất Chính Tứ Dư, Thiên Văn Lịch Pháp, để chúng ta cùng trao đổi nghiên cứu và học hỏi lẫn nhau. Hihihihihihihihihi

Chào bạn Quy_co99,
Cái đó còn tùy vào lão Loan Nhãn kìa.

Hihihihihihihihihihihi

hieunv74
10-12-12, 18:37
Châu bảo Hỏa khanh vốn không lâu dài. Như vậy thì Cục thế Tam nguyên bất bại là sao? có phải người xưa nhầm lẫn mà nói vậy? hoàn toàn không phải vậy, Tam nguyên bất bại cục là phải có sơn thủy bao tầng tầng lớp lớp bên ngoài cả 8 phương, như vậy dù ở vận nào vẫn đắc cách, đương nhiên trong các tầng lớp sơn thủy đó phải có đại sơn, tiểu sơn, đại thủy, tiểu thủy. Ở vận đại sơn đại thủy là đại vượng, ở vận tiểu sơn tiểu thủy là tiểu vượng. Sơn vượng theo khí của sơn, Thủy vượng theo khí của thủy, không hề lẫn lộn.

Khó mà tìm được cách cục Sơn thủy bao tầng tầng lớp lớp; được sơn thì mất thủy, được thủy thì mất sơn --> Các cụ nói:

" Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời"

là có căn cứ chứ bộ. Hihi

conan135
10-12-12, 18:45
Tam nguyên bất bại cục chẳng qua là lời của tục sư để dụ dỗ những gia tộc mong được phát phúc phát phước đời đời, nói được nhưng thầy có sống để mà kiểm chứng lời nói của mình được đâu, nếu có cách lập được cục thế như vậy thì chắc hẳn chẳng có chuyện hoán triều đổi vị rồi. Đất có Địa vận, trời có thiên vận , người có nhân vận , lúc lên lúc xuống sao có thể mãi mãi được.

VinhL
10-12-12, 21:05
Tam nguyên bất bại cục chẳng qua là lời của tục sư để dụ dỗ những gia tộc mong được phát phúc phát phước đời đời, nói được nhưng thầy có sống để mà kiểm chứng lời nói của mình được đâu, nếu có cách lập được cục thế như vậy thì chắc hẳn chẳng có chuyện hoán triều đổi vị rồi. Đất có Địa vận, trời có thiên vận , người có nhân vận , lúc lên lúc xuống sao có thể mãi mãi được.

Thật ra hai chử Bất Bại đâu phải là nói tam nguyên lúc nào củng phát, củng vượng. Bất Bại là khi thất vận thì suy giãm nhưng củng không đến nổi bại liệt hoàn toàn.
Trên đời làm gì có chuyện vượng phát mãi mãi đâu, mặt trời còn có lúc phải tắt nửa mà!!!

Nè lão Loan Nhãn,
Vậy dùng thất tinh đã kiếp, vận nào suy thì đã kiếp nó, vậy có được tam nguyên bất bại hông?

conan135
10-12-12, 21:51
Vậy mà nhiều thầy nói Bất Bại là phát mãi không dứt đấy.
Lão muốn đã kiếp bằng cách nào ? Nói về những cách đoạt khí thì cả ngày cũng không hết, nào là trong huyệt thu khí long, ngoài huyệt thu khí thuỷ, rồi trảm quan tuyệt khí, táng thêm mộ mới cướp khí mộ cũ v.v... Người muốn nhưng trời không muốn thì lão có cướp được không ?

VinhL
10-12-12, 22:49
Vậy mà nhiều thầy nói Bất Bại là phát mãi không dứt đấy.
Lão muốn đã kiếp bằng cách nào ? Nói về những cách đoạt khí thì cả ngày cũng không hết, nào là trong huyệt thu khí long, ngoài huyệt thu khí thuỷ, rồi trảm quan tuyệt khí, táng thêm mộ mới cướp khí mộ cũ v.v... Người muốn nhưng trời không muốn thì lão có cướp được không ?

Lão Barbarian,
Tiểu sinh nói là Thất Tinh tức là chòm sao Khôi Việt, là chòm sao, tam quang tứ mộ, cái anh cán gáo Dipper, mỗi tháng chỉ vào một nơi đó.

Người không thử thì làm sao biết được ý của trời? Hihihihihihìhi

namphong
11-12-12, 09:05
Tam nguyên bất bại là nói dài lâu thôi chứ không nói vĩnh viễn không bại. Cục thế này thường không vượng đồng đều cả sơn và thủy. Khi khí sơn vượng mà thủy không vượng thì con người có ý đi tranh cướp của người khác mà không tự làm(hình thế Bắc Kinh). Khi khí thủy vượng mà sơn không vượng thì con người âm thầm tự lo của cải cho mình, không dám tranh giành nên nhu nhược(cái này tự hiểu ở đâu nhé). Hai đại cục bên trên này nếu đi đến cực thì sẽ thành loạn. Một cái chính là dương đến cực thì "kháng long hữu hối", một cái thì âm đến cực là "long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng". Thái cực đồ chia 2 cũng đã chỉ rõ: nơi tận cùng của âm thì chấm dương bắt đầu sinh, nơi tận cùng của dương thì châm âm bắt đầu sinh, liên hệ vào 2 đại cục đó chính là mầm móng gây loạn. Vì vậy Tam nguyên bất bại cục cuối cùng phải bại là do vậy, cục thế càng mạnh bạo càng khó trụ được lâu dài, vương triều càng hà khắc càng mau chóng sụp đổ, vương triều càng tham nhũng nhiễu loạn cũng càng mau sụp đổ. Tam nguyên bất bại, bại tại "Nhân" không bại do Thiên Địa khí, Thiên Địa khí chỉ là điều kiện thúc đẩy cục thế này đi đến tận cùng của Âm hoặc Dương để phải BIẾN mà thôi.

VinhL
11-12-12, 13:49
Nói cho đúng thì Tam Nguyên Bất Bại là 180 năm không bại.
Nhà Lý kéo dài từ 1009 - 1225 = 216 năm thì củng đã hơn tam nguyên.
Nhà Trần kéo dàu từ 1225 - 1400 = 175 năm thì củng gần tam nguyên.

Giờ thử so sánh với các triều đại của Hán nhé:
Nhà Hạ 2070–1600 BC, 470 năm
Nhà Ân 1600–1029 BC, 571 năm
Tây Chu 1029–771 BC, 275 năm
Đông Chu 770–256 BC, 514 năm
Nhà Đường, 618–907, 289 năm
Bằc Tống, 960–1127, 167 năm
Nam Tống, 1127–1279, 152 năm
Nhà Liêu, 916–1125, 209 năm
Nhà Kim, 1115–1234, 119 năm
Tây Hạ, 1038–1227, 189 năm
Nhà Nguyên, 1271–1368, 97 năm
Nhà Minh, 1368–1644, 276 năm
Nhà Thanh, 1644–1911, 268 năm

Đa số đều củng đã đạt Tam Nguyên 180 năm Bât Bại!!!
Nếu nói các triều đại Hán coi trọng phong thủy lăng mộ, rốt cuộc củng suy sụp, củng có lý, nhưng ngược lại nói rằng biết đâu củng nhờ nó mà đa số các triều đại đều kéo dài hơn 180 năm.
Không thử không ngâm cứu tìm tòi thì làm sao biết bỡi mới có câu:
Tận Nhân Lực, Tri Thiên Mệnh!

Hihihihihihihihihi

conan135
11-12-12, 17:49
Trong 180 năm bất bại đó thì có hai vận thượng và hạ nguyên, các triều đại sau khi truyền được 3 4 đời lại thường xuất hiện việc dòng thứ cướp ngôi dòng trưởng, anh em tương tàn âu cũng là do sơn thuỷ, trái phải vượng suy đổi ngôi mà ra.Lại thêm đa số mộ tổ của các triều đại thường do Thiên táng đâu phải do thầy chọn tam nguyên bất bại cục táng mà được đâu. Vậy người xem địa lý sao phải chấp vào thuyết Tam nguyên bất bại để mê hoặc hậu nhân để mong chứng tỏ cái tài của xảo đoạt thiên cơ của mình ?

Vinh lão bàn đến lịch sử các triều đại thì phong thuỷ thành thứ yếu rồi, không biết Lão có đọc qua bài toán tính Vượng suy dài ngắn của triều đại trong sách Thái Ất không, tiểu sinh có thử làm vài phép toán trong đó thì khá là ứng nghiệm đối với các triều đại của Viêt Nam chúng ta.

VinhL
11-12-12, 21:46
Lão Loan Nhãn,
Muốn nói đến Lục Thất hay là nói phép tính "Lịch số dài ngắn một đời vua"?
Lão làm bài toán rồi, thì đăng lên cho tiểu sinh xem với.

conan135
12-12-12, 07:58
Phép dùng năm sinh vua khai triều gia lên năm lên ngôi tính số năm cai trị dài ngắn rồi lấy năm lên ngôi gia lên Đại nghĩa tính số đời cai trị bao lâu, lại dùng cách tính quẻ đại du và tiểu du xem năm vua đầu triều lên ngôi tốt hay xấu, dài hay ngắn, được ủng hộ hay do thoán đoạt.

VinhL
12-12-12, 08:51
Phép dùng năm sinh vua khai triều gia lên năm lên ngôi tính số năm cai trị dài ngắn rồi lấy năm lên ngôi gia lên Đại nghĩa tính số đời cai trị bao lâu, lại dùng cách tính quẻ đại du và tiểu du xem năm vua đầu triều lên ngôi tốt hay xấu, dài hay ngắn, được ủng hộ hay do thoán đoạt.

Lão Loan Nhãn,
Thế thì lão đi trước tiếu sinh một bước rồi, tiểu sinh vẫn còn đang số hóa cách an thần tướng và các con toán. Hihihihihihihihi

Lão có thể email cho tiểu sinh hay đăng lên vài bài toán lão tính được không?

sontrungg
19-12-12, 23:53
Nam Phong và các anh chi: Tôi cũng mới “ngâm” được đến đây và thấy
Trong câu :”Tốn Thìn Hợi tận thị Vũ khúc vị”



“ Đương nguyên Tốn chính thần, sơn vượng, thuận bài 9 tinh.
Từ Sửu khởi Tham lang 1 thuận bài, Cự môn 2 tại Bính, Lộc tồn 3 tại Nhâm, Văn khúc 4 tại Mùi, Liêm trình 5 tại Giáp, Vũ khúc 6 tại Thìn, Phá quân 7 nhập trung, Tả phụ 8 tại Tuất, Hữu bật 9 tại Canh, hoàn tất quẻ 1.
Cự môn 2 nối tiếp khởi tại tại Cấn, Lộc tồn 3 tại Ngọ, Văn khúc 4 tại Quý, Liêm trình 5 tại Khôn, Vũ khúc 6 tại Mão, Phá quân 7 Tốn, Tả phụ 8 nhập trung, Hữu bật 9 tại Càn, Tham lang 1 tại Dậu, hoàn tất quẻ 2.
Lộc tồn 3 nối tiếp khởi tại tại Dần, Văn khúc 4 tại Đinh, Liêm trình 5 tại Quý, Vũ khúc 6 tại Thân, Phá quân 7 tại Ất, Tả phụ 8 tại Tị, Hữu bật 9 nhập trung, Tham lang 1 tại Hợi, Cự môn 2 tại Tân, hoàn tất quẻ 3.”

Tôi thấy chắc có sự nhầm lẫn hay do tôi “bị tẩu hỏa”… nên chưa hiểu,mong được giải thích:
1/ Vòng ngoài cùng của đồ hình nếu phi thuận theo đúng ĐỊA-THÊN-NHÂN :Tham lang1 ở Sửu…….Hữu bật 9 ở Canh rồi nhập Hữu bật 9 tiếp vòng 2 ở Cấn ….thì cho kết quả đúng như đồ hình
2/Vòng thứ 2

“ Xuất nguyên Tốn linh thần, sơn không vượng, nghịch bài 9 tinh.
Từ Sửu khởi Tham lang 1 nghịch bài, Hữu bật 9 tại Bính, Tả phụ 8 tại Nhâm, Phá quân 7 tại Mùi, Vũ khúc 6 tại Giáp, Liêm trinh 5 tại Thìn, Văn khúc 4 nhập trung, Lộc tồn 3 tại Tuất, Cự môn 2 tại Canh, hoàn tất quẻ 1.
Cự môn 2 nối tiếp khởi tại tại Cấn, Tham lang 1 tại Ngọ, Hữu bật 9 tại Quý, Tả phục 8 tại Khôn, Phá quân 7 tại Mão, Vũ khúc 6 Tốn, Liêm trinh 5 nhập trung, Văn khúc 4 tại Càn, Lộc tồn 3 tại Dậu, hoàn tất quẻ 2.
Lộc tồn 3 nối tiếp khởi tại tại Dần, Cự môn 2 tại Đinh, Tham lang 1 tại Quý, Hữu bật 9 tại Thân, Tả phụ 8 tại Ất, Phá quân 7 tại Tị, Vũ khúc 6 nhập trung, Liêm trinh 5 tại Hợi, Văn khúc 4 tại Tân, hoàn tất quẻ 3.”

-Nếu nghịch bài sao lại không theo thứ tự NHÂN THIÊN ĐỊA và nối tiếp các vòng? Hay do:
“Lý tại Tiên thiên, khởi Tham lang tại Chấn Tiên thiên, Chấn dương thuận bài 3 quẻ Địa Thiên Nhân, dụng phương vị Hậu thiên là quẻ Cấn-Sửu Cấn Dần.”mà do ở đây theo Chấn tiên thiên nên phải như vậy?
Xin cảm ơn.

conan135
22-12-12, 11:28
Trích: "Kim long không phải chỉ có bấy nhiêu đó, tuy nhiên đây là cái cốt lõi, ở mức cao hơn nửa khi dùng tùy theo cục thế mà có thuận có nghịch, chính vì vậy mới có việc cao nhân táng người có khi cho gối đấu lên nước, nhìn về núi cao, đó mới thực là những người “trực đãi cao nhân thi diệu dụng”.
Anh Namphong có nói Lục Pháp không phải là chân kim long nên tiểu sinh lấy Lục pháp ra so sánh thì thấy nếu ở 1 3 7 9 thì 5 tới Khảm là hướng, 2 4 6 8 thì tới Ly tới sơn, vậy Kim Long chính là phép lập hướng, nếu Kim long tới sơn thì toạ có núi, Kim long tới hướng thì toạ có Thuỷ. Phép lập hướng còn cần phải xem nơi Càn trú đóng tại quẻ hậu thiên có động khí hay không, Càn lúc nào cũng là thuỷ khẩu của Long nên có Càn động khí tức là có chân long thì có thể thu nạp tuỳ theo nguyên vận.

kolname
22-12-12, 16:42
Nam Phong và các anh chi: Tôi cũng mới “ngâm” được đến đây và thấy
Trong câu :”Tốn Thìn Hợi tận thị Vũ khúc vị”



“ Đương nguyên Tốn chính thần, sơn vượng, thuận bài 9 tinh.
Từ Sửu khởi Tham lang 1 thuận bài, Cự môn 2 tại Bính, Lộc tồn 3 tại Nhâm, Văn khúc 4 tại Mùi, Liêm trình 5 tại Giáp, Vũ khúc 6 tại Thìn, Phá quân 7 nhập trung, Tả phụ 8 tại Tuất, Hữu bật 9 tại Canh, hoàn tất quẻ 1.
Cự môn 2 nối tiếp khởi tại tại Cấn, Lộc tồn 3 tại Ngọ, Văn khúc 4 tại Quý, Liêm trình 5 tại Khôn, Vũ khúc 6 tại Mão, Phá quân 7 Tốn, Tả phụ 8 nhập trung, Hữu bật 9 tại Càn, Tham lang 1 tại Dậu, hoàn tất quẻ 2.
Lộc tồn 3 nối tiếp khởi tại tại Dần, Văn khúc 4 tại Đinh, Liêm trình 5 tại Quý, Vũ khúc 6 tại Thân, Phá quân 7 tại Ất, Tả phụ 8 tại Tị, Hữu bật 9 nhập trung, Tham lang 1 tại Hợi, Cự môn 2 tại Tân, hoàn tất quẻ 3.”

Tôi thấy chắc có sự nhầm lẫn hay do tôi “bị tẩu hỏa”… nên chưa hiểu,mong được giải thích:
1/ Vòng ngoài cùng của đồ hình nếu phi thuận theo đúng ĐỊA-THÊN-NHÂN :Tham lang1 ở Sửu…….Hữu bật 9 ở Canh rồi nhập Hữu bật 9 tiếp vòng 2 ở Cấn ….thì cho kết quả đúng như đồ hình
2/Vòng thứ 2

“ Xuất nguyên Tốn linh thần, sơn không vượng, nghịch bài 9 tinh.
Từ Sửu khởi Tham lang 1 nghịch bài, Hữu bật 9 tại Bính, Tả phụ 8 tại Nhâm, Phá quân 7 tại Mùi, Vũ khúc 6 tại Giáp, Liêm trinh 5 tại Thìn, Văn khúc 4 nhập trung, Lộc tồn 3 tại Tuất, Cự môn 2 tại Canh, hoàn tất quẻ 1.
Cự môn 2 nối tiếp khởi tại tại Cấn, Tham lang 1 tại Ngọ, Hữu bật 9 tại Quý, Tả phục 8 tại Khôn, Phá quân 7 tại Mão, Vũ khúc 6 Tốn, Liêm trinh 5 nhập trung, Văn khúc 4 tại Càn, Lộc tồn 3 tại Dậu, hoàn tất quẻ 2.
Lộc tồn 3 nối tiếp khởi tại tại Dần, Cự môn 2 tại Đinh, Tham lang 1 tại Quý, Hữu bật 9 tại Thân, Tả phụ 8 tại Ất, Phá quân 7 tại Tị, Vũ khúc 6 nhập trung, Liêm trinh 5 tại Hợi, Văn khúc 4 tại Tân, hoàn tất quẻ 3.”

-Nếu nghịch bài sao lại không theo thứ tự NHÂN THIÊN ĐỊA và nối tiếp các vòng? Hay do:
“Lý tại Tiên thiên, khởi Tham lang tại Chấn Tiên thiên, Chấn dương thuận bài 3 quẻ Địa Thiên Nhân, dụng phương vị Hậu thiên là quẻ Cấn-Sửu Cấn Dần.”mà do ở đây theo Chấn tiên thiên nên phải như vậy?
Xin cảm ơn.



http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/11/22/16/49/1353577793761283_574_574.jpg

Bác sontrungg phát hiện ra nên em cũng đọc kỹ lại thì đúng là giữa bài viết và hình minh hoạ không giống nhau

Nếu viết như bài trên thì ở 3 sơn Sửu - Cấn - Dần và ở cả 2 vòng đều phải là 1-2-3 chỉ khác là đương nguyên thì phi thuận 1-2-3-4-5-6-7-8-9, Xuất nguyên thì phi nghịch 1-9-8-7-6-5-4-3-2. (có lẽ nên gọi là phi lùi thì đúng hơn hi..hi..) vì xét về bản chất ở hậu thiên vẫn là phi thuận.

Em lấy ví dụ khởi tham lang ở Sửu trong 2 trường hợp thuận nghịch.

Phi thuận: Sửu-Bính-Nhâm-Mùi-Giáp-Thìn-Trung cung-Tuất-Canh 1-2-3-4-5-6-7-8-9

Phi nghich: Sửu-Bính-Nhâm-Mùi-Giáp-Thìn-Trung cung-Tuất-Canh 1-9-8-7-6-5-4-3-2


Theo em thì cái này mới là quan trọng

Câu này chính yếu là phép dùng thuận nghịch của 9 tinh, thứ yếu là chỉ dẫn về vận 5.
2 câu đầu đã rõ phép Ai tinh nhưng việc 9 tinh thuận nghịch còn mơ hồ. Dương Công sợ người đời lầm lẫn, cứ thấy Tiên thiên quái dương thì thuận bài 9 tinh, quái âm thì nghịch bài 9 tinh là sai.
Tiên thiên quái chỉ quản việc thuận nghịch của 3 quẻ Địa-Thiên-Nhân mà thôi. Việc định 9 tinh thuận nghịch toàn ở nguyên vận. Lấy hậu thiên quái mà xét, nếu đương nguyên thì thuận bài, xuất nguyên thì nghịch bài.

conan135
22-12-12, 17:27
Tốn sơn nếu xuât nguyên (không hợp vận) thì nghịch bài phi tinh (1 >9 >8 >7 >6...)và thuận bài 3 quẻ Địa Thiên Nhân do Chấn tiên thiên là Dương quẻ.
Tốn sơn nếu hợp nguyên ( hợp vận) thì thuận bài phi tinh ( 1> 2>3>4 >5 ...) và thuận bài 3 quẻ Địa Thiên Nhân do Chấn tiên thiên là Dương quẻ.
Không có gì mâu thuẫn ở đây cả, Thuận bài hay nghịch bài Địa Thiên Nhân là do quẻ Tiên Thiên quy định không liên quan đến nguyên vận, còn thuận hay nghịch của 9 tinh là do thuỷ hoặc sơn hợp hay không hợp nguyên vận quyết định.

kolname
22-12-12, 17:32
Trong bài viết này của anh Nam Phong em thấy anh thường dùng là " Đương nguyên" và " Xuất nguyên" có hai cách hiểu

Cách thứ nhất là nói đến đương vận hoặc không phải đương vận ví dụ Đương nguyên là vận 8, xuất nguyên là vận 7

Cách hiểu thứ 2 là trong khái niệm Tam nguyên cửu vận thì Đương nguyên, xuất nguyên dùng theo đơn vị là nguyên 180 năm

Cảm ơn anh Nam Phong.

kolname
22-12-12, 21:13
Tốn sơn nếu xuât nguyên (không hợp vận) thì nghịch bài phi tinh (1 >9 >8 >7 >6...)và thuận bài 3 quẻ Địa Thiên Nhân do Chấn tiên thiên là Dương quẻ.
Tốn sơn nếu hợp nguyên ( hợp vận) thì thuận bài phi tinh ( 1> 2>3>4 >5 ...) và thuận bài 3 quẻ Địa Thiên Nhân do Chấn tiên thiên là Dương quẻ.
Không có gì mâu thuẫn ở đây cả, Thuận bài hay nghịch bài Địa Thiên Nhân là do quẻ Tiên Thiên quy định không liên quan đến nguyên vận, còn thuận hay nghịch của 9 tinh là do thuỷ hoặc sơn hợp hay không hợp nguyên vận quyết định.

Chào anh conan135, Cảm ơn anh đã giải đáp. Cũng biết bài này của anh Nam Phong đưa nên đây là hàng quý hiếm rồi cho nên em cũng chỉ dám từ từ nghiền ngẫm thôi.
ở bài trên không biết anh Nam Phong có typed nhầm không thôi chứ em không thấy có mâu thuẫn gì cả anh ạ và phần tiên thiên quản thuận nghịch Thiên Địa Nhân và Đương nguyên, Xuất nguyên quản thuận nghịch 9 tinh đến giờ em cũng mới lờ mờ hiểu chút

namphong
23-12-12, 09:41
sontrungg, kolname:
Hình là đúng, trong sách Nam Phong ghi chép lại cho riêng mình chỉ vẽ hình mà không thuyết minh, do vậy khi đưa lên diễn đàn gõ thêm phần thuyết minh, trong lúc gõ thì gõ nhầm. Cảm ơn hai bạn phát hiện, tuy nhiên Nam Phong cũng không sửa lại được nên gõ lại tại đây:

Từ Sửu khởi Tham lang 1 thuận bài, Cự môn 2 tại Bính, Lộc tồn 3 tại Nhâm, Văn khúc 4 tại Mùi, Liêm trình 5 tại Giáp, Vũ khúc 6 tại Thìn, Phá quân 7 nhập trung, Tả phụ 8 tại Tuất, Hữu bật 9 tại Canh, hoàn tất quẻ 1.
Hữu bật 9 nối tiếp khởi tại tại Cấn, Tham lang 1 tại Ngọ, Cự môn 2 tại Quý, Lộc tồn 3 tại Khôn, Văn khúc 4 tại Mão, Liêm trinh 5 tại Tốn, Vũ khúc 6 nhập trung, Phá quân 7 tại Càn, Tả phụ 8 tại Dậu, hoàn tất quẻ 2.
Tả phụ 8 nối tiếp khởi tại tại Dần, Hữu bật 9 tại Đinh, Tham lang 1 tại Quý, Cự môn 2 tại Thân, Lộc tồn 3 tại Ất, Văn khúc 4 tại Tị, Liêm trinh 5 nhập trung, Vũ khúc 6 tại Hợi, Phá quân 7 tại Tân, hoàn tất quẻ 3.

sontrungg
23-12-12, 22:04
Cảm ơn các bác đã giải thích, tôi cũng suy đoán nhưng không chắc nên phải hỏi lại cho kỹ,vì nếu cứ nghĩ phi nghịch là NHÂN –THIÊN –ĐỊA thì đồ hình sẽ khác. Đúng là “lý ở Tiên thiên “là vậy.
Biết là “ hàng hiếm “ của Nam Phong chia sẻ cho diễn đàn nên cũng từ từ “ngâm cứu”:1f02:. Rất cảm ơn sự về chia sẻ.
Trân trọng.

hieunv74
28-12-12, 14:25
Hay quá, như vậy Nguyên không pháp giám cũng có chỗ không thống nhất với các đồ hình này.

Lão Hoa mắt ơi,

Lão nhìn lại đồ hình mà xem, toàn là Nguyên không kim long thủy khẩu đó; kim long này kết hợp với cách giải thích theo "Ngọ ấn sơn nhân - huyền không đại quái tâm pháp bí quyết" của Liên thành phái đó.

Cám ơn Lão đế, mới đầu đọc tiểu bối cũng tưởng cái này là Thành Môn, nhưng qua đồ hình lại là kim long (rồng vàng) không phải là cửa ra vào.

Thân

hoachithanh
28-12-12, 15:14
Lão Hoa mắt ơi,

Lão nhìn lại đồ hình mà xem, toàn là Nguyên không kim long thủy khẩu đó; kim long này kết hợp với cách giải thích theo "Ngọ ấn sơn nhân - huyền không đại quái tâm pháp bí quyết" của Liên thành phái đó.

Cám ơn Lão đế, mới đầu đọc tiểu bối cũng tưởng cái này là Thành Môn, nhưng qua đồ hình lại là kim long (rồng vàng) không phải là cửa ra vào.

Thân

Đọc kỹ thì đúng, vì cách diễn giải có khác. Ví dụ vận 1 thì mình hay nói là Khôn chủ quản (theo Tiên thiên), nhưng Cụ Đế lại nói Khảm quái quản vận (tính theo Hậu Thiên). Nhìn đồ hình thì hình các quái đã là kết quả sau khi biến (lúc đầu thì tưởng thì nghĩ là chưa biến) thành ra lại bị quả phân tâm. Sau nhìn kỹ lại thì như nhau. Em xin lỗi cụ Đế vậy.

conan135
06-02-13, 10:54
Đệ nhị nguyên, lai mạch minh đường bất khả thiên"

Nói về tầm huyệt thì phải biết việc tiếp long mạch nhập huyệt, lập hướng thì nhận minh đường sơn thủy làm tiêu chuẩn, hai cái: Lai mạch và Minh đường thì một cái tiếp Long khí, một cái nhận Vượng khí hình cục. Cả hai điều quan trọng không nên thiên về cái nào cả. Do vậy mà nói "bất khả thiên", chính là nói không nên xem nặng nhẹ cái nào, một số sách lại hiểu minh đường không được nghiêng lệch là không hiểu gì về sách Dương Công."

Đúng là phải hiểu theo nghĩa này, cổ nhân có nói " Nội thu long khí, ngoại tiếp đường khí" chính là ý này, nếu nói minh đường thiên lệch thì lại sai do có nhiều huyệt kết trên núi cao, có nhiều huyệt ở nơi bức bách thì minh đường khó mà ngay ngắn được, có khi nội minh đường cũng không có nữa.

"Đệ bát tài, khuất khúc lưu thần nhận khứ lai"

Thủy khuất khúc là hữu tình sinh vượng thủy, thủy trực xạ là vô tình sát thủy, thủy nhiểu động nhanh nên hay ứng ở Tài. Hình cục đã rõ thì phải theo hình cục mà lập hướng, nếu cố chấp ở lý khí phương vị mà lập hướng thì chưa hiểu phép biến thông của tạo hóa.

Đã thấy nhiều cục thế lập huyệt không hợp với cách truyền thống của lý khí nhưng vẫn phát mạnh (như mộ vua Trần thu lấy nghịch thuỷ triều đường sai hoàn toàn so với Tam hợp lý khí, mộ ở bình dương phẳng lỳ một dãy không biết cuống mạch nơi nào chỉ có lấy sông hồng nghịch thuỷ triều lai để thu nạp thủ khí, vậy mà nhà Trần có công lao hiển hách đánh tan được quân Mông Nguyên, sau này bị thầy địa lý Tàu khơi đào con kênh theo lý khí thì bị hỏng). Vậy cổ nhân lấy loan đầu định lý khí là chân chánh.

Riêng về phần đồ hình tiểu sinh nghĩ rằng do người viết sách chỉ vẽ đại khái trên hoạ đồ như vậy do ngày xưa không có công cụ đo đạt chính xác nên xảy ra hiện tượng lệch qua trái hay qua phải chứ không có ý vẽ sai đồ hình do các huyệt vị này người sau có thể đến tận nơi kiểm chứng lại.

Hungson
14-02-13, 10:54
vinh noi phai lam

Hungson
14-02-13, 10:59
Lão Nam Đế,
Cho tiểu sinh hỏi,

Tả vi dương, Tý Quý chí Hợi Nhâm
Hữu vi âm, Ngọ Đinh chí Tị Bính.

Như vậy cái ranh giới của Âm Dương phải tại nơi giữa Tý Nhâm và Ngọ Bính, nhưng trong hình của lão lại đặt tại sửu mùi là như thế nào, nhờ lão giải thích giùm. Thanks

minh cung thay vay do

Hungson
14-02-13, 11:12
Lão Đế nói về Nạp Giáp chí phải!!!
Nhiều người cứ nghỉ phép Nạp Giáp là ngụy, nhưng nó chẳng ngụy chút nào bỡi gì nó căn cứ vào cái Mặt Trăng!!!
Sự ảnh hưởng của Mặt Trăng thì quá rõ ràng, thủy triều lên xuống, chu kỳ kinh nguyệt trong phái nữ, vv....

Trãi qua mấy ngàn năm, vật đổi sao dời, tuyệt học bí truyền lại không ai hiểu rỏ để mà sửa đổi, sự liên quan giữa 9 phi tinh và Thất Chính Tứ Dư củng theo đó mà sai sót, đó chính là cái tai hại của những kiến thức mà cổ nhân gọi là Bí Bí Bí để rồi giữ nó Mật Mật Mật. (Nhất là thời Phong Kiến thì dần thường làm gì mà thấy được quyển sách viết về Thiên Văn!)

Như là cái Đẩu Tiêu, giờ đâu còn chỉ vào chi Dần ở đầu tháng Giêng nửa đâu nhỉ ??? (điều này thì có thể dùng trình thiên văn để xem)
nói nhu vinh thì cái sai cua tú du thất chính tu duoc sua lai theo chu ky cua no .minh cung ngi vay.

namphong
15-02-13, 11:09
Trích:
Nguyên văn bởi VinhL Xem bài gởi
Lão Nam Đế,
Cho tiểu sinh hỏi,

Tả vi dương, Tý Quý chí Hợi Nhâm
Hữu vi âm, Ngọ Đinh chí Tị Bính.

Như vậy cái ranh giới của Âm Dương phải tại nơi giữa Tý Nhâm và Ngọ Bính, nhưng trong hình của lão lại đặt tại sửu mùi là như thế nào, nhờ lão giải thích giùm. Thanks
minh cung thay vay do

Thiên Văn là cái dụng của Địa lý, tuy nhiên khi thiên tượng chiếu hình xuống đất để dùng là đã chuyển qua một hệ quy chiếu hoàn toàn khác đó là Trái đất. Trái đất thì nghiêng, do vậy mà có chút khác biệt.
Bảo Chiếu kinh có viết:
"Tý Quý Ngọ Đinh Thiên Nguyên cung,
Mão Ất Đoài Tân nhất lộ đồng,
Nhược hữu sơn thủy nhất đồng đáo,
Bán huyệt Kiền Khôn Cấn Tốn cung,"


Quý và Đinh lại bảo là Thiên nguyên?
Ất và Tân cũng nói là Thiên nguyên?
1/2 huyệt ở Càn Khôn Cấn Tốn? 1/2 còn lại ở đâu?

Ngôn từ ẩn mê làm điên đảo thế nhân. Nhìn vào vòng Thiên bàn 24 sơn thì giữa Tý Quý và Ngọ Đinh chính là chính châm Tý Ngọ của Địa bàn. 1/2 bên phải của Càn Khôn Cấn Tốn là 1/2 của chính châm Càn Khôn Cấn Tốn. Thủy giữa Tý Quý Ngọ Đinh của Thiên bàn thì lập huyệt lấy 1/2 bên phải của Càn Khôn Cấn Tốn, đây là bí mật lập hướng lệch 2-3 độ của Tam hợp phái mà đến nay trên các diễn đàn chưa có lời giải thích thỏa đáng, chỉ dựa vào vòng 60 long thấu địa lấy khí Bính và Canh, bảo sao chôn rồi phần nhiều bại vong. Khí theo thủy, thủy đã dừng thì đón lấy khí ở phía sau nó một chút, "thừa vượng khí" là phép này, đón trước vô khí, đón ngay đó thì có sát khí.
Từ đây việc lập hướng không lập chính hướng mà lệch đi 2-3 độ của phái Tam hợp chỉ đúng khi thủy ở chính hướng, tuy nhiên lại chia ra rõ ràng các trường hợp: thủy tả đảo hữu thì phải lệch về bên phải, thủy hữu đảo tả thì phải lệch về bên trái. Làm ngược lại thì vô khí bại tuyệt, các trường hợp khác thì đều sai. Như vậy Tam hợp lập hướng chỉ đúng được 1-2 phần, sai đến 8-9 phần.
Trăm quyển sách địa lý đọc hết mà không hiểu được Thư Hùng cũng hoài công.

VinhL
15-02-13, 15:15
Thiên Văn là cái dụng của Địa lý, tuy nhiên khi thiên tượng chiếu hình xuống đất để dùng là đã chuyển qua một hệ quy chiếu hoàn toàn khác đó là Trái đất. Trái đất thì nghiêng, do vậy mà có chút khác biệt.
Bảo Chiếu kinh có viết:
"Tý Quý Ngọ Đinh Thiên Nguyên cung,
Mão Ất Đoài Tân nhất lộ đồng,
Nhược hữu sơn thủy nhất đồng đáo,
Bán huyệt Kiền Khôn Cấn Tốn cung,"


Quý và Đinh lại bảo là Thiên nguyên?
Ất và Tân cũng nói là Thiên nguyên?
1/2 huyệt ở Càn Khôn Cấn Tốn? 1/2 còn lại ở đâu?

Ngôn từ ẩn mê làm điên đảo thế nhân. Nhìn vào vòng Thiên bàn 24 sơn thì giữa Tý Quý và Ngọ Đinh chính là chính châm Tý Ngọ của Địa bàn. 1/2 bên phải của Càn Khôn Cấn Tốn là 1/2 của chính châm Càn Khôn Cấn Tốn. Thủy giữa Tý Quý Ngọ Đinh của Thiên bàn thì lập huyệt lấy 1/2 bên phải của Càn Khôn Cấn Tốn, đây là bí mật lập hướng lệch 2-3 độ của Tam hợp phái mà đến nay trên các diễn đàn chưa có lời giải thích thỏa đáng, chỉ dựa vào vòng 60 long thấu địa lấy khí Bính và Canh, bảo sao chôn rồi phần nhiều bại vong. Khí theo thủy, thủy đã dừng thì đón lấy khí ở phía sau nó một chút, "thừa vượng khí" là phép này, đón trước vô khí, đón ngay đó thì có sát khí.
Từ đây việc lập hướng không lập chính hướng mà lệch đi 2-3 độ của phái Tam hợp chỉ đúng khi thủy ở chính hướng, tuy nhiên lại chia ra rõ ràng các trường hợp: thủy tả đảo hữu thì phải lệch về bên phải, thủy hữu đảo tả thì phải lệch về bên trái. Làm ngược lại thì vô khí bại tuyệt, các trường hợp khác thì đều sai. Như vậy Tam hợp lập hướng chỉ đúng được 1-2 phần, sai đến 8-9 phần.
Trăm quyển sách địa lý đọc hết mà không hiểu được Thư Hùng cũng hoài công.

Lão Đế,
Không biết lão Đế có thể giải thích tại sao Trung Châm đi sau Chính Châm nửa sơn, mà Phùng Châm thì lại đi sau Trung Châm tới một Sơn?

diennien
16-02-13, 04:12
Người xưa Phân kim lập hướng không đơn giản như lập luận trên của Nam Phong đâu, thông thường thì địa bàn lập hướng, thiên bàn nạp thuỷ, nhân bàn tiêu sa, nhưng thực tế thì có những địa cục, sa, thuỷ,long không ăn khớp với nhau nên các thầy xưa mới phải suy tính xoay huyệt ăn theo sa nếu sa ảnh hưởng mạnh nhất, hoặc theo thủy nếu thuỷ ảnh hưởng nhiều hơn.v.v
Nếu phái tam hợp sai 8,9 phần như Nam phong nói ở trên thì tôi bảo đảm là 90 phần trăm các huyệt kết phát đều hỏng hết.

VinhL
16-02-13, 05:21
Càng nghiên cứu sâu vào thì thấy toàn bộ lý thuyết phong thủy đều căn cứ vào Thiên Văn cả!!!

Địa Lý Ngũ Kinh (Thanh Nang, Thiên Ngọc, vv.....), nguồn gốc đều lấy Thanh Nang làm đầu. Muốn hiểu Thanh Nang thì phải biết Thiên Văn!!!

天尊地卑,陽奇陰偶。
一六共宗,二七同道,
三八為朋,四九為友,
五十同途。闔闢奇偶,
五兆生成,流行終始;
八體弘布,子母分施。
天地定位,山澤通氣,
雷風相薄,水火不相射。
中五立極,臨制四方,
背一面九,三七居旁,
二八四六,縱橫紀綱。
陽以相陰,陰以含陽,
陽生於陰,柔生於剛。
陰德弘濟,陽德順昌,
是故陽本陰,陰育陽,
天依形,地附氣,
此之謂化始。

第二節 中卷 化機
經曰:
天有五星,地有五行,
天分星宿,地列山川,
氣行於地,形麗於天,
因形察氣,以立人紀。
紫微天極,太乙之禦,
君臨四正,南面而治,
天市東宮,少微西掖,
太微南垣,旁照四極。
四七為經,五德為緯,
運幹坤輿,垂光乾紀,
七政樞機,流通終始。
地德上載,天光下臨,
陰用陽朝,陽用陰應,
陰陽相見,福祿永貞,
陰陽相乘,禍咎踵門。
天之所臨,地之所感,
形止氣蓄,萬物化生,
氣感而應,鬼福及人。
是故天有象,地有形,
上下相須,而成一體。
此之謂化機。

第三節 下卷 化成
經曰:
無極而太極也,
理寓於氣,氣囿於形;
日月星宿,剛氣上騰。
山川草木,柔氣下凝。
資陽以昌,用陰以成;
陽德有象,陰德有位。
地有四勢,氣從八方,
外氣行形,內氣止生,
乘風則散,界水則止。
是故順五兆,用八卦,
排六甲,布八門,
推五運,定六氣,
明地德,立人道,
因變北,原終始,
此之謂化成。

Toàn bộ phần Hóa Cơ đều nói về Thiên Văn!!!
Tại sao Huyền Không lại có 20 năm một Vận. Đó chính là chu kỳ Mộc Thổ hội hợp!!!
Tại sao lại có 3 sơn? củng do Mộc Thổ hội hợp!
Tại sao lại có Tam Bang Quái? Củng không ngoài Mộc Thổ

Tại sao lại có chính châm và trung châm?
Bỡi gì Tháng lấy tiết khỡi mà khí (Tiết Khí) thì lấy cung hoàng đạo mà bắt đầu, trước sau nửa cung!!!
Tại sao cổ nhân lại không đặt luôn 24 tiết hay 24 khí mà lập 24 tiết khí? Bỡi vì thật mà nói địa phân12 Chi, cho nên 24 gồm có 12 tiết và 12 khí!!!
Tại sao Phùng Châm trước Trung Châm một cung, đấy là do sự chuyển dịch của Bắc Đẩu Thất Tinh mà nên vậy.
Đẩu Tiêu thuở xưa Lập xuân chỉ Dần, nhưng đã không còn chỉ vào Dần nửa, mà đã xê dịch 1 cung!!!

Âm Dương Lưỡng Nghi, Dương Quang là Dương khí, gravitation force là Âm lực. Nhờ năng lực mặt trời mà có sinh cơ, nhờ sự vận chuyển của địa cầu mà có 4 mùa, nhờ có mặt trăng mà có thủy triều. Phong Thủy lấy thủy là trọng, vậy học phong thủy mà không biết đến sự vận chuyển của mặt trăng quả thật là thiếu đi phần quan trọng!!!!

Tại sao người xưa lại dùng Âm Lịch bao hàm cả Tiết Khí và sự vận hành của mặt trăng?
Bỡi vì đối với trái đất, lực hấp dẫn của mặt trăng là mạnh nhất, sau đó mới tới lực hẩp dẫn của mặt trời. Giới hàng hãi cổ căn cứ vào Âm Lịch để biết nước ròng nước lớn. Nông dân căn cứ vào âm lịch để mà gặt hái, cấy cày, biết ngày nào rằm, vv.....

Tất cả đều có nguồn gốc từ Thiên Văn. Cho dù học hết các sách phong thủy, Dương Tằng Tưởng Liên, Trương Chung Liên Thẫm, mà chưa thấu được thiên văn thì củng chỉ sờ vòi mà đoán voi.
Hihihihihihihihihihi

namphong
18-02-13, 08:55
Người xưa Phân kim lập hướng không đơn giản như lập luận trên của Nam Phong đâu, thông thường thì địa bàn lập hướng, thiên bàn nạp thuỷ, nhân bàn tiêu sa, nhưng thực tế thì có những địa cục, sa, thuỷ,long không ăn khớp với nhau nên các thầy xưa mới phải suy tính xoay huyệt ăn theo sa nếu sa ảnh hưởng mạnh nhất, hoặc theo thủy nếu thuỷ ảnh hưởng nhiều hơn.v.v
Nếu phái tam hợp sai 8,9 phần như Nam phong nói ở trên thì tôi bảo đảm là 90 phần trăm các huyệt kết phát đều hỏng hết.

anh Diennien
Tam Hợp có 2: chính thống và ngụy. Hiện nay phần nhiều sử dụng ngụy tam hợp. Câu trên Nam Phong viết có sơ suất nên thành thật xin lỗi với anh em học Tam Hợp chính thống.
Hệ thống Tam Hợp từ khi Nam Phong phát hiện dùng âm dương không phải cố định là thủy đảo tả, đảo hữu; không phải 24 sơn âm dương cố định như La kinh Tam Hợp đã ghi mà là sử dụng Thư Hùng của Dương Công thì thấy sự chuẩn xác của ngụy Tam Hợp rất thấp. Tuy nhiên lý luận của Tam Hợp lại thấy khá lộn xộn và mâu thuẫn.

namphong
18-02-13, 11:14
VinhL:
anh nắm được cốt lõi vấn đề rồi, xét Thủy thì xem Nguyệt, xét Phong khí thì xem Nhật, "Thiên căn Nguyệt quật gian lai vãng, Tam thập lục cung đô thị Xuân". Còn một cái quan trọng nữa đó là: phép biến của Thư Hùng là phải "Dương tận phân Âm, Âm tận phân Dương", Chưa đến tận cùng của dương(Càn) thì chưa biến, chưa đến tận cùng của âm(Khôn) thì chưa biến; chưa đến tận cùng của âm thì Long chưa dừng, chưa đến tận của dương thì Thủy chưa chỉ. Cho dù trực tà hoành đảo đều cùng một lý, cho dù oa kiềm nhũ đột đều cùng một lý, cho dù sơn long thủy long đều cùng một lý, tất cả là lật qua lật lại như hai mặt của đồng tiền. Tiếc là Nam Phong còn nhỏ tuổi nên còn nặng nợ đời, chưa có thời gian đi thực địa các nơi nên xét đoán vẫn chưa đầy đủ.

conan135
18-02-13, 12:35
Tam hợp nếu đúng là long chân huyệt đích thì cũng đúng luôn, tiểu sinh xem xét một vài huyệt thì thấy nếu là cục thuận long hay hoành long hay huyệt bình dương thì rất hay đúng với tam hợp tứ đại cục ( căn cứ phương thuỷ tiêu đi để khởi kim mộc thuỷ hoả cục thuận hành chứ không phải đáo tả đáo hữu thuận nghịch cục). Còn những cục hồi long, kỳ hình thì thường không hợp do thuỷ nghịch triều.

Hungson
23-08-14, 13:27
rất cảm ơn vinhl. thân chào bây giờ tìm anh ở đâu đây

duong.hkls
23-08-14, 14:18
Đẩu Tiêu thuở xưa Lập xuân chỉ Dần, nhưng đã không còn chỉ vào Dần nửa, mà đã xê dịch 1 cung!!!


Mr. Vinh soi thiên văn ra cái này; các thầy tử vi khóc ròng ròng...

DoanDo
20-09-14, 13:31
chào các Huynh.

Mọi người có thể giải thích giúp em tại sao:

-Khôn Nhâm Ất Cự môn tòng đầu xuất đồ (1)
thì :Phép Thông căn của Đại quái ở đây vẫn dùng Càn tiên thiên mà luận cái Lý, phương vị dùng tại Hậu thiên Bính mà định. Bính thông căn với Tuất, Bính dương nên tại Tuất khởi 6 nghịch hành, 7 tại Tân, 8 tại Dậu, 9 tại Canh, 1 tại Thân, 2 tại Khôn, 3 tại Mùi, 4 tại Đinh, 5 nhập trung, 6 tại Ngọ.... Vì bài quái theo vòng vận hành chu thiên nên 5 ngũ chí tôn, nhập trung quản khí. Bài hết 24 sơn thì Khôn Nhâm Ất 3 sơn cũng đều là Cự môn, lấy đây để định quái, quán sơn xét thủy theo nguyên vận mà định cát hung

Cấn Bính Tân vị vị thị Phá quân đồ ( 2)
thì: Phép Thông căn của Đại quái ở đây dùng Cấn. Cấn thông căn với Khôn, Cấn dương nên tại Khôn khởi 2 nghịch hành, 3 tại Mùi, 4 tại Đinh, 5 nhập trung, 6 tại Ngọ, 7 tại Bính, 8 tại Tị, 9 tại Tốn.... Vì bài quái theo vòng vận hành chu thiên nên 5 ngũ chí tôn, nhập trung quản khí. Bài hết 24 sơn thì Cấn Bính Tân 3 sơn đều là Phá quân, lấy đây để định quái, quán sơn xét thủy theo nguyên vận mà định cát hung.

Tại sao ở (1) không dùng khôn thông căn với cấn và từ cấn 8 thuận hành ?