PDA

View Full Version : Dịch lý học đại cương



virgoo
17-10-09, 13:35
Thể theo tâm nguyện của thầy Xuân Phong. Tôi xin đăng cuốn sách của thầy. Nhằm giúp các bạn đang chập chững bước chân vào Tiên Thiên Triết Lý và Lý số học.

virgoo
17-10-09, 13:42
VIỆT NAM DỊCH LÝ HỘI

XUÂN PHONG
HỒNG TỬ UYÊN


DỊCH LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG



1964 - 1968


----------------------------------------------------------------------------------------


SƠ ĐỒ

TIẾN HÓA CỦA VŨ TRỤ

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/17/02/86781255764548.JPG




1. Thái Cực
2. Lưỡng Nghi
3. Tứ Tượng
4. Bát Quái
5. Thập Lục Quái
6. Tam Thập Nhị Quái
7. Lục Thập Tứ Quái


----------------------------------------------------------------------------------------


LỜI TỰA

Tập Dịch Lý Học này được soạn như là một tài liệu giáo khoa nhằm mục đích hướng dẫn
các bạn học viên muốn nghiên cứu về hệ thống tiến hóa của Vũ Trụ và Vạn Vật, đỡ phần
cam go, khó nhọc nên đã theo phương thức thông thường của con người là suy luận và diễn
tả, để giải thích, với hoài vọng là sẽ giúp cho tất cả mọi người có 1 ý niệm đại lược về sự
tương quan mật thiết giữa Vũ Trụ, con người và các sinh vật khác.

Tập Dịch Lý Học này, cũng còn là một nhịp cầu, nối liền giữa sự huyền vi và hiển hiện.
Nền móng của nhịp cầu đã được dựng lên bằng các khí cụ, sẵn có trong mỗi con người như
tai, mắt và thần trí. Mặc dầu, vẫn biết là các thứ ấy có tánh cách sai lầm, nhưng chúng ta ai
cũng đều phải dùng nó làm chìa khóa để lần lượt mở tất cả các ổ khóa bí hiểm trong nhu
cầu đời sống của con người. Vậy, khi các bạn gặp được tập sách này chúng tôi tin chắc
rằng: các bạn sẽ nhờ đó mà tự mở được cánh cổng đầu tiên và đặt chân lên chiếc cầu nối
liền giữa sự hiển hiện và huyền vi, không khó khăn.

Những danh từ, ký hiệu tượng trưng tiến trình của Vũ Trụ trong tập tài liệu này đều do trí
óc của con người đặt ra như Vô Toàn Vô, Cực Vô, Thái Cực, Lưỡng Nghi (Âm Dương), Tứ
Tượng vận hành, Bát Quái và Lục Thập Tứ Quái, chỉ là những danh từ để thuyết minh sự
nhất lý giữa Vũ Trụ và chúng ta, cũng như trong chúng ta sâu kín và lặng lẽ. Thế nên, các
danh từ ấy chỉ là từ chương của sách vở, mà sách thì viết không hết được lời. Lời thì diễn
không hết được ý. Dầu vậy, chúng ta vẫn phải nhờ sách nhờ lời viết ra mới có thể khám phá
được Lý.

Khi đã thấu triệt được lời thì các bạn sẽ đến được Lý mà hợp cùng Trời Đất, tiến hóa ở bất
cứ thế hệ nào trong mọi tầng lớp và cũng có thể đem phổ biến, truyền bá cái Lý đó trong
thiên hạ, để tự mọi người, ai cũng có thể xác định cho mình một nhân sinh quan thích hợp
với mọi thời đại.


Sàigòn, ngày mùng 9 tháng 10 năm Ất Tỵ
Tác giả
XUÂN PHONG và HỒNG TỬ UYÊN
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/03/12051255853988.jpg


---------------------------------------------------------------------------------------


LỜI NÓI ĐẦU

Dịch nghĩa là biến đổi, biến hóa. Khi chúng ta nói đến biến hóa thuộc phạm vi Tiên Thiên,
tức là nói về sự tạo lập Vũ Trụ. Còn khi nói về Hậu Thiên, tức là nói về sự đã Thành.

Nay, khoa Dịch Lý đã được hữu hình hóa là do Đức Thần Minh Vô Tư của con người. Cho
nên, ở phạm vi con người chúng ta có ý thức được hay hiểu biết được phần nào thì tùy thời
mà phổ cập Dịch Lý vào trong nhân loại. Nhưng nhu cầu nhân loại thì mỗi ngươn hội có
mỗi sắc thái, xem như có hơi khác nhau, thật ra đó chỉ là công việc làm kế tiếp từ đời này
sang đời khác. Trong thế hệ tiếp nối cho thế hệ tương lai, ngày càng sáng tỏ Đạo Trời, do
nhu cầu nhân loại, thời đại mà sinh ra, chớ không có chi là lạ.

Nhận xét theo tinh thần Khoa Học thì Dịch Lý đã được đời bổ cứu từ khi họ chưa có chữ.
Chỉ có hai hình bóng vuông tròn, hoặc loài người đã quá Văn Minh về chữ đến độ siêu việt
trên phương diện nào đó, và trên phương diện đó chỉ dùng xài có hai chữ hoặc hai hình
bóng gọi tên là Âm Dương mà thôi. Từ hai chữ Âm Dương ấy lại đi, cứ đi và đi mãi đến
nay rườm rà trên đó đủ thứ văn võ, hình nét…

Khi đi giáp hết một vòng thì trở lại cái siêu việt hai chữ, hoặc hai hình bóng trước kia, với
Bộ Mặt mới của nó. Thành thử, dẫu có tinh thần muốn hiểu biết sâu rộng, khắp cùng một
cách chính chắn hoặc muốn phát minh, người đời cũng không thể nào có đủ phương tiện để
đi vào tất cả mọi ngành. Cớ sự này, trong tương lai nhân loại không tránh khỏi một sự đòi
hỏi chính đáng, do quý vị trong các ngành Đại học sẽ đòi hỏi một Lý Học Tổng Tập, đệm
vào trong mỗi ngành chuyên môn, tức là Âm Dương Lý Học Tổng Quát là Dịch Lý (hiện
nay, chỉ có ở trên mỗi ngành một cách riêng biệt như là Âm điện – Dương điện, trùng đực,
trùng cái, khinh trọng, lạnh nóng, động tĩnh, ngày đêm, nam nữ, huyền vi - hiển hiện…)

Ngươn hội hay vận hội nào cũng có người nhìn biết và nói lên giá trị của Âm Dương Dịch
Lý, qua trên một khía cạnh hay trên một phạm vi nào đó, và mọi nơi trong mỗi phương trời,
tùy theo nhu cầu thời đại mà đặt lấy một danh ngôn, danh tự cho mỗi ngành đâm ra người
đời nhầm tưởng là sâu sa khác nhau. Thật ra, sự khác nhau đó là điều dĩ nhiên, trật tự của
Dịch Lý, xét ra cũng là điều rất cần phải có trong nhân loại, cho kịp đến khi ngươn hội của
quẻ Cấu thì khắp hoàn cầu nhiều lớp ngươn hội lại mà vấn đề Âm Dương Dịch Lý mới có
muôn màu, Đạo Trời mới có cơ ngày càng sáng tỏ hơn.

Dịch Lý là một lý học vạn vật qui Nhất Lý tức như Khoa học Tổng tập sẽ phải trình diện tại
các Đại học đường để thỏa mãn sự đòi hỏi của quí vị học viên. Khoa học Tổng tập rất đặc
biệt phù hợp cho người nào không đủ phương tiện theo dõi cho đến cùng một ngành chuyên
môn nào đó. Nếu có Khoa học Tổng tập trong tay họ, thời trên đời sống của họ vẫn có thể
sáng tỏ hoặc phát minh cho một ngành nào mà họ ưa thích. Còn một sự lợi ích to tát hơn là
trong cuộc thế, nhân quần xã hội, mặc dù xa nhau, khác nhau về tinh thần, lý tưởng, nghề
nghiệp, cấp bậc, lý học vạn vật qui Nhất Lý đã có đủ sức cho họ tự thấy là liên hệ, liên quan
mật thiết với nhau…

Điều thiết yếu và khó khăn lớn nhất là ở buổi đầu, Lý học vạn vật qui Nhất Lý hay Khoa
học Tổng tập phải hết sức cẩn trọng và khéo léo khi làm bạn với các học viên, điều này rất
khó, sức một người không làm được mà luôn luôn là nhờ thiện chí trong thiên hạ. Dẫu đã
biết là khó nhưng phải cố gắng riêng sức mọn của mình trước đã. Thế nên, Khoa học Tổng
tập đã được soạn với một sắc thái bất đắc dĩ, nghĩa là phải vừa làm luận án vừa có tánh giáo
khoa, xuyên đường Tiên Thiên triết lý và Lý số học. Tuy có tính cách hơi vội vã mà vẫn đầy
đủ các điều tối cần cho mục phiêu Tiên Thiên triết lý và Lý số học.

Tại sao tôi đưa Khoa học Tổng tập ra chào đời xuyên đường Tiên Thiên Triết Lý và Lý số
học? Trả lời: một là vì tôi không có khả năng trên phương diện khác, hoặc có đi nữa cũng
vô bổ, hai là vì tôi quan niệm rằng: “Tiên Thiên Triết Lý và Lý số học đang lu mờ trong
khung cảnh nhân loại khắp hoàn cầu, cũng như hoàn cảnh dân tộc Việt Nam hiện đang thiếu
ánh sáng đó”.

Bởi không đủ sức ánh sáng trong thiên hạ mà dân ta hay nhân loại phải chịu đi trong mờ tối.
Các sự phỉnh gạt, lừa bịp, thủ đoạn, giả dối trùng điệp chồng chất không giây phút ngừng
nghỉ từ trong muôn đời và diễn tiến đến đây, dồn tụ càng ngày càng quá đổi; trong khi đó,
hôm nay các bạn và tôi, người đời cứ phải đi và lặn hụp trong đó. Có phải đâu dễ chịu nhìn
xem sự gia tăng nẩy nở một cơ nghiệp nhân loại ganh ghét đố kỵ, hoài nghi thù hận đến độ
tuyệt vời, hóa thành mê hồn trận trong nhân loại.

Dám xin hỏi nhỏ các bạn, bất cứ ai khi đem khai mở một triết thuyết giữa lúc cuộc diện
nhân loại như hiện nay lại há dám quên là đi vào mê hồn trận sao? Trong mê hồn trận nhân
loại ấy có thể sẽ biến triết thuyết của bạn trở thành một khí cụ ghê gớm, khủng khiếp, tiếp
tay phò trợ cho lừa bịp, điêu ngoa, xảo quyệt, hung bạo, tham tàn gấp ngàn lần trước kia.
Thế nên, Khoa học Tổng tập phải chào đời xuyên đường Tiên Thiên Triết Lý và Lý số học.

Vậy, hiện nay chúng tôi hết sức ra sức thận trọng sao cho Tiên Thiên Triết Lý và Lý số học
vào trọn trong tay các bạn, không còn phải là của riêng tôi hay riêng ai nữa, thành ra một
lực lượng bảng kính vô giá khắp nơi hang cùng, ngõ hẻm, lúc nào cần các bạn cứ mở kiếng
ra soi chiếu vào làm đối phương xuất hiện nguyên hình, đứng trước mặt bạn mà nó vẫn
không hay biết.

Tóm lại, nếu bạn có một ánh sáng, một bảng kính bất cứ loại ánh sáng nào cũng có công
dụng làm cho đối phương hiện hình trước mắt bạn cũng chỉ được ứng dụng vào chỗ tối tăm
hoặc lúc cần của lĩnh vực hay là thời tối tăm mà thôi. Bạn hãy nên cẩn trọng khi sử dụng
bảng kính vô giá, cũng như lúc truyền thụ.

Tiên Thiên Lý số học đang phổ biến với tính cách kết bạn và gần như biếu không. Nếu các
bạn có đến để làm bạn thì các bạn cũng chỉ được cái biết, chớ không có danh lợi gì cả,
không có miếng mồi dụ dỗ, bày trò hốt chụp tinh thần, mê hoặc nhân tâm, mà chỉ có một
niềm hy vọng là khi bạn học Tiên Thiên Lý số được chút nào thì bạn nên mở lòng rộng rãi
gấp rút truyền bá cho người trong gia đình bạn, một người cũng được, nhiều càng tốt, bất
phân nam nữ. Việc làm truyền bá học thuật Tiên Thiên của bạn sẽ chứng tỏ được lòng dạ
không ích kỷ, gặp được của báu hưởng thụ riêng mình…

Được vậy thì xem như bạn đã góp công đắc lực thi hành tôn chỉ, mục đích của người sáng
tạo cũng như của Việt Nam Dịch Lý Hội vậy.

Dịch Lý Sĩ XUÂN PHONG

AnhNgoc
17-10-09, 20:46
Cảm ơn Virgo đã có công sưu tầm và đăng tải cuốn sách này lên để các bạn đang học Việt Dịch có tài liệu nghiên cứu môn học rất hay nhưng hiếm tài liệu này. Mong bạn sớm đăng toàn bộ sách này lên, cảm ơn bạn rất nhiều .
Thân.

virgoo
18-10-09, 19:18
CÁCH ĐỌC SÁCH THEO PHƯƠNG PHÁP
CỦA KHOA DỊCH LÝ


Ước mong phương pháp này sẽ thích hợp cho các bạn ưa thắc mắc và phát minh.

1-/ Đọc đại cương

Mục đích dễ hiểu:

• Đọc dàn bài

• Đọc toàn quyển sách

2-/ Đọc chi tiết

Mục đích để nhập tâm:

• Đọc kỹ từng chữ, đoạn

• Đọc lại nhiều lần một chữ, đoạn

• Đọc bằng cách “nhơi” để tiêu hóa, có thêm phát kiến mới

3-/ Trình bày các điều đã thu thập được

Mục đích để chứng tỏ trình độ tiến hóa của tư tưởng

virgoo
18-10-09, 19:22
I- Định nghĩa: Dịch Lý Học là gì?

Dịch: thay đổi, luân chuyển, biến hóa

Lý: lý lẽ, cái lẽ sẵn có, cái lẽ đương nhiên

Học: bắt chước, nghiên cứu




Dịch Lý Học là một khoa học, nghiên cứu và giải thích về nguồn gốc cái lý khởi đầu, có
sự biến động của Vũ Trụ, căn cứ trên tiềm lực của Yếu Lý Đồng Nhi Dị.

Dịch Lý Học lại còn là một khoa học của mọi người. Vì Dịch Lý Học đã được con
người nghiên cứu và giải thích dựa trên tiêu chuẩn suy luận.

Suy luận là để tìm trong sự kiện chưa biết, những điểm tương tựa mà hơi khác biệt với
sự kiện đã được chấp nhận, để có một ý niệm khái quát về sự kiện đó, hoặc để xác nhận
sự Đồng Nhi Dị (giống mà hơi khác nhau) giữa sự kiện đã được chấp nhận và sự kiện
mới, hầu có thể do sự hữu lý mà nhìn biết được dễ dàng sự khác mà hơi giống nhau giữa
các sự kiện.

Do đó, nghiên cứu và giải thích về nguồn gốc cái lý khởi đầu, có sự động biến của Vũ
Trụ, chúng ta bất đắc dĩ phải căn cứ trên tiềm lực của Yếu Lý Đồng Nhi Dị, đã thể hiện
qua các hình ảnh của vạn vật, mà con người có thể quan niệm được, như sự sinh hóa,
tuần hoàn, động tĩnh, đổi thay không giây phút ngừng nghỉ được, để chứng minh, suy
luận về Lý Dịch.

Ví dụ: sức nóng của mặt trời là một năng lực, có thể thu hút làm cho nước ở sông, hồ, ao,
bể, ruộng, đầm bốc hơi lên. Hơi nước tụ lại thành mây, và khi có luồng gió nóng hoặc
lạnh thổi đến, đám mây rơi xuống thành mưa. Nước mưa ấy lại trở về sông, hồ, ao, bể,
ruộng, đầm… rồi lại bốc hơi lên, thành mây, thành mưa… Cứ như thế mà nước luân
chuyển thay đổi mãi từ đời này sang đời khác, không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là hình
ảnh của Dịch Lý vậy.
NƯỚC -------------> ĐỒNG NHI DỊ ------------- NƯỚC MƯA

virgoo
18-10-09, 19:43
II. Nguồn gốc của Dịch Lý học


LÝ DỊCH BÀN TỪ CÕI VÔ ĐẾN HỮU




Vạn vật lúc nào cũng thay đổi, biến hóa và bất cứ thay đổi nào cũng có một nguyên nhân. Nếu nguyên nhân ấy còn do một nguyên nhân khác sinh ra, thì phải ngược dòng nguyên nhân đi lên mãi… Nhưng tất nhiên là không thể ngược dòng mãi mãi được vì ngược dòng mãi sẽ đến li ti, và rốt cùng sẽ đến vô hình, vô thanh, vô sắc, vô khứu, tức là không còn luận bàn được nữa.
Thế nên, chúng ta phải dừng lại ở một nguyên nhân nào đó với tầm hiểu biết của con người, tự hữu, tự tại làm nguyên nhân chính cho mọi nguyên nhân, tùy và không chịu ảnh hưởng một nguyên nhân nào cả. Nguyên nhân đó là lực lượng không chuyển động (tĩnh), vì hễ chuyển động là lại giả sử phải có một nguyên nhân khác phát sinh. Cho nên đặc tính của nguyên nhân đầu tiên là bất dịch, vĩnh viễn, tự nó không biết có từ bao giờ, và bao giờ cũng vẫn có không ở trong thời gian. Tuy nhiên, để nhận thức được “tại sao lực không chuyển động ấy lại là nguyên lực đầu tiên, phát sinh ra mọi chuyển biến sau này”, chúng ta, trong phần nhập môn, chỉ nghiên cứu Vũ Trụ từ điểm khởi đầu đã có sự biến động, nên phải tạm dựa vào những sự kiện mà mắt có thể thấy, tai có thể nghe và trí có thể nghĩ suy được, để diễn tả lại nguồn gốc của Lý Dịch như là các yếu tố về thời gian, khoảng cách (trong phạm vi) và nhiệt độ1 theo quan niệm hiện đại để giải thích về tiềm lực của Yếu Lý Đồng Nhi Dị, đã tạo thành mọi chuyển biến sau này.


http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/07/84711255869574.bmp

Vậy, những ví dụ và các hình vẽ mà tôi sẽ tạm dẫn chứng dưới đây, chỉ có mục đích giúp cho các bạn một phương tiện hầu có thể đạt đến Chân Lý một cách dễ dàng thôi.

Ví dụ: đổ đầy nước vào 2 chậu A và B. Cho 2 luồng nhiệt độ và hàn độ: một lạnh và một nóng, xuyên qua đáy 2 chậu đó trong một thời gian là 60 phút chẳng hạn.

Ta thấy:
- nước đông đặc lại ở chậu A
- nước sôi lên ở chậu B

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/07/55521255869642.bmp

Giữa 2 chậu A và B mặt nước giống nhau, lúc chưa cho 2 luồng nhiệt độ vào.
Sau thời gian 60 phút, cũng vẫn là 2 chậu nước đó, nhưng sức nóng hoặc lạnh đã làm thay đổi bộ mặt của chúng, nghĩa là mặt nước của 2 chậu A và B lúc đầu so với bây giờ đã có sự khác nhau. Vậy, ta có thể kết luận, thời gian khoảng cách (trong phạm vi) và nhiệt độ là các yếu tố có đặc tính làm chuyển biến và gây thành sự khác biệt (Đồng Nhi Dị) cho tất cả vạn vật, dù là sắt đá, cỏ cây hay bất cứ cái gì hiện hữu, trong vũ trụ này, cũng đều bị thời gian, khoảng cách (trong phạm vi) và nhiệt độ ngự trị cả. Cho nên, nghiên cứu về nguồn gốc của Lý Dịch từ điểm khởi đầu có sự động biến theo quan niệm hiện đại. Tất nhiên chúng ta bất đắc dĩ phải chấp nhận thời gian, khoảng cách (trong phạm vi) và nhiệt độ là các yếu tố có thể đã kích thích nguyên lực đầu tiên không chuyển động, từ trạng thái thật hoàn toàn tĩnh (Vô Toàn Vô), bước qua giai đoạn bắt đầu manh nha có sự động biến (sơ hữu). Bởi lẽ, thời gian, khoảng cách (trong phạm vi) và nhiệt độ lúc nào cũng tiếp xúc, ảnh hưởng không ngừng, bất cứ cái gì theo liền với nó, hoặc nằm trong môi trường chi phối của nó, dù ta cho là bất động, vô tri hay vô giác, tất cả đều bị nó làm đổi khác. Do đó, tôi biểu diễn “khoảng trống hoàn toàn không”, một uyên nguyên đầu tiên, không chuyển động của Vũ Trụ, sau khi đã bị thời gian và nhiệt độ ngự trị như sau:

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/07/17031255869801.bmp

Nhận xét hình vẽ trên ta thấy có hai khoảng trống:

(1) Khoảng trống chưa có thời gian, khoảng cách (trong phạm vi) và nhiệt độ chi phối (A).
(2) Khoảng trống đã bị thời gian, khoảng cách (trong phạm vi) và nhiệt độ ngự trị (A').

virgoo
18-10-09, 20:04
Giữa hai khoảng trống, tượng trưng hình ảnh của Vũ Trụ, lúc đầu có sự giống mà hơi khác nhau ấy, ta có thể lấy chu trình này:

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/07/39091255870538.bmp

để giải thích ý niệm trong không hàm chứa có và do có ban cho nghĩa không một sự lý chí lý.
Nếu lấy khoảng trống chưa bị thời gian, khoảng cách (trong phạm vi) và nhiệt độ chi phối, so sánh cùng với đối tượng của nó là khoảng trống đã bị thời gian, khoảng cách (trong phạm vi) và nhiệt độ ngự trị. Chúng ta thấy giữa hai khoảng trống đó đã khác biệt nhau.
Sự khác biệt này, giả sử ta không biết là nó thuộc về phương diện nào: năng lực, tính chất, hình thể, trọng lượng, vô hay hữu hình… Nhưng ta có thể nhận biết được trong các sinh hoạt của người hoặc mỗi vật đều có sự không đồng (khác mà hơi giống nhau), do các yếu tố có tính cách “nhu cầu” mà sự hấp dẫn bắt đầu manh nha tiến dần đến trạng thái manh động, rung động, liên động rồi chuyển động. Trạng thái chuyển động ấy, xâm chiếm một cả thể
của khoảng hư vô và kết hợp, những yếu tố nhu cầu với nhau, gây thành sự quân bình (thăng bằng) tối thiểu, mà lẽ quân bình ấy sẽ là nguồn cội của mọi phát triển sau này. Tôi biểu diễn hình ảnh khoảng trống, có chứa sự khác biệt sau khi đã trải qua một chu trình sau:

Vô1
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/07/82061255870657.bmp

Từ khoảng trống Vô Toàn Vô (Vô0) đến khoảng trống phối hợp (Vô1+Vô2+Vô0+Vô1+Vô2)
là một chu trình. Khoảng trống phối hợp đó, lại là khoảng trống khởi đầu cho một giai đoạn mới của chu trình khác. Cứ như thế mà lập đi lập lại mãi những “bước đi” nhất định của chu trình, từ vô đến hữu hình, từ nội đến ngoại giới, từ tiểu Vũ Trụ đến đại Vũ Trụ, từ con người hoặc các sinh vật khác, bất cứ vạn vật ở dưới hình thức nào tất cả cũng đều diễn tiến theo đúng chu trình đó.
Ví dụ: dựa vào Dịch Lý để truy nguyên và phân tích về mưa, tóm lược trong 4 giai đoạn như sau:

* NGUYÊN (mưa) khởi đầu của mưa, gọi là nguyên mưa, là hơi nước khởi đầu còn trong nước, chưa bốc lên được, là còn trong cõi âm, ở nước.
* HANH (mưa) hơi nước đã có sức bốc lên được gọi là Hanh mưa.
* LỢI (mưa) hơi nước bốc lên mãi, đến một tầng hơi khí nào cùng hòa đồng với nó, tức như có sự ghé lại ở trạm đó một số hơi khí để kết thành mây, đó là hơi chi toại, là Lợi mưa (nên nhớ mây có thấp có cao).
* TRINH (mưa) là hơi nước đã thành mưa, tuy nhiên đám mây bi giằng co giữa lực hấp dẫn của sức nóng bên trên và trọng lượng của hơi nước trong mây rơi xuống do sức thu hút không kịp, hoặc không đủ sức cùng là do sức
nóng bên dưới đi lên, không đủ lực thu hút hết hoặc tan biến nó, nên không tránh khỏi mưa…


http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/08/43921255870810.bmp

Vì muốn cho mọi người đều hội lý được, nên giới hạn một sự việc luôn luôn là ở tầm mắt thấy, tai nghe và trí nghĩ suy được. Vậy các sự việc dĩ nhiên đều có lý NGUYÊN, HANH,LỢI, TRINH.
Trước cái NGUYÊN, HANH, LỢI, TRINH là NHU, THUẬN, LỢI, TRINH. NGUYÊN rồi
đến HANH, HANH này lại là NGUYÊN của LỢI, LỢI này lại là NGUYÊN của TRINH,
TRINH này lại là NGUYÊN của muôn sinh hoạt khác…
Cứ như thế, vạn vật tiến triển từ giản dị đến phồn tạp, từ cực nhỏ đến cực lớn, theo một tiến trình từ một khoảng Không Hoàn Toàn Không đến khoảng không cùng cực trong khoảng không ấy rồi bắt đầu thay đổi tức khoảng không đó có sự khác biệt nhưng là một khác biệt cộng hưởng bởi nó chỉ là một, cho nên sự cộng hưởng không có gì là lạ vì một sự cộng hưởng như vậy mà lẽ quân bình phát hiện và cũng chính vì sự quân bình đó mà lẽ sinh tồn hay sinh hóa mới có, cơ nghiệp Tạo Hóa mới rõ theo một hệ thống nhất luật từ bấy đến nay.

virgoo
18-10-09, 20:16
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/08/80631255871647.bmp
sự quân bình tối thiểu là một mà hai, nếu đem cái tối thiểu một mà có hai đó hợp lại theo chiều dọc thì ta có được số quân bình một mà có ba hay một mà có bốn hoặc một mà có
năm.

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/08/54501255871759.bmp

Hai hình trên hết có thể gây nên ấn tượng cho các bạn về Âm Dương, Tứ tượng, Ngũ hành manh nha. Hình (3) và (4) thì phân tách mổ xẻ rõ ràng hơn, các bạn có thể vẽ hình (5) và (6) thì mới thật là đầy đủ cho phần Tri và Kiến thức. Nơi đây, tôi đem hình (3), (4), (5), (6), (7) và (8) ghép lại thành bốn hình đầy đủ cho Lý Ngũ trung của Hà Đồ hoặc Lạc Thư mà cũng là để cho rõ Lý Ngũ hành manh nha trên phương diện hình bóng.

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/08/30311255871853.bmp

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/18/08/89541255871893.bmp

Hai hình này có chữ Động Tĩnh là vận hội đang đi, các bạn có thể vẽ thành tám hình mới thật là đầy đủ, tức là 4 hình nữa.

virgoo
20-10-09, 18:09
3./ Tiến trình của Vũ Trụ

Theo đà phát triển của Lý Dịch Vũ Trụ từ lúc không thấy hình đến khi thấy có hình hiện nay, đã trải qua các giai đoạn từ:

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/20/05/65381256036369.bmp

Tám giai đoạn tiến hóa này nằm trong phạm vi từ không đến có, trong cái không thể thấy bằng những giác quan của con người như tai, mắt và thần trí… Vì vậy, để cụ thể hóa tiến trình của 8 giai đoạn thành hình Vũ Trụ, chúng ta tạm mượn hình 131 vòng tròn để diễn tả ý niệm Cực Tĩnh sinh Động, Cực Động sinh Tĩnh hầu có thể giúp thêm phương tiện cho mọi người theo dõi học tập dễ tiêm nhiễm vào tiềm thức của mình, cái lý manh nha biến động từ ở Cực Tĩnh (Vô Toàn Vô) sinh động, hoặc Cực Động thì trởlại Tĩnh…
Trong phần diễn đạt, chúng ta sẽ mượn hình bóng năm yếu tố đầu tiên của lẽ quân bình tối thiểu, thay vì đặt cho các tên là Vô, Thái, Nghi, Tượng, Quái hoặc gán cho số 1, 2, 3, 4, 5 hoặc Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ hay Ta, sinh ra Ta, hại Ta, Ta hại, Ta sinh… hoặc có thể gán vào với muôn triệu hình thức khác nhau để suy tư, đo lường mọi sự biến động, để thấy được từng giai đoạn của mỗi sự diễn tiến trong cơ vi nhiệm nhặt qua Luật Âm Dương Vận Hành là Lý Tính siêu nhiên của thiên địa tuần hoàn như sau:


http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/20/06/69611256036578.bmp

Vô, lấy hình bóng của Ngũ nguyên qua đến chữ Vô thứ 6 thì biến, sinh Thái, sinh Nghi,
sinh Tượng, sinh Quái, đều là như thế đến rốt cùng thì Quái Trung Hữu Vô, bốn Vô này
cùng với 6 chữ Vô trước hợp lại là 10 cũng đồng như Thái, Nghi, Tượng, Quái vậy.

A- Lưỡng Nghi
KHỞI THUẬN HÀNH


http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/20/06/51051256036649.bmp

Kể từ hình (12) ta vẫn giữ theo phương thức Cực thì biến, luôn luôn ở đạo thứ 5 nghĩa là từ hình số (12) thì chữ Vô chiếm trung, đến hình số (16) thì chữ Thái chiếm trung, đổi ngôi Vô, rồi đến hình (20) thì Nghi chiếm trung, đổi ngôi Thái… ý niệm rằng: Vô ở giữa là trong tình thế Tĩnh chỉ rõ sự Tĩnh ở trong tình thế manh nha Động là trái lại Thái, Nghi, Tượng, Quái, Động ở trong nguyên toàn Tĩnh của Vô.
Cứ như vậy, đều chưa có huyền diệu, nhiệm mầu, cho nên đến Thái cũng Tĩnh rồi Nghi cũng Tĩnh mà manh nha Động, vẫn giữ Lý Cực Tĩnh sinh Động và Cực Động sinh Tĩnh ấy.

KHỞI NGHỊCH HÀNH

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/20/06/99521256036796.bmp

Trên đồ hình cho ta thấy Vô, Thái, Nghi, Tượng, Quái chỉ lưu hành theo phía Hữu của ta, đến hình số (31) là nghĩa Cực hữu hành rồi mới biến.
Từ hình (32) thì Vô lại khởi đầu chiếm trung như trước và Tả hành tức là Vô, Thái, Nghi, Tượng, Quái đi về phía Tả của ta. Dù vậy, nó cũng vẫn còn động ở trong tình thế Tĩnh và Tĩnh trong tình thế Động; như thế, nghĩa là chưa có gì hết. Ta thấy rõ như là 5 Đạo Vô, Thái, Nghi, Tượng, Quái ấy chưa liên kết, chưa thành diệu lực nhưng bắt đầu thấy được sự mầu nhiệm:

virgoo
20-10-09, 18:27
B- Tứ Tượng (3)

Ngũ hành
Bát Quái
64 Quái

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/20/06/91861256037103.bmp

(3): Nhìn vào các hình vẽ, chúng ta thấy 5 chữ Vô, Thái, Nghi, Tượng, Quái luân chuyển theo các chiều thuận và nghịch. Do đó mà ý niệm được là có Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Ngũ Hành, còn Bát Quái và 64 Quái thì luân lưu ẩn lý ở trong vậy.
Từ hình thứ 52 thì sự mầu nhiệm đã thấy rõ hơn, cơ Tạo Hóa mới nứt ra, ta mới dám tin tưởng bao nhiêu hỗn độn từ cõi âm u tịch mịch như đã đến lúc sẽ an bài.
Kể từ hình số 2 (nội) đến hình số 51 thì ví như chưa thành sự ngưng tụ hay tích lũy hoặc là nói chưa thành tự hữu (hay sơ hữu).
Kể từ hình 52 là nguyên tự hữu bất biến, hằng có đời đời, vô thủy, vô chung là ở đó, vôthanh vô sắc tức là từ vô đến sơ hữu, là cái có của không chớ không phải cái có riêng biệt mà chính là cái có khắp mọi nơi.
Người đời luận về cái có ấy qua hai chiều hướng:
1-Luận về biệt dạng (Cực Vô) tức là luận trở về cõi không nguyên, thích nghĩa là Trời, Tạo Hóa… là ý muốn nói đến cái sơ hữu Vô Toàn Vô, tức là cái có của không không. Cho nên, là khắp mọi nơi vô thanh, vô sắc, vì nó như vậy nên là mầu nhiệm và huyền diệu và là hằng có đời đời, kiếp kiếp, không tưởng, không hủy hoại.
2- Luận về hữu dạng thì hoàn toàn do tai, mắt và thần trí kèm theo sự chiêm nghiệm của chính con người, mượn lời để diễn lý, tức là có âm thanh, có lý trí mà thích nghĩa là khí: nguyên khí, khinh khí… là ý muốn nói đến cái tinh vi của hữu cơ thấy, nghe, làm được, hiểu được một phần nào trong đó có hủy hoại.
Kể từ hình thứ 52 thì có thể ví như uyên nguyên qua tư hữu. Từ hình thứ 52 có thể ví như là Thái Cực (Vô Cực hữu Thái Cực). Thái Cực có sinh trưởng cho đến hình thứ 91. Nếu đem ví nó theo phạm vi của khí thì đó là âm khí. Ấy vậy, từ Âm có sinh trưởng được ví là Dương (Lưỡng Nghi: Âm Dương). So với Vô Toàn Vô cũng như từ hình 52 đến hình 91 so với 50 hình trước thì 50 hình trước năm chữ Vô, Thái, Nghi, Tượng, Quái còn ở trạng thái chưa liên kết, luật động biến hãy còn ngờ vực, chỉ thấy được sự động manh nha, tức là động còn ở trong tình thế tĩnh, chưa có sự liên động. Nhưng từ hình 52, 53, 54 trở đi thì không còn ngờ vực nữa.
Ta xét theo trên hình đồ thì như là huyền cơ Tạo Hóa đã khởi cửa Trời khai mở rõ (đây nói rõ là cái rõ của cõi Âm), là cõi Âm khởi có sinh trưởng tại thượng: Thượng khởi Âm.
Hình thứ 52, 53, 54 cho ta thấy rõ sự liên kết của Vô, Thái, Nghi, Tượng, Quái nghĩa là Vô, Thái, Nghi, Tượng, Quái di động đều theo liền với nhau.
Khởi đầu hình 52 là Vô chiếm trung, qua hình 53 thì Quái chiếm trung, hình 54 thì Tượng chiếm trung, rồi hình 55 thì Nghi chiếm trung… Tóm lại, chỉ còn cái động theo Vô, như nói lên cái sơ hữu đứng ở trong Vô, chứ không có chỗ khác để đứng.
Tất cả đều theo Vô mà động, tức là Vô chi phối tất cả: Vô thoát ra thì Quái theo vào, Quái thoát ra thì Tượng theo vào, Tượng thoát ra thì Nghi theo vào trung cung ấy. Từ đây, ban cho chúng ta được một ý niệm vững chắc là Vô và sơ hữu tự làm căn bản cho nhau đến vô tận.

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/20/06/96631256037702.bmp

Từ hình thứ 52 là lúc Âm mới có liên kết. Sự liên kết này trên hình đồ cho ta thấy được đầu trót theo Vô mà động Vô thoát ra cửa nào thì rắc kéo theo đó là Thái, Nghi, Tượng, Quái hoặc trái lại là Quái, Tượng, Nghi, Thái. Sự luân lưu như thế cho ta ý niệm là sự huyền diệu, siêu nhiên sẽ rộng mở:

Vô thoát ra ở cửa Hữu
Thì Quái ở cửa Tả theo vào
Vô thoát ra ở cửa Tả
Thì Quái ở cửa Hữu theo vào chiếm trung,

Rồi kế đó Thái thoát ra thì Nghi theo hoặc Tượng theo vào trung cung (một vào, một ra) do lý lẽ đó, ta thấy năm Đạo vận hành có cái cơ ấy, là muốn cho người sau ghi nhớ cái lý manh nha đó, nên được gọi là Ngũ Hành. Như vậy thì lý Ngũ Hành đã rõ từ đây.

Ngũ Hành khởi từ lúc mới có sự sinh trưởng của Âm, tức là từ hình đồ 52, 53. Nếu suy cho tận cùng kỳ lý thì Ngũ Hành đã có trong trạng thái lờ mờ, từ khi khởi lẽ quân bình tối thiểu là một mà hai, một mà ba, rồi một mà có năm. Như thế, cơ vi quân bình tối thiểu là nguồn cội, là gốc phát sinh vạn hữu vậy.
Sở dĩ người đời trước không truyền cho hậu thế muốn triệu hành mà chỉ nói có Ngũ Hành là ý nói cho rõ gốc sinh ra vạn hữu. Đó là truyền Lý từ ở gốc ra, mà không truyền từ ở ngọn vào. Học từ ở gốc thì học một biết muôn trùng. Còn học từ ở ngọn thì học muôn trùng mà có biết được cái gốc của muôn trùng hay không? Nhất định ắt là rờ ngọn mà tưởng là gốc. Lại nói về hình thứ 52, ta soát lại thấy Vô chiếm trung mà Thái Cực ở tại Thượng, khởi đi về phía Hữu của ta. Cứ luân lưu cho đến hình thứ 92 ta mới thấy được cái lý Thượng khởi Âm, Hạ khởi Dương, chỉ có ý nghĩa là trên đi thì xuống, dưới đi thì lên. Từ hình 52, nhìn vào cửa mở thì thấy có 10 hình, tức là đến hình thứ 62 thì cửa liền trở qua phương NAM, được 20 hình, đến hình thứ 82 thì cửa mở ở phương TÂY cho đến hình thứ 101, qua đến hình 102 thì cửa mở ở phương BẮC cho đến hình thứ 121; từ hình 122 cửa trở về phương ĐÔNG, hợp với 10 hình trước thì cũng đủ 20 hình. Đến đây cơ Tạo Hóa đã thật sự hằng có đời đời là thật sự hằng biến động, không giây phút ngừng nghỉ, gọi là DỊCH mà cũng gọi là Trời vì lẽ đã mở đủ bốn phương.

virgoo
21-10-09, 17:12
4. Ký hiệu Âm Dương

Âm Dương là gì?
Âm Dương là hai danh từ tượng trưng để phân biệt chỗ Đồng Nhi Dị của vạn hữu.

Âm Dương cũng còn là hai tiếng nêu lên của khoa Động Tĩnh học để cho mọi người có thể lấy đó làm đường lối mà nhận định các vật, việc mọi nơi; đều có tánh cách tuy là tương cầu mà như có ngược lại với nhau chẳng hạn như ngày thì đối với đêm, nóng đối lạnh, tối đối sáng, trống đối mái, cao đối thấp, mau đối chậm, nặng đối nhẹ, già đối trẻ,
nam đối nữ…

Những yếu tố có tánh cách nhu cầu mà tương quan như các dẫn chứng trên, đã diễn ra dưới muôn vàn hình thức khác nhau, song tất cả đều nằm trong một hệ thống nhất luật.
Vì vậy, người xưa đã nghĩ cách đặt ra các ký hiệu giản dị, dễ biết, tượng trưng cho các yếu tố có tánh cách hơi khác biệt với ước vọng là sẽ kiểm soát được mọi tiến hóa, mọi động tĩnh đổi thay của chúng để phác họa cho mình một đời sống thích hợp với luật động biến.

Tôi đã dùng hình 131 vòng tròn là để chỉ cho rõ lý Ngũ Hành. Trong 130 hình tròn đó đã đủ gây cho các bạn một ấn tượng về Ngũ Hành, nhưng về Lý Âm Dương luân chuyển Tứ Tượng, Bát Quái do phối hợp mà sinh thành thì rất mờ, vậy chúng ta có thể lấy hình 2 vòng tròn A, A' thu nhỏ lại thành:

- Hai dấu chấm làm ký hiệu của Âm, tượng trưng cho Tĩnh, khó thấy biết ngoài thần trí con người.
- Một dấu chấm làm ký hiệu của Dương, tượng trưng cho Động, dễ thấy biết, có thần trí con người ở trong.

Hoặc đổi hai dấu chấm thành điểm tròn đen (•) và một chấm thành điểm tròn trắng (ο) mà Hà Đồ và Lạc Thư của dân tộc Trung Hoa đã mượn các điểm tròn đen, trắng ấy để diễn tả ý niệm Âm Dương, Ngũ Hành sinh hóa…

Nếu, biểu diễn cả hệ thống Âm Dương, Ngũ Hành bằng các điểm tròn đen, trắng, chúng ta khó phân biệt được các giai đoạn sinh trưởng của Âm Dương, Ngũ Hành. Vì vậy, để khỏi nhầm lẫn và cho được rõ ràng hơn, ta kéo dài hai chấm thành vạch đứt (http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/21/05/92311256119388.jpg) để
tượng hình Âm và một chấm thành vạch liền (http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/21/05/18411256119414.jpg) để tượng hình Dương hoặc hiểu cách khác là Vô hay Hữu, Động hay Tĩnh, huyền vi hay hiển hiện thì cũng vậy.

Khi đã có được hình bóng gồm nghĩa Động, Tĩnh tức Âm Dương rồi thì từ đó 2 vạch này sẽ là nguyên ủy để tác thành Hữu Hình Học cho khoa Động Tĩnh Học vậy.

Dù là chấm hay vạch, chúng ta cũng đều thấy rõ lý quân bình ở trong.

Ví dụ: trên một tờ giấy trắng, tượng trưng khoảng Không Hoàn Toàn Không, ta ghi một chấm hay vạch lên mặt tờ giấy:

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/21/05/78481256119369.jpg

virgoo
21-10-09, 17:13
Ta thấy, nếu lấy phía trên hay phía dưới, bên tả hay bên hữu của chấm hay vạch, so với
nhau để tượng trưng ý niệm có sự thăng bằng hấp dẫn bên trong:

Thì dù quan niệm bằng hình, vạch hay chấm, tất cả cũng đều cho ta cái lý một mà hai, một mà ba, một mà có năm là nguyên lý duy nhất, biểu hiện sự sinh hóa muôn đời vậy.

Chúng ta có thể giả sử là bây giờ cứ đem cái vạch Âm hoặc Dương chồng chất lên nhau, với tư cách là hoàn toàn không biết gì về hệ thống luân chuyển, cùng cách thức phối hợp của Âm Dương ra sao nghĩa là chúng ta chỉ hiểu là Âm Dương quây quần hoặc trên http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/21/05/26381256119327.jpg
Sau khi phối hợp lộn xộn như thế ta có được bốn hình bóng (Tứ Tượng) đại diện cho muôn vàn cái Động, Tĩnh từ trong vô giây đến giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm…

Bốn hình bóng này là bốn hiện trạng có tính lực khác biệt nhưng tương quan với nhau nên ta có thể dựa vào tính lực của nó mà gán cho mỗi hình bóng một danh từ để neo ý tưởng và cho dễ nhận biết như là:

- Dương nhiều thì gọi là Thái Dương
- Âm nhiều thì gọi là Thái Âm
- Một Dương trên một Âm thì gọi là Thiếu Dương
- Một Âm trên một Dương thì gọi là Thiếu Âm
Tóm lại, chúng ta có thể bảo rằng tất cả chỉ có cái lý lẽ Tĩnh tương Tĩnh, Động tương Động hoặc Động tương Tĩnh, Tĩnh tương Động. Vậy, nếu Động, Tĩnh hay Âm Dương ấy cứ chuyển biến không đình nghỉ thì bốn hình bóng của Thái Âm, Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương sẽ tạo cho cái nguyên ủy đầu tiên thành cái gì? Nên ta đem Âm Dương giao qua, trên hoặc dưới của bốn hình bóng đã có, để xem cái Âm hoặc cái Dương đó, thành ra những hình tượng thế nào?

Chúng ta thấy có được tất cả 16 hình bóng hoặc:
- Thượng khuyết (trên đứt)
- Trung hư (giữa rỗng)
- Hạ đoạn (dưới đứt)
- Trung mãn (giữa đầy)

virgoo
21-10-09, 17:15
Và bỏ bớt những tượng hoặc hình trùng nhau thì còn lại được 8 hình bóng có tên là Bát
Quái như sau:

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/21/05/18841256120129.jpg

Tám hình bóng này là tám hiện tượng hay tám định lý căn bản, diễn tả lại 8 trạng thái hay 8 giai đoạn thành hình từ uyên nguyên qua tự hữu đến nguyên khí, nguyên tính, nguyên thần, nguyên sắc, nguyên chất, nguyên thể của mọi sự việc, cho nên dù là muôn sự hóa sinh hỗn độn bất cứ cách nào cũng không ra ngoài được 8 định lý ấy.

Vậy, theo lý tính liên quan mật thiết của Âm Dương ta có thể gán cho mỗi hình bóng một tên tùy theo hình thể của chúng, như thấy:

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/21/05/94491256120187.jpg

Thế là với tánh cách hoàn toàn vô tư, chúng ta đã có thể tự tạo thành được 8 hình bóng với 8 sơ danh là Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Kiền. Tám sơ danh này thời xưa đã đặt ra để neo ý tưởng, để truyền lại cho hậu thế suy ngẫm, học tập dựa theo đó mà phát kiến thêm những điều mới lạ (ôn cố tri tân). Cho nên, riêng theo quan niệm của
tôi thì đó là một sự bất đắc dĩ trong khi làm sách vì gượng ép mà giả lập để cho sau này học giả dễ nhận biết. Vì vậy, tôi mong rằng khi nghiên cứu và thực nghiệm những điều viết ra trong tập sách này, các bạn nên xem như là một phương tiện mà chúng có thể giúp cho các bạn thâu ngắn được nấc thang Chân Lý, chớ các bạn đừng học chết nghĩa của 8 sơ danh ấy mà sẽ không đạt được Lý.

Để sáng tỏ phần nào về 8 sơ danh Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Kiền, tiền nhân đã thử tìm hộ cho chúng ta trong cơ nghiệp Tạo Hóa, sự vật nào có thể có được Đức Tính tương tự như 8 sơ danh của 8 hình bóng trên như sau: nếu suy theo Lý Âm Dương, thượng hạ, thì:

- KIỀN có nhiều vạch Dương, chỗ ở là trên, tính Động ở ngôi tôn kính, cương kiện, rộng lớn nên có thể lấy Trời (thiên) để tượng trưng cho nghĩa KIỀN.

- KHÔN có nhiều vạch Âm, chỗ ở là dưới, Tĩnh, nặng, nhu thuận, hẹp, nhỏ nên có thể lấy Đất (địa) để tượng trưng cho nghĩa KHÔN.

- Trời Đất có biến lực và tụ lực. Biến lực thuộc Dương, tính nóng sáng nên có thể lấy Lửa (hỏa) để tượng trưng cho nghĩa LY và tụ lực thuộc Âm, tính lạnh, tối, nên có thể lấy Nước (thủy) để tượng trưng cho nghĩa KHẢM.

- Nước, Lửa bất thường gặp nhau, tạo nên sự sôi động, gầm thét, dấy lên, nên có thể lấy Sấm (lôi) để tượng trưng cho nghĩa CHẤN và tiếng gầm thét, sôi động ấy tan biến, chạy đi kinh động khắp trong muôn vật nên có thể lấy Gió (phong) để tượng trưng cho nghĩa TỐN.

- Còn những sự vật, ta thườngg có thể lui tới, thấy biết, gần gũi được thì hoặc là lồi hoặc lõm nên có thể lấy Núi (sơn), Đầm (trạch) để tượng trưng cho nghĩa CẤN và ĐOÀI.

Tóm lại, trong khi đặt tên cho 8 sơ danh: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Kiền,tiền nhân đã ngữa trông và tôn kính, cúi xét mà phân định sự vật theo đặc tính của Âm Dương, nên đã cho nghĩa Âm Dương là Trời Đất đáng liền với Kiền, Khôn, và tiếp tục tìm trong khoảng Trời Đất ấy, cứ một thượng rồi lại một hạ, tức như thượng Hỏa, hạ Thủy thì đáng với Ly, Khảm, thượng Động hạ Tĩnh thì đáng với Chấn, Cấn, còn chạy đi,hoặc ở thì đáng với Tốn, Đoài.

Như vậy, 8 hình bóng này chỉ cho ta một ý niệm đại cương về sự vật trong bao la, cũng chỉ có Âm Dương mà thôi. Nếu muốn thấu đáo từng trạng thái của muôn vàn cái động,tĩnh trong trời đất thì chúng ta phải rõ được hệ thống động tĩnh tức là các sự biến động theo trong khuôn khổ nào.

virgoo
21-10-09, 17:17
Chúng ta đem Định Lý 8 ấy cùng với Định Lý, tức là 8 làm Âm và tám làm Dương thành ra là hệ thống của Động Tĩnh để diễn đạt thêm nghĩa cấu tạo Âm Dương của vạn loại mà được 64 cái Lý Tính Âm Dương khác (chúng ta có thể tưởng tượng hệ thống Động Tĩnh như là một cái lò đúc lớn của Tạo Hóa trong đó chỉ có 64 mẫu khuôn, hình dáng khác nhau và chính lò này đã đúc ra bộ mặt của Vũ Trụ cùng với vạn loài dưới nhiều hình thức, rồi quá trình tiến hóa của Vũ Trụ, đến nay có nào là: người, vật, cỏ, cây, sắt, đá, … Có đầy đủ ý nghĩa của Luật Động Biến hơn mà bất cứ sự vật nào cũng phải trải qua 64 trạng thái, hệ thống Động Tĩnh ấy, mới có thể tự nó vượt lên và sát nhập vào vòng sinh hóa, luân chuyển được.

Khi ghép 2 đơn Quái chồng lên nhau để thành một Quái kép, trong 64 Quái thì tên của mỗi đơn Quái sẽ đọc là:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/21/05/53081256120267.jpg

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/21/05/35831256120331.jpg

virgoo
23-10-09, 18:43
5. Âm Dương với các thể hiện

Sau các phần suy lý và diễn tả về sự tạo lập Vũ Trụ, lượt qua trên 8 Định Lý, Đinh Luật có 64 hệ thống Âm Dương, với nhiều lần “dừng chân” ở các trạm Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh khoảng Không Hoàn Toàn Không biến thể (cùng Cực tắc biến), rồi lại bắt đầu tiếp tục trở lại một tiến trình khác, y như các giai đoạn trước nhưng với bộ mặc khác lạ mà những đặc tính Đồng Nhi Dị vẫn có trong hữu thể mới một cách rõ ràng hơn. Hiện nay, chúng ta có thể nhận thức được như sau:
Ví dụ chúng ta thử ghi nhận về nhiệt độ biến chuyển của mặt trời trong một ngày, theo quan niệm và cảm giác hiện đại, để xét trên một khía cạnh về nhiệt độ, sự giống mà hơi khác ra sao?
Chúng ta thấy:

- Buổi sáng hơi nóng
- Buổi trưa thật nóng
- Buổi chiều hơi mát
- Nửa đêm thật mát


http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/23/06/21951256297687.bmp

Đó là dựa trên sự bẩm thụ của chúng ta để phân biệt mà nhiệt độ có từng trạng thái khác nhau. Thật vậy, nếu phân tích kỹ bốn loại nhiệt lực trên thì hơi nóng và hơi mát chỉ là sự thụ cảm của ta với vòng thời gian hoặc do biến cảnh, biến cách của Vũ Trụ mà thôi (đại hay tiểu Vũ Trụ cũng đều như vậy).

Thế nên, chúng ta có thể định cho hơi nóng và thật nóng là Đồng mà Dị hoặc hơi mát và thật mát là Đồng mà Dị.

Như vậy, thì trong một khía cạnh, vạn vật đều có Yếu Lý Đồng Nhi Dị tức Âm Dương nghĩa là một thể hiện dù dưới bất cứ hình thức nào, tất cả đều được cấu tạo theo một nguyên lý nhất định là Âm Dương luân chuyển phối hợp mà sinh thành.

Ví dụ: nguyên lý Âm Dương thể hiện trong phạm vi con người. Chúng ta thấy có hai hình thức là đàn ông (Dương) và đàn bà (Âm).

Nếu nghĩ xa hơn nữa thì trong mỗi cơ thể của mỗi loại lại có hai phần:

- Phần thấy được gọi là thể xác (Dương)

- Phần rỗng trong thể xác (Âm) ví như các khoảng trống của thể xác, chẳng hạn như các lỗ trống trong xương, trong thịt, trong tóc…

Hai phần này nếu không hòa hợp, cân xứng, nương tựa, nuôi nhau thì cơ thể không kết thành mà sống động, tiến hóa được. Cho nên ta có thể nghĩ là trong Âm phải có Dương và trong Dương phải có Âm, nghĩa là Âm Dương có tương giao, tương cảm, tương xứng, hòa hợp ở trong thì mới phát triển sinh tồn mãi được.
Nói cách khác, nếu đem hai cục cây hoặc hai viên đạn chai kề sát nhau mà không nhờ một sự phối hợp cân xứng khác gọi là Âm như cây đinh hoặc một chất keo thì cây, đạn vẫn chẳng ở với nhau được.

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/23/06/97261256297983.bmp

Nếu suy luận theo triết lý Kinh Dịch thì con người được xem như là một thể Tú khí của vạn ức Tú khí kết thành sống động, là một kết tinh phối hợp của Ngũ Hành. Khí Ngũ Hành trở nên ấy, nay gọi là Tú khí. Tú khí ấy thành là do bởi 64 trạng thái. 64 trạng thái ấy có là do bởi 8 Dịch Lý (Bát Quái). 8 Định Lý ấy có là do bởi luân chuyển (Tứ Tượng). Luân chuyển ấy có là do bởi không đồng (Lưỡng Nghi). Không đồng ấy có là do ở đồng (Thái Cực). Ý nói gồm đồng đều, đủ cả. Đồng ấy có là bởi trong Cực Vô (Vô Cực). Cực Vô ấy có là do bởi Vô Toàn Vô.

Thế là theo sự truy nguyên như trên ta đã thấy, ta được vì như Tú khí của Ngũ Hành; vậy Tú khí ấy vẫn luân lưu trong 64 khung cảnh. Hoặc có nghĩa là một sự sống động lớn, thời đi đi, lại lại trong một cái nhà rộng lớn vô tận, có 64 trật tự lớn an bài và một Tú khí nhỏ bé vô cùng thì cũng đi đi, lại lại trong một cái nhà nhỏ bé, có 64 trật tự nhỏ vô cùng vậy.

Dịch nói: ở chỗ lớn thì có hạp tịch tiêu trưởng lớn, ở chỗ nhỏ thì có hạp tịch tiêu trưởng nhỏ. Bởi cớ ấy nên người đời có lý do theo dõi và nghiên cứu Dịch Lý, vì Dịch Lý có thể đem lại một ánh sáng trong sự tối tăm tức là khi có một điều gì quá sâu kín mà tai, mắt, trí của con người chưa hiểu biết hoặc nghe thấy được thì Dịch Lý như bó đuốc vô tư tuyệt đối không thiên vị bất cứ vô hay hữu hình.

Dịch nói: Dịch vô vi dã, vô tư dã; vô tư ấy sẽ thỏa mãn đầu óc tò mò của ta một cách hết sức chân thật, giúp ta tiến bước trong mọi phạm vi mà không còn bị lầm lạc.

Nhân Lý Tính vô tư, vô cùng tận của Dịch Lý mà người đời đã lợi dụng nó, để tri lai, tri vãng, tức là để thấu suốt về quá khứ vị lai chắc không có gì là lạ.

Theo đường lịch sử mà nói thì người đời đã lợi dụng Dịch Lý một cách thiết thực, qua với nhiều cách có lúc chói lòa còn ghi trên sử sách chẳng hạn như Phục Hi, Thần Nông đã dựa vào hình bóng Dịch Lý mà chế ra cày, bừa, ghe, thuyền; Nghiêu, Thuấn, Huỳnh Đế chế xiêm y là theo nghĩa lý của Dịch tượng Cách; Văn Vương thì dùng Dịch Lý vào trận mạc, Khổng Tử lại theo Dịch Lý để lập một học thuyết với kiến thức của mình. Điều này về sau Khổng Tử tự nhận rằng: “gia ngã sổ niên, tốt dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hỉ”
nghĩa là “cho ta sống thêm ít năm nữa, để trót công nghiên cứu Kinh Dịch, ắtkhông phạm điều lỗi lớn…”
Thế nên, ý thức về đời sống con người, xuyên trong Lý Tính Âm Dương, Ngũ Hành tức là ví cái Ta như một hữu cơ sống đông. Ta là ứng dụng của Tạo Hóa, đứng trong luật Tạo Hóa như 1 diễn viên góp phần diễn xuất trong sân khấu Tạo Hóa. Ta là một Tú khí của vạn ức Tú khí, trải qua và kết thành. Có sau đối với ngàn xưa, mà là có trước đối với ngàn sau. Thiết tưởng không có gì bằng lấy cái Ta làm căn bản học và luôn luôn học trong ta ngỏ hầu ta có nhiều dịp có thể dám thành thật với ta: một là kiểm soát được sự nhận xét của tiền nhân, hai là chúng ta sẽ tự kiểm soát mọi sống động của ta một cách đầy đủ, dễ dàng, mà tránh được sự phỉnh gạt của các học thuyết sai lầm. Ta tự do theo kiến thức, trình độ của riêng ta mà tiệm tiến.

Thật là chí thiện nếu dám tự xét mình và thành thật học với chính mình, để rồi ta sẽ có một đức tin mãnh liệt với chính ta, cũng như ta sẽ không còn mượn lý tưởng, tinh thầncủa kẻ khác làm thần tượng của mình nữa.

virgoo
23-10-09, 18:55
Trong kiếp sống, ta cùng với muôn loài vạn vật, tất cả có cái sống động của ta, đi đi, lại lại cùng với muôn triệu ức sống động khác quanh ta, có thể qui tụ vào trong lặng lẽ và thầm kín nhất của ta hai nỗi niềm nghĩa là tâm hồn ta thơ thới hay u hoài (vui, buồn).

Thuận ý ta thì vui (Dương).
Nghịch ý ta thì buồn (Âm).

Sự việc thuận nghịch với lòng mong muốn của ta mà sinh ra vui buồn. Do đó, tiền nhân đã xác định và neo ý tưởng bằng hai danh từ:

- Được sinh
- Bị khắc

Nếu lấy cái Ta mà luận theo nghĩa Tĩnh như là một mà ba, thời ta có thể tạm phác họa ra hình ảnh như sau:

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/23/06/65791256298383.bmp
Theo hình vẽ thì luôn luôn có hai vòng tròn. Đó là một ấn tượng ở trong mỗi cái đã thành hình bóng hoặc thành một hạt nhỏ bé vô cùng cũng đều có Âm Dương. Có nghĩa như là Ta khắc được cái khác, mà cái khác cũng khắc được Ta, cũng như Ta đi sinh được cho cái khác mà cũng có cái khác sinh được cho Ta.
- Giúp ta theo nghĩa Tĩnh là Ta được sinh.
- Hại Ta theo nghĩa Tĩnh là Ta bị khắc.

Còn theo nghĩa Động là Ta đi sinh hay là Ta đi khắc kẻ khác. Ta theo nghĩa Tĩnh đã phác họa, nối tiếp hình vẽ dưới đây là Ta theo nghĩa Động để
thấy rõ cái Ta đứng ở trong cơ vi quân bình tối thiểu (Ngũ Hành) có thể biểu thị như
sau:

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/23/06/22631256298577.bmp
Theo đồ hình trên, ta đã rõ lý một là ba và một mà năm, qua nhân cơ Ngũ Hành miêu tả. Biết được trong thầm kín và lặng lẽ nhất của cái Ta cũng như biết được sự lặng lẽ và sâu kín nhất bao quanh, vây kín cái Ta tức là biết được cái lý không Ta là cái lý manh nha sinh khắc Ta, cũng là cái lý Đồng hay Khác Ta, là cớ manh nha vui buồn, bao phủ quanh Ta và trong Ta.

Vui buồn là cái gì ẩn trong cái Ta thể xác, chợt ẩn chợt hiện mà Ta không rờ mó được nó, không khóa được nó lại một cách dễ dàng, nhưng nhận được là có nó. Vì vậy tiền nhân đã đặt tên cho cái gì huyền diệu, khó thấy như vui, buồn một danh từ để cho mọi người đều dễ hiểu dễ nhớ là Thần.

Thần là cái gì mà thường nhân coi là trừu tượng, khó thấu đáo. Thần là cái gì hiện ở khắp mọi nơi, mọi trường hợp mà không hình thể. Thần không làm gì cả thế mà Thần làm hết cả mọi việc. Thần không ở phương nào cả thế mà Thần ở khắp mọi nơi.

Dịch luận: Thần vô phương nhi Dịch vô thể. Ấy vậy, Thần chi phối ta, chi phối tất cả, là linh động mọi trường hợp, mọi nơi. Như vậy là Thần ở trong Ta mà cái Ta sống động cũng là Thần nốt. Vậy Ta là sự hiển vinh của Tạo Hóa, là một vi ti trong cơ nghiệp của Tạo Hóa hiện hành.
Bây giờ khởi đầu suy luận cái Ta là Thần, theo triết lý Âm Dương, Ngũ Hành như sau:
Khi chưa có gì thì miễn luận bàn. Nhưng khi đã có thì có Thượng, Hạ, Tả, Hữu nên:
Ta gọi là Dụng Thần
Giúp Ta gọi là Nguyên Thần
Hại Ta gọi là Kỵ Thần
Ta giúp gọi là Tiết Thần
Ta hại gọi là Cừu Thần

Nên nhớ rằng ẩn trong cái Ta siêu việt, sâu kín là cái lý manh nha sinh khắc, vui buồn, nay được gọi là Thần.

Phân tích và đặt tên cho một cái Ta, bất cứ là đồng hay khác Ta, nhỏ bé hay to lớn, chung cho mọi cái Ta ở khắp mọi nơi, một danh từ là Dụng Thần. Nghĩa Dụng là dùng tức là sẽ trở nên hết sức linh động, hữu dụng và biến đổi, hay biến hóa vô lường.

Biến hóa có nghĩa là cái Ta có khi chính là Nguyên Thần, mà lại là Cừu Thần, Tiết Thần, Kỵ Thần chớ không nhất thiết là Dụng Thần và chính vì như vậy nên gọi là Dịch Lý. Dịch Lý là cái lý quá nhiệm nhặt nhưng không phải là khó.

Đây, tôi xin ví dụ cho dễ hiểu về cái Ta không nhất thiết là Dụng Thần. Cái Ta hữu dụng ở giây phút nào đó là CHA của một đứa trẻ, thì lại là CON của một người cha, là ân nhân ban phúc cho kẻ khác thì lại là cừu nhân tước phúc của kẻ kia…

Nếu các bạn không chấp nhận được lý lẽ trên thì nên theo ý nghĩa và hình vẽ dưới đây. Có lẽ tiền nhân sợ người đời thiếu vô tư và sẽ không hiểu hết ý nên đem nghĩa lý vào danh từ KIM, MỘC, THỦY, HỎA THỔ gán vào 5 Thần. Thần thì biến hóa vô lường, còn KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ là từ chương, làm cho người học có ý thức hẹp lại nhưng dễ nhìn biết và dễ hiểu hơn.

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/23/06/97811256298894.bmp
Trước đã nói sinh khắc và Dụng Thần, Dụng Thần thì biến hóa vô lường như thu hẹp vào nghĩa KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ e rằng khó thấy được cơ vi nhiệm nhặt nên miễn cưỡng phác họa những hình ảnh trên đây làm phương tiện suy xét.

Nhìn vào hình số 1, lấy chữ MỘC ở trung ương làm nghĩa Dụng Thần thì ta sẽ tìm thấy Nguyên, Cừu, Kỵ và Tiết Thần.

Theo lý sinh như trên hình đã ghi thì MỘC có THỦY là Nguyên, KIM là Kỵ, THỔ là Cừu, HỎA là Tiết. Bây giờ, ta suy xét kế tiếp thì lại thấy MỘC là Nguyên Thần của HỎA, đồng thời MỘC lại là Kỵ Thần của THỔ, là Tiết Thần của THỦY…

Sau khi đi qua các hình vẽ theo đường mũi tên chỉ thì hoàn toàn là sinh, nhưng ta nhìn lại từ phần thượng hay phần hạ hình thứ 5 rồi, 4, 3, 2, 1 sẽ thấy là khắc, đến lượt 5 hình dưới cũng vậy. Theo mũi tên chỉ nghĩa là khắc nhưng thuận chiều từ hình 1 rồi 2, 3, 4, 5 thì lại thấy là sinh, ở phần thượng hay phần hạ (trên hình vẽ).

Các hình phác họa trên đây là cốt ý để chỉ rõ Lý Dịch, bất cứ Thần nào cũng đều có thể là Dụng Thần, là một cái Ta cả. Lấy Ta ở giữa là Dụng Thần để suy luận ra các cái khác là Nguyên, Cừu, Kỵ, Tiết Thần. Nhưng xét theo các hình thì hình thứ nhất MỘC là một cái Ta ở giữa làm Dụng Thần, rồi lần lượt đến KIM, đến HỎA, đến THỦY, đến THỔ cũng là Dụng Thần, tùy lúc động dụng. Cho nên một cái Ta nhỏ bé là một nhân nguyên cơ ngẫu cho các cái Ta khác.

virgoo
23-10-09, 19:05
Một cái Ta con người, có sinh, có khắc đó là muốn nói lên nghĩa Âm Dương và rồi sinh là được sinh hay đi sinh cho kẻ khác cũng là nghĩa Âm Dương; đến nghĩa khắc thì đi khắc kẻ khác hay bị khắc cũng là nghĩa Âm Dương chớ không có gì lạ.

Lý Tính Âm Dương, Ngũ Hành diễn tả theo tính tình của con người, có lẽ đã làm cho một số ít người khó hội ý vì chưa rõ được lúc nào Ta là Nguyên, Dụng, Cừu, Kỵ hay Tiết Thần, cũng như chưa rõ được là sinh khắc, tức như chưa biết Ta là KIM, MỘC, THỦY, HỎA hay THỔ trong giây phút nào có được sinh hay bị khắc hoặc đi khắc hay đi sinh cho thiên hạ.

Vậy, trước khi đi sâu vào Lý sinh khắc, ta nên làu thông về Lý sinh khắc theo nghĩa KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ dưới đây:

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/23/06/26481256299151.bmp
Thế là mỗi Hành đều có sinh và có khắc cho ta một cảm nghĩ khái quát về Âm Dương. Như vậy, thì cái Ta trong luật Ngũ Hành biến hóa là một cái Ta muôn mặt, nào là Ta Nguyên, Cừu, Kỵ, Tiết hay Dụng Thần và hơn nữa là Tình. Ta chân thật, ta giả dối, ta ưa, ta ghét, ta phản bội, ta trung thành, ta chung cùng, ta riêng tư…
Trong cái Ta muôn mặt ấy sẽ lần lượt trình bày không sót một mảy may. Đó là lấy Lý mà bày tỏ. Học giả không nên chất phác định lệ, không nên hiểu hẹp hòi, sơ mọn về con người, với tình người mà sẽ không thấy được sự quan trong thực tế cái Ta đứng trong trời đất cùng với muôn loài vạn vật vì nếu như thế thì có khác nào ta tự muốn diệt hại cái sâu kín trong Ta, chối bỏ Thiên Lý trong Ta.

Nếu không dồi mài rộng mở Thiên Lý vốn đã cùng ta thì chỉ còn hiểu sai biệt con người một cách tư lự, riêng rẽ, hẹp hòi. Như thế lại có thể gọi là Chân Lý được sao?

Thiết tưởng có thể nói mỗi người có một Ông Trời của mình theo trí thức của mỗi chúng ta chớ không nên gọi là Chân Lý. Vì khi nói đến Chân Lý thì lý đó phải có trong tất cả trời đất, quỉ thần, côn trùng, sâu bọ, cỏ cây, sắt đá, gió mây, nước lửa vô hình, hữu hình đều có lý đó, ở trong lý đó, như thế thì mới xứng danh là Chân Lý (Nhất Lý).

http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/23/07/49301256299272.bmp
Theo hình đồ trên mà suy luận thì cái Ta Ngũ Hành ở trong vòng tròn giữa, Âm Dương hỗ tương biến hóa thì rìa ngoài là Bát Quái, như thế cho ta thấy được cái Ta trung tâm.
Xét nội vòng tròn ở giữa thì MỘC là Dụng Thần, THỔ là Cừu Thần, THỦY là Nguyên Thần, HỎA là Tiết Thần, KIM là Kỵ Thần. Xét 4 vòng tròn bên ngoài thì thấy được KIM hoặc THỦY, hoặc HỎA, hoặc THỔ đều có thể là Dụng Thần cả, không nhất định cho một Hành nào là Dụng Thần. Bởi một cái Ta sống động, cái Ta con người đều có thể là Nguyên, Cừu, Kỵ hoặc Tiết Thần, tùy theo sự động của Ta ở giây phút nào, đứng trong luật Âm Dương, Ngũ Hành biến hóa mà suy luận.

Nhưng muốn suy luận cho đúng thì phải nhận xét thậ đúng cương vị hành động trong một hoàn cảnh, một khung cảnh của một sự việc vì cái Ta sống động là trong hệ ở luật Âm Dương, Ngũ Hành biến hóa và luật đó cũng là cái Ta sống động vậy.

Biết được một cái Ta con người là biết được tất cả các cái Ta sống động khác, không phải con người cũng đều như vậy. Tuy nhiên, làm sao biết được cái Ta con người một cách chính xác ở giây phút nào là Thần gì, ta chỉ còn có một cách là phải chọn và đặt ra tình người theo 5 tình nào gần gũi nhất, rồi đem 5 tình người đại khái ấy vào Đạo Ngũ Hành để làm giềng mối suy luận.

Kể từ Âm Dương, Ngũ Hành diễn ý vô tận qua các Thần, rồi lại thâu hẹp vào nghĩa KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ. Đến đây lại thâu hẹp chỉ nói vào tình người gần gũi là cốt ý để cho đại chúng hiểu dễ dàng và có thể tự kiểm soát, tự học ở chính mình, hầu có thể tránh được sự chạy đôn, chạy đáo, mượn áo của kẻ khác để khoác vào vì bị mê hoặc hay mê muội mà tin theo, hơn nữa khi mượn áo khoác vào, lớp áo ấy tả tơi lại phải đôn đáo đi mượn áo khác nữa sao?

Vậy, riêng mỗi chúng ta, tại sao lại chẳng tự có một áo nào vừa vặn cho tâm hồn ta, do chính công phu ta dệt và mặc lấy hỡi các bạn?

Theo cảm nghĩ của nhà Dịch Lý Học thời sức thông minh của thiên hạ không đồng bằng với nhau, nhưng cũng là một cái Ta sống động. Thiết tưởng ta hãy dùng, các bạn hãy dùng khí cụ duy nhất của mình là tai, mắt và thần trí mà suy nghiệm trong mọi lĩnh vực và nên dùng khí cụ ấy một cách siêng năng, cần mẫn và cẩn trọng (quân bình đừng quá độ) thời sẽ đến được huyền diệu, linh ứng và linh nghiệm chẳng sai vậy.

Tình người hạn hẹp trong 5 tình gần gũi nhất để ghép vào luật Ngũ Hành được đặt ra như sau:

1/- Ta: các cái gì ngang hàng như ta, đối với ta, ở giây phút nào đó, trong một sự việc gọi là tình Huynh Đệ.

2/- Giúp Ta: các cái gì bao bọc, che chở, cao thượng đối với ta, ở giây phút nào đó, trong một sự việc gọi là tình Phụ Mẫu.

3/- Hại Ta: các cái gì gây hại, ác ý, phiền muộn cho ta, ở giây phút nào đó, trong một sự việc gọi là tình Quan Quỷ.
4/- Ta giúp: các cái gì được ta dưỡng nuôi, che chở, bảo bọc, ở giây phút nào đó, trong một sự việc gọi là tình Tử Tôn.

5/- Ta hại: các cái gì ta khu xử được, thâu hoạch, thỏa lợi, phá hại được, ở giây phút nào đó, trong một sự việc gọi là tình Thê Tài.

Vậy, 5 tình được đặt ra là Phụ Mẫu, Tử tôn, Huynh Đệ, Thê Tài, Quan Quỷ. Muốn hiểu rõ được 5 tình của cái Ta con người đứng trong trời đất ấy một cách rộng rãi thì chúng ta hãy trả nó về nghĩa KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ tức là đem vào luật sinh khắc của Ngũ Hành thời ta sẽ thấy được tình người theo lý dĩ nhiên trong đó, với câu ca này:

1/- Sinh ra Ta ấy là cha mẹ của Ta.
2/- Ta sinh ra nó ấy là con cháu.
3/- Khắc hại Ta ấy là quan quỷ.
4/- Ta khắc hại nó ấy là vợ hay là tài lợi.
5/- Cùng hòa với Ta ấy là anh em.

Tiền nhân đã dựa vào Ngũ Hành là từ chương điển hình làm một nền tảng và luận lý lên trên đó hết sức sâu rộng, mà cũng hết sức nhiệm nhặt, cốt ý để cho học giả lấy đó làm nấc thang học tập, mà tiến đến hội lý, quán thông luật Tạo Hóa, luật Thiên Địa tuần hoàn. Ta không nên hiểu chết nghĩa KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ mà nên hiểu đó là Thần sinh khắc, biến hóa vô lường.

Tự ý thức được như vậy thì trong các bạn, trong mỗi cái Ta con người sâu kín, về sau sẽ sở đắc là Thần Hoạt Biến, tức là sẽ hiểu khắp muôn loài, chớ không phải chỉ có con người riêng rẽ, hẹp hòi như các học thuyết khác.

Nhưng muốn có được Thần Hoạt Biến trong cái Ta sâu kín, muốn hiểu khắp muôn loài thì phải tập nhìn biết, học biết và tập cách ý thức vạn loại vào Bát Quái.

Ý thức vạn loại vào Bát Quái thường phải căn cứ theo nghĩa của Bát Quái rồi phối hợp với Ngũ Hành của mỗi quẻ mà tuyệt vời nhất là Lý Tính. Ví dụ lấy nghĩa Khôn làm Âm.

- Nếu suy xét đến độ cao thì nghĩa là vật chưa thành, khí chưa thành, Vũ Trụ chưa có.

- Nếu bây giờ chúng ta đem nghĩa Âm đó tan vào vật đã thành: suy xét ở độ thấp trên phương diện khí thì sẽ có nghĩa là khí lạnh, khí mờ, trời tối âm u, các vật ở đất…

virgoo
23-10-09, 19:11
Khi các bạn tập ý thức vạn loại vào Bát Quái thì phải nhớ định Âm Dương trên vật loại trước đã rồi mới đem vật loại ấy so sánh trên Lý Tính của mỗi đơn Quái, tất nhiên sẽ biết biết được loại ấy thuộc về Quái nào (trong Bát Quái). Nhiều ngày như vậy kiến thức của ta, của các bạn sẽ mở rộng trên đường học về Bát Quái, là một điều tối cần trên đường tu học, dồi mài Dịch Lý và cũng nhờ đó mà Thần Hoạt Biến sẽ có trong Ta.

Trong khi học phải có tinh thần cầu tiến, phải thắc mắc, phải hỏi cho rõ điều gì mình còn mờ tối, không nên dễ dàng chấp nhận, mà phải luôn luôn sẵn sàng lớn tiếng chấp nhận ở hữu lý bằng không có thiện chí như vậy thì lần sau khi mình hỏi nữa ắt sẽ không được sự trả lời.

Những câu nhắn nhủ này cốt ý giúp cho các bạn bớt phần thất bại, bất cứ trên đường học vấn nào, vì đa số người đời sẽ không thỏa mãn cho sự tò mò của các bạn đâu, có khi người ta đành bỏ rơi các bạn, mặc dù người ta không muốn như thế.

Vậy bạn nào đã sẵn có tinh thần cầu tiến thì tôi tin chắc rằng bạn đó sẽ đạt được Dịch Lý. Trên bước đường nghiên cứu mà tôi được biết cần phải tập ý thức vạn loại bằng Bát Quái, thiết tưởng không gì bằng tập Mai Hoa Dịch Số của ông Thiệu Khang Tiết. Chúng tôi sẽ tạm mượn tập sách ấy làm nền tảng để các bạn nghiên cứu. Nhưng đạt được diệu lý hay không cũng còn tùy người học, có được tinh thần vô tư hay không, có suy lý được hay không mà thôi.

Bây giờ, trước khi nhìn biết các vật bằng Bát Quái, các bạn thử tập ý thức, hội ý cho được nghĩa lý sơ mọn của mỗi đơn Quái trước đã. Khi đã hiểu được ý rồi, các bạn tha hồ muốn tan biến vào muôn sự việc nào cũng được. Điều này, nếu các bạn thuộc nằm lòng càng tốt, bằng không thuộc được thì khó ý thức rõ ràng vạn loại trong trời đất vậy.

Đây là ý nghĩa sơ mọn của 8 đơn Quái:

KHÔN: Thuận dã là mềm mỏng, thuận tòng, mềm dẻo, hòa theo lẽ, chịu lấy, tuân theo mà được lợi.

CẤN: Chỉ dã là ngăn giữ, ngừng lại, thôi, ở, đậy lại, để dành, ngăn cấm, vừa đúng chỗ.

KHẢM: Hãm dã là hãm vào ở trong, hiểm nguy, hố sâu, bắt buộc, xuyên sâu vào trong, đóng cửa lại, gập ghềnh, trắc trở, kiềm hãm hiểm.

TỐN: Thuận dã là thuận theo ý trên, đồng ý, theo lên, theo xuống, theo tới, theo lui, có sự giấu diếm ở trong.

CHẤN: Động dã là rung động, khởi lên, sợ hãi, phấn phát, nổ vang, chấn động.


LY:Lệ dã là sáng sủa, tỏa ra, bám vào, phụ vào, trưng bày, phô trương ra ngoài.


ĐOÀI : Duyệt dã là hiện đẹp, vui lòng, đẹp đẽ, ưa thích, khuyết mẻ, nói năng.

KIỀN: Kiền dã là mạnh mẽ, mạnh tiến, cứng mạnh, khỏe mạnh, khô, lớn.
Ngoài ra, các bạn cũng cần phải biết thêm 5 hình dạng của Ngũ Hành, để rộng đường xét định các sự, các vật trên từng phương diện một (5 hình này có thể rất phù hợp với địa lý)
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/23/07/45681256299921.bmp

gaubong
26-10-09, 14:55
Thể theo tâm nguyện của thầy Xuân Phong. Tôi xin đăng cuốn sách của thầy. Nhằm giúp các bạn đang chập chững bước chân vào Tiên Thiên Triết Lý và Lý số học.
thầy Xuân Phong có tâm nguyện gì vậy ? Sách này do thầy Xuân Phong viết ? Hình như có gì mượn danh nhau ở đây ? Theo tôi biết, sách này do thầy Hồng Tử Uyên biên soạn, Xuân Phong Hồng Tử Uyên là hiệu của 1 người: thầy Hồng Tử Uyện,

bản đánh máy do 1 học viên khác, con dấu in trên sách do thầy Cao Thanh đóng năm 2007,

rất có hảo ý nhưng đừng mượn danh người khác nhé
hãy đăng trung thực, đừng thêm bớt hoặc nói bậy bạ,
đăng bài mà không xin phép tác quyền, dù dưới mọi hình thức thì vẫn xem như là ăn cắp
xin cám ơn

vanvy
27-10-09, 06:31
Chào Gaubong

Bạn đọc kỹ câu sau đây nhé:
"Tiên Thiên Lý số học đang phổ biến với tính cách kết bạn và gần như biếu không. Nếu các bạn có đến để làm bạn thì các bạn cũng chỉ được cái biết, chớ không có danh lợi gì cả, không có miếng mồi dụ dỗ, bày trò hốt chụp tinh thần, mê hoặc nhân tâm, mà chỉ có một niềm hy vọng là khi bạn học Tiên Thiên Lý số được chút nào thì bạn nên mở lòng rộng rãi gấp rút truyền bá cho người trong gia đình bạn, một người cũng được, nhiều càng tốt, bất phân nam nữ. Việc làm truyền bá học thuật Tiên Thiên của bạn sẽ chứng tỏ được lòng dạ không ích kỷ, gặp được của báu hưởng thụ riêng mình…


Còn về "Xuân Phong Hồng Tử Uyên là hiệu của 1 người: thầy Hồng Tử Uyện," Mời bạn đọc một trích đoạn sau;
maylangthang đã nói
12/08/2008 lúc 9:28 sáng

tôi thấy bài viết do bạn kimcokynhan cho mục này không đúng, bởi cũng nhận ra rằng bạn không phải là học viên của thầy tổ Nguyễn Văn Mỳ – tự Xuân Phong, người sáng lập ra VN Dịch Lý Hội với tài liệu Dịch Lý từ sơ Đẳng đến Thái Thượng Đẳng, đã mất 1997.

Các cao đồ của thầy Xuân Phong gồm đại đệ tử Hồng Tử Uyên (hiện đang cư ngụ ở Cali), Cao Thanh (hiện đang cư ngụ ở Cali), Nam Thanh (đang ở SG), Đông Thanh (USA), Hoàng Thanh (ở SG),…
Thế hệ thứ 2 gồm các anh chị học viên đang còn ở SG, thỉnh thoảng vẫn họp mặt trao đổi phương pháp luyện tập, có cả học viên thế hệ thứ 3 nối tiếp,…

Phương pháp luận của thầy Xuân Phong là 1 pp mới, súc tích và mang tính lý luận chặt chẽ, ngay đến Dương Kiện Toàn ở Đất Thánh, Q.10, SG, còn phải học hỏi (nhưng tiếc rằng vị này vô ơn đã tự cho là ý riêng phát minh ra, đứng ra mở lớp trên web tuviglobal.com với biệt hiệu là Chu Tử Nam, dùng công thức Chủ+Thoán Từ>>Biến+Thoán Từ+Hào Từ>>Chủ+hào từ có nguồn gốc từ pp vo tròn Chánh-Biến của thầy Xuân Phong).

Những ai đam mê Dịch Lý, muốn biết pp luận của thầy tổ Xuân Phong, hãy tìm đến các môn sinh của “phái” này nếu có duyên, qua đó sẽ gặp những tài liệu quí giá cùng những bài tập luận giải sinh động cho những biến động trong cuộc sống

gaubong
27-10-09, 08:11
xin chào
vị nào copy tài liệu của người khác đăng lên diễn đàn mà không có sự cho phép của tác giả thì xem như là ăn cắp, gia đình thầy Hồng Tử Uyên còn ở VN, Dịch Lý Việt Nam ai mà chẳng biết XP-HTU là hiệu của 1 người, cứ đi hỏi các học viên thì rõ, danh thiếp (name card) của thầy Hồng Tử Uyên vẫn in: Xuân Phong Hồng Tử Uyên, trừ người ngoài thì chẳng rõ việc này,

còn bài trích từ diễn đàn kimcokynhan chẳng có câu nào là cho phép đăng tài liệu trên diễn đàn này

Mong rằng diễn đàn là nơi trao đổi những bài viết trong khuôn phép, tôn trọng tác quyền,
bằng như những lời này vô nghĩa thì ... cũng đành thôi vậy

Kloan
27-10-09, 13:22
thầy Xuân Phong có tâm nguyện gì vậy ? Sách này do thầy Xuân Phong viết ? Hình như có gì mượn danh nhau ở đây ? Theo tôi biết, sách này do thầy Hồng Tử Uyên biên soạn, Xuân Phong Hồng Tử Uyên là hiệu của 1 người: thầy Hồng Tử Uyện,

bản đánh máy do 1 học viên khác, con dấu in trên sách do thầy Cao Thanh đóng năm 2007,

rất có hảo ý nhưng đừng mượn danh người khác nhé
hãy đăng trung thực, đừng thêm bớt hoặc nói bậy bạ,
đăng bài mà không xin phép tác quyền, dù dưới mọi hình thức thì vẫn xem như là ăn cắp
xin cám ơn
Chào gaubong2009.
Tôi thì không biết gì nhưng tôi mới xem ở trang 1 Thấy cuối lời tựa Xuân Phong và Hồng Tử Uyên có viết:

Sàigòn, ngày mùng 9 tháng 10 năm Ất Tỵ
Tác giả
XUÂN PHONG và HỒNG TỬ UYÊN
Tôi có thắc mắc là viết xong năm 1965 thì tại sao bạn lại nói là " Thầy Cao Thanh đóng dấu năm 2007 , nghĩa là sau khi viết đến 42 năm , hơn nữa khuôn dấu này có ghi Việt Nam Dịch Lý Hội Sài Gòn thì làm sao lại đến năm 2007 mới đóng dấu ?. Tôi không biết ai viết cuốn sách này nhưng trong lời nói đầu của tác giả mà tôi đọc ( có in đậm ) thì bạn Virgo nói " Thể theo tâm nguyện ...." cũng đâu có sai .
Vài lời cùng bạn

gaubong
27-10-09, 13:34
chào bạn Kloan
Tôi dám nói tài liệu đăng trên diễn đàn này có hình con dấu là do thầy Cao Thanh đóng 2007 bởi tôi có sách in(gốc) trước 1975, bìa cứng màu xanh lá, không có con dấu này, chữ in kiểu xưa

File đánh máy do 1 học viên đánh máy lại xong vào 12/2006, file này tôi cũng có, các hình vẽ y như trình bày tren diễn đàn này
file này đưa cho thầy Cao Thanh trước khi thầy đi Mỹ 7/2007, con dấu do tự tay thầy đóng, học viên của thầy ai mà chẳng biết, thầy Cao Thanh còn xác nhận tài liệu do thầy Xuân Phong Hồng Tử Uyên biên soạn để giảng dạy khóa 1 của Dịch Lý Việt Nam

2008 Thầy Hồng Tử Uyên có cho tôi xem bản thảo của thầy ngày xưa, chữ viết tay, đã nhòe, giải thích vì sao thầy lấy hiệu là "Xuân Phong Hồng Tử Uyên" có sự chấp thuận của thầy Xuân Phong (Nguyễn Văn Mỳ).

đăng tài liệu do lấy của người khác đưa lên mà không có sự đồng ý của tác giả là điều không đúng, lại sửa thành "Xuân Phong và Hồng Tử Uyên" là sự bịa đặt trắng trợn, hình con dấu do scan lại và có chỉnh sửa là sự mạo phạm,

BQT diễn đàn có thể chấp nhận việc làm này không ?


vài lời hồi đáp

dongphuong
27-10-09, 14:40
Có lẽ đã đến lúc admin nên nhảy vào để giải quyết vấn đề rồi đó, để học hỏi thì có nên câu nệ chuyện bản quyền không nhỉ? Có khi ngay cả bạn Virgo cũng không biết rõ sự thật. dongphuong thì chẳng có quyển nào nên chẳng biết phải nói sao ...hi...hi... :7885:

virgoo
27-10-09, 17:26
Chào các sư huynh.
Thực sự tôi (em, cháu) cũng chỉ là người mới võ vẽ về dịch, cũng chẳng ham danh lợi gì trên thế giới ảo. Tài liệu này do một người bạn tặng . Vì tôi (em, cháu) nghĩ là down từ trên mạng, lại thấy ở tựa cuốn sách có viết :"Tiên Thiên Lý số học đang phổ biến với tính cách kết bạn và gần như biếu không. Nếu các bạn có đến để làm bạn thì các bạn cũng chỉ được cái biết, chớ không có danh lợi gì cả, không có miếng mồi dụ dỗ, bày trò hốt chụp tinh thần, mê hoặc nhân tâm, mà chỉ có một niềm hy vọng là khi bạn học Tiên Thiên Lý số được chút nào thì bạn nên mở lòng rộng rãi gấp rút truyền bá cho người trong gia đình bạn, một người cũng được, nhiều càng tốt, bất phân nam nữ. Việc làm truyền bá học thuật Tiên Thiên của bạn sẽ chứng tỏ được lòng dạ không ích kỷ, gặp được của báu hưởng thụ riêng mình……". Nên đưa lên đây để mọi người cùng học hỏi. Nếu bác Gaubong2009 biết rõ người sở hữu tác quyền, nhờ bác liên lạc và người sở hữu có ý kiến, nếu không chấp nhận tôi sẽ dừng việc đăng lên ngay tức khắc.
Còn về việc chỉnh sửa, tôi cũng xin cam đoan là không đụng đến một chữ nào. Tác giả là Xuân Phong và Hồng tử Uyên thì tôi cũng thấy hợp lý vì Xuân Phong là hiệu Của Thầy Nguyễn văn Mỳ. Tôi là hậu sinh (năm ra cuốn sách thì tôi chưa ra đời) cũng chỉ biết có vậy.
Mong bác gaubong2009 chỉ giáo thêm, chân thành cám ơn bác.

nguoikhonghoc
08-11-09, 23:06
Ai có tài liệu chia sẻ nhé
Tôi nghĩ chia sẻ nội bộ thôi
còn diễn đàn thì phải tự mình viết ra

QuocTrung
09-11-09, 12:59
Chào Anh Gaubong2009
Qua những bài viết của Anh trên topic thấy anh là người rất am tường về dịch lý , anh cũng đã bỏ ra nhiều công sức nghiên cứu và chiêm nghiệm dịch lý , đúng là một con người có tâm và có tài . Qua đây để cho những người có đam mê và tinh thần học hỏi dịch lý nhưng chưa có những khái niệm và những kinh nghiệm muốn học hỏi anh có thể mở một topic giảng dạy những cơ bản của Dịch lý để cho anh em có dịp để học hỏi anh .
Rất cám ơn anh

virgoo
09-11-09, 13:24
LÝ SỐ LÀ GÌ

Lý Số nghĩa là không có số mấy, mà nó là tất cả các số trên mỗi vật, mỗi sự khác. Nếu
người đời có luận là số mấy trên các sự thể, thì đó là lý do cập luận lên trên sự thể ấy. Nếu
đúng lý thì thành ra chính xác số. Vậy mỗi sự thể đâu phải có số năm, tháng, hay thước tấc
giống nhau, mà sự thật có loại phải kể là số giây, có thứ phải luận là giờ, ngày, thế vận, hội,
ngươn, đều là phải xét theo tình lý, khía cạnh của sự việc, sự vật mà luận số của loài người
bày đặt ra đó, cho sự việc đó mà thôi.

Không có gì hối tiếc cho bằng người học Dịch Lý có thể dám mở miệng nói định kỳ trong
khi chưa rõ sự thể hay là xã hội của vật thể, tình lý, trạng thái, lý tính của sự việc. Tuy là
nói cho vui miệng, trường hợp này lâu lâu táp dính được một con ruồi, rồi người đời không
biết gì cả lại cổ võ tôn sùng, vì thiên hạ có biết đâu không cần học gì hết chúng ta cũng nói
trúng được năm sáu mươi phâầ trăm vậy.

Sự ngợi khen về sự phán quyết có khi là vô tình đem nguy lại cho người học Dịch Lý. Có
thể người này sẽ mất cơ hội đạt được Dịch Lý, bởi tưởng mình đã nắm được, thấu triệt được
huyền cơ Tạo Hóa, đạt được sự thật rồi. Nhưng trong tương lai đem Chân Lý lầm tưởng của
mình ra vào trong thiên hạ, cớ sự Dịch Lý, trời đất quỉ thần trở nên không đúng theo suy tư
của người đó. Lúc bấy giờ người đó có thể mang một tâm trạng phản lại học thuyết của
mình nhưng vẫn không nở. Giai đoạn này người đó có thể quàng xuyên trên các thuyết và
điểm tô cho các thuyết không còn địa vị chủ xướng hay sáng lập học thuyết nữa, không còn
trở lại nỗi với Tiên Thiên triết lý, không còn muốn chấp nhận Tiên Thiên, chối bỏ Tiên
Thiên hoặc không thấy hay là không muốn nói sự thật Vũ Trụ trời đất quỉ thần cũng chỉ còn
là con cháu, chắt chít của Dịch.

Khổ nạn hơn nữa, là người này vốn có căn bản Dịch Lý lầm tưởng nên có thể đề ra một học
thuyết Dịch Lý lai căn đủ sức thu hút một tầng lớp thiên hạ vào chốn sai lầm giống như
người đó. Việc này cứ vô tư mà luận theo triết lý Kinh Dịch qua trên phạm vi loài người thì
đó chỉ là học thuyết giai tầng, còn đứng trên phương diện vô tư Dịch Lý Tiên Thiên hay Vũ
Trụ Dịch thì đó là giai đoạn học thuyết đã qua mà loài người tự lầm tự khổ.

Vậy, Tiên Thiên học thuyết có cần được người đời nghiên cứu, tham khảo để cho kịp đà tiến
hóa của nhân loại hay không? Tôi thiết tưởng như vậy mà Tiên Thiên triết lý và Lý Số Học
cũng như Việt Nam Dịch Lý Hội mới góp mặt với thời đại. Dân tộc Việt Nam phải đi trước
và hiểu biết chín chắn về Tiên Thiên triết lý và Lý Số Học, để xứng danh hãnh diện cùng
với tất cả mọi nền văn minh về Âm Dương trong nhân loại hiện nay, chen chân góp sức với
hoàn vũ trong kiếp sống của chúng ta vậy.

virgoo
09-11-09, 13:25
HẬU THIÊN LUẬN TIÊN THIÊN


Nay chúng ta là con người thuộc về phạm vi Hậu Thiên, cõi hữu ; bất cứ hữu khí, hữu tính,
hữu thần, hữu sắc, hữu chất, hữu thể đều là Hậu Thiên, dầu linh động đến đâu cũng là Hậu
Thiên, là cõi hữu như điện, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, gió, mây, nước, lửa, quả đất, loài
người, chim muông, cầm thú, côn trùng, cỏ cây đều là Hậu Thiên ôm ấp Tiên Thiên ví như
là bông trái của Tiên Thiên vậy.

Bởi Hậu Thiên muốn hiểu biết về Tiên Thiên nên những danh từ Vô Toàn Vô, Cực Vô được
nêu lên để làm thứ tự trên suy luận hoặc truyền bá. Người xưa đã thắc mắc, tìm cách đo
lường bằng lý về toàn năng Tạo Hóa, thấy được cái lý Cực tắc biến ở phạm vi Hậu Thiên.
Cái lý Cực tắc biến đó đã có thể trả lời dứt khoát cho mọi người muốn hội lý về Tiên Thiên.

Nếu chúng ta thấy hay hiểu biết được sự đi, sự tiến hóa hay vần xoay biến đổi và biến cách
ở giai đoạn cùng cực của mỗi sự vật trong phạm vi Hậu Thiên thì bấy giờ chúng ta mới có
thể trọn tin ở phạm vi Tiên Thiên có lý do đó, và có lý do đó ở cõi Vô Toàn Vô qua Vô Cực.

Chúng ta có thể quan niệm như thế này, Tiên Thiên là sự manh nha, còn Hậu Thiên là sự
thành của manh nha đó, hoặc Tiên Thiên là manh nha động, còn Hậu Thiên là động cho ta
thấy biết rõ. Nói gần hơn nữa Tiên Thiên là luật động vô hình (Dịch Lý), còn Hậu Thiên là
luật động thành hình bóng (Dịch Tượng).

Nay theo triết lý Âm Dương thì có thể luận rằng: từ Vô Toàn Vô đến Vô Cực, tức là Không
Hoàn Toàn Không, đến bao nhiêu muôn tỉ năm cũng được, rồi Không Hoàn Toàn Không ấy
cùng cực. Cái cùng cực khoảng không ấy so với khoảng Không Hoàn Toàn Không khi trước
tức là một mà hai. Vô Cực thì có thể ví là khởi quyền Tạo Hóa cho đến 64 Quái là Tạo Hóa
toàn năng.

Bây giờ chúng ta đổi hai danh từ Vô và Vô Cực thành hai chữ Động Tĩnh để cho đại chúng
dễ hội lý hơn trên các sự việc. Thế là nghĩa Tĩnh toàn Tĩnh sánh với Vô Toàn Vô còn nghĩa
manh nha Động được sánh với Vô Cực. Bao nhiêu muôn tỉ năm có nghĩa là quá chậm chạp
tức là siêu nhiên đến dĩ nhiên không phải đột khởi, đột biến hay đột phát. Biến cách ở cùng
cực rất là tuần tự, chậm chạp, trật tự.

Vậy, trước khi động là manh nha Động ở trong trạng thái Tĩnh vì Tĩnh toàn Tĩnh đang ở
trong trạng thái manh nha Tạo Hóa, cho đến 64 Quái thì ví như là Tạo Hóa đã toàn năng
hay muốn nói đó là lò Tạo Hóa, hệ thống của Động Tĩnh, của muôn loài, đều có trật tự, sau
này đều phải như vậy.

Người đời thường nhận xét và tưởng là không có trật tự. Bạn nào đang nghĩ như vậy, mời
bạn chịu khó suy lý một chút, hoặc dùng mắt nhìn ở phạm vi Hậu Thiên, bằng cách ngữa
xem trên trời buổi sáng và buổi chiều, bạn sẽ thấy được mặt con cháu chắt chít của luật
Động biến tuần tự, nó đang mọc lên và lặn xuống rất là trật tự.

Nếu chúng nó làm việc theo bổn phận của chúng nó như vậy thì chúng ta hay muôn loài
cũng đang làm việc bổn phận bé nhỏ trật tự mà các bạn không hay biết chăng? Các bạn khó





biết đã đành, nhưng tôi không thể tin rằng các bạn đã hoàn toàn trọn tin vào ngụy thuyết
Hậu Thiên nào gọi là đột biến, bộc phát, đun đẩy. Tuy nhiên, nếu cứ theo tầm mắt thấy tai
nghe, trí hiểu, của số đông thường tình thì như là các vật rối loạn vô trật trật tự, trái lại ở
Dịch Lý chỉ là sự hội theo luật động tuần tự và trật tự siêu nhiên và dĩ nhiên của nó. Nó cứ
tuần tự thong thả đến rồi thong thả đi chớ chẳng có rối loạn gì cả. Bởi luật động tuần tự quá
lớn lao với một sự thể lớn lao vô tận, nó đang phải tuần tự ở trong vòng trật tự mà không
đến được lúc bạn cầu xin, hay kêu gọi mà nó cũng quá nhỏ bé, mau chóng và nhiệm nhặt
với một sự thể nhỏ bé vô cùng nên nó biến đi dù bạn cố lưu lại, kéo níu nó cũng chẳng ở
(Họa Phúc) làm cho các bạn khó xét biết nó chăng? Tôi nghi ngờ như vậy nên tôi mới có ý
định trao chiếc đồng hồ Dịch Lý sơ cấp vào tay các bạn nào ưa thích loại đồng hồ ấy.

Trước khi trao chiếc đồng hồ Dịch Lý, dĩ nhiên là phải treo hao tổn bao nhiêu tâm lực, dám
quên cả sự nóng lạnh ngoài đời, tự diệt cuộc đời riêng của mình cùng với thời gian, lo chế
biến canh cải trên chiếc đồng hồ đó, thay đổi từng bộ phận có vẻ tân kỳ, ngỏ hầu bộ mặt của
chiếc đồng hồ ấy trở nên tân kỳ, xứng đáng làm quà biếu các bạn giữa thời đại nguyên tử
khinh khí hiện nay.

Bạn sẽ nhận được ở nơi chiếc đồng hồ đó một sự trung thành tuyệt đối của nó suốt đời bạn.
Trong đời bạn, khi mời nó phải đến, khi đuổi nó phải đi, không bao giờ nó có một lời. Đặc
tính của nó là vô tư, không vị nể bất cứ vô hay hữu hình. Nhưng nếu lúc nào bạn đa đoan
bối rối thì Đức Thần Minh trong người bạn có thể làm thành ra câu chuyện đồng hồ chỉ 9
giờ mà bạn sẽ nhìn thấy là chưa 9 giờ hoặc là 9 giờ. Đó là thần minh tư lự mà thiên lệch.
Thế nên cần phải có thêm bộ mặt thừa trừ. Tôi đã cẩn thận gắn thêm bộ phận thừa trừ vào
để cho mỗi chiếc đồng hồ tăng phần quí giá của nó. Nhờ vậy nó mới có thể là một khí giới
tối tân bất diệt đắc dụng trong thiên hạ thời đại nguyên tử khinh khí hiện nay.

Chủ trương của tôi là không bao giờ trao cho bất cứ bạn nào cái thứ đồng hồ lớn lao nặng
nề mang vào rồi bị bạc tóc xệ vai mà có thể vô dụng đối với bạn đó. Cũng nhất định không
trao cho ai cái thứ đồng hồ nhỏ bé đến vô bổ sanh ra bất mãn với chiếc đồng hồ của mình.
Tuy nhiên, loại đồng hồ của tôi đưa ra cũng có thể trở nên vô bổ, vô dụng là do sự bất chính.
Trường hợp này, bạn hãy kiên nhẫn đến một ngày nào đó bạn vẫn có thể tự mãn ra được
cách lên giây, cách nhìn, cách nghe tiếng gõ của đồng hồ.

Bạn nên nhớ người sản xuất đồng hồ Dịch Lý luôn luôn sẵn sàng chỉ cách lên giây, cách
nhìn, cách nghe để bạn sử dụng thỏa mãn với chiếc đồng hồ ấy. Trong tương lai, ai ai cũng
đều có thể có một chiếc đồng hồ Dịch Lý. Nếu loại đồng hồ Dịch Lý mà bạn đang có trong
tay đó, do sự lượm được hay đã do sự chủ tâm phá hoại, kiêu căng, thương mãi, trộm đạo
đánh cắp mà trao hay bán lại cho bạn đi nữa thì bạn cứ yên chí, hãy chịu khó tìm gặp người
sản xuất đầu tiên, bạn sẽ được chỉ dẫn sử dụng chiếc đồng hồ Dịch Lý ấy, đến mức độ tuyệt
vời thỏa đáng.

virgoo
09-11-09, 13:34
TIÊN THIÊN
TRIẾT LÝ và LÝ SỐ HỌC


Sau khi các bạn đã hội lý được Bát Quái qua trên vạn loại, bây giờ các bạn đã hiểu rõ Kiền chẳng phải là Thiên, Khôn chẳng phải là Địa. Các chữ Thiên, Địa, Thủy, Hỏa, Sơn, Trạch, Lôi, Phong chỉ còn là những danh từ trống, rộng rãi mà bao hàm tất cả. Nó không cứ là hình thể, bóng sắc nào nhất định mà nó chỉ là cái lý lẽ trong khắp mọi nơi, trên các sự vật, việc với các thể hiện hay không thể hiện là cái lý lẽ Tiên Thiên mà nhân loại là Hậu Thiên soát lại trong khung cảnh Hậu Thiên cũng đều có lý như vậy. Nhưng nếu học lý mãi ắt khó tránh khỏi sự buồn chán. Điều này rất là dĩ nhiên, tiền nhân cũng đã đi trong dĩ nhiên, đi trước chúng ta, không khác gì tâm hồn cách bạn. Thế nên, từ triết thuyết Tiên Thiên siêu việt đến phần cụ thể triết thuyết tức là để sáng tỏ hay là biện minh chứng nghiệm trên phạm vi Hậu Thiên đó là cả một vấn đề cơ hồ như không thể thành tựu, nhưng tiền nhân đã kiên tâm, sáng suốt và cẩn thận sáng chế cách thức để áp dụng triết thuyết qua trên phần siêu việt thuộc về tiên tri, tiên giác.

Nay, tôi xin tạm gọi cách thức áp dụng triết thuyết ấy là Động Tĩnh Công Thức Toán Pháp. Nếu các bạn học cao hơn nữa thì có thể hiểu là vô hữu công thức toán pháp cũng đồng nghĩa như vậy mà thôi. Khi các bạn đã có rõ biết được công thức Động Tĩnh thì bất cứ một cái gì có lý Động Tĩnh, bạn đều có thể làm bài toán trên khoa Động Tĩnh Học tức là Dịch Lý Học mà bạn đã theo dõi học tập bấy lâu.

Tiền nhân khi đưa ra công thức Động Tĩnh áp dụng thời đa số chẳng hiểu ra sao cả. Kẻ thì gọi là ngẫu nhiên, bất thình lình, kẻ bảo là mê tín, dị đoan, khó tin, xét ra cũng phải. Vì có lẽ các bạn đó khi bước chân vào học Dịch Lý ắt là chưa biết mình đi học về khoa Động Tĩnh học, là Vô Hữu học, là huyền vi và hiển hiện học. Điều này, tôi cho là không phải tại sư huynh hay sư phụ của bạn mà chính là tại căn bản của bạn mà thành ra trì chậm.

Tiền nhân, khi trình bày ra các công thức Động Tĩnh Toán Pháp tức như đã trao thân cho nhân loại một thứ khí giới tối tân, bất diệt để đo lường mọi động tĩnh. Nếu bạn có theo dõi học tập về khoa Động Tĩnh thì nhất động nhất tĩnh của bất cứ xa gần, dẫu đến mắt không thấy, tai không nghe, chỉ cần một sự manh nha động quá nhỏ ở cõi lòng bạn, cũng đã trở nên quá rõ ràng trên khoa Dịch Lý.

Khí giới tối tân bất diệt của nhân loại đã hoàn thành từ muôn thuở nào. Nhưng sử dụng khí giới ấy đến mức linh động là tại ở người có khổ công biến nỗi con người mình đến độ linh động hay không mà thôi. Xem chừng nó đòi hỏi người nào hội đủ điều kiện dám gạt bỏ một vài điều thông thường trói buộc lôi cuốn.

Dòng đời nó lôi cuốn chúng ta mãi, phải không các bạn? Dù vậy, tôi vẫn hy vọng trong các bạn sẽ tự tạo hoàn cảnh hội đủ điều kiện cho mình và rồi sẽ tự hãm mình làm việc, ưa thích làm việc như các nhà bác học mê say với Dịch Lý, quên cả mọi sự nóng lạnh ở ngoài đời. Trước kia ông Thiệu Khang Tiết cũng đã phải làm việc nhiều như vậy, mà về sau mới tạo được huyền cơ, chứng nghiệm trong thiên hạ.

Đến nay, với một sự phát minh trong Dịch Lý từ xưa đến nay chưa nghe cũng như chưa đọc thấy, tôi nguyện đưa các bạn xuyên đường Tiên Thiên triết lý và Lý Số Học với một ngõ tắt, khi bạn muốn đi. Tôi tin chắc trong vòng 2 năm bạn đi trên ngõ tắt đó rồi thì khó có người theo kịp. Còn nếu bạn nào chưa có thể quên mình để dồi mài Dịch Lý hoặc tự ý đi theo trên các loại sách đã có từ mấy ngàn năm, e rằng phải mất 30 hay 40 năm cũng sẽ chẳng được gì cả, rốt cùng sẽ bất mãn, bực tức về Dịch Lý. Tôi âu lo như vậy nên mới có lời bày tỏ thành thật này để các bạn có một ý thức rõ rệt trước khi dẫm chân trên đường Tiên Thiên Dịch Lý và Lý Số Học.

Lòng tôi chỉ ao ước được tâm truyền cho các bạn nên rất ái ngại về việc viết sách, bởi vì Lý thì không cùng tận mà ngôn ngữ lại có giới hạn. Cớ ấy nên tôi vẫn có cảm tưởng các tài liệu mà tôi đã tự tay viết ra, nó cũng chỉ là các hàng chữ sẽ bị đọc và hiểu một cách mau chóng dễ dàng để giải buồn cho bạn trong lúc thừa nhàn. Nếu quả thật chỉ có như thế bất quá như tôi đã dẫm nhầm dấu chân của tiền nhân, thiên hạ sẽ tự hiểu sai lầm do tài liệu tôi viết. Hiểu sai lầm rồi truyền bá sai lầm, thành nhiều mối sai lầm, tức là làm rối loạn thiên hạ, lỗi ấy do tôi không đủ ngôn ngữ, phương tiện để trình bày cho thật sáng tỏ vấn đề mình muốn nói.

Tiền nhân riêng đối với tôi, tôi cho là quá cẩn thận đầy đủ, tiền nhân không thiếu sót. Nhưng các bạn hãy nhìn lại, những điều mà thiên hạ gọi là lợi ích cùng với muôn sự ngỗn ngang trong thiên hạ đều do sách và lời của tiền nhân đó chứ. Biết thế tại sao tôi đã thấy mình không đủ ngôn ngữ mà vẫn viết ra lời? Bởi vì tôi cho rằng lời có siêu tuyệt bao nhiêu thì càng làm cho thiên hạ lầm lạc bấy nhiêu.

Lý thì vô lường, ngôn ngữ có giới hạn, vậy mà tôi đã dám viết, dám làm điều lỗi là cớ sao, hỡi các bạn? Có lẽ các bạn hiện nay cũng như tôi khi viết ra lời ắt đã đắn đo tự xét thấy mình còn có quyền hy vọng ở cái sở học của các bậc hiền nhân quân tử bất chấp các hạng học vì tư danh, tư lợi. Không biết quyền hy vọng của các bạn và tôi có trùng ý với tiền nhân hay không, hoặc tiền nhân còn có điều gì cao sâu hơn. Tôi và các bạn chỉ là hạng người không đáng kể, nên còn dám âm thầm nghĩ đến và hành động tùy khả năng của mình mà mưu lợi cho thiên hạ, còn những bậc cao thâm thường thường, dù mất một sợi lông (mà thiên hạ được lợi) các vị ấy cũng không chịu làm. Việc làm của tôi ngày nay khác ý với các bậc cao thâm đó, có thể nói là suốt 15 năm, tôi không có làm việc gì, chỉ làm cái việc học Dịch hoặc hưởng của thiên hạ ban cho. Tôi lấy đó làm một điều tủi nhục. Nhận xét thấy trong nước Việt Nam, người ta bỏ sót việc Dịch Lý, tôi mới nảy ý làm cái việc không ai thèm nhớ tới, cái việc mà thiên hạ lơ là bỏ quên đó như vô tình tránh cho chúng tôi sự đua chen giành giựt thông thường, và vì như vậy nên hiện nay chỉ tồn tại sự bố trí chực chờ vây phủ để bôi lọ và hoen ố Dịch Lý mà thôi.

Thật là tức cười, người ta cố tình tôn sùng Dịch Lý mà thành ra hoen ố Dịch Lý xét ra chính thật là do lòng tốt của con người đối với Dịch Lý. Nhưng sức thông minh về Dịch Lý của mỗi người mỗi khác nên khi người đề cao Dịch Lý trên một khía cạnh nào đó, nếu chỉ thiếu ý thức một chút xíu thôi đã có thể thành ra bôi lọ Dịch Lý mà người ấy vẫn không hay biết. Tôi viết lên điều này là đã có bằng cớ rõ ràng, tôi biết trong tương lai còn rất nhiều điều tương tự như vậy. Khuyên các bạn hãy nên cẩn thận trên đường tìm hiểu hay tu học về Dịch Lý.

Dịch Lý đã được hữu hình hóa do Đức Thần Minh vô tư của con người trong xã hội, loài người nối tiếp đời này sang đời khác. Những nhà thông thái học vẫn nhìn biết được giá trị vô tư tuyệt đối của Dịch Lý nên đã dùng 64 Dịch Tượng này qua trên tất cả mọi mặt. Nếu kể về sự tiến hóa của loài người đến đây thì đại khái 64 Dịch Tượng đã bị văn học và số học của loài người gán lên trên và phong phú lên trên đó không thể kể xiết, nói ngàn năm cũng không rồi.

64 Dịch Tượng đã bị xem mặt đặt tên và gán số thứ tự lên trên đó. Cứ mỗi ngành thì chọn một danh ngôn, danh từ khác, đó là tại nhu cầu nhân dụng địa phương của mỗi ngành chớ không phải tại Dịch Tượng. Nhưng sáng chói và khó nhất là Tiên Thiên Lý Số Học bởi căn bản của nó là Lý chứ không phải hình tượng (vật chất).

Trong tập tài liệu này, cùng với khả năng của tôi, tôi hy vọng có thể giúp các bạn trên đường Dịch Lý khi bạn muốn đi vào thuật tiên tri, tiên giác, tức là học thuật của các bậc tiên hiền, tiên thánh và phụ thêm vào đó có phần phát minh mới.

Căn cứ theo Dịch Kinh Đại Toàn thì trước thời Phục Hy đã có Bát Quái không biết đã được người đời lợi dụng ra sao? Nhưng thiết tưởng các vị tu luyện non cao, ẩn cảnh đều có thể có biết và có dùng, nếu bây giờ bạn tu học thì bạn cũng có thể dùng như sau: Ví dụ bỗng nhiên có một sự động trong bao la mà tâm hồn rộn rã hoặc vui, hoặc buồn, một máy mắt, một luồng gió thoảng, một chiếc lá rụng, một tiếng chim kêu. Người tu học nếu muốn biết có việc gì xảy ra thì chỉ cần ngữa lòng bàn tay, bấm đốt tay tính toán thì liền rõ biết được đại ý của sự việc. Người đời thường hay gọi là bấm độn.

Nếu hiểu nỗi được đại ý của sự việc theo lối đó thì có khác nào là thiên lý nhãn, nhĩ. Người mà tu học đến độ ấy là đã gần đến độ hội lý quán thông thiên địa. Học Dịch Lý Tiên Thiên Lý Số Học mà đến độ ấy là lẽ thường, không có gì lạ.

Hình bóng của 64 quẻ Dịch được xem như là Dịch Tượng vô tư. Vì lẽ đó nên khi người đời triệu thỉnh lý vô tư xuất hiện bất cứ với một dáng điệu nào trong 64 dáng điệu. Người đời thường trọn tin theo và xem đó là mệnh lệnh Tạo Hóa, đặt hết tôn thờ vào đây, bằng lòng nghe theo lệnh Tạo Hóa chẳng dám trái nghịch.

Dịch Tượng vô tư có 64 bộ mặt, bị người đời mời xuất hiện bằng nhiều cách trên thuật tiên tri, tiên giác tức là có nhiều cách để an thành một quẻ Dịch. Kìa như bậc vua chúa thì bày ra theo nghi lễ quá trịnh trọng, ăn chay nằm đất mấy ngày giữ mình trong sạch, khăn mão chỉnh tề, trùng điệp tôn nghiêm, dung hình ngay thẳng, chuẩn bị lắng nghe mệnh lệnh Tạo Hóa. Còn như thường dân bất chợt mời đến vẫn phải xuất hiện, vốn thật vô tư cho nên xuất hiện mọi nơi chẳng đòi lễ nghi, việc này xét ra thì như tại tiền nhân bắt Dịch Tượng vô tư bàn việc này xét ra thì như tại tiền nhân bắt Dịch Tượng vô tư bàn việc cho tất cả mọi người.

Làm người có lúc tâm hồn chẳng an, bất cứ do thiện hay ác đều muốn nghe thấy Đức Thần Minh vô tư trong người bạn xuất hiện chỉ bảo trong những điều quá ư cấp bách mà lại tiến thoái lưỡng nan, khi đã tìm đủ mọi cách để giải quyết bằng phương pháp khoa học trí óc mà vẫn không ra manh mối rốt cuộc đành phó mặc cho luật Thiên Địa tuần hoàn (Dịch).

virgoo
09-11-09, 13:35
Việt Nam Dịch Lý ra đời là để tìm bạn, kết tình bằng hữu nắm tay nhau đi du ngoạn
trên đường Tiên Thiên triết lý và Lý Số Học, để rồi các bạn nào đó sẽ có đủ tư cách làm bạn
với Đức Thần Minh vô tư thường ẩn trong mỗi bạn. Khi đã trải qua giai đoạn kết thân với
Đức Thần Minh vô tư rồi thì việc mời Đức vô tư quảng thống xuất hiện chỉ còn là việc bạn
muốn thấy hay muốn nghe mệnh lệnh Tạo Hóa. Sự hiện diện đó là 1 trong 64 Dịch Tượng
(người đời thường gọi là Quẻ). Một Dịch Tượng xuất hiện là một dáng điệu, tuy vô tư câm
nín nhưng có thừa uy lực làm cho bạn vững tin để mà tùy nghi tiến thoái. Tôi thiết tưởng là
một điều không thể vắng bóng ở mỗi chúng ta đối với thời đại hiện nay, phải không các
bạn?

Về việc mời Đức vô tư xuất hiện, có nhiều cách thức khác nhau, để tránh sự nhầm lẫn thuộc
về Tiên Thiên Lý Số (tức là khởi Quái có khác với Hậu Thiên). Tôi xin ghi ra đây vài công
thức phù hợp với Đức vô tư Dịch Lý để bạn có đủ phép tắc mời thỉnh vô tư xuất hiện soi
sáng hoặc hướng dẫn các bạn trên mọi sự hoạt động (theo bí thuật Tiên Thiên). Phép tắc để
mời một Dịch Tượng vô tư mà nay tôi tạm gọi là Động Tĩnh Công Thức Toán Pháp. Bởi vì
mỗi Động Tĩnh rồi công thức mới có mỗi lúc mỗi khác nhau. Cho nên nếu để là Công Thức
Động Tĩnh Toán Pháp thì e rằng chưa đúng bằng Động Tĩnh Công Thức Toán Pháp, nhưng
trong lời viết, khi bạn thấy có lộn ngược, lộn xuôi thì đó là tôi có ý giản dị, hầu tránh sự
thắc mắc, các bạn chẳng cần chấp nệ điều đó.

virgoo
09-11-09, 13:35
ĐẠI KHÁI VỀ ĐỘNG TĨNH CÔNG THỨC

Tất cả mọi công thức đều qui về Tạo Hóa, tức là khi thiên cơ máy động, thiên lý máy động là thuộc về siêu tần số lý máy động. Vậy làm sao các bạn có thể nhận biết được thế nào là thiên cơ máy động vì nó là hữu thường mà lại cũng là vô thường?

Thiên cơ là sự kín nhiệm, nhưng có rất nhiều người muốn biết sự kín nhiệm (sẽ nói tỉ mỉ ở độ cao) khi thuận tiện. Còn ở tập này thì tôi có cách này xin giúp quí bạn để dễ nhìn biết hoặc áp dụng thiên cơ, thời cơ, nhân cơ.

Thường ngày, người tỏ vẻ cao học hay đàm luận, lòe nhau vấn đề thiên cơ, thời cơ và nhân cơ. Ở đây tôi chỉ xin nhắc lại bạn:

- Thiên cơ: là tất cả các cái gì có lý Động Tĩnh từ gần gũi đến xa xôi, từ mỗi thân tâm đến
cõi vô biên.

- Nhân cơ: là tất cả các sự Động Tĩnh đó có khi làm cho bạn cảm xúc. Đó là nhân cơ.

- Thời cơ: trong thời đại, thế hệ, vận hội, người, năm tháng, ngày giờ, phút, giây, lúc nào ấy là thời cơ.

Tôi nói gọn như vậy, bất cứ việc gì bạn muốn thi hành đắc cách đều phải có đủ tam yếu tố.

NHÂN CƠ

Đây là bất đắc dĩ tôi xin nói sơ qua về nhân cơ để các bạn có một ý thức rõ rệt trên phương diện Tiên Thiên triết lý và Lý Số Học, xin các bạn thông cảm cho vậy.

Nhân cơ, khi các bạn có cảm xúc tức là siêu tần số lý trong bạn rất hợp với thiên cơ, thiên diện nào đó. Nên nhớ trong 384 thiên lý chỉ có 64 thiên diện (cảnh trời) mà nay chúng ta đã gọi là 64 Dịch Tượng cho phạm vi Lý Số Học thuộc Tiên Thiên học thuật.

Các bạn đã biết Vũ Trụ chúng ta hay bất cứ muôn loài vạn vật nào từ vô đến hữu, lúc Âm hay Dương, chúng ta lúc thức hay ngủ, lúc nào cũng đang ở trong 64 cảnh trời. Bạn hãy tưởng tượng trong 64 cảnh trời muôn đời chiêng trống dập dồn, chuông mỏ rền vang là một điệp khúc triền miên, ca ngâm hỗn độn, nhưng đến một nhịp điệu nào đó, có đập mạnh vào tai bạn vì tiếng lảnh lót của ca ngâm điệp khúc đó hợp điệu với tai nghe của bạn. Nếu bạn hiểu được như vậy thì trên phương diện Đức Thần Minh trong người bạn tiếp xúc với Đức vô tư quảng thống cũng vậy.

Tâm hồn bạn có trống trải thì mới dễ tiếp xúc, tâm hồn thơ thới thì năng tiếp vật, lúc tâm hồn bạn cảm xúc là tiếp xúc mạnh, rồi trí óc đòi hỏi muốn hiểu biết, hiểu biết làm hiện thức toại mãn là ghi vào tiềm thức, biểu hiện bằng văn hay lời nói là hướng ngoại.

Vậy thiên cơ trong nhân cơ máy động và làm việc đủ thứ trong đó mà tôi tóm lược như vậy, thiết tưởng điều này khoa học điện ngày nay có thể chứng minh và giảng giải gần đồng quan điểm trên phương diện thâu và phát thanh, hoặc trên một máy ghi âm và phát âm. Nhưng một máy động nhỏ, sâu kín ở cõi lòng bạn chỉ có Dịch Lý mới ghi và phơi bày được. Thời cơ tức là lúc thiên cơ trong nhân cơ máy động mạnh hay nhẹ. Bạn nhân cái cớ đó mở khoa Động Tĩnh Học ra xem là để biết được thuộc về thiên diện nào báo hiệu một trong 64 thiên diện mà nay chúng ta gọi là Dịch Tượng, còn gồm cả 64 Dịch Tượng thì chúng ta gọi là hệ thống Động Tĩnh.

Bạn nào có tánh hay tò mò hay muốn biết tất cả mọi việc, khắp mọi nơi thì học khoa Tiên Thiên Lý Số rất có lợi cho bạn đó, chẳng những có lợi cho sự mau tấn tới, cho sự dồi mài 384 thiên lý của mình mà còn có lợi về sự thưởng ngoạn 64 cảnh trời (thiên diện) ra vào thường xuyên trong đó, thì một cái biết khắp muôn trùng rất hứa hẹn cho bạn đó. Cái biết khắp muôn trùng đang chờ đợi bạn, chờ sự siêng năng ưa thích Dịch Lý của bạn ở cuối đường. Lúc bấy giờ các thiên diện thường báo hiệu mà Đức Thần Minh trong bạn năng tiếp xúc cho nên bạn có thể hay biết lạ lùng.

QuocTrung
09-11-09, 14:13
Anh Virgo
Cám ơn anh đã có những bài viết về Dịch Lý

Thiên cơ: là tất cả các cái gì có lý Động Tĩnh từ gần gũi đến xa xôi, từ mỗi thân tâm đến
cõi vô biên.

- Nhân cơ: là tất cả các sự Động Tĩnh đó có khi làm cho bạn cảm xúc. Đó là nhân cơ.

- Thời cơ: trong thời đại, thế hệ, vận hội, người, năm tháng, ngày giờ, phút, giây, lúc nào ấy là thời cơ.
nếu có thể nhờ Admin tạo diễn đàn thảo luận
thanks!

virgoo
09-11-09, 18:17
ÁP DỤNG ĐỘNG TĨNH
CÔNG THỨC BẤT THƯỜNG
(Tức là vô thường nhân mắt thấy)

Bất thường: bỗng nhiên bữa nọ bạn nhìn một sự, một vật, một việc, bất cứ cái gì mà lòng bạn cảm xúc chú ý. Có khi vật đó đã thường ngày thấy hay không thấy cũng vậy. Nhưng chỉ có bữa đó, giờ phút đó bạn có lòng muốn biết, nó có sự gì trong nó, liên hệ cho nó, liên quan cho nó hay là nó sẽ có sự gì cho bạn, liên quan hay liên hệ đối với bạn thì đó là thiên cơ máy động, trời cho bạn hay biết đó.

Nếu bạn có theo khoa Động Tĩnh Học thuộc Tiên Thiên Lý Số, bạn cứ mở ra xem thì liền biết thuộc thiên diện nào báo hiệu. Muốn biết thiên diện đó đang náo động ra sao, thì tức là bạn phải tìm hào động…

Ví dụ: giờ nọ bỗng nhiên bạn thấy một con trâu từ phương Tây Bắc chạy đến, lòng bạn muốn biết có việc gì xảy ra, thì bạn hãy lấy ngay con trâu ấy làm Thượng Quái và phương Tây Bắc làm Hạ Quái.

Theo Bát Quái vạn loại thì Dịch Tượng này là Khôn thượng, Kiền hạ, rồi bạn hợp số của Khôn và Kiền, cộng thêm số giờ lúc bạn thấy và lòng muốn biết đó mà tìm hào động.

Theo Chu Dịch Quái số thứ tự thì Dịch Tượng này Khôn 8, Kiền 1 cộng lại là 9, đem số 9 hợp cộng số giờ nào tùy rồi trừ mãi cho 6 hào, còn thừa 6 là hào 6 động, thừa 5 là hào 5 động,…

virgoo
09-11-09, 18:21
ĐỘNG TĨNH
CÔNG THỨC BẤT THƯỜNG
(Tức là vô thường nhân tai nghe)

Trong bất cứ xa gần, bỗng nhiên bạn nghe thấy tiếng gió, tiếng động, hoặc tiếng chim kêu mà mắt không trông thấy, nhưng nó có làm bạn cảm xúc muốn biết đó là việc gì. Bạn cứ mở khoa Động Tĩnh ra xem thì liền biết thiên diện nào báo hiệu.

Ví dụ: bạn nghe tiếng trống đằng xa vọng lại hai tiếng rồi lại ba tiếng. Bạn lấy hai tiếng làm Thượng Quái, còn ba tiếng sau làm Hạ Quái. Hợp số của Thượng-Hạ Quái với số giờ lúc ấy mà tìm hào động.


ĐỘNG TĨNH
CÔNG THỨC BẤT THƯỜNG
(Tức là vô thường nhân châu thân động)

Bỗng nhiên trong châu thân bạn động như là máy mắt, thịt giựt thì hãy theo Bát Quái vạn loại mà an Dịch Tượng.

Lấy trước mặt làm Ly, sau lưng là Khảm, phía tả là Chấn, phía hữu là Đoài, Cấn là lưng, Kiền là đầu, Ly là tim, Tốn là đùi…

Hợp số Thượng-Hạ Quái lại mà tìm hào động.

Ví dụ: Lưng là Cấn, đơ lưng là Kiền thì bạn được Dịch Tượng là Sơn Thiên…

Đầu là Kiền, Nóng là Ly. Lấy nóng trước, đầu sau là Hỏa Thiên, ngược lại là Thiên Hỏa.

Rồi cứ hợp số của Thượng-Hạ Quái lại mà tìm hào động (không cần giờ).

Sau khi đưa ra các Động Tĩnh Công Thức bất thường ắt có một vài bạn tự hỏi: nếu thiên cơ trong nhân cơ chẳng máy động thì cớ sự Dịch Lý ra sao? hoặc là người không muốn hiểu biết, cũng chẳng bao giờ thành tâm hoặc tin tưởng bất cứ một thứ gì. Trường hợp đó thì Dịch Lý hóa ra vô dụng sao?

Đáp: thành tâm hay không thành tâm, tin tưởng hay không tin tưởng vẫn phải đứng trong luật Tạo Hóa, loài người vẫn có cảm xúc trên phương diện mắt thấy, tai nghe, trí hiểu thâm sâu hay nông cạn và rốt cùng là tâm tư lự hoặc vô tư chớ chẳng có gì khác nhau. Vô tư tức như tư lự mà bất thiên, bất nhiễm, Dịch là tư lự nhưng nó Dịch không ngừng thì lại là vô tư (không tên mà mọi tên vậy).

Những người có lòng hoài nghi chẳng dám tin một điều gì thì rất có căn bản trên đường Dịch Lý. Căn bệnh hoài nghi rất là Dịch Lý, nhờ có bệnh hoài nghi mà con người đó đã có một cương vị của một nhà nghiên cứu, địa vị của nhà Bác học. Khi đi vào Dịch Lý, Lý Số tức như có dịp thưởng ngoạn, ngắm xem luật Tạo Hóa với cương vị Hậu Thiên của mình, với tài hèn sức mọn của mình để cho quí vị đó cũng như tất cả ai ai cũng đều có thể tham khảo luật Tạo Hóa, tôi xin ghi ra Động Tĩnh Công Thức Hữu Thường để làm nhịp cầu nối liền giữa sự huyền vi và hiển hiện trong hội ngộ này, cũng là để bạn có thể dồi mài Đức Thần Minh vô tư của mình, mỗi bạn đều có thể sẽ có một bảo vật vô giá đúng ngươn hội thời đại hiện nay, xứng đáng hãnh diện với tất cả mọi nền văn minh nhân loại.

Nếu bạn nào tự dồi mài thì báu vật sẽ sở đắc cho mình chẳng ai đánh cắp được, nếu không siêng năng dồi mài thì bảo vật vô giá ẩn trốn trong bạn và chờ đợi bạn vậy. Sự dồi mài có thể có 3 thời kỳ:

- Thời kỳ thứ nhất: khi có việc can hệ đến với chính mình thời các thiên diện báo hiệu Đức Thần Minh vô tư trong bạn liền tiếp xúc.

- Thời kỳ thứ hai: các việc không hệ trọng mấy cũng có báo hiệu và tiếp xúc.

- Thời kỳ thứ ba: năng tiếp xúc với các thiên diện, hoặc thần minh phát xuất bất cứ lúc nào.

Tư lự mà bất thiên bất nhiễm, đó là thời kỳ khi một lời bạn nói ra với tính cách phán quyết rồi thì trời đất quỉ thần cũng không sái quá được.

Tôi không sở đắc ở các thời kỳ, nhưng tôi có trải qua và đến nay tôi đang bận tâm trên phương diện khác. Bởi có biết nên xin mách quí bạn nào ưa thích trên phương diện tiên tri, tiên giác.

Nói về các thời kỳ, thì thời kỳ thứ ba vẫn ở lẫn lộn trong thời kỳ thứ nhất mà thời kỳ thứ nhất cũng có ở trong thời kỳ thứ ba, lúc phán quyết trên một sự việc khi tâm hồn bạn vô tư là sự huyền diệu liền xuất hiện ở lời nói, ở ý niệm, ở trí thức và kiến thức thành ra chính lý.

Động Tĩnh Công Thức Hữu Thường chẳng cần đòi hỏi sự thành tâm trong sạch hay tin tưởng của bất cứ ai, trái lại nó sẽ biểu dương được cớ sự huyền diệu của Dịch Lý đã an bài, nếu bạn có chịu khó theo dõi mỗi ngày mỗi giờ và ôn lại sự hành động của mình rồi so với Dịch Tượng, bấy giờ mới hay rằng chúng ta là Dịch Lý là diễn viên nhỏ nhoi góp phần diễn xuất trong sân khấu Dịch.

Người theo dõi Dịch Lý, Lý Số với Động Tĩnh Công Thức Hữu Thường như là làm cái việc nhỏ nhặt, mỗi ngày lật một trang sách đọc lại cớ sự an bài của Dịch Lý tức như muốn nghe thấy sự an bài của Tạo Hóa qua trên Dịch Tượng. Nếu đã hội lý được, bấy giờ mới hay rằng Dịch Lý là mầu nhiệm và huyền diệu cùng với Dịch Lý đã có tác dụng hình bóng lý tính để khuyên răn trong xã hội loài người.

Nếu chúng ta sửa đổi được luật động tuần tự và trật tự trong Vũ Trụ thì chúng ta đi học Dịch Lý có ích gì? Nếu sửa đổi thì các bậc tiên hiền, tiên thánh thuở trước cùng trời đất đã hợp lực chẳng để người đời kêu trời trách đất và rên xiết thương đau thế mới biết Dịch Lý là mầu nhiệm vô cùng và huyền diệu vậy.

Khi chưa học Dịch thì tưởng mình là ông trời của ông trời, đến khi học Dịch Lý mới hay là mình không bằng một hột cát trong bãi sa mạc. Ai nói là sửa được luật Tạo Hóa thì ắt là chưa hiểu Dịch là gì.

Người là Hậu Thiên cùng với Nhật, Nguyệt, Tinh-Thần tức là mặt trời, mặt trăng, chúng là con cháu chắt chít của luật động (Dịch). Chúng ta có thể lấy đó làm Dộng Tĩnh Công Thức Hữu Thường, tôi cho là rất phù hợp với Dịch so với quả địa cầu chúng ta đang ở, rất hợp với luật vần xoay biến đổi, với luật Thiên Đại tuần hoàn.

Tóm lại, tất cả các công thức tôi ghi trong tập tài liệu này, dù bất thường hay hữu thường đều có thể co giãn, co giãn tức là có thể lớn ra hay nhỏ lại tùy nhu cầu nhân dụng, ví dụ nhỏ lại là ngày giờ, phút, giây, lớn ra là hội, vận, thế, niên hoặc là ngươn, hội, vận, thế. Nhỏ là một thân mình, lớn là thiên hạ, nhỏ là một khu đất, lớn là quả địa cầu hơn nữa là tất cả mọi hành tinh học giả thiện chí suy ra khắc biết công thức hoàn cầu, kiểm soát không gian, thời gian,…

Trong chỗ lớn có hạp tịch tiêu trưởng lớn, trong chỗ nhỏ có hạp tịch tiêu trưởng nhỏ, vì Dịch Lý vẫn ở trong:

- Một thế là 30 năm
- Một vận là 360 năm, tức là 12 thế
- Một hội là 10.800 năm, tức là 30 vận
- Một người là 129.600 năm, tức là 12 hội.

Ngoài các công thức trong tập tài liệu này, còn có công thức chuẩn bị như là cỏ thi, gieo tiền điếu, hốt nắm que, bẻ nhành lá, viết số hay nói một câu thì phép khởi Quái không đồng với Tiên Thiên, tức là đặt Hạ Quái trước mà Thượng Quái sau, nhưng khi gọi tên Dịch Tượng thì vẫn gọi từ trên xuống.

Tôi chủ trương Tiên Thiên, Hậu Địa nên đặt Thượng Quái trước và Hạ Quái sau, và khi gọi tên Dịch Tượng thì cũng gọi từ trên xuống dưới.

virgoo
10-11-09, 17:31
ĐỘNG TĨNH
CÔNG THỨC HỮU THƯỜNG

Tức là gồm cả tai nghe, mắt thấy, trí hiểu và tâm tư.

Ví dụ:
- Tai nghe người ta nói năm gì, tháng gì, ngày mùng mấy
- Mắt thấy là sáng tối, ngày đêm, lồi lõm, lớn bé
- Trí hiểu vì có học hiểu và tin tưởng hay công nhận, chấp nhận
- Tâm tư là tâm hồn mình có cảm xúc, muôn vật cảm xúc, nhân đó mà an Dịch Tượng

Thứ tự nhập môn

1. Quyết lệ của Kinh Dịch là lấy hệ số chẵn lẻ làm Âm Dương
2. Lấy hệ số chẵn lẻ nên dùng Tứ Tượng
3. Tứ Tượng hiện nay trong vòng nhỏ nhất là năm, tháng, ngày, giờ (nếu cần sau khi uyên
thâm có thể đổi lại là ngày, giờ, phút, giây).
4. Năm, tháng, ngày, giờ làm thành số
5. Số của năm, tháng, ngày, giờ đều tính theo Âm lịch
6. Khi đã lấy được một thành số rồi, phải trừ cho số 8 (Bát Quái)
7. Trừ mãi cho đến khi nào còn 8 hoặc dưới số 8 mới thôi
8. Số của năm, tháng, ngày làm quẻ trên (Thượng Quái)
9. Số của năm, tháng, ngày và giờ làm quẻ dưới (Hạ Quái)
10. Khi trang xong một quẻ có vạch rồi phải lập Hộ Quái
11. Lập Hộ Quái phải do nơi quẻ chánh mà làm ra
12. Phải tìm hào động
13. Phải lập quẻ biến
14. Phải học cho biết Quái danh (tên quẻ)
15. Phải hiểu cho tường tận Quái nghĩa
16. Khi trang xong 3 quẻ: Chánh, Hộ, Biến rồi ta tự phác ra một ý tứ cho có ý nghĩa của một cục diện. Quẻ Chánh ví như là bị động, Quẻ Hộ ví như là chủ động, Quẻ Biến ví như là thụ động

Nếu chưa hiểu nghĩa gì được, đó là tại ta chưa hiểu Quái nghĩa và cũng chính vì tự chỗ đó mà người đời không học được Dịch.

Khi chưa phát ra được một ý tưởng liên quan mật thiết của 3 quẻ Chánh, Hộ, Biến là bị, tự thọ đó là tại lòng ta chưa đến được vô tư. Sở dĩ có vô tư thời mới thông suốt muôn trùng, tư lự thì chỉ thấy thiên lệch, một khía cạnh như một khoa học thường thức mà thôi.

Để nhắc lại sự quan trọng về cách ý thức ngầm hiểu là có tự động, bị động và thọ động.

Bảng ý thức chính xác cương vị của mình trong mỗi sự việc do:

- Quái danh và Quái nghĩa để biết chính xác
- Theo quan niệm Tứ Tượng (sinh khắc)

virgoo
10-11-09, 17:38
Khôn: Thuận dã là mềm lỏng
o Ta bị nhu nhược, ta được sự nhu thuận
o Ta mềm mỏng với kẻ khác, ta nhu nhược hóa kẻ khác

Phục: Phản dã là trở lại
o Ta bị phản hồi, ta được sự trở về
o Ta phục hưng cho kẻ khác, ta phản bội kẻ khác

Lâm: Đại dã là lớn, ở trên soi xuống
o Ta bị giáo hóa, ta được giáo dục
o Ta giáo tư, dong chở cho kẻ khác, ta tự đại với kẻ khác

Thái: Thông dã là hanh thông
o Ta bị thông tri, ta được thông hiểu
o Ta khai thông cho kẻ khác, ta thông thạo hơn người

Tráng: Chí dã là chí khí, lớn mạnh
o Ta bị lập nên, ta có được chí khí
o Ta chí chính cho kẻ khác, ta hùng tráng với kẻ khác

Quải: Quyết dã là quyết đoán, dứt khoát
o Ta bị dứt quyết, ta được sự quyết định
o Ta dứt khoát, phán quyết cho kẻ khác, ta cương quyết cắt đứt kẻ khác

Nhu: Thuận dã là chờ đợi, là nhu cầu, nghiên cứu
o Ta bị nghiệm xét, ta được cứu xét
o Ta nghiên cứu cho kẻ khác, ta nghiệm xét kẻ khác

Tỉ: Thân dã, tư dã là hân hoan, thân liền
o Ta bị tư thân, ta được tư thân
o Ta cầu thân với kẻ khác, ta cởi bỏ mọi người chỉ tư thân

Cấn: Chỉ dã là ngăn giữ
o Ta bị ngăn chận, ta được ngăn chận
o Ta ngăn ngừa cho kẻ khác, ta ngăn giữ kẻ khác

Bí: Sức dã là trang sức, thông suốt
o Ta bị thấu suốt, ta được sáng suốt
o Ta sáng tỏ cho kẻ khác, ta đả thông kẻ khác

Đại Súc: Tụ dã là chứa lớn
o Ta bị tích tụ, ta được tích tụ
o Ta nuôi chứa kẻ khác, ta dồn tụ kẻ khác

Tổn: Thất dã là hao tốn, thất bát
o Ta bị hao tốn, ta được ban bố
o Ta ban bố cho kẻ khác, ta tổn hại kẻ khác

Khuể: Quai dã là trái lìa, nhờ vả lẫn nhau
o Ta hỗ trợ, ta được hỗ trợ
o Ta hỗ trợ cho kẻ khác, ta được thế lực hùm hổ với kẻ khác

Lý: Lễ dã là lễ phép, hệ thống, qui tắc
o Ta bị theo phép, ta được lễ kính
o Ta lễ kính kẻ khác, ta bắt lỗi kẻ khác

Trung Phu: Tín dã là tín cẩn, tín ngưỡng
o Ta bị ủy nhiệm, ta được tín nhiệm
o Ta tin tưởng kẻ khác, ta ủy nhiệm kẻ khác

Tiệm: Tiến dã là tiến tới lần lần
o Ta bị tuần tự, ta được tiệm tiến
o Ta thứ tự cho kẻ khác, ta chậm chạp và trật tự kẻ khác

Khảm: Hãm dã là hiểm nguy, bắt buộc
o Ta bị hãm hiểm, ta được kềm hãm
o Ta chịu sự kềm hãm cho kẻ khác, ta đóng khung kẻ khác

Tiết: Chỉ dã là chừng mực, hạn chế
o Ta bị hạn chế, ta được hạn chế
o Ta tiết kiệm cho kẻ khác, ta tiết chế kẻ khác

Truân: Nạn dã là khó khăn, trở ngại, gian lao
o Ta bị gian nan, ta được cứu khổ
o Ta truân chuyên vì kẻ khác, ta gây gian truân cho kẻ khác

Ký Tế: Hợp dã là hợp pháp, hợp lý
o Ta bị hợp cùng, ta được hiệp hợp
o Ta hợp lý cho kẻ khác, ta cẩu hợp kẻ khác

Cách: Cải dã là thay đổi, cải biến
o Ta bị cải biến, ta được hoán cải
o Ta hoàn thiện cho kẻ khác, ta biến chế kẻ khác

Phong: Thịnh dã là thịnh đại, lớn, hòa đồng
o Ta bị đồng hóa, ta được hòa đồng
o Ta hòa đồng với kẻ khác, ta đồng hóa kẻ khác

Minh Di: Thương dã là bị thương, hại đau
o Ta bị thương, ta được thương hại
o Ta đau thương vì kẻ khác, ta gây tang thương cho kẻ khác

Sư: Chúng dã là ủng hộ nhau, nhiều người
o Ta bị áp chúng, ta được chúng ủng hộ
o Ta ủng hộ kẻ khác, ta chúng áp kẻ khác

Tốn: Nhập dã là thuận vào ở trong
o Ta bị sáp nhập, ta được gia nhập
o Ta thuận nhập, vào ra với kẻ khác, ta du nhập, đột nhập kẻ khác

Tiểu Súc: Tắc dã là chứa góp ít, dị đồng
o Ta bị cô đơn, ta được riêng ý
o Ta độc đáo vì kẻ khác, ta cô lập hay là bất điệu với kẻ khác

Gia Nhân: Đồng dã là cùng nhau, người nhà
o Ta bị thêm người, ta được sinh sôi nảy nở
o Ta sinh sôi cho kẻ khác, ta đồng hóa kẻ khác làm gia đinh

Ích: Ích dã là tăng thêm, ích lợi
o Ta bị lợi dụng, ta được ích lợi
o Ta ban lộc cho người, ta lợi dụng kẻ khác

Vô Vọng: Thiên tai dã là tai nạn tự nhiên, càn đại
o Ta bị xâm lấn, ta được xâm phạm
o Ta chịu sự xâm nhập, ta xâm phạm kẻ khác

Phệ Hạp: Khiết dã là cắn hợp, hỏi han
o Ta bị đay nghiến, ta được cắn hợp
o Ta chịu sự dày xéo, ta đay nghiến kẻ khác

Di: Dưỡng dã là chăm lo, nuôi nấng
o Ta bị an nghỉ, ta được bồi dưỡng
o Ta bổ dưỡng cho kẻ khác, ta an nghỉ kẻ khác

Cổ: Sự dã là cớ sự, việc, sự biến, sửa sai
o Ta bị cớ sự, ta được cớ sự
o Ta chịu cớ sự cho kẻ khác, ta gây cớ sự với kẻ khác

Chấn: Động dã là chấn động, dấy khởi
o Ta bị kinh động, ta được dấy động
o Ta hoạt động cho kẻ khác, ta kinh động kẻ khác

Dự: Duyệt dã là phòng bị, vui vẻ
o Ta bị múa rối, ta được vui động
o Ta động vui cho kẻ khác, ta múa rối rộn tan kẻ khác

Giải: Tán dã là phân tán, cổi mở, giải đãi
o Ta bị phân tán, ta được phóng thích
o Ta phóng thích cho kẻ khác, ta phân tán kẻ khác

Tụng: Luận dã là luận bàn, kiện cáo
o Ta bị tranh tụng, ta được sự biện minh
o Ta biện luận cho kẻ khác, ta gây gổ kiện tụng kẻ khác

Đồng Nhân: Thân dã là gần gũi, cùng chung với người khác
o Ta bị yêu chuộng, ta được sự đồng ý
o Ta biểu đồng tình với kẻ khác, ta ngang hàng thất kính với kẻ khác

Đoài: Duyệt dã là vui lòng, hiện đẹp
o Ta bị đùa cợt, ta được vui đẹp
o Ta vui đẹp cho kẻ khác, ta cười chê đùa cợt kẻ khác

Khốn: Nguy dã là lo âu, nguy hiểm
o Ta bị nguy khốn, ta được lo lắng
o Ta lo lắng cho kẻ khác, ta làm nguy khốn kẻ khác

Tụy: Tụ dã là tụ họp lại mà không đi, trưng tập
o Ta bị trưng tập, ta được tụ tập
o Ta cổ động cho kẻ khác, ta trưng tập kẻ khác

Hàm: Cảm dã là cảm xúc, tiếp thu
o Ta bị cảm động, ta được cảm tương
o Ta tương cảm đến kẻ khác, ta làm xúc động kẻ khác

Kiển: Nạn dã là hoạn nạn, khó khăn, trở ngại
o Ta bị trở ngại, ta được sự ngăn trở
o Ta ngăn ngừa cho kẻ khác, ta chướng ngại kẻ khác

Khiêm: Thoái dã là lui lại, nhún nhường
o Ta bị miệt thị, ta được nhún nhường
o Ta khiêm tốn với kẻ khác, ta miệt thị kẻ khác

Tiểu Quá: Quá dã là nhỏ quá, thiểu lý, bất túc
o Ta bị hèn hạ, ta được phận mọn
o Ta đoái hoài đến kẻ khác, ta phiền nhiễu kẻ khác

Qui Muội: Tai dã là tai nạn, rối ren
o Ta bị dẹp động, ta được dẹp động
o Ta chịu sự rối ren cho kẻ khác, ta khuấy rối kẻ khác

Kiền: Kiện dã là mạnh mẽ, chính yếu
o Ta bị sức mạnh, ta được lớn mạnh
o Ta hùng mạnh cho kẻ khác, ta cường bạo với kẻ khác

Cấu: Ngộ dã là gặp gỡ
o Ta bị bắt gặp, ta được cấu kết
o Ta mai mối cho kẻ khác, ta bắt gặp kẻ khác

Độn: Thoái dã là lui ẩn, trốn đi, ẩn náu
o Ta bị ẩn trốn, ta được ẩn trốn
o Ta che dấu cho kẻ khác, ta ẩn trốn kẻ khác

Bĩ: Tắc dã là bế tắc, gián cách
o Ta bị bế tắc, ta được sự bế tắc
o Ta bế tắc cho kẻ khác, ta tắc nghẽn kẻ khác

Quan: Quan dã là xem xét, quan sát, trông thấy
o Ta bị quan sát, ta được xem xét
o Ta trông nom cho kẻ khác, ta quan sát kẻ khác

Bác: Lạc dã là bóc ra, lột mất, tiêu điều
o Ta bị lột xác, ta được xóa mờ
o Ta xóa nhòa cho kẻ khác, ta lột xác kẻ khác

Tấn: Tiến dã là đến hay đi, tiến tới
o Ta bị đi, ta được đến
o Ta hiện diện cho kẻ khác, ta suồng sả đến

Đại Hữu: Khoan dã là cả có
o Ta bị trùng điệp, ta có được nhiều
o Ta phong phú cho kẻ khác, ta đa sự với kẻ khác

nguoikhonghoc
10-11-09, 18:27
Virgo không nên đăng như vậy, nên viết thành file gửi admin, admin sẽ đăng lên tủ sách, cái quan trọng nếu đăng tài liệu của DLVN phải phải được phép của Trưởng Môn Cao Thanh, còn không thì chỉ nên trao đổi nội bộ gửi mail cho nhau qua hòm thư riêng, còn đăng bài thì mình phải tự viết dựa trên cơ sở của DLVN nhưng không được lạc lý, bởi lạc lý rất có tai hại với người học dịch và bị người đời hiểu sai về DLVN
Cái phần Virgo đăng lên là một phần nhỏ trong Kinh dịch xưa và nay của Dịch học sĩ Nam thanh Học viên khóa 1 của Thầy tổ xuân phong!

Quang16
12-11-09, 21:04
Virgo không nên đăng như vậy, nên viết thành file gửi admin, admin sẽ đăng lên tủ sách, cái quan trọng nếu đăng tài liệu của DLVN phải phải được phép của Trưởng Môn Cao Thanh, còn không thì chỉ nên trao đổi nội bộ gửi mail cho nhau qua hòm thư riêng, còn đăng bài thì mình phải tự viết dựa trên cơ sở của DLVN nhưng không được lạc lý, bởi lạc lý rất có tai hại với người học dịch và bị người đời hiểu sai về DLVN
Cái phần Virgo đăng lên là một phần nhỏ trong Kinh dịch xưa và nay của Dịch học sĩ Nam thanh Học viên khóa 1 của Thầy tổ xuân phong!

nguoikhonghoc nói như vậy thì mục đích cuối cùng cũng đến tay người đọc, chỉ khác là hình thức, đăng và gởi mail có gì khác nhau không ??? nói về bản quyền ( lại bản quyền ) thì còn gì là internet ! nguoikhonghoc xem trên internet có bao nhiêu bản quyền được đưa lên ; tôi thấy virgo đăng lên đây là có lợi cho mọi người.

"Thi đua ta quyết thi đua
Thi đua ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu rồi biết đi đâu
Đi đâu không biết, hàng đầu cứ đi."
thơ Bút Tre

Quang16
12-11-09, 21:13
thầy Xuân Phong có tâm nguyện gì vậy ? Sách này do thầy Xuân Phong viết ? Hình như có gì mượn danh nhau ở đây ? Theo tôi biết, sách này do thầy Hồng Tử Uyên biên soạn, Xuân Phong Hồng Tử Uyên là hiệu của 1 người: thầy Hồng Tử Uyện,

bản đánh máy do 1 học viên khác, con dấu in trên sách do thầy Cao Thanh đóng năm 2007,

rất có hảo ý nhưng đừng mượn danh người khác nhé
hãy đăng trung thực, đừng thêm bớt hoặc nói bậy bạ,
đăng bài mà không xin phép tác quyền, dù dưới mọi hình thức thì vẫn xem như là ăn cắp
xin cám ơn
Làm gì mà to tát vậy. Thầy tổ Xuân Phong nếu biết PP của mình được nhiều người biết đến thì Thầy càng vui cứ sao.

nguoikhonghoc
12-11-09, 21:24
nguoikhonghoc nói như vậy thì mục đích cuối cùng cũng đến tay người đọc, chỉ khác là hình thức, đăng và gởi mail có gì khác nhau không ??? nói về bản quyền ( lại bản quyền ) thì còn gì là internet ! nguoikhonghoc xem trên internet có bao nhiêu bản quyền được đưa lên ; tôi thấy virgo đăng lên đây là có lợi cho mọi người.

"Thi đua ta quyết thi đua
Thi đua ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu rồi biết đi đâu
Đi đâu không biết, hàng đầu cứ đi."
thơ Bút Tre

Ý tôi muốn nói khác một chút!
Đó là lợi và hại cho dịch lý: Với tư cách học viên dịch lý họ sẽ hiểu và thông cảm, với tư cách người mới bắt đầu họ sẽ hiểu lầm về dịch lý, đó mới là tai hại lớn.
Tôi chỉ có ý kiến như vậy

Quang16
12-11-09, 21:29
Ý tôi muốn nói khác một chút!
Đó là lợi và hại cho dịch lý: Với tư cách học viên dịch lý họ sẽ hiểu và thông cảm, với tư cách người mới bắt đầu họ sẽ hiểu lầm về dịch lý, đó mới là tai hại lớn.
Tôi chỉ có ý kiến như vậy

Nếu bạn thấy chỗ nào chưa đúng bạn có quyền góp ý để có lợi cho mọi người.

nguoikhonghoc
12-11-09, 21:39
Mình đã góp ý rồi đó! nên gửi qua admin hoặc tự cho nhau qua mail riêng, nhưng nên tôn trọng tác giả không nên chỉnh sửa.

virgoo
12-11-09, 21:51
Mình đã góp ý rồi đó! nên gửi qua admin hoặc tự cho nhau qua mail riêng, nhưng nên tôn trọng tác giả không nên chỉnh sửa.

nguoikhonghoc chắc có gì vụ lợi trong vụ này rồi sao mà phản ứng quá vậy (Đi trái với Tâm Nguyện của Thầy Xuân Phong). Tôi đăng những bài này không có chỉnh sửa, hay thêm bớt gì hết, chỉ vì mục đích để trao đổi học thuật chia sẻ cho mọi người cùng học hỏi.!Nếu tôi đăng có sai bạn cứ góp ý!

nguoikhonghoc
12-11-09, 21:55
Nên tham khảo nhận xét của anh gaubong

hocphongthuy
13-11-09, 21:26
nguoikhonghoc chắc có gì vụ lợi trong vụ này rồi sao mà phản ứng quá vậy (Đi trái với Tâm Nguyện của Thầy Xuân Phong). Tôi đăng những bài này không có chỉnh sửa, hay thêm bớt gì hết, chỉ vì mục đích để trao đổi học thuật chia sẻ cho mọi người cùng học hỏi.!Nếu tôi đăng có sai bạn cứ góp ý!


Nên tham khảo nhận xét của anh gaubong


Mình đã góp ý rồi đó! nên gửi qua admin hoặc tự cho nhau qua mail riêng, nhưng nên tôn trọng tác giả không nên chỉnh sửa.

Chào Các ACE và anh Nguoikhonghoc, Virgo
Tôi nhận thấy khí có tài liệu mà chúng ta trao cho nhau đọc để tìm hiểu thêm về tri thức thì điều này vô cúng tốt , ngoài ra một người nào khi đi giảng dạy hay truyền đạt kiến thức thi luôn cần có nhiều học trò và thành đạt nhiều nhất . Còn về việc nghiên cứu thu thập kiến thức như thế nào thì mổi học trò có nhận thức riêng biệt nhưng nhìn chung đi đúng hướng là tốt

Là người mới tìm hiểu về dịch lý biết được những kiến thức cơ bản này là nền tảng phát huy sau này .
Cũng rất mong anh Virgo cho tiếp tục đăng tài liệu của thầy Xuân Phong

tuyettinh09
21-11-09, 23:58
chào anh em,tôi cũng đã đọc bài và thấy, chúng ta không quá câu lệ về chuyện bản quyền làm chi, vì anh em có sách là đưa ra để chia sẻ,mọi người cùng học tập để mà tiến bộ thôi,mà anh VIRGO cũng đâu có nói là của mình,nếu ai cũng nói tới bản quyền thì chúng ta làm gì có tài liệu để mà học mà nghiên cứu, nếu ai cũng sợ điều đó thì diễn đàn của chúng ta cũng mất đi nhiều ý nghĩa của nó,các bạn có nghĩ vậy không.vì diễn đàn của chúng ta chính là sẻ chia kinh nghiệm .nếu không có tài liệu thì anh em chúng ta lấy gì mà học tập nghiên cứu,vậy thì lấy đâu ra kinh nghiệm mà trao đổi cùng anh em, riêng tôi,tôi rất hoan nghênh tinh thần của anh VIRGO. nếu cứ nói tới bản quyền ,vậy tôi xin hỏi 1 câu.thật ra diễn đàn của chúng ta là gì,?chúng ta là thành viên có ích lợi gì,?
đó là mấy lời của tôi.mong các bạn tùy tâm mình mà cho ý kiến xem ai đúng ai sai.việc gì cứ phải bới lòng tìm vết hoài như vậy.mệt lắm.:1898:

admin
22-11-09, 10:50
Tài Liệu Dịch Lý Học Đại Cương do Hội Viên Virgo cung cấp.
Thay mặt Diễn đàn Huyền Không Lý Số xin trân thành cảm ơn Hội Viên Virgo đã chia sẽ tài liệu quí giá này cho mọi người!


Link Download:
http://www.4shared.com/file/156430580/fa8dff28/Dich_Ly_Hoc_Dai_Cuong.html

HONGKYCHUNG
06-08-13, 00:30
Chào các bạn thành viên trong Diễn đàn
Hôm nay, tôi đã được Admin công nhận là thành viên mới. Tôi đi dạo 1 lúc trong diễn đàn thấy đề mục liên quan đến DỊCH LÝ VIỆT NAM, tôi xin gửi vào đây 1 hình ảnh để mọi tham khảo.
Nguồn gốc ảnh này tôi chụp được trong một tang lễ tại Chùa Bồ Đề, quận Bình Thạnh, TP.HCM.
http://tuvilyso.org/forum/topic/12882-dich-co-thai-cuc-thai-cuc-gom-am-duong-am-duong-sinh-bat-quai/page__st__120
Địa chỉ đang lưu ảnh: "http://tuvilyso.org/forum/topic/12882-dich-co-thai-cuc-thai-cuc-gom-am-duong-am-duong-sinh-bat-quai/page__st__120"
Trân trọng
Hồng Kỳ Chung
(Xin lỗi, vì tôi không biết cách chèn ảnh trực tiếp vào Diễn đàn)

cóc vàng
06-08-13, 18:57
Cái này hay quá nhưng nếu phục hồi được hình ảnh minh họa thì còn hay hơn nhiều .

HONGKYCHUNG
07-08-13, 14:21
http://huyenkhonglyso.com/showthread.php?t=394&page=6Nguồn gốc ảnh này tôi chụp được trong một tang lễ tại Chùa Bồ Đề, quận Bình Thạnh, TP.HCM.

nkman
22-06-14, 16:31
Kính chào các anh,chị,chú,bác.(Vì không biết tuổi cháu mạng phép xưng hô vậy)

Cháu đang đọc quyển Dịch Lý Đại Cương có chỗ này không hiểu:
"Sự quân bình tối thiểu là một mà hai, nếu đem cái tối thiểu một mà có hai đó hợp lại theo chiều dọc thì ta có được số quân bình một mà có ba hay một mà có bốn hoặc một mà có năm."

Mong được giải thích dùm.

Chân thành cám ơn.

hieunv74
23-06-14, 10:30
Kính chào các anh,chị,chú,bác.(Vì không biết tuổi cháu mạng phép xưng hô vậy)

Cháu đang đọc quyển Dịch Lý Đại Cương có chỗ này không hiểu:
"Sự quân bình tối thiểu là một mà hai, nếu đem cái tối thiểu một mà có hai đó hợp lại theo chiều dọc thì ta có được số quân bình một mà có ba hay một mà có bốn hoặc một mà có năm."

Mong được giải thích dùm.

Chân thành cám ơn.

Câu này để giải thích "mỗi vật đều có thái cực", 1 mà có vạn vật, vạn vật quy lại lại về 1.

:761::761:

hieunv74
23-06-14, 15:01
Đây là cần câu:

"Sự quân bình tối thiểu là một mà hai, nếu đem cái tối thiểu một mà có hai đó hợp lại theo chiều dọc thì ta có được số quân bình một mà có ba hay một mà có bốn hoặc một mà có năm."

Nếu muốn hiểu đoạn này, bạn nên đọc Đạo lão, sẽ không còn thắc mắc nữa luôn, :2455::2455:

nkman
23-06-14, 19:43
Câu này để giải thích "mỗi vật đều có thái cực", 1 mà có vạn vật, vạn vật quy lại lại về 1.

:761::761:

Em mới hiểu ra không biết có đúng không nếu sai mọi người chỉ dùm em.Câu nói trên có nghĩa là: trong một nguyên tố có tối thiểu là 2 nguyên tố cấu tạo thành lên nó,từ 2 nguyên tố đó kết hợp với chính nó thành 3 nguyên tố,rồi ta cứ tiếp túc kết hợp các sinh ra sau với chính nó sẽ tạo ra các nguyên tố khác...Nên có thể nói 2 mà 1,1 mà 2 theo nguyên tắt trên.

Cám ơn anh Hieunv74 giải thích dùm

hieunv74
24-06-14, 02:24
Em mới hiểu ra không biết có đúng không nếu sai mọi người chỉ dùm em.Câu nói trên có nghĩa là: trong một nguyên tố có tối thiểu là 2 nguyên tố cấu tạo thành lên nó,từ 2 nguyên tố đó kết hợp với chính nó thành 3 nguyên tố,rồi ta cứ tiếp túc kết hợp các sinh ra sau với chính nó sẽ tạo ra các nguyên tố khác...Nên có thể nói 2 mà 1,1 mà 2 theo nguyên tắt trên.

Cám ơn anh Hieunv74 giải thích dùm

Cộng theo chiều dọc theo đồ hình cây để cho dễ tưởng tượng và dễ sai lầm mà thôi.

Ví dụ thế này: nkman mang 1 thanh nam châm ra xem sẽ thất 1 mà 2 (1 đầu âm, 1 đầu dương) -> 1x 2= 2

Bây giờ đem cưa thanh nam châm đó thành 2; bản thân mỗi nửa thanh vẫn có (1 âm, 1 dương) -> 2x 2=4?

bẻ tiếp ---> 8, 18, 32, 64,...
----------------------
Mặc dù là 64 nhưng thực sự nó vẫn thuộc bản chất của thanh nam 1 châm ban đầu cả (vẫn có 1 âm, 1 dương); Thấy 2 tính chất của 1 thanh nam châm nhưng bản chất của nó là ở 1 thanh nam châm; Nên nói 2 mà cho 1 -> Nhất nguyên lưỡng cực động là vậy! Nên dịch mới nói là hiểu về cái động thì phải hiểu trong động có tĩnh.

Mình cũng mới đọc dịch được mấy buổi thôi, nên không dám giải thích nhiều, hihihhihi

:549::549::549:

vqkhanh019
24-06-14, 13:05
Cộng theo chiều dọc theo đồ hình cây để cho dễ tưởng tượng và dễ sai lầm mà thôi.

Ví dụ thế này: nkman mang 1 thanh nam châm ra xem sẽ thất 1 mà 2 (1 đầu âm, 1 đầu dương) -> 1x 2= 2

Bây giờ đem cưa thanh nam châm đó thành 2; bản thân mỗi nửa thanh vẫn có (1 âm, 1 dương) -> 2x 2=4?

bẻ tiếp ---> 8, 18, 32, 64,...
----------------------
Mặc dù là 64 nhưng thực sự nó vẫn thuộc bản chất của thanh nam 1 châm ban đầu cả (vẫn có 1 âm, 1 dương); Thấy 2 tính chất của 1 thanh nam châm nhưng bản chất của nó là ở 1 thanh nam châm; Nên nói 2 mà cho 1 -> Nhất nguyên lưỡng cực động là vậy! Nên dịch mới nói là hiểu về cái động thì phải hiểu trong động có tĩnh.

Mình cũng mới đọc dịch được mấy buổi thôi, nên không dám giải thích nhiều, hihihhihi

:549::549::549:

Bác giải thích hay quá. Tks bác. :669::669::669:

nkman
24-06-14, 13:27
Cộng theo chiều dọc theo đồ hình cây để cho dễ tưởng tượng và dễ sai lầm mà thôi.

Ví dụ thế này: nkman mang 1 thanh nam châm ra xem sẽ thất 1 mà 2 (1 đầu âm, 1 đầu dương) -> 1x 2= 2
Bây giờ đem cưa thanh nam châm đó thành 2; bản thân mỗi nửa thanh vẫn có (1 âm, 1 dương) -> 2x 2=4?

bẻ tiếp ---> 8, 18, 32, 64,...
----------------------
Mặc dù là 64 nhưng thực sự nó vẫn thuộc bản chất của thanh nam 1 châm ban đầu cả (vẫn có 1 âm, 1 dương); Thấy 2 tính chất của 1 thanh nam châm nhưng bản chất của nó là ở 1 thanh nam châm; Nên nói 2 mà cho 1 -> Nhất nguyên lưỡng cực động là vậy! Nên dịch mới nói là hiểu về cái động thì phải hiểu trong động có tĩnh.

Mình cũng mới đọc dịch được mấy buổi thôi, nên không dám giải thích nhiều, hihihhihi

:549::549::549:

Cám ơn anh giải thích và cho ví dụ rất dễ hiểu.

Anh đang học theo quyển sách nào vậy.Em đang tìm hiểu quyển sách Lý Học đại cương trên diễn đàn của thầy Xuân Phong và Hồng Từ Uyên.

Em đang đọc tới tiến trình của Vũ Trụ,nhưng chưa hiểu lắm,sẽ tìm hiểu nó sau khi đọc hết quyển sách.

Chân thành.

nkman
25-06-14, 14:32
Cho em hỏi trong sách Viet Dịch Chính Tông cách đánh số giờ như sau:
Giờ Tý (từ 0 đến 2 giờ Sàigòn) 1, Sửu (2-4 giờ) ... Hợi (22-24 giờ) 12.

Còn tham khảo trên mạng thì thấy giờ tý (23-1).

Do sách viết lâu nên múi giờ có đổi không,xin mọi người giúp dùm.

Chân thành cám ơn.

hieunv74
25-06-14, 21:04
Trong sách cũng có bảng tính theo giờ rồi, cần gì phải hỏr nữa

hieunv74
25-06-14, 21:09
Kính chào các anh,chị,chú,bác.(Vì không biết tuổi cháu mạng phép xưng hô vậy)

Cháu đang đọc quyển Dịch Lý Đại Cương có chỗ này không hiểu:
"Sự quân bình tối thiểu là một mà hai, nếu đem cái tối thiểu một mà có hai đó hợp lại theo chiều dọc thì ta có được số quân bình một mà có ba hay một mà có bốn hoặc một mà có năm."

Mong được giải thích dùm.

Chân thành cám ơn.

Thật ra câu trên rất thâm thúy, tác giả ko muốn tiết lộ thôi, chứ tự hiểu được 123 là đỉnh luôn đó, rát khoa học.

nkman
26-06-14, 19:52
Trong sách cũng có bảng tính theo giờ rồi, cần gì phải hỏr nữa
Cám ơn anh.Em hỏi lại cho chắc vì bữa nay nhiều sách quá.

Thật ra câu trên rất thâm thúy, tác giả ko muốn tiết lộ thôi, chứ tự hiểu được 123 là đỉnh luôn đó, rát khoa học.

Em đang cố thực hành rồi quay lại lý thuyết hi vọng ngày nào đó hiểu được ý của tác giả.

Cám ơn anh về mấy cuốn sách dịch lý.

nkman
09-07-14, 16:28
Sau một thời gian tìm hiểu chọn giờ nào cho đúng mình xin post bài này để mọi người tham khảo.

GIỜ KHẮC VIỆT NAM QUA NHIỀU BIẾN ĐỔI

Chúng ta biết từ lâu, giờ được quốc tế thừa nhận dựa theo kinh tuyến 0 là múi giờ (thời đại) khởi điểm GMT (Greenwich mean time = giờ quốc tế = giờ lấy kinh tuyến chạy ngang qua thành phố Greenwich nước Anh làm gốc). Quả đất dựa theo kinh tuyến, được chia làm 24 múi giờ.

Ở Việt Nam múi giờ quốc tế GMT+7. Với những chiếc đồng hồ do người phương Tây du nhập vào Việt Nam thế kỷ trước, đều theo cách tính ấy. Khi đồng hồ chỉ 7h00 là ở Việt Nam mặt trời đã mọc lên 1 sào (theo cách nói của người xưa).

Thời thuộc Pháp, Việt Nam vẫn giữ giờ quốc tế ấy (GMT+7). Bây giờ mặt trời vừa mọc tại Việt Nam, khoảng 6h00 giờ sáng. Khi Nhật xâm lược Đông Dương, bắt đầu có sự thay đổi 1 rồi 2 giờ trong ngày:

1. Kể từ khuya ngày 31 tháng 12 năm 1942 rạng ngày 1 tháng 1 năm 1943, giờ Việt Nam (đã dùng từ thời thuộc Pháp = GMT+7) phải kéo đồng hồ lên thêm 1 giờ. Vậy là GMT+8. Mặt trời vừa mọc là đã 7h00 giờ sáng. Giờ NGỌ (đứng bóng) không còn là 11h00 đến 13h00 giờ nữa, mà là từ 12h00 đến 14h00.

2. Kể từ khuya ngày 31 tháng 3 năm 1945 rạng ngày 1 tháng 4 năm 1945 lại tăng thêm 1 giờ nữa. Tức GMT+9. Mặt trời vừa mọc là đã 8 giờ, giờ NGỌ từ 13h00 đến 15h00.

Người ta biết Nhật cưỡng ép tăng 2 lần 2 giờ là để phù hợp với múi giờ của nước Nhật (GMT+9), quân lính Nhật sang Đông Dương khỏi phải điều chỉnh đồng hồ đang dùng.

3. Kể từ ngày 19 tháng 8 năm 1945, giờ Việt Nam trở lại như cũ (GMT+7).

4. Trước năm 1975, khi quân đội của Mỹ đổ bộ sang miền Nam Việt Nam, kể từ khuya ngày 31 tháng 12 năm 1959 rạng ngày 1 tháng 1 năm 1960, giờ của miền Nam Việt Nam bị kéo lên thêm 1 giờ. Tức GMT+8.

Mặt trời vừa lên đã là 7h00 giờ sáng. Giờ NGỌ là 12h00 đến 14h00. Mỹ làm thế là để phù hợp với đồng hồ chỉ giờ (gồm 12 số) tại nước Mỹ, cách Việt Nam 11 múi giờ. Khi được kéo lên thêm 1 giờ thì đồng hồ Việt Nam chỉ 8h00 thì khi đó ở Mỹ là 20h00, kim trên mặt đồng hồ ở Washington chỉ số 8. Tức ở miền Nam Việt Nam 8h00 giờ sáng (đã kéo thêm 1 giờ), là 8h00 giờ tối ở thủ đô Mỹ.

Vậy là ai sinh ở miền Nam Việt Nam kể từ sau 00h00 ngày 1/1/1960 thì phải lấy múi giờ GMT +8, tức là sớm hơn hiện nay 01 tiếng.

Vì vậy khi lấy lá số theo trình lập thì phải lùi lại 01 tiếng và phải tùy theo tháng âm lịch để lấy giờ sinh âm lịch cho chính xác, có nghĩa là khoa Tử Vi dùng ngày sinh của tháng âm lịch bình thường (không tính theo tiết khí như khoa Tử Bình lập Tứ trụ), để lập cục an Sao trên lá số. Còn khi lập Tứ trụ thì phải căn cứ xem ngày sinh đó đang ở trong Tiết khí nào. Hai phương pháp xem độc lập nhưng có thể bổ sung các tiêu chí thông tin về vận số cho nhau. Nếu chỉ ứng dụng một phương pháp để xem thì không khai thác hết các tiêu chí thông tin tàng chứa trong Tứ trụ hoặc lá số.

5. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ ngày 1 tháng 5 năm 1975, giờ Việt Nam (Đông Dương) trở lại đúng GMT+7. (Ngày 13 tháng 6 năm 1975 có thông báo của chính phủ Việt Nam thống nhất cả nước dùng giờ Đông Dương theo múi giờ GMT+7; nhưng đã thay đổi giờ ngay sau ngày giải phóng).

Lưu ý: Từ vĩ tuyến 17 trở vào (bên này cầu Hiền Lương thuộc tỉnh Quảng Trị) thuộc chế độ Miền Nam cộng hòa thì trước 1975 tính theo múi giờ GMT+8, tức là vẫn phải trừ đi 1 tiếng.
(Nguồn: tuviglobal.com)

kyniemthoigian_tht
26-04-15, 22:32
em đến chậm hình trong bài mất hết rồi. tiếc quá.
các huynh nào lấy về được rồi có thể úp hết lại lên được không

longtuan
14-08-15, 09:29
Kính chào các anh,chị,chú,bác.(Vì không biết tuổi cháu mạng phép xưng hô vậy)

Cháu đang đọc quyển Dịch Lý Đại Cương có chỗ này không hiểu:
"Sự quân bình tối thiểu là một mà hai, nếu đem cái tối thiểu một mà có hai đó hợp lại theo chiều dọc thì ta có được số quân bình một mà có ba hay một mà có bốn hoặc một mà có năm."

Mong được giải thích dùm.

Chân thành cám ơn.
Trong dịch có câu vạn vật lấy cân bằng làm gốc - Quân bình ở đây chính là ý này - Cho nên 1 có thể là 2 , 3 , 4 , 5 cho nên xét một vật thể ,tùy thời tùy lúc tùy thời điểm mà 1 có thể là 2 (âm , dương ) 3 , 4 , 5 là nói đến ngũ hành .
Ví dụ nói về con người cho dẽ hiểu thường thường người bệnh do một tạng bị rối loạn ví như phế kim khắc can mộc làm cơ thể rối loạn khi điều trị phế kim ổn thì 1 mà được hai nếu xét toàn diện thì 1 , 2 này được thì 3, 4 , 5 yên - bởi 1 làm rối loạn ngũ tạng cho nên 1 có thể được 2 , 3 , 4 , 5 . là vậy .

nguyenthanhhiep1980vl
19-08-15, 21:06
Từ trước đến giờ mọi người hay post ảnh hầu hết qua web photo.zing.vn. Hiện giờ trang web này đã đóng nên gần như tất cả các ảnh đều bị chuyển sang zing me. Chính vì vậy ảnh trong chữ ký, bài viết trước đây đều bị die.
Mình xin được chép lại hướng dẫn của cao thủ đi trước chỉ dẫn cách để xem lại hình các bạn chịu khó một tí thì sẽ xem được hình thôi.

Bước 1:
Di chuyển chuột đến ảnh hiển thị đã bị chuyển sang zing me

bước 2:
Nháy phải chuột và chọn copy image location (sao chép URL hình ảnh )

bước 3: mở một tab mới sau đó paste vào ô địa chỉ

tiếp đến bạn xóa cụm từ "img.photo.zing.vn" trong ô địa chỉ [url]http://img.photo.zing.vn... và thay thế "img.photo.zing.vn" bằng cụm từ "d.f2.photo.zdn.vn" ,sau khi thay thế ta được : http://d.f2.photo.zdn.vn..... ,nhấn enter thì sẽ hiện ra hình ảnh đã mất.
mỗi lần chỉ xem được một hình thôi.

chauhuyenchon
28-10-15, 14:48
không xem được hình.

nguyenthanhhiep1980vl
29-10-15, 00:37
Từ trước đến giờ mọi người hay post ảnh hầu hết qua web photo.zing.vn. Hiện giờ trang web này đã đóng nên gần như tất cả các ảnh đều bị chuyển sang zing me. Chính vì vậy ảnh trong chữ ký, bài viết trước đây đều bị die.
Mình xin được chép lại hướng dẫn của cao thủ đi trước chỉ dẫn cách để xem lại hình các bạn chịu khó một tí thì sẽ xem được hình thôi.

Bước 1:
Di chuyển chuột đến ảnh hiển thị đã bị chuyển sang zing me

bước 2:
Nháy phải chuột và chọn copy image location (hoặc copy chữ "sao chép URL hình ảnh" )

bước 3: mở một tab mới sau đó paste vào ô địa chỉ ,

tiếp đến bạn thay thế "img.photo.zing.vn" bằng cụm từ "d.f2.photo.zdn.vn" , sau khi thay thế ta được : http://d.f2.photo.zdn.vn..... ,nhấn enter thì sẽ hiện ra hình ảnh đã mất.
mỗi lần chỉ xem được một hình thôi.

Nếu theo cách hướng dẫn trên mà không xem được hình thì có khi hình đó đã bị xóa khỏi server lưu trữ hình rồi.:41_002: