PDA

View Full Version : Bản Đồ Tu Phật-Con đường tu của năm thừa



ddt_281
01-10-13, 10:29
Bản Đồ Tu Phật - Con đường tu của năm thừa (tập IX)
Tác giả: Thích Thiện Hoa
Hương Đạo Xuất Bản
In lần thứ nhất năm 1964

LỜI NÓI ĐẦU
Như quí vị độc giả đã biết, Phật ra đời mang một nhiệm vụ duy nhất là hướng dẫn chúng sanh chóng thành Phật quả. Kinh Pháp-Hoa có dạy: ”Phật ra đời vì một nhân duyên lớn, là khai thị cho chúng sanh tỏ ngộ Phật tánh nơi mình”. Nhứ thế thì con đường đi từ chúng sanh đến Phật quả, chỉ có một hướng, chỉ có một chiều, chỉ có một mục tiêu, như trăm song đều hướng về biển cả, nhưng nếu trong thực tế, không có con sông nào giống con sông nào, có con lớn, con nhỏ, có con sâu, con cạn, có con quanh co, khúc khuỷu, có con bằng phẳng, thẳng tắp vì địa cuộc, thì con đường tu của chúng sanh, cũng vì căn cơ sai khác, mà có con đường lớn đường nhỏ, đường cao đường thấp, đường thẳng đường cong…
Những con đường ấy, nếu phân loại một cách có hệ thống, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao thì chỉ còn lại có năm, tức là “Ngũ Thừa Phật Giáo”.
Nếu phân loại một cách rốt ráo hơn nữa thì chỉ còn có ba, tức là “Tam Thừa Phật Giáo”.
Nhưng nếu tóm tắt nữa thì chỉ còn hai thừa tức là “Đại Thừa” và “Tiểu Thừa” và rốt cuộc chỉ còn có một, đó là “Nhất Thừa” hay “Tối Thượng Thừa”, cũng gọi là “Phật Thừa”.
Tập sách này có nhiệm vụ hệ thống hóa, và giản dị hóa các con đường đưa đến Phật quả nói trên, để độc giả có một ý niệm tổng quát về sự tu hành Phật pháp.

ddt_281
01-10-13, 10:31
A. NĂM THỪA, HAY NĂM NẤC THANG
Giáo lý của Phật tuy nhiều đến thiên kinh, vạn quyển, pháp môn của Phật tuy có đến tám muôn bốn ngàn loại, chung quy cũng không ngoài năm thừa, hay năm nấc thang chính để tiến đến địa vị Phật.
Năm nấc thang này, đối với những căn cơ chậm lụt thời cứ tuần tự mà bước, hết nấc này đến nấc khác. Còn đối với những căn cơ thông lợi thì có thể bước hai ba nấc một lần cũng được. Mỗi nấc đều có những phương pháp tu hành riêng biệt và quả vị khác nhau. Nấc thấp thì phương pháp tu hành dễ dàng, giản dị, và quả vị cũng tầm thường. Càng lên cao thì việc tu luyện mất nhiều công phu hơn, và do đó, quả vị cũng cao xa hơn. Nhưng dù cao, dù thấp, dù nhanh dù chậm, quả vị cuối cùng cũng là Phật quả. Do đó mà đức Phật bảo đảm một cách chắc chắn rằng: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Người tu hành luôn luôn nhớ đến câu nói ấy, để vững tâm tiến bước trên đường đạo.

ddt_281
01-10-13, 10:32
Trước tiên hãy nói đến nấc thang thứ nhất, hay là:
I. CON ĐƯỜNG TU CỦA NHÂN THỪA
Con đường này, tương đối dễ dàng nhất trong các con đường tu hành; do đó quả vị cũng không vượt quá cõi người. Phương tiện tu hành để được sống trong cõi người là “Ngũ giới”. Ngũ giới tức là năm điều ngăn cấm mà người tu hành, sau khi thọ giới xong, cần phải triệt để tuân theo.
1. Giới thứ nhất là không sát sanh- Nếu giữ giới này một cách triệt để thì hành giả không được sát hại một sinh vật nào, dù nhỏ bao nhiêu. Nếu chưa có thể giữ được một cách triệt để, thì ít nhất, cũng không được giết người, hay các sinh vật mà mình thấy không cần thiết phải giết. Muốn cho sự giữ giới này được thi hành một cách không quá khó khăn, hành giả nên luôn luôn nghĩ đến đức tánh “Từ bi” thương xót tất cả chúng sanh, tự đặt mình vào địa vị của những sinh vật sắp bị giết, để thấy những khổ đau của chúng. Riêng đối với người, hành giả không bao giờ nên nuôi cái ý niệm sát hại, dù đó là kẻ thù của mình đi nữa.
Nếu cõi đời này mà những hành vi giết hại không hiện ra nữa, thì những khổ đau, những dòng lệ và tiếng kêu thương sẽ được giảm đi rất nhiều vậy.
2. Giới thứ hai là không tham lam trộm cắp- Sau thân mạng là của tiền, tài sản. Người ta thường nói: “đồng tiền là huyết mạch”. Do đó mà khi mất tiền của, người ta thấy khổ đau vô cùng. Có nhiều người đã phát điên khùng, có nhiều người đã tự tử vì tiếc của. Nói như thế để nhận thấy cái giá trị, cái mãnh lực của đồng tiền, đối với đại đa số người đời. Cho nên người giữ giới, phải triệt để loại tánh tham lam ra khỏi lòng mình. Về tánh tham vừa làm khổ cho mình, vừa làm khổ cho người. Người mất của đã khổ, mà người đêm ngày toan tính để cướp của, trộm cắp, lừa gạt của người cũng không tìm được một cuộc đời an vui. Vả lại, của phi nghĩa không thể bền lâu được. Tục ngữ có câu: “…của đánh bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ”. Luật nhân quả không bao giờ sai chạy: mình lấy của người, thì người khác lấy của mình, cái vòng lẩn quẩn không bao giờ dứt. Do đó mà Phật cấm ngặt không được trộm cắp, dù vật nhỏ nhặt bao nhiêu.
3. Giới thứ ba là không tà dâm- Sự dâm dật làm đảo lộn luân thường, đạo lý, làm rối loạn gia cang. Người đa mê sắc dục, khó có thể thành công trên đường đời, vì những mưu toan, những ý nghĩ đen tối cứ khuấy rối tâm hồn, không bao giờ để cho người trong cuộc, có thì giờ làm những công việc hữu ích, đẹp đẽ hơn. Trong báo chí hàng ngày, những tin tức về những cuộc đâm chém, bắn giết nhau vì ghen tương không thể kể xiết. Một gia đình, trong ấy người vợ cũng như người chồng, có một đời sống đàng hoàng, trong sạch, sẽ được người chung quanh kính nể, và gia đình được êm ấm hòa vui; còn trái lại, thì gia đình là một địa ngục trần gian.
4. Giới thứ 4 là không nói dối- Nói dối tức là có ý làm sai lạc sự thật vì tư lợi, tư thù, hay khoe khoang, kiêu mạn, nghĩa là vì những dục vọng riêng tư không đẹp đẽ. Cho nên nói dối tức là dung một cái bình phong giả dối để che đậy một sự thật, không được tốt đẹp. Sự nói dối, bởi lẽ ấy, là một sự khuyến khích người ta đi sâu vào dục vọng, làm cho người ta tiếp tục làm quấy mà không sợ trừng phạt, vì nghĩ rằng tội lỗi của mình sẽ được che dấu. Trong một gia đình, nếu những người thân thuộc dối trá nhau, thì khó có thể giữ được long tin yêu, yếu tố căn bản của hạnh phúc gia đình. Trong xã hội nếu mọi người sử dụng sự dối trá với nhau, thì xã hội sẽ bị tan rã, vì sự thiếu tín nhiệm, yếu tố căn bản của mọi sự hợp tác trong cuộc sống chung.
5. Giới thứ năm là không uống rượu- Uống rượu, riêng nó không phải là một cái tội. Nhưng tai hại là ở hậu quả, ở ảnh hưởng của rượu đối với người uống. Rượu làm cho lý trí bị rối loạn, con người không tự làm chủ được mình nữa. Người nghiện rượu không thể có được trí huệ sang suốt, mà trí huệ, đối với đạo Phật là một yếu tố căn bản để đạt đến Phật quả. Rượu làm cho con người vốn đã si mê, lại càng si mê thêm. Rượu làm cho xã hội, vốn đã rối loạn, càng rối loạn thêm. Do đó, mà đức Phật cấm uống rượu, để cho con người được tỉnh táo mà tu hành, xã hội bớt được nhiều kẻ điên cuồng, náo loạn.
Năm giới này, nếu người tu hành không phạm đến, đời sau sẽ được sanh làm người; do đó mà con đường tu hành này, có tên là “Nhân Thừa”. Nhưng chưa nói đến tương lai vội, ngay trong hiện tại, nếu người đời tuân theo năm điều răn này, thì cõi người mới xứng đáng với cái danh hiệu ấy, con người mới đáng được gọi là “Người”. Còn nếu không, cõi đời này là địa ngục và con người chỉ có cái tên, cái lốt người mà thôi.

ddt_281
01-10-13, 10:33
II. CON ĐƯỜNG TU CỦA THIÊN THỪA
Thiên thừa tức con đường đưa đến cõi trời. Cõi trời theo nghĩa đạo Phật, không phải cõi của đức Chúa Trời, hay Thượng Đế. Cõi trời là cõi cao hơn, tương đối sung sướng trong sạch hơn cõi người. Nhưng sống trong cõi này, cũng chưa phải là vĩnh viễn, tự tại giải thoát, mà vẫn còn bị luật nhân quả luân hồi và luật vô thường chi phối. Tuy thế, tiến từ cõi Người lên cõi Trời cũng là một sự tiến bộ, mà nhiều người mong ước.
Muốn được sanh vào cõi này, hành giả phải tu theo Thập Thiện. Thập Thiện là mười điều lành sau đây:
1. Không tham lam- Tham lam là nguồn gốc của mọi sự khổ đau. Vì tham mà sanh giận, vì tham mà thành si mê, vì tham mà sát sanh, vì tham mà trộm cắp, vì tham mà dâm dật, vì tham mà nói dối, nói lời ác độc, nói hai lưỡi, nói thêm bớt thêu dệt. Trừ được tham là trừ được một phần lớn những hành vi, ngôn ngữ, ý nghĩ xấu xa. Người có nhiều tham dục, chắc chắn không bao giờ thấy được hạnh phúc trong cõi đời này, chứ chưa nói đến thấy được cõi Trời.
2. Không hờn giận- Người ta thường nói: “giận mất khôn”. Thật vậy, người giận giữ là người điên cuồng, không biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là hay, đâu là dở. Sự giận hờn không chỉ gây tai hại cho người, mà còn gây tai hại rất lớn cho mình. Người giận giữ không khác gì đang ôm ấp một lò than đỏ, đang tự thiêu đốt mình.
3. Không si mê- Đạo Phật là một đạo giác ngộ, lấy trí huệ làm phương tiện giải thoát, cho nên nếu còn say đắm, si mê mà muốn được giải thoát, thì chẳng khác gì người bộ hành muốn đi về phương đông, mà lại cứ nhắm phương tây bước tới.
4. Không sát sanh
5. Không trộm cướp
6. Không tà dâm
7. Không nói dối
8. Không nói lời hung ác- Ta có câu ca dao “Lời nói không mất tiền mua; lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Thật vậy, lời nói êm dịu không cần phải mua kiếm khó khăn mới được, mà chỉ cần chú ý một chút, giữ gìn một chút là được. Thế mà trong xã hội này, người ta xử dụng quá nhiều những lời hung ác, chửi rủa, lăng mạ, phỉ bang làm cho xã hội thật là ngạt thở, và xem nhau như những kẻ thù nghịch. Thật là một điều đáng tiếc, đáng buồn, đáng tủi nhục.
9. Không nói hai lưỡi (lưỡng thiệt)- Ai cũng biết con người chỉ có một cái lưỡi, nhưng vì cách sử dụng mỗi khi mỗi khác, đến đây nói thế này, đến kia nói trái lại, nên người ta có cảm tưởng như người có hai lưỡi, ba lưỡi, nhiều lưỡi không biết đâu mà kể ch xiết. Thật đúng như câu chuyện ngụ ngôn của Esope: cũng là một cái lưỡi mà khi tốt không gì tốt bằng, mà khi xấu thì cũng không gì xấu hơn. Với cách xử dụng miệng lưỡi như thế, chắc chắn xã hội loài người sẽ trở thành xã hội không phải loài người, chỉ lừa đảo phỉnh phờ lẫn nhau, không ai còn tin ai hiểu ai nữa.
10. Không nói thêu dệt (ỷ ngữ)- Nói thêu dệt, ở đây có nghĩa là nói thêm bớt. “ít mà xít cho nhiều”, mà mục đích là nịnh bợ ton hót để kiếm lợi riêng.
Để đối trị với mười tánh xấu này, trong kinh Thập Thiện Phật dạy để tử phải trao dồi 10 đức tính sau đây:
1) Không sát hại các loài vật, mà phải phóng sanh;
2) Không theo tà hạnh, mà phải tu phạm hạnh (hạnh trinh chánh);
3) Không trộm cướp, mà phải bố thí;
4) Không nói dối, mà phải nói lời thành thật;
5) Không nói thêu dệt, mà phải nói lời đúng đắn;
6) Không nói hai lưỡi, mà phải nói lời hòa giải;
7) Không nói lời hung ác, mà phải nói lời dịu dàng;
8) Không tham dục, mà phải quán bất tịnh;
9) Không giận giữ, mà phải quán từ bi;
10) Không si mê, mà phải quán nhân duyên.
Mười điều thiện này là căn bản để tiến dần đến sự giải thoát, cho nên trong kinh Thiện Thập, Phật có dạy:
“Này Long Vương! Ví như cõi đất lớn, tất cả thành, ấp, làng xóm, đều nương nơi cõi ấy mà được an trụ, tất cả cỏ cây đều nương nơi cõi ấy mà được sanh trưởng.
Mười nghiệp lành này cũng như vậy: tất cả nhơn thiên đều nương nơi mười nghiệp lành này mà an lập, tất cả giác ngộ của Thanh Văn, Duyên Giác, tất cả Bồ tát hạnh và Phật pháp đều nương nơi mười nghiệp lành này mà được thành tựu, nên các người phải tu học”.

ddt_281
01-10-13, 10:34
III. CON ĐƯỜNG TU CỦA THIÊN VĂN THỪA
Hai con đường nói ở trên, Nhơn thừa và Thiên thừa, chỉ là những con đường ngắn ngủi dành cho những người sơ cơ, tầm thường: con đường thứ nhất, ngăn đón chúng ta khỏi rơi vào các thế giới đen tối (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), đưa chúng ta trở lại cõi người trong kiếp sau; còn con đường thứ hai đưa chúng ta đi xa hơn, đến cõi Trời, sung sướng, trong sạch hơn, nhưng ở đấy, nếu không tiếp tục tu hành, thì sau khi hưởng hết quả báo tốt, lại rơi trở xuống cõi người.
Bởi thế, hành giả cần nên bước trên một con đường dẫn dắt đi xa hơn, rộng hơn hai con đường trước, đó là con đường của Thanh Văn, nghĩa là con đường đưa hành giả đến bốn quả vị Thanh Văn.
Muốn đến quả vị này, phải tu theo pháp Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế là bốn sự thật rõ ràng, hiển nhiên, đúng đắn không gì hơn.
1. Sự thật thứ nhất: Khổ đế.- Cõi đời là đau khổ. Dù cho danh vọng, giàu có, tài trí bao nhiêu cũng không thoát khỏi những cảnh đau khổ, già, chết, những cảnh khổ: thân yêu mà phải chia lìa, ghét bỏ mà phải sống bên nhau. Tóm lại, cõi đời là cõi khổ, mà không một ai thoát khỏi.
2. Sự thật thứ hai : Tập đế.- Những nỗi đau khổ nói trên, do từ lâu đời lâu kiếp kết hợp lại. Nghĩa là những quả khổ trong hiện tại, đều có nguyên nhân sâu xa trong quá khứ, chứ không phải bỗng nhiên mà có, hay do ai tạo ra. Nguyên nhân của mọi thứ phiền não khổ đau, chính là những “kiết sử”. Kiết là cột chặt, Sử là sai khiến, điều khiển. Các thứ cột chặt chúng sanh vào vòng sanh tử, sai khiến chúng ta hành động, chính là mười món sau đây:
a/ Tham, b/ Sân, c/ Si, d/ Mạn, đ/ Nghi, e/ Thân kiến (chấp đắm thân này là chân thật), g/ Biên kiến (cố chấp sai lạc), h/ Tà kiến (quan niệm không hợp chánh lý), i/ Kiến thủ (bảo thủ kiến giải của mình), k/ Giới cấm thủ (tin tưởng và thực hành những điều giới sai lầm).
Trong mười món kiết sử này, năm món đầu gọi là độn sử, nghĩa là những món phiền não sâu kín, tánh chất nặng nề; còn năm món sau gọi là lợi sử, nghĩa là những món phiền não có tính chất lanh lợi, thuộc về nhận thức. Năm món trên vì ăn sâu gốc rể, nên khó trừ hơn năm món dưới.
3. Sự thật thứ ba : Diệt đế.- Diệt đế nghĩa là tiêu diệt. Diệt đế là chân lý nói về trạng thái thanh tịnh tự tại, giải thoát sau khi các phiền não đã bị tiêu diệt. Trạng thái này gọi là Niết Bàn. Niết (Nir) nghĩa là rơi rụng, không còn nữa, hay thoát khỏi; Bàn (Vana) nghĩa là mọc lên lăn xăn, lộn xộn. Niết Bàn là trạng thái xa lìa những sự lăn xăn, phiền não, luôn luôn an trú trong cảnh vắng lặng thường còn. Niết Bàn có ba tánh chất sau đây:
a) Bất sanh : không mọc lên, không sanh lại;
b) Tịnh diệt : thanh tịnh, vắng lặng;
c) Giải thoát : không còn bị trói buộc trong rừng mê, bể khổ hoàn toàn tự tại.
Niết bàn tức là quả vị chứng được của các vị Thanh văn, sau nhiều năm tu luyện. Quả vị này có bốn từng bậc, từ thấp đến cao:
a) Tu đà hoàn hay Dự lưu : nghĩa là đã nhập vào dòng Thánh.
b) Tư đà hàm hay Nhứt lai : nghĩa là chỉ còn một lần trở lại sanh vào Dục giới nữa thôi.
c) A na hàm hay Bất lai : nghĩa là không còn trở lại Dục giới nữa.
d) A la hán hay Bất sanh : nghĩa là không còn sanh tử trong ba giới và an trú vào cảnh vô dư y Niết Bàn của Tiểu Thừa.
4. Sự thật thứ tư : Đạo đế.- Đạo là con đường. Đạo đế tức là con đường, là phương pháp dẫn đến quả vị Niết Bàn. Nói một cách khác, đây là những pháp môn tu hành của hàng Thanh Văn. Pháp môn này bao gồm tất cả 37 món, trong ấy có “Bát chánh đạo”, thường được coi là pháp môn quan trọng nhất.
Bát Chánh Đạo gồm có:
a) Chánh tri kiến : kiến giải đúng sự thật.
b) Chánh tư duy : suy nghĩ chân chánh.
c) Chánh ngữ : lời nói ôn hòa, chánh đáng.
d) Chánh nghiệp : hành động chân chánh.
e) Chánh mạn : đời sống chân chánh.
f) Chánh tinh tấn : siêng năm tu hành để tiến triển trên đường đạo.
g) Chánh niệm : nhớ tưởng những việc chơn chánh.
h) Chánh định : tập trung tư tưởng vào những vấn đề chân chính, để trí huệ được phát chiếu.
Ngoài “Bát chánh đạo”, còn những món trợ đạo khác để giúp hành giả tiến triển trên đường Đạo như: Tứ chánh cần, tứ như túc ý, ngũ căn, ngũ lực,…

ddt_281
01-10-13, 10:35
IV. CON ĐƯỜNG TU CỦA DUYÊN GIÁC THỪA
Con đường tu này lấy pháp môn “mười hai nhân duyên” làm phương tiện tu hành. Con đường này đi xa hơn Thanh văn thừa., và do đó, quả vị chứng được cũng cao hơn. Hành giả đi hết con đường này, đến tuyệt đích tức là đến quả vị Bích chi Phật, quả vị giác ngộ cao nhất của Tiểu Thừa.
“Mười hai nhân duyên” là một pháp môn chỉ bày cho người tu hành thấy rõ được nguyên nhân của sự sanh tử luân hồi của chúng sanh để mà dứt trừ. Mười hai nhân duyên được trình bày, như một cái vòng lẩn quẩn, gồm có 12 giai đoạn nối tiếp theo nhau và giam giữ chúng sanh trong biển khổ trần gian.
Mười hai nhân duyên là:
1. Vô minh: nghĩa là mê lầm, không hiểu rõ được bản chất của sự vật và tâm mình, lấy giả làm thật, lấy quấy làm phải. Thí dụ: thân ta là vô thường mà cho là thường, tâm ta là vô ngã mà cho là tự tại. Vô minh được hình dung như là một tấm vải đen, che mắt người bộ hành, làm cho người bộ hành đi lạc đường và rơi vào hố sâu tăm tối.
2. Hành: là hành động, gây tạo ra những việc làm bất thiện, sai lầm, tạo nghiệp.
3. Thức: là vọng thức phân biệt, chấp trước có năng sở, nội tâm và ngoại cảnh riêng biệt. Do sự chấp trước này nên sanh long bảo thủ cái ta, tìm cầu một thân mạng, để phát triển cái ta ấy.
4. Danh sắc: Danh là chỉ cho phương diện tinh thần, Sắc là chỉ cho phương diện vật chất. Danh sắc tức là chỉ cho tổng báo, thân của loài hữu tình, khi còn ở trong thai tạng.
5. Lục nhập: Lục nhập tức là sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) của cái thai, dần dần được hình thành và phát triển, để sửa soạn tiếp xúc với ngoại cảnh, khi ra đời.
6. Xúc: là xúc chạm, tiếp xúc với ngoại cảnh. Đây là nói khi cái thai thoát khỏi bào thai và tiếp xúc với ngoại cảnh. Trong giai đoạn này, các giác quan của hài nhi còn thô thiển, chưa bén nhậy, tinh vi, nen chỉ có “tiếp xúc” mà thôi.
7. Thọ: là nhận lãnh. Đây là giai đoạn khi đứa bé đã bắt đầu có lý trí, biết phân biệt vui và khổ, thấy vui trước những cảnh vừa long, buồn trước những cảnh trái ý.
8. Ái : là tham ái. Khi đã biết vui buồn, thương ghét thì tất nhiên sẽ sanh lòng tham ái, đắm trước với những gì tốt đẹp, thích thú, và ruồng bỏ những gì xấu xa, nhàm chán.
9. Thủ : là nắm giữ lấy. Khi đã ưu thích những gì tốt đẹp, quí báu thì sẽ sanh long giữ gìn những thứ ấy. Cái mà chúng sanh quí nhất là thân mạng.
10. Hữu: là có. Ở đây muốn nói do lòng tham ái, và ý muốn giữ gìn (thủ) mà tạo ra thân hậu hữu, tiếp nối cuộc đời sau.
11. Sanh: là sanh mạng, là khởi đầu một cuộc sống khác.
12. Lão tử: là già và chết. Khi đã có sống, tất phải có già và chết.
Trong 12 giai đoạn nối tiếp cuộc sanh tử luân hồi này, nếu đem phân tích theo thứ tự thời gian trong ba đời (quá khứ, hiện tại và tương lai) thì sẽ thấy như sau:
Vô minh và hành là thuộc về nghiệp nhân quá khứ, nghĩa là hai món này làm nhân trong quá khứ để kết thành quả báo hiện tại là: thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ.
Còn ái, thủ và hữu là nghiệp nhân trong hiện tại để tạo những quả báo trong tương lai, là: sanh và lão tử.
Như thế, chúng ta thấy 12 nhân duyên này nối tiếp chặt chẽ, làm nhân làm quả, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai không một lúc nào gián đoạn.
Hành giả tu theo pháp môn này, trước tiên phải quán sát cho rõ ràng hành tướng của 12 nhân duyên này, khi đã thấu rõ tường tận hành tướng của mỗi món, hành giả phải tìm một nhược điểm nào trong vòng dây 12 nhân duyên ấy, để cắt đứt nó ra, không cho nó tiếp tục làm nhân làm quả nữa.
Nhược điểm trong vòng dây ấy, là “Ái” (tham ái, đắm mê). Vậy hành giả phải nhắm đối tượng là “ái”, để tấn công vào, như ông tướng hành quân, sau khi dò la mặt trận địch, biết được chỗ yếu, liền đổ dồn lực lượng tấn công váo đấy. Muốn tiêu diệt được “ái”, hành giả phải luôn luôn tự kiểm soát long mình, không để cho nó say mê, đắm trước vào những sắc tướng, giả ảnh bên ngoài. Một khi đã kềm chế, tiêu diệt được “ái” rồi, thì nguyên nhân của “thủ” không còn nữa. Thủ đã không có thì “hữu” cũng không thể do đâu mà phát sinh. Hữu không có, thì “sanh”, “lão tử” cũng không xuất hiện được.
Các vị Duyên giác sau khi đã đoạn trừ được những nghiệp nhân hữu lậu, chấm dứt được vòng lẩn quẩn sanh tử luân hồi, sẽ chứng được quả vị Bích chi Phật là quả vị cao nhất của Tiểu thừa.

ddt_281
01-10-13, 10:36
V. CON ĐƯỜNG TU CỦA BỒ TÁT THỪA
Đây là con đường rộng rãi, xa xăm nhất trong năm con đường hướng đến cõi Phật. Chỉ những người căn cơ vững chắc, chí nguyện lớn lao, ý chí dũng mãnh mới dám dấn bước trên con đường vạn dặm này. Cho nên những người nào muốn đi con đường này, trước tiên phải tự lượng sức mình, xem thường mọi sự gian khổ trên đời này, xem thường tài sản và tánh mạng; phải có một quan niệm rộng lớn: cho rằng mình và chúng sanh không khác, chúng sanh đau khổ là mình đau khổ, mình sung sướng thì cũng phải làm cho chúng sanh sung sướng như mình, và nhất là phải phát Bồ đề tâm, nghĩa là phát tâm rộng lớn vô cùng vô tận, mà nội dung, gồm bốn lời nguyện sau đây:
1. Chúng sanh không số lượng, thệ nguyện đều độ hết.- Chúng sanh tức là tất cả những loài hữu tình, có sự sống trên thế giới này. Số lượng chúng sanh nhiều như cát song Hằng, không thể đếm được. Chúng sanh lại gồm rất nhiều chủng loại, mỗi chủng loại gồm nhiều căn cớ,nhiều nghiệp duyên, nhiều hoàn cảnh khác nhau. Nhưng mặc dù chúng sanh số lượng nhiều không thể kể xiết và tánh chất phức tạp như thế, người theo hạnh Bồ tát thừa cũng nguyện độ cho tất cả.
2. Phiền não không tận, thệ nguyện đều dứt sạch.- Từ vô thỉ đến nay, chúng sanh gây tạo không biết bao nhiêu phiền não; những phiền não này tánh chất lại phức tạp, từ thô thiển cho đến vi tế, từ nông cạn cho đến sâu kín trong lòng, thật là vô cùng vô tận. Nhưng người tu theo hạnh Bồ tát thừa, cương quyết thệ nguyện sx trừ diệt cho thật sạch.
3. Pháp môn không kể xiết, thệ nguyện đều tu học.- Chúng sanh đã vô lượng, phiền não đã vô cùng, thì pháp môn để đối trị, tất nhiên cũng phải nhiều vô số kể. Do đó, có thành ngữ “ba vạn sáu ngàn pháp môn”, để chỉ rõ cho số lượng lớn lao của pháp môn, mà đức Phật đã chế ra. Mặc dù pháp môn nhiều không thể xiết kể, nhưng một khi hành giả tu theo Bồ tát thừa cũng nguyện tu học cho hết.
4. Phật đạo không gì hơn, thệ nguyện được viên thành.- Thành tựu được quả vị Phật tức là một quả vị cao thượng nhất, nhưng cũng khó khăn nhứt. Tuy thế, người tu theo hạnh Bồ tát thừa, quyết đi đến chỗ viên mãn hoàn toàn, chứ không chịu dừng nghỉ khi chưa đến đích cùng tột.
Hành giả mỗi ngày, mỗi lúc phải luôn luôn nhớ nghĩ, tụng đọc bốn lời thệ nguyện ấy, không bao giờ được xao lãng. Có được một sự phát tâm rộng lớn như thế rồi, hành giả mới có đủ sức vượt qua muôn ngàn gian khổ, khó khăn đang chờ đợi mình trên con đường hành đạo, để đi đến quả vị viên mãn, cao thượng cùng tột nói trên.

ddt_281
01-10-13, 10:36
Pháp môn tu luyện của Bồ tát nhiều không xiết kể (xem Bản đồ tu Phật, quyển IX), trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ xin nói đến pháp môn mà các vị tu theo Bồ tát thừa, thượng hạ thủ công phu nhiều nhất, tức là pháp Lục độ. Lục độ hay Ba la mật, nghĩa là vượt qua, đi đến chỗ hoàn toàn. Chúng sanh sống trong cảnh Dục giới, chẳng khác gì những nạn nhân bị bị chìm tàu, đang lặn hụp ngoi ngóp trong biển khổ tối tăm. Pháp môn này như con thuyền có công năng cứu vớt được những nạn nhân sắp chết đuối ấy, để đưa vào bờ sang sủa, yên vui, xa lìa mọi nguy hiểm tối tăm, trong biển đời đau khổ.
Lục độ ấy là:
1. Bố thí: Bố thí là đem công, của, tất cả những gì mình có, ban bố cho mọi người.
Thấy người thiếu cái gì mà mình có, thì liền đem cho, không kể đó là thân hay sơ, bạn hay thù, đồng một chủng tộc hay khác một chủng tộc.
Bố thí có ba loại:
a) Tài thí: Bố thí bằng tiền tài, vật dụng, thân mạng.
b) Pháp thí: Bố thí bằng chánh pháp, nghĩa là đem chánh pháp phá trừ mê muội, tà kiến, chấp trước của chúng sanh.
c) Vô úy thí: Bố thí bằng cách đem lại cho người khác sự không sợ hãi, sự bình tâm, tỉnh trí trước mọi nguy nan, tai biến.
2. Trì giới: Trì giới là giữ gìn, không phạm các điều bất thiện, như không nghĩ các điều ác, không làm các việc ác.
Giới luật rất nhiều, nhưng có thể phân chia làm ba loại:
a) Nhiếp luật nghi giới: là giữ gìn các giới luật oai nghi của Phật đã chế, để ngăn ngừa những tội lỗi về thân, khẩu, ý.
b) Nhiếp thiện pháp giới: là thực hành những việc thiện, có lợi ích cho mình và người, như thực hành mười điều thiện, bố thí, ái ngữ …
c) Nhiêu ích hữu tình giới: là hóa độ, cứu khổ cho toàn thể loài hữu tình trong thế gian.

ddt_281
01-10-13, 10:37
Tóm lại, có thể nói chung rằng: trì giới là ngăn ngừa các điều ác, không cho phát sanh và thi hành các điều thiện. Nhờ sự trì giới mà ba nghiệp được thanh tịnh, các thiện công đức phát sanh, chúng sanh được lợi lạc.
3. Nhẫn nhục: Nhẫn nhục là giữ cho lòng mình được bình lặng, trước mọi hoàn cảnh, không phẫn uất trước nghịch cảnh, không bị lôi cuốn trước thuận cảnh, an nhiên trước thành công hay thất bại.
Nhẫn nhục có thể chia làm bốn loại:
a) Thuận sanh nhẫn: là không kiêu căng tự đắc trước sự than phục, cung kính của chúng sanh.
b) Nghịch sanh nhẫn: là không bực tức, thù ghét trước sự chửi mắng, đánh đập của chúng sanh.
c) Nội pháp nhẫn: là nhẫn nhục đối với những phiền não bên trong. Không để cho lòng mình bị xao động vì những tánh xấu xa, như tham, sân, si …
d) Ngoại pháp nhẫn: là xem thường không than phiền, phẫn uất trước những cảnh đói rét, những sự đánh đập, áp bức thân thể.
Tóm lại, nhẫn nhục là chịu đựng, bình tĩnh đối với tất cả mọi trường hợp, dù nghịch hay thuận, dù được khen ngợi hay bị chê, dù từ bên trong phát ra, hay từ bên ngoài đưa đến, dù tinh thần hay vật chất.
4. Tinh tấn: Tinh tấn là tinh thuần, không ô nhiễm, Tấn là đi tới luôn luôn. Tinh tấn nghĩa là luôn luôn nhất tâm tiến tới mục đích giải thoát và giác ngộ, không để cho các ô nhiễm chi phối, không bao giờ sờn lòng, nhụt chí dù cho gặp nghịch cảnh khó khăn bao nhiêu.
Tinh tấn có thể chia làm bốn loại:
a) Đối với các điều ác chưa sanh, tinh tấn giữ gìn không cho phát sanh.
b) Đối với các điều thiện chưa sanh, tinh tấn làm cho mau phát sanh.
c) Đối với các điều ác đã sanh, tinh tấn diệt trừ.
d) Đối với các điều thiện đã sanh, tinh tấn làm cho mau tăng trưởng.
Tóm lại, tinh tấn có công năng làm cho các điều ác bị diệt trừ, làm cho các điều thiện tăng trưởng, để hành giả tiến mạnh đến đạo quả giải thoát và giác ngộ.
5. Thiền định: Thiền là quán sát để diệt trừ các vọng duyên điên đảo; Định là để tâm chuyên chú vào một cảnh sở quán. Thiền định là chuyên tâm chú ý vào một cảnh nhất định, để tìm ra sự thật rồi dựa vào đó mà tu hành.
Thiền định, gồm nhiều pháp quán, như:
a) Quán sổ tức: là chuyên tâm quán sát hơi thở không để cho vọng niệm xen vào.
b) Quán bất tịnh: là quán sát sự xấu xa, dơ bẩn trong mọi sự vật ở đời, chẳng hạn như quán sát thân thể chúng ta, thấy mọi cơ quan trong người đều không có gì là đẹp đẽ, trong sạch, và càng về già lại càng xấu xa, và khi chết thì lại không có gì thối tha nhơ nhớp bằng.
c) Quán từ bi: là chuyên tâm nhớ nghĩ đến tình thương; lan trải lòng từ bi trên mọi loài, mọi vật, như tình mẹ đối với con cái.
d) Quán nhân duyên: là quán sát tất cả các pháp trong thế gian, từ vi trần đến sơn hà đại địa, đều do nhiều nhân duyên hòa hợp mà tu thành, chứ không phải do một đấng tạo hóa nào sinh ra. Bởi do nhân duyên hòa hợp, nên cũng do nhân duyên mà tan rã, chứ không có cái gì là vĩnh viễn trường tồn.
e) Quán niệm Phật: là chuyên tâm tưởng niệm đến chư Phật, tưởng niệm đến những đức tướng của Phật, để bắt chước và để cho tâm khỏi tán loạn theo vọng niệm.

ddt_281
01-10-13, 10:38
Tóm lại, các môn quán trên này, có công năng rất lớn. Nhờ các pháp quán mà hành giả có thể kềm chế được tham dục, giữ cho tâm khỏi loạn động, trừ nóng giận, tăng tình thương, thêm trí tuệ… (xem Bản đồ tu Phật, tập III và IV).
6. Trí huệ: Trí huệ tức là trí sang suốt, nhận chân đúng đắn sự thật, biết phân biệt tà, chánh, hư, thật, phá trừ được màn vô minh dày đặc, đã lâu đời lâu kiếp che kín thực thể của vũ trụ nhân sinh.
Trí huệ có thể phát triển được, do:
a) Văn huệ: nghĩa là chuyên nghe, học hỏi chánh pháp, chánh lý;
b) Tư huệ: nghĩa là suy nghiệm, tư duy về chánh pháp, pháp lý;
c) Tu huệ: nghĩa là thật hành, tu luyện theo chánh pháp, pháp lý.
Tóm lại, trí huệ là trí sáng suốt, có công năng diệt trừ vô minh, soi sáng sự thật. Trí huệ này do chuyên nghe, suy nghiệm và thực hành đúng theo chánh pháp mà phát chiếu.
Như chúng tôi vừa trình bày ở đoạn trên, trong các môn tu luyện của hàng Đại thừa Bồ tát, Lục độ hay sáu pháp Ba la mật là pháp môn thường được áp dụng một cách có hiệu quả nhất. Chư Phật và chứ Bồ tát viên mãn được công hạnh tư lợi và lợi tha, phần nhiều đều lấy pháp Lục độ này làm căn bản.

ddt_281
01-10-13, 15:42
B. BA THỪA HAY BA CỖ XE
Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên, Phật giáo có chia làm năm thừa, như năm cấp bậc để người tu hành dễ bước lên.
Người không có chí nguyện cao xa, chỉ muốn được làm người, thì bước lên cấp thứ nhất; người muốn vượt cao hơn cõi người, lên cõi trời thì bước lên cấp thứ hai; người muốn thành A la hán, không còn trôi lăn trong cõi sinh tử luân hồi nữa thì bước lên cấp thư ba; người muốn thành một vị Duyên giác, hay Bích chi Phật thì bước lên cấp thứ tư; người muốn thành một vị Bồ tát, cứu đời giúp người, hóa độ chúng sanh, thì bước lên cấp thứ năm.
Năm cấp này, nếu giản dị hóa lại thì chỉ còn có ba bậc, tức Ba thừa, nghĩa là Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa.
Chữ thừa, hay Thặng, có nghĩa là cái xe. Tiểu thừa, tức là cái xe nhỏ; Trung thừa là cái xe vừa; Đại thừa là cái xe lớn. Người đi đường, muốn đỡ mệt và mau đến đích, tức phải dùng đến chiếc xe. Xe có chiếc nhỏ, chiếc vừa và chiếc lớn. Xe nhỏ thì chở được một người, xe vừa thì chở đôi ba người; xe lớn thì chở được nhiều người.
I. Tiểu thừa
Thừa này gồm Nhân, Thiên và Thanh văn thừa. Như trên đã nói:
Muốn đến cõi người, thì phải đi xe Người, tức là Nhơn thừa; nghĩa là hành giả phải giữ ngũ giới.
Muốn đến cõi Trời, thì phải đi xe Trời, tức là Thiên thừa; nghĩa là hành giả phải tu Thập thiện.
Muốn đến cảnh giới Thanh văn, thì phải đi xe Thanh văn, tức là Thanh văn thừa; nghĩa là hành giả phải tu pháp Tứ diệu đế. Sở dĩ liệt Nhân, Thiên và Thanh văn vào làm một, gọi là Tiểu thừa, là vì ba hạng này tu chỉ mong cứu độ cho mình mà thôi, cũng như chiếc xe nhỏ chỉ chở được một vài người.
II. Trung thừa
Trung thừa là chiếc xe vừa, có thể chở được 5, 7 người. Muốn đến cảnh giới Duyên giác, hành giả phải đi xe Duyên giác, tức là Trung thừa (xe vừa); nghĩa là phải quán 12 nhơn duyên, lưu chuyển và hoàn diệt. Bởi thế thừa này cũng gọi là Duyên giác thừa. Duyên giác thừa được gọi là Trung thừa, vì nó rộng hơn, cao hơn Thanh văn thừa, nhưng còn thấp hơn, hẹp hơn Bồ tát thừa. Đây là một nấc thang trung gian, để cho hành Tiểu thừa dễ. bước lên hàng Đại thừa. Quả vị của thừa này là Bích chi Phật cũng gọi là Duyên giác hay Độc giác. Vị này đã hoàn toàn giác ngộ được phần mình, nhưng chưa giác ngộ được nhiều cho chúng sanh.
III. Đại thừa
Đây là con đường rộng lớn nhất, cao xa nhất trong ba Thừa, tức là Bồ tát thừa. Muốn đến quả vị Bồ tát, hành giả phải đi xe Bồ tát, nghĩa là tu Lục độ vạn hạnh. Sở dĩ thừa này được gọi là Đại, vì đã cung cấp cho chúng sanh một phương pháp tu hành rộng lớn, có thể độ cả mình lẫn chúng sanh đi đến bờ giác ngộ hoàn toàn (xem Bản đồ tu Phật tập IX)
Tóm lại, ba Thừa này cũng như ba loại xe. Tiểu thừa là loại xe nhỏ như xe đạp, chỉ chở được một người, nếu rang lắm là thêm một người nữa là cùng. Trung thừa là loại xe vừa, như xe hơi, có thể chở được 3, 4 người. Đại thừa là loại xe lớn như cam nhông, xe lửa, tàu thủy v.v… có thể chở một lúc từ trăm, ngàn người.

administrator
01-10-13, 19:02
Chào bạn ddt_281

Cảm ơn bạn đã đóng góp bài viết cho diễn đàn HKLS
Nhưng với chủ đề về tôn giáo thì không hợp nội qui, mong bạn thông cảm.