PDA

View Full Version : Thần phong thông khảo



Thientam
09-04-14, 13:45
Thần phong thông khảo

nguồn kimtubinh.net

Quyển nhất

Ngũ tinh chính thuyết loại
Ngũ tinh mậu thuyết loại
Nam tử hợp hôn loại
Tổng luận tử bình mậu thuyết loại
Động tĩnh thuyết
Cái đầu thuyết
Lục thân thuyết
Bệnh Dược thuyết loại
Điêu khô vượng nhược tứ bệnh thuyết loại
Tổn ích sinh trưởng tứ dược thuyết loại
Chính quan cách
Thiên quan cách
Phụ khí mệnh tòng Sát cách

Cổ thuần tạp hữu chế loại
Cận thời thuần tạp đích chế loại
Cổ Quan vi dụng thần tha sát hữu chế lệ
Cổ Quan vi dụng thần tạp Sát hữu chế lệ
Cổ Hu Thiên Quan tạp Chính Quan hữu chế lệ
Cổ thời thuần Thiên Quan hữu chế lệ

Thời thượng nhất vị quý cách
Quan Sát khứ lưu tạp cách

Quyển nhị

Nguyệt chi Chính Tài cách
Phụ khí tòng mệnh tài cách

Thời thượng thiên tài cách
Phụ nguyệt thiên tài cách

Thương quan Thực thần cách
Thương quan thập luận
Ấn thụ cách
Dương nhận cách
Phụ bỉ kiếp kiến lộc cách

Hỉ kiến tài quan lệ
Cổ kiến sát hữu chế lệ
Cổ hội sát vi hung lệ
Chuyên lộc cách

Tạp khí tài quan ấn thụ cách
Phụ thời mộ cách

Kim thần cách

Quyển tam

Phi thiên lộc mã cách
Phụ đảo trùng lộc mã cách
Tý diêu tị cách
Sửu diêu tị cách
Nhâm kỵ long bối cách
Tỉnh lan xoa cách
Lục ất thử quý cách
Lục âm triêu dương cách
Hình hợp cách
Hợp lộc cách
Khúc trực nhân thọ cách
Giá sắc cách
Viêm thượng cách
Nhuận hạ cách
Tòng cách cách
Niên thời thương quan tinh cách
Tòng hóa cách
Lai binh củng tài cách
Tuế đức phù sát cách
Hựu bổ tuế đức phù tài cách
Chuyên tài cách
Nhật đức cách
Nhật quý cách
Khôi cương cách
Lục Nhâm xu Cấn cách
Lục Giáp xu Càn cách
Câu trần đắc vị cách
Huyền vũ đương quyền cách
Tài quan song mỹ cách
Củng lộc củng quý nhị cách
Soan lộc quy thốn cách
Tứ vị thuần toàn cách
Thiên nguyên nhất khí cách
Tam hợp tụ tập cách
Phúc đức cách
Luận đại vận
Luận thái tuế
Ngũ tinh luận
Kim tinh luận
Thuật tinh luận
Thủy tinh luận
Hỏa tinh luận
Thổ tinh luận
Kim bất hoán khán mệnh thằng xích
Bất hoán kim cốt tủy ca đoạn

Thientam
09-04-14, 13:46
Quyển tứ

Thập thiên can thể tượng toàn biên luận
Thập nhị địa chi vịnh
Tổng vịnh

Can chi sở chúc
Thiên can hợp
Địa chi hợp
Địa chi hội cục
Ngũ hành tương sinh
Ngũ hành tương khắc
Thập can lộc
Ngũ hành phát dụng
Địa chi tương xung
Tam hình
Lục hại
Thập nhị chi trung sở tàng pháp
Luận ngũ hành sinh khắc chế hóa

Thần Sát Cát thần loại
Thần Sát Hung thần loại

Khởi bát tự quyết
Niên thượng độn nguyệt
Nhật thượng độn thời
Nguyệt lệnh tường biện
Khởi đại vận pháp
Giang hồ trích cẩm
Nam mệnh tiểu vận định cục
Nữ mệnh tiểu vận định cục
Dương thuận âm nghịch chính vượng tử tuyệt đồ
Địa chi tạo hóa đồ
Thiên can ngũ dương thông biến
Thiên can ngũ âm thông biến
Thiên can Âm dương thông biến diệu quyết
Định cách cục quyết
Tử bình phiếm luận
Thập can tòng hóa định quyết
Thập đoạn cẩm
Thập đoạn hóa khí
Ngũ âm ca

Thiên nguyên nhất tự ca
Vận hối ca
Vận thông ca

Hình khắc ca
Hình thê ca

Khắc tử ca
Đái tật ca
Thọ nguyên ca
Phiêu đãng ca
Nữ mệnh ca

Nguyệt kiến sinh khắc ca
Khán mệnh tiệp ca
Chính quan cách ca
Thất sát cách ca
Tài ca
Ấn thụ ca
Dương nhận ca
Tam kỳ cách ca
Thái ất diệu chỉ pháp

Luận chư cách hữu cứu

Thủ cách chỉ quyết ca đoạn
Tiết khí ca đoạn
Vạn thượng thư quỳnh ki tam bàn phú

Nhai tuyền nam mệnh phú
Nhai tuyền nữ mệnh phú

Giảng mệnh tiệp kính phú

Quyển ngũ

Lục thần thiên
Khí tượng thiên
Vị kính luận
Định chân thiên

Quyển lục

Nhất hành thiện sư thiên nguyên phú
Tiên ky phú
Nhân giám luận
Uyên nguyên tập thuyết
Nhân nguyên tiêu tức phú
Địa chi phú
Bệnh nguyên phú

Thientam
09-04-14, 13:46
Tự

Thần phong tử viết: Chỗ trời trao cho sinh mệnh, nghèo giàu yểu thọ, trước tiên thuộc nhiều về bẩm khí, dù thánh hiền thuộc nhà nho, cũng không có thể dễ dàng thay đổi.
Là do chỗ quân tử dễ lấy đợi mệnh, duy chỉ có không hiểu mệnh, thì không lấy thành quân tử. Nhưng mệnh lý, nghĩ lại nguyên tắc phát sinh từ dòng họ Vua Hiên Viên, mới có xét chữ can chi, đại sư tìm lấy Giáp Tý, liền lấy chỗ sinh năm tháng ngày vào mỗi con người, gọi là Mệnh, cùng với mệnh thiên phú, mà đánh giá một lúc vậy.

Nhưng mà sơ khai không có sách vở nghiên cứu, tới nhà Đường họ Viên mới đầy đủ, mới lấy《 Ngũ Tinh 》 Chỉ Nam thư ( nguyên văn là "Chỉ Nam Ngũ Tinh" ứng với 《 Ngũ Tinh Chỉ Nam 》, cho nên sữa chửa về sau văn ngôn lấy chỗ tên này ). Lữ Tài làm《 Hợp Hôn thư 》, Nhất Hành thiện sư làm Tinh Lịch thư ( Chỉ có chỗ Nhất Hành chắc chắn sữa chữa thành《 Khai Nguyên đại diễn lịch 》) Ngũ Đại Hữu làm《 Lộc Lô 》 thư; Tiền Tống Hữu làm《 Điện Giá 》 thư, Nam Tống Liêu nhà Kim có 《 Kiều Ảo 》 thư, bắt đầu có chỗ Da giáo Luật Tài thư ( chỗ Da giáo Luật Tài nguyên tác có các sách《 Canh Ngọ nguyên lịch 》《 Ngũ Tinh bí ngữ 》), Bùi Đại Du có 《 Cầm Đường hư thực 》, đều lấy năm sinh con người, chỗ thuộc ngũ hành nạp âm, giới hạn thân mệnh làm chủ, là dùng Thất Diệu Tứ Dư.

Tới thời nhà Minh có Từ Quân làm 《 Tử Bình 》 thư ( tên gốc là 《 Uyên Hải Tử Bình 》), chuyên lấy nhật can làm chủ gốc. Nguyệt lệnh là dụng thần, năm giờ làm phụ tá. Ôi! làm Mệnh thư, tới chỗ này là hết vậy.

Vậy nguyên nhân là ở đâu? Cái thuyết Ngũ tinh, chỉ là lấy năm sinh làm chủ, tháng cùng ngày giờ lưu lại ở đâu, hoặc lấy nạp âm làm chủ, can cùng chi lưu lại ở đâu, lý lẽ Tử Bình nếu kỹ càng, duy nhất chỉ được ngày thông nguyệt khí, năm cùng giờ là mạch đập cuối cùng, nhật là thân chủ, nguyệt là sào huyệt, tuế cùng thời là môn hộ, được ở chỗ này mà không quên chỗ khác, thông ở trên mà không quên ở trên, còn lại có ức, bổ chưa đủ, đạo trung chính, cái nào ở chỗ nào là được chính xác?

Ngoài ra xem qua một loạt sách, mục đích có phần hiểu biết, nhìn độc nhất mệnh lý, có 《 Ngũ Tinh Chỉ Nam 》, 〈 Cầm Thâm Thường thư 〉, 〈 Uyên Hải Tử Bình 〉 thư, lý lẽ xuất ra là chân chính, lập pháp tốt, nhưng mà trung gian hơi có nói là không có gốc, thuyết tiến thoái, không có xác định quy định thấy mệnh con người, người đời sau thuận theo chỗ này, lập thuyết càng nhiều, càng phát sinh mê hoặc lòng người, dù có được trao nhận nhưng bất quá chỉ là làm theo sai lầm.

Nhưng nếu hành thư mê đạo, giống như hỏi người mù nguyên tắc là thế nào. Vốn dĩ nghiên cứu dẫn tới tận cùng, đất hẹp, tất cả đều huênh hoang khoác lác thực hiện học thuật, nghe nói quy tắc, giáo lý thì không có trọn vẹn một người có thể đường bệ ngang nhau mà làm trích dẫn ra mấu chốt quan trọng vậy. Than ôi! Không phải chỉ có ở con người, thực tế là do bản thân tự bịa chuyện mà nói vậy, làm con cháu khắc sâu mà than thở ở chỗ này.

Vốn là do tư tưởng nghiên cứu ở con đường này, hơn 40 năm, một lý lẽ bỗng nhiên hiểu được, mới ngộ ra lý lẽ là có chính đồ, quyết đoán không có vượt ra ngoài phân nhánh, lập chính thuyết Ngũ Tinh, Ngũ tinh mậu thuyết, Tử Bình nhiều cách chính thuyết, Tử Bình nhiều cách mậu ( sai lầm) thuyết, Động Tĩnh thuyết, Cái Đầu thuyết, Lục Thân thuyết, Bệnh Dược thuyết, Điêu Khô Nhược Vượng Tổn Ích Sinh trưởng Bát pháp thuyết, nhân mệnh ứng nghiệm thuyết, lấy nhiều chính lý tôn sùng, ý nghĩa càng thêm nhiều mậu thuyết, nhân danh viết: “ Mệnh Lý chính tông” bản in thay đổi, để phân rõ người cùng sở thích, sau đó là có bổ sung được Lục Nghệ (thơ, sách, lễ, nhạc, dịch, xuân thu) nói thêm một ít như vậy.

Lâm xuyên, Tây Khê ẩn dật Trương Nam ghi chép.

Thientam
11-04-14, 21:21
Quyển 1
Ngũ tinh chính thuyết loại

An Thân Mệnh Cung, nguyên là lấy Mão an Mệnh, gặp Dậu an Thân, lý lẽ là ở đâu vậy?
Mão thuộc Đông phương chính Mộc, Mộc chủ về Nhân, Nhân chủ Thọ, do đó lấy Mệnh cung ở chỗ này. Dậu thuộc Tây phương chính kim, Kim chủ về Nghĩa, Nghĩa chủ Nghi, do đó lấy cung Thân ở chỗ này. Mệnh cung là lúc đầu thụ thai, cho nên lấy Mộc chủ Nhân, Nhân phát sinh lý lẽ sinh mệnh vậy. Thân cung là sau khi thụ thai, cho nên dùng chỗ Nghĩa, Nghĩa như lý lẽ thành thân vậy, lập thành Thân Mệnh, gốc là ở chỗ này, xuất phát từ chính lý vậy.

Phương pháp sắp xếp các sao, lấy 《Ngũ Tinh chỉ nam》 là Thể. 《Cầm đường》, 《Điện giá》 làm Dụng. Thể là hợp với Tổ tông, tôn kính mà tạo mệnh, Dụng là hợp với quy tắc, là nền tảng làm thành họa phúc. Như 《Kiều ảo》, 《Gia bàn》, 《Bộ Thiên kinh》, đều lấy Mệnh cung làm Tổ tông. Như Dần Hợi thuộc Mộc, sợ kim khắc, hỉ được Thủy sinh. Mão Tuất hai cung thuộc Hỏa, Thìn Dậu hai cung thuộc kim, Thân Tị hai cung Thuộc thủy, Tý Sửu hai cung thuộc Thổ, Ngọ thuộc Thái Dương, Mùi thuộc Thái Âm, quy tắc sinh khắc giống như trước. Riêng Ngọ thuộc Thái Dương, bị Mộc tinh che lấp ánh sáng, lý lẽ này có phần chưa thỏa đáng. Thái Dương là chủ vạn vật, là bầu trời to lớn ở trên muôn vạn thước, Mộc sao có thể che lấp, nhưng hỉ kim thủy kèm theo, lý rất đúng.

Vận hạn ở sau mệnh cung, mà không theo thân là bỏ cái nhà của mình, cái mệnh là thuộc thân trước tiên vậy, sau bào thai, tức lấy mệnh cung bỏ cái nhà của mình. Họa phúc mỗi người, chỉ cần nghiên cứu mệnh cung chăng. Sao có Ân tinh (ngôi sao ban ân huệ)? Sao có Nan tinh ( ngôi sao khó khăn)? Như Nan tinh thủ mệnh thì chủ cả đời cô khổ, Ân tinh thủ mệnh thì chủ cả đời phú quý. Như Mệnh cung mà nghiên cứu không có ngôi sao, lúc này lấy tam hợp cung xem, như tọa Dần thì xem Ngọ Tuất cung vậy. Như không có tam hợp thì xem bốn chính cung. Nhưng bốn chính cung, rất không cận lý, như Mệnh cung sợ kim là Nan tinh, hạn đến cũng sợ vậy. Phàm các cung Tài bạch, Điền trạch đều giống như thế này vậy, hệ thống này là ngũ hành sinh khắc, là thuyết chính lý vậy.

Độ chủ, tức lấy tương ứng độ mộc ( độ là đo lường). Như lập mệnh là Dần cung, quấn lấy cái đuôi hỏa Dần độ, tức lấy thủy khắc hỏa tinh mà độ tinh, là Hoa độ tinh, tức lấy mộc là Ân tinh, nhưng luận độ làm chuẩn, thì lại có một thuyết chỗ này, hoặc Mệnh cung là hỉ, hoặc lại độ chủ là kỵ, một hỉ một kỵ, vì sao lấy chủ? Nhưng chỉ lấy Mệnh cung làm chủ, lý lẽ gần với quy tắc, nếu lại lấy độ luận, là nguyên nhân làm mê hoặc lòng người vậy. Hoa độ thì lấy theo Trương Dịch Cốc 《 Hoa độ ca 》 làm quy tắc. Nếu Nhật, Nguyệt, mộc, hỏa, thổ, kim, thủy là chính thất diệu tinh (mặt trời, mặt trăng và các vì sao đều gọi là diệu, mặt trời, mặt trăng và năm ngôi sao, kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ hợp thành Thất diệu), nếu La tinh thì là thủy nô, Kế tinh thì là thổ nô, Khí tinh thì là mộc nô, Bột tinh thì là thủy nô, đây chính là Tứ dư tinh. Nhưng Thất Diệu tinh mệnh gặp hạn thấy họa có thể ít. Tứ dư tinh mệnh gặp hạn thấy họa thì mãnh liệt. Là sao vậy? Thất diệu chủ tinh thuộc loại Quân tử, Tứ dư nô tinh thuộc loại Bất nhân, như Cáo mượn oai Hùm, đương nhiên là chính lý vậy.

Ngũ tinh có nhiều sách viết, chỉ có 《 Ngũ tinh chỉ nam 》, chỗ lập ra là từ bát tự, hợp cách an thân, an ngôi sao, lý lẽ tiết khí ngũ hành sinh khắc, hệ thống xem mệnh này là ở Môn Hộ ( nguyệt lệnh), không thể không có vậy, còn lại cùng quy tắc bày ra nhiều loại ngũ hành là thuyết sai lầm ở bên trong. Lại như 《 Ngũ tinh 》, 《 Cầm đường 》, 《 Điện giá 》, 《 Gia bàn 》, 《 Bộ Thiên kinh 》 đều thuộc chính lý. Nhưng thuyết Ngũ Tinh, gần với chính lý thì còn rất ít, còn thuyết sai lầm thì rất nhiều vậy.

Thientam
11-04-14, 21:22
Ngũ tinh mậu thuyết loại

Nói về kim mộc thủy hỏa thổ, gốc là Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, tức là lấy thủy 1, hỏa 2, mộc 3, kim 4, thổ 5 thứ tự để sắp xếp. Thế hệ sau dựng cảnh tương tự lấy nói xằng bậy tức là lấy Hải trung, Lô trung, Đại Lâm, Lộ Bàng phối kỳ nạp âm ngũ hành làm thơ ca, khiến cho người đời sau có thể lấy để học thuộc lòng. Sao lại nói đời sau xằng bậy lấy thuyết không có lý lẽ như Hải trung, Lô trung, xác lập làm Môn hộ?
Như các loại kinh thư: Tam Xa Nhất Lãm, Vọng Đấu chân kinh, Da luật kinh, Ngọc Tỉnh áo quyết, Lan Thai diệu tuyển, đều không lấy tổ tiên sinh mệnh bản thân làm giới hạn, gần với lý lẽ để nói sự việc, tràn lan khắp nơi đều lấy giang sơn, thủy thạch, đạo phong, đạo vũ mà nói, lại lấy năm sinh con người, lấy thập nhị cầm tinh xứ sở giống nhau để luận sinh mệnh cát hung, sao nói sai lầm vậy!

Cái gốc cầm tinh giống nhau vốn là lấy thân mệnh trong thập nhị cầm thú đều khiếm khuyết như nhau tựa như vậy. Như Chuột thiếu ánh sáng, Trâu thiếu răng, Cọp thiếu ngáy, Thỏ thiếu môi, Rồng thiếu tai, Rắn thiếu chân, Ngựa thiếu con ngươi, Khỉ thiếu lá lách, Gà ít hiền lành, Heo thiếu gân, đều lấy thập nhị cầm tinh giống nhau như vậy, hoàn toàn không quan hệ với can chi bát tự con người. Ngông cuồng lấy cầm tinh giống nhau như thế này mà luận mệnh ư, như khoét thịt con người mà dán vào thịt của mình, thực chất như không cùng quan hệ huyết thống.

Giả như hiện tại trời đất cần phải làm rõ xem bàn về hai mệnh: Canh Thìn, Giáp Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ, bát tự vốn đúng là thân cường Sát yếu, hành Sát vượng địa, về sau được phong địa vị cao quý, mười nghìn căn nhà, lý lẽ là đúng. Xóa bỏ chính thuyết, nói sai lầm là mệnh thuộc con Rồng, được ngày giờ là Đinh Mùi, Bính Ngọ, gọi là Thiên Hà Long, lấy Rồng gặp thủy long là cực quý.

Giả như có một mệnh nghèo, là Canh Thìn, Giáp Thân, Quý Hợi, Quý Hợi, cũng có thể lấy Rồng quay về biển lớn để luận, thế sao lại rất nghèo? là bởi vì bát tự này thủy nhiều, lấy thủy là bệnh, tiếp tục hành vận Bắc phương để cho thủy lại gặp thủy, chính vị trí phương Bắc là Lộc trục Mã, lấy đường nghèo nàn mà kinh sợ vậy.

Mà như con người thuộc Chó Gà Dê, dấu hiệu có mệnh quý nhân, xin hỏi lý luận là ở đâu vậy? Cả hai thuyết đều sai lầm. Một Ngũ Tinh chỉ nam, giải thích ngữ văn đầy rời rạc, lại nghiền nát cám dỗ đến đau xót, cùng với Tiểu nhi, Lôi công, Kim tỏa, đoán Kiều, về nghĩ trăm ngày nơi am tự, tứ trụ con gà bay đến cửa quan. Chỉ lấy đúng một chữ năm sinh, dùng trái phép đến một lúc nào đó để sai lầm cam chịu mỗi ngày mà nói, lại xác lập lời nói nguy hiểm, khóc lóc đoạn tuyệt không quá ba tuổi mà chết, đến ý thức mở ra như thuyết Đoán Kiều, lấy phụ mẫu phải kinh ngạc, cùng không lấy can chi bát tự sinh khắc chế hóa, Tài Quan mà luận. Mà để tìm kiếm chính lý, còn họa phúc thì không ứng nghiệm, chỗ này chỉ đem một chữ để định sinh tử, thực sự là thuyết sai lầm vậy.

Lữ Tài viết sách “Hợp Hôn thư”, sao gọi là lý lẽ ư? Cái hôn nhân con người là do ở ông tơ bà nguyệt, gắn bó mạnh mẽ mà trói buộc chân. Ngày nay, chọn lựa hôn nhân, chọn lựa mệnh, tư tưởng không có qua sự mong muốn quan tâm của phụ mẫu, nam chỉ chọn nữ vậy. Xem Bát tự quý trọng ở hai sao chồng và con, nữ dịch ra nam vậy, bát tự quý ở đạo trung hòa. Sao đoạn văn dưới lại nói nam nữ chỗ kinh tởm này nhiều cách là kỵ, lý lẽ quá sai lầm. Thuyết thấy ở đoạn văn sau. Như tục ngữ nói: Chỗ này là dẫn tới Man kinh ( sách vở sai lầm). Cần đẩy lùi tiêu diệt bỏ đi, cho nên thuyết này là không có lý vậy.

Cốt tủy bị phá hủy vững chắc từ 6 điều hại là: đại bại, bừa bải, bay lên trời, bừa bãi, bát bại, trống rỗng đơn độc thuyết sai lầm. Thuyết này nguyên là họa cho con người không cùng ngày mà tương quan, là thuyết đứt đầu cùng chân, không những xác lập nhiều cách nói trống rỗng mà còn khắc nhiều lãnh thổ, xác lập lời nói nguy hiểm để con người kinh hãi mê muội. Hậu thế vợ chồng ngu dốt, toại nguyên lấy làm chân thực, hoặc có sinh sôi sai lầm, tức là kinh hãi, hoặc có cao minh, cho thấy quá ít ứng nghiệm. khiến cho người càng ngu dốt.

Kèm theo mệnh họa phúc, dâm loạn, cách thức là lấy Bát Bại, Đào Hoa Sát là đạo kỵ, Bát Bại thì lấy Heo, Dê, Chó sủa ở ba tháng mùa Xuân, cái lấy người sinh năm Hợi Mùi Tuất, thấy sinh trong ba tháng, toại nguyện cho thành Bát Bại, đều không thuộc ngày giờ liên tục, đều không luận cùng đạo chồng con. Giả như người sinh ba năm Hợi Mùi Tuất, thấy tháng Thìn, cuối cùng không đúng thì cho là kẻ thù vậy, cũng như Phi Thiên, Địa Tương vậy, tháng Thìn đều làm thất bại cả ba người này vậy. Thuyết Bát Bại, rất là sai lầm vậy.

Thientam
11-04-14, 21:23
Lại nói về Đào Hoa Sát, viết: Dần Ngọ Tuất theo Thỏ ( Mão) cũng là sai lầm. Sao lại có thuyết này vậy? Dần Ngọ Tuất thuộc hỏa, hỏa thì lỏa hình, Mộc dục ở Mão, nói là hỏa ở trên Mão, tắm ở nước sợ lỏa thể, tên này xác lập bừa bãi, cũng biết là sai lầm rồi. Ta đã từng thấy nhiều lần là chồng con có phú quý lưỡng toàn, người già, trẻ em mang Bát Bại, riêng phụ mẫu lấy năm mệnh sửa đổi thích hợp cùng đến khi chết thì chồng con mới bày ra sự thật, lấy gia phổ bản thân làm chứng thì chồng lại không bị Đại Bại. Chính Ta thường khảo sát mệnh tạo phụ nữ để xem, kết quả hệ thống hai sao chồng con tinh tú, lý đắc trung hòa, thì quả là thuyết Bát Bại là sai lầm vậy. Hoặc là do gốc Bát tự bị thiên khô. Sao chồng con bị suy giảm, lại mang Bát Bại, là thế gian con người chỉ chưa mang bại, không biết là bát tự vốn là đúng không sai biệt.

Cho nên con người chọn lựa mệnh Nữ chính là lấy Phu tinh làm chủ, Tử tinh làm thứ yếu, trong trụ nếu có Phu tinh, liền lấy Phu tinh mà luận, còn nếu không có Phu tinh, thì tránh tìm cách khác. Nói Phu quý Thê cũng quý, Phu bần Thê cũng bần, phú quý tòng theo chồng, là lý lẽ rất sáng tỏ, sao lấy sao Quan tinh làm chồng? Cái khắc ta chính là Quan tinh vậy. Thì thân ta chịu chế phục bởi chồng, không có dám dâm loạn, không có dám đố kỵ bạo loạn, lại hỉ Phu tinh sinh vượng ở vận, cùng có Tài thần trợ giúp cho chồng, sợ nhất là có Thực thần, Thương Quan ở vận, là khắc phu vậy, nếu phương nhật chủ nhược, Phu tinh thái vượng, lại mang tới 2,3 thì thành nặng, việc này không phải là chồng tốt vậy, là mệnh đàn ông thì hỉ Thực Thần, Thương Quan để chế, đại vận cũng vậy. Nếu bị chế thái quá, thì lại không đủ, quý được ở trung hòa.

Đại để, Nữ mệnh có phu thì có tử, Tử thì tòng theo Phu sinh tồn, không có Phu thì không có Tử, Tử tòng theo tìm kiếm nơi nào? Ngu dốt đã từng muốn tìm kiếm theo sông Kiều đồi trụy, Nữ là vợ con làm ra bát tự không tốt cự tuyệt, như Kỷ Mùi, Đinh Sửu, Giáp Dần, Giáp Tý. Ngu dốt nói dụng Tân kim trong Sửu là Phu tinh vậy, sợ Đinh hỏa trong Mùi, hoàn tòan nhập trong Sửu, phá mất Phu tinh, lại thêm Đinh hỏa thấu xuất thiên can, trong Dần lại có Bính hỏa tiến khí, gốc Phu tinh bị suy, mà chế Phu tinh vượng vậy. Tôi suy ra từ vận, nhập Dần tháng 5 nhất định tử, kết quả tháng 5 bị bệnh đậu mùa mà ngu đần vậy.

Lại như thuyết kỹ nữ, tỳ thiếp dâm loạn, cũng rất là có lý. Cái thân chủ thái vượng, không có phu tinh để chế phục, hoặc lại không có Tài tinh để làm chỗ dựa, thân càng lại chủ huyết khí thái vượng, không có quan khắc chế, không có chồng quản thúc, bên ngoài vượt quá quy cũ chuẩn mực, được yên ổn không phóng tùng, dâm dật thành bừa bãi, thành bôn tẩu ư! Không phải đặc biệt là không có chồng lại còn không có con. Cái bát tự trụ trong không có phu tinh, thì Tử tinh làm sao mà có vậy?

Lại có thân chủ thái nhược, bị Thiên Quan, Chính Quan, 3,4 điểm Phu tinh khắc chế, lại không có Thực thần, Thương Quan để chế phục phu tinh, lại có Tài nhiều để ngăn cản thân chủ, dù viết là Quan Sát làm chồng vậy, quy tắc này không phải phu tinh vậy, chính là đạo tặc khắc thân vậy. Nều có cách này, nhất định cần phải chế phu ở vận.

Lại nếu nhật chủ không có căn gốc, Quan Sát quá nhiều, hoặc tòng theo phu tinh cần hành đến xứ Phu tinh vượng, cái khí mệnh Tòng Sát Tòng Phu, như người bỏ mệnh mà tòng theo cường tặc vậy. Cõng là chủ có phú quý có con nhưng sợ thấy tòng mà tùy tiện. Hoặc nhật chủ có căn là chỉ có Quan Sát thái vượng, lại không có khắc chế, nhiều là làm tỳ nữ, làm kỷ nữ, là việc bất đắc mà lấy theo tòng người vậy. Bát tự loại này đều là thuộc hệ thống dâm loạn. Hoặc bát tự con người có chỗ này là vượng, thân nhược là Bệnh, mà lại có mang Đào Hoa, người ngu dốt không nói là bát tự thiên khô là Bệnh, mà tùy tiện lấy tên là Đào Hoa, các cách này đều sai lầm, người có trí tuệ thì cần phải xem xét kỹ càng.

Thientam
11-04-14, 21:25
Nam nữ hợp hôn thuyết

Bắt đầu lan truyền từ thuyết Lữ Tài vụng về, chỉ lấy năm tuổi nam nữ, buông thả mà lập số trời, phối hợp với nhau mà thành, tên gọi là hợp hôn.

Nói liều lập Thiên Y, Phúc Đức là thượng hôn, Du hồn, Quy hồn là trung hôn, Ngũ Quỷ, Tuyệt Mệnh là hạ hôn. Là quá sai lầm vậy.

Có thể xếp đặt chỉ lấy hai năm tuổi mệnh nam nữ, bỏ mất tháng, ngày, giờ mà có thể luận phối hợp hôn nhân ư?
Nếu là có lý, thì thiên hạ bàn hôn nhân, đều lựa chọn thượng hôn trung hôn mà phối hợp, bỏ mất lựa chọn hạ hôn, sách nói dễ mà không dễ, thảo nào ở thiên hạ bẩm sinh người phụ nữ, ngẫu nhiên mà góa bụa vậy.
Sao nói đời sau lại có họa là cô nhi quả phụ ?

Mặc dù phân biệt xuất phát từ chỗ có quan hệ của thời đại, mà cũng do ở bàn bạc hôn nhân rõ ràng vậy. Nhưng bàn bạc hôn lễ, phương diện nhân đạo, cũng không thể không cẩn thận vậy.

Vậy lý lẽ là như thế nào đây?
Chỉ cần xem mệnh nam, mang Tỉ kiên Kiếp Tài nặng, thì trung tâm lựa chọn mệnh phụ nữ phải mang Thương Quan, Thực Thần nặng mà phối hợp. Nếu nữ mệnh mang Thương Quan Thực Thần nặng thì nhất định lựa chọn nam mệnh mang Tỉ kiên Kiếp Tài nặng mà phối hợp. Quan hệ chỗ này chính là lý lẽ hợp hôn vậy.

Sao có thể lấy thuyết Lữ Tài thượng trung hạ tam hôn là thuyết vô căn cứ, không có nơi lý lẽ, mà bàn luận phối hợp hôn nhân vậy ư!
Thuyết Lữ Tài thật là sai lầm, rõ ràng là không đủ tin vậy.

Thientam
11-04-14, 21:26
Tổng luận Tử Bình mậu thuyết loại
( Tổng luận về thuyết Tử Bình sai lầm)

Cách viết: như 《 Lạc Lục Tử 》, chuyên lấy Tài Quan làm chủ, chỗ này cũng là thuyết sai lầm. Mặc dù, bản thân con người đều lấy Tài Quan làm chỗ dựa, Tài Quan thái vượng, nhật chủ thái nhược, thì mệnh chủ không đảm nhận được Tài Quan. Giả sử Nhật chủ thái vượng, khí Tài Quan nhẹ, thì Tài Quan chưa đủ cho mệnh dùng. Lấy Tài Quan của Nhật chủ chỉ để tham khảo thêm. Nếu như sách Tử Bình nói: "Tài quan khinh nhi nhật vượng, vận hành tài quan tối vi kỳ." (Tài Quan khinh mà nhật chủ vượng, vận hành Tài Quan là tốt nhất), đến nước này thì nhật chủ có thể đảm nhận là phương pháp quy tắc khi xem mệnh.
《 Lạc Lục Tử 》có nói chỉ cần Tài Quan sinh vượng, không cần xem nhật chủ vượng nhược, sao không phải là sai lầm trầm trọng ư?
Nhật Quý cách, như Giáp Mậu Canh Sửu Mùi, đất Ất Tị Tý Thân các loại vậy, chỗ này thì có lý " .
Tuy viết Thiên Ất Quý nhân, ở trên nhật chủ lâm đến Quý nhân, hoặc lấy Nhật Quý mà luận mệnh là sai lầm. Nhưng, thuyết Quý nhân, tên gọi có liệt kê nguồn gốc, tuyển chọn cũng không thể vượt quá lý lẽ. Cho dù là cùng với Ngũ Tinh Tiểu nhi, thuyết như nhau chứa nhiều quan hệ sai lầm, xằng bậy. Tuy viết tới Nhật chủ, không luận Tài Quan Ấn tinh, chỉ có lấy Quý nhân làm chủ, thật là giả dối, hoang đường. Mà gốc lập thuyết chứa nhiều quý nhân, chẳng qua là bay vào khoảng không mà lập, không có căn cứ xác lập, sao mà có thể tin đây? Lục Ất Thử quý cách, cũng giống như chỗ này. Là thuyết sai lầm không nghi ngờ vậy.

Nhật Đức cách, có 5 ngày: Giáp Dần, Mậu Thìn, Canh Thìn, Nhâm Tuất vậy. Tại sao hiện ra là Đức vậy? Không có nghiên cứu ngọn nguồn, không tuân theo nguồn gốc, gặp mà lấy tên là Nhật Đức, chẳng phải là thuyết sai lầm về Tử Bình ư?

Khôi Cương cách, lấy Nhâm Thìn, Canh Tuất, Canh Thìn, Mậu Tuất, ở trên đến đất Tứ Mộ, lấy là Khôi Cương, khó nắm đại quyền, cũng không theo lý lẽ. Tại sao ở trên đến đất Tứ Mộ là có thể nắm giữ uy quyền? Chỗ này đối với thuyết Tử Bình cũng rất sai lầm vậy.

Lục Nhâm xu Cấn, là dụng Dần trong chứa Giáp mộc, có thể hợp với Kỷ thổ, là Quan của Nhâm; nói dụng Dần trong có Bính hỏa, có thể hợp Tân kim, là Ấn của Nhâm. Đều là thuyết bịa đặt, quả là quá sai lầm vậy. Đại để cùng với trước đây nói Củng Lộc, Phi Thiên, Lộc Mã, cũng tương tự chỗ này. Thuyết này lại càng không phải, cho nên dùng tên gọi sai lầm vậy.

Lục Giáp xu Càn, nói ở trên phải là Môn Hộ của trời, nói người sinh ngày Giáp đến chỗ này, gọi là xu Càn. Giả như can ngày khác sinh đến ở trên Hợi, sao không lấy là xu Càn vậy? Nhưng mà Thiên Môn cùng chỉ tốt khi có xu hướng đến Nhật chủ là Lục Giáp. Nhưng mà địch thân thành Thiên Môn, vốn không có thể được vào Môn Hộ, nhưng Càn chính là ở địa phận của hướng Tây Bắc, tương tự Môn Hộ ở trên trời, sao có thể luận họa phúc nơi người? Thuyết này là sai lầm vậy.

Câu Trần đắc vị, lấy Mậu là Câu Trần, là một lý lẽ vậy. Nói Đắc vị là đến Tài Quan vậy, nếu Mậu Kỷ thân chủ không nhu nhược thì có thể gánh lấy Tài Quan vậy, thì nói là vị trí Câu Trần vậy. Là đương nhiên. Nếu Mậu Kỷ khí nhược đến đất Tài cung quá vượng, có thể là Tài đa Thân nhược, có thể là Sát trọng thân khinh, nếu lấy Câu Trần đắc vị là tốt, thì sao không khỏi sai lầm?
Huyền vũ đương quyền, cũng giống như vậy.

Tòng Cách cách, là nói nhật can Canh Tân, thấy Thân Dậu Tuất đầy đủ, hoặc Tị Dậu Sửu đầy đủ, chỗ này phần đa là bác tạp, gốc không phải thuần túy có thể nhìn thấy, cùng với Nhâm Quý Nhuận Hạ cách lý lẽ giống nhau, hai cách này nhiều vậy thay, chưa từng có phú quý, nhưng cần phân biệt để lấy lý lẽ mà khước từ. Chỉ có Khúc Trực, Giá Sắc hai cách đa số là phú quý, hỏa cách thấy đủ Tị Ngọ Mùi, cũng là thấy tốt. Do vậy tùy theo mà tôn trọng chỗ chân chính, mà bài trừ những lý lẽ sai lầm vậy.

Thientam
11-04-14, 21:27
Động Tĩnh thuyết

Sao gọi là Động vậy? Thể thuộc dương, dương chủ động. Cho nên hành Thiên mạnh mẽ. Thành tuân theo xoay chuyển vây quanh trái đất mà không có điều kiện. Do đó con người lấy theo 8 thiên can thấu lộ ở trên, là Động vậy. Như thiên can bát tự là Giáp mộc, chỉ có thể khắc vận ở trên thiên can Mậu thổ vậy, không có thể khắc Mậu thổ tàng ở trong Tị vậy. Đại khái lấy Động để tấn công thành gần gũi, giống như nam nhân được công kích nam nhân vậy, không công kích chỗ khuê phòng bên trong của nữ nhân vậy. Nhưng tuy không thể công kích người, mà cũng có thể động xa làm kinh sợ, nhưng không thể lấy tai họa thực sự vậy. Như nữ nhân thấy nam nhân đến tấn công, tuy không thể đánh thêm vào thân thể, mà ý chỗ này là cũng có thể làm sợ hãi. Như trong vận Thân được địa chi có Canh kim, cũng không thể công kích ta trong bát tự có thiên can thấu Giáp mộc vậy. Vốn là lấy thiên can động, chỉ có thể công kích được thiên can động, mà không thể công kích địa chi là tĩnh vậy, lý là rõ ràng.

Sao gọi là Tĩnh vậy? Thời kỳ nghĩ ngơi là thuộc âm, âm chủ tĩnh, cho nên Địa nhận theo thuận, lấy phương tĩnh cố định mà luôn không đổi. Do đó, lấy bát tự con người, có chi ẩn tàng ở bên dưới, là Tĩnh vậy. Như địa chi bát tự có Canh kim, chỉ có thể khắc vận ở trên địa chi có Giáp mộc, mà không thể khắc vận ở trên thiên can có Giáp mộc vậy. Đại khái lấy tĩnh công tĩnh thành thân thiết, như nữ chỉ có thể công kích được nữ nhân vậy, không thể công kích nam nhân ở bên ngoài vậy. Nhưng dù không thể bị công kích, ý cũng có thể động xa mà làm kinh sợ vậy. Như vận ở trên có địa chi là Canh kim, cũng không thể phá ta nếu bát tự thiên can là Giáp mộc vậy. Vốn dĩ địa chi là tĩnh, chỉ có thể được công kích địa chi tĩnh, mà không thể công kích thiên can động vậy, lý là rõ ràng. Lại như Thìn Tuất Sửu Mùi là bốn địa chi của vật, chính là thiên địa bốn phương thu tàng về khố, rất kiên cố, giả như bát tự địa chi có Thìn ở nơi Mậu thổ, Ất Mùi ở Quý thủy vận, hoặc là hành Dần, Dần bên trong tuy có Giáp mộc, cũng không thể phá Mậu. Lại vận hành Dậu, Dậu trong tuy có Tân kim cũng không thể phá Ất. Lại có thể sinh hành đến Ngọ, Ngọ trong tuy có Kỷ thổ cũng không thể phá Quý. Không thể không có phá vậy, đại để trong Khố, ổ khóa là rất bền chắc, chính xác chữ Tuất đến động xung khai, liền giống như có rồi chìa khóa để mở khóa, mà xuất nhập Mậu thổ, Ất mộc, Quý thủy đi ra. Như chữ Sửu sẽ xung chữ Mùi, mà không thể công kích vật gì khác. Cho nên viết Tạp khí Tài được xung, chính là ý này vậy.

Thientam
11-04-14, 21:27
Cái đầu thuyết

Sao gọi là Cái Đầu vậy?
Như toàn thân con người, toàn thân chỉ có mỗi cái đầu là một thân là nguồn gốc vậy. Đầu cùng mặt nối liền, tai mắt và mũi gắn liền chỗ này, sử dụng cái đầu mà nói toàn bộ vậy. Nếu ở dưới bụng và tứ chi, hơi có không tốt thì có thể lấy quần áo để trang sức cái không tốt vậy, nếu vật có nhiều cái đầu, phát sinh thấy ở bên ngoài, thì là động vật. Không phải như bụng và tứ chi nơi tàng chứa trong bụng, không đủ là khinh trọng vậy. Đại để bát tự con người cũng như vậy.

Trong Bát tự ở trên có 4 chữ là Đầu, ở dưới địa chi tứ trụ là bụng và tứ chi. Trong chi là chỗ tàng chứa các vật, là ngũ tạng lục phủ vậy, như phần bụng thanh tú, bắt đầu phát ra ở đầu mặt, liền là tài năng phát sinh rực rỡ lộ ra bên ngoài, một đời giàu sang, nghèo hèn, chỉ thấy được ở bên ngoài đầu và mặt. Như bát tự sợ Thương Quan, Thương Quan này tàng chứa ở bên trong, thì ở trên không đủ sợ, như ở trên dưới đều thấu Thương Quan này, thì ở trên đầu mặt đã thấy rồi, có thể nào che dấu? Phàm vật có chỗ hại, lộ ra ở đầu mặt, thì là động vật, là có thể tác hại. Thông thường hành vận nếu bát tự nhật can là Ất, dụng Bính Đinh hỏa là Thương Quan, nhật can Ất bị tổn thương nặng, liền lấy Canh kim Quan tinh là bệnh, nếu bát tự ở trên thấy Canh kim rồi, liền lấy Bính Đinh là thần tật bệnh. Như thiếu niên hành đến Nhâm Thân, Quý Dậu vận, thì không phải là vận tốt. Bởi vì Nhâm Quý thủy đóng ở bên trên đầu Thân Dậu, vốn là Nhâm Quý thủy cái đầu rồi, nên là không tốt vậy. Về sau hành đến Giáp Tuất, Ất Hợi vận, rõ là tốt, do Giáp Ất mộc là cái đầu vậy. Lại như hành vận Bính Tý, Đinh Sửu, cũng tốt, là do hành Bính Đinh hỏa là cái đến khắc Canh vậy, tuy bên dưới địa chi có Hợi Tý Sửu là thủy, mà thủy lại bị Bính Đinh cái đầu rồi cho nên không có thể làm hại. Lại như nhật can là Canh Tân, hỉ thần là 4 chữ Giáp Ất Bính Đinh, Canh Tân Nhâm Quý 4 chữ là bệnh thần, hành vận trông thấy Giáp Ất Bính Đinh các chữ cái đầu liền tốt vậy. Như trông thấy Canh Tân Nhâm Quý, đó là phá mệnh, tuy vận ở trên địa chi có Giáp Ất Bính Đinh, cũng bị Canh Tân Nhâm Quý cái đầu rồi, chỗ này địa chi tuy có Giáp Ất Bính Đinh, cũng không thể lấy phúc được, là do cái Canh Tân Nhâm Quý, ở bên trên mặt, xuất ra đầu không được.

Xem bát tự lấy Cái Đầu này là trông thấy rõ, liền nhận biết cả đời con người tốt hay xấu, đây vốn là bí quyết chân truyền vậy.

Thientam
11-04-14, 21:28
Lục Thân thuyết

Can năm lộ Tài Quan, chủ tổ tông vinh hiển; Can tháng lộ Quan Sát, chủ huynh đệ suy bại.

Lại viết: Trụ năm xem sự việc tổ tông có hưng thịnh hay suy bại, mà suy ra trụ tháng phụ mẫu để xác định sự tồn tại. Nhưng mà trụ năm thuộc cung tổ tông, nếu đến đất Tài Quan chính là tọa đất Lộc Mã, lý đương nhiên là vinh hiển. Nhưng nếu tọa Tỉ kiên, Kiếp tài, không có đất của Tài Quan chính là tọa đất Lộc Mã, lý đương nhiên là vinh hiển vậy . Nhưng theo Tỉ kiên lại cần cùng đón nhận đất của tổ tông, đến trụ tháng là hai cung huynh đệ cùng chỗ ở mà tham khảo xem thế nào. Nếu năm tháng không có Tài Quan, đều chủ căn gốc suy nhược, tay trắng mà thành lập gia đình, đơn độc nguyệt lệnh có Quan Sát nắm quyền, đều chủ làm tổn thương huynh đệ. Tuy có huynh đệ mà chủ nhiều việc cải nhau, đánh nhau, là sao vậy? Tỉ kiên chính là huynh đệ, là Thọ tinh, thấy mặt Quan Sát là khắc nhau, làm sao yên ổn được mà không gây tổn thương anh em chăng? Cho nên viết: “Quan Sát bài môn huynh thọ yểu, Sát Quan ti hộ đệ thành hành” ( Quan Sát bày ra ở mộ hộ, thì anh trai bị tổn thọ, Quan Sát nắm lệnh thì em thành đạt). Do đó, Nguyệt lệnh chính là Môn Hộ vậy, lại như Nhật chủ thông Nguyệt khí, Tỉ kiên vượng, chủ có phúc mà thành danh, lý lẽ tuy như vậy nhưng cần biết biến quý biến thông. Hoặc là nhật chủ tùy tiện có căn gốc nhiều, Tỉ kiên thái vượng, cũng chủ không tham gia vào nghề mua bán được, nguyên nhân là do Tỉ Kiếp nhiều thì là Kiếp tài vậy, lúc này lại hỉ có Quan Sát mà được huynh đệ vậy.

Thiên Tài là cha, Tỉ Kiếp trọng nặng thì làm tổn hại đến cha;
Chính Ấn là Mẹ, nếu vượng xứ thì tổn hại đến mẹ, lấy Quan Sát là Tử (sao con), Thương Quan, Thực thần nhiều thì làm tổn hại con cái. Nếu Quan Sát thái trọng, khắc chế Nhật chủ, bản thân sớm giúp đỡ con mà không đầy đủ, sao có thể yên ổn mà sinh con ư? Nhất định cần Thực Thần, Thương Quan,để chế khứ Quan Sát, thì mới có thể sinh con vậy. Nam mệnh như thế, nữ mệnh cũng vậy. Nếu Tài Quan vượng mà nhật chủ nhược, thì gia đình chồng hưng thịnh mà gia đình mẹ thì thất vọng, Tài Quan là cái vượng cho Phu vậy. Nhưng Tài có thể làm tổn hại mẹ, Quan có thể khắc huynh đệ, là chủ phần nhiều cha mẹ, anh em suy bại.

Cô loan nói: Mộc hỏa Xà vô mị, là nói ngày Ất Tị vậy. Nhưng Ất Tị tọa dưới có Canh là Phu tinh (chồng), Đinh Tị hội ở dưới có Canh là Tài, có Tài thì có thể sinh Phu vậy, không thể nói là giúp chồng vậy. Nữ mệnh sinh hai ngày này, phần nhiều là chủ vượng Phu, vượng Tử vậy; kim Trư khởi hữu lang, Tân khắc tọa ở dưới có Chính Tài, Tài cũng có thể chủ Phu, sao lại nói là không có chồng ư? Thổ Hầu trường độc ngộ, chính là nói ngày Mậu Thân vậy, tọa ở dưới có Canh kim, là nói có thể khắc phu vậy. Mệnh sinh ngày Mậu Thân rất khắc phu vậy. Mộc Hổ định cư sương, tức là nói ngày Giáp Dần vậy, là Phu tinh tuyệt ở Dần vậy, là không thể sinh con vậy, lại hỉ Ấn tinh để tổn hại Tử tinh, nuôi dưỡng tinh khí mà mới có thể sinh con vậy.

Như Thực thần, Thương quan ít mà lại sợ Ấn tinh vì có thể làm tổn hại Thực thần, Thương quan là con vậy. Như có đủ bốn chữ Thìn Tuất Sửu Mùi, chỗ này là thiên địa tọa ở bốn ngục tù vậy, thì làm sao yên ổn mà có thể sinh ư? Nếu chỉ phạm có hai chữ, cũng không sợ, nếu phu tinh, tử tinh nhập mộ, cũng khó thành chồng con vậy, chỗ này nam nữ hai mệnh đều không thể phạm. Thê tinh, Phu tinh, Tử tinh mà nói thì cũng chỉ xem ở bát tự, có bệnh có thể khứ bệnh, tùy theo mà có vợ, hay có chồng con vậy.

Luận Lục thân chỉ là phép chết, giải thích xem thêm đoạn văn ở trên nói về Ngũ tinh mậu thuyết.

Thientam
11-04-14, 21:29
Bệnh Dược thuyết

Tại sao gọi là Bệnh? Gốc là bát tự bên trong có thần khắc hại vậy;
Tại sao gọi là Dược? Như bát tự gốc có chữ hại mà được một chữ dùng để khứ mất, như Chu Tử nói là do nguyên nhân Bệnh mà có Dược vậy.

Cho nên Thư nói: " Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ; cách trung như khứ bệnh, tài lộc lưỡng tương tùy." (Có bệnh phương thành quý, không có tổn thương thì không phải là bình thường; trong cách nếu như khứ bệnh, Tài Lộc cả hai đều thuận tiện).

Mệnh thư có hàng vạn quyển, thì sử dụng bốn tên này là quan trọng bao quát. Cái tạo hóa con người, tuy quý ở trung hòa, nếu đồng nhất ở trung hòa, thì được yên ổn mà tìm tòi kỳ tiêu tức, mà luận kỳ hung dữ vậy? Như hiện nay nói về đến con người có phú, có quý, nhất định trước tiên"Lao kỳ cân cốt, ngạ kỳ thể phu, không phạp kỳ thân, nhiên hậu động tâm nhẫn tính, tăng ích kỳ sở bất năng, " ( tức là: lao động vất vã, thân thể đói khát, bản thân không có sức lực, về sau dù có nhẫn nại, cũng không thể tăng thêm ích lợi), mệnh người thật là kỳ diệu, giống như việc này ư! Trước kia đã từng ngu dốt chưa am hiểu thuyết về Bệnh Dược, nhiều lần lấy trung hòa mà làm ra việc cứu người, 10 phần không có được 1,2 lần ứng nghiệm.

Lại lấy Tài Quan luận, cũng đều không có hứng thú trở về. Về sau sớm ngộ được ý nghĩa về thuyết Bệnh Dược, tiếp tục lấy Tài Quan, tham khảo mà xem trung hòa, thì mới hiểu biết được 8,9 phần của tạo hóa, cho nên đúng là mầu nhiệm.

Sao lại nói vậy? Giả như trong bát tự con người, có tứ trụ thuần thổ thủy, quy tắc là xem Nhật can có Sát nặng hay nhẹ, như nhật can là kim, thì là thổ dày mà chôn vùi kim, nhật can là hỏa thì là Tỉ kiên thái trọng, mà thổ nhiều thì cách thành Bệnh, đều hỉ có mộc làm thành Y Dược, lấy để khứ kỳ Bệnh vậy. Như dụng Tài mà thấy Tỉ kiên là Bệnh, hỉ thấy Quan Sát là Dược vậy. Như dụng Thực thần, Thương Quan, lấy Ấn là Bệnh, hỉ có Tài là Dược vậy. Hoặc bản thân Bệnh nặng mà được Dược nặng, lại vừa cần hành vận đến để lấy sự trung hòa. Nếu Bệnh mà có Dược, là người đại phú quý vậy.

Cứu giúp nhân mệnh, tại sao lại đem dò xét kỳ huyền diệu? Như trong bát tự xem kỹ ở Nhật can, thứ xem kỹ Nguyệt lệnh, mà như trong Nguyệt lệnh bên trong vốn thuộc là hỏa, trước tiên bắt đầu xem trong nguyệt lệnh có một chữ hỏa, lại xem can năm có hỏa, lại xem tiếp can tháng, giờ có hỏa, cần phải đem tất cả ở trên kết thành một chỗ ở hỏa để xem là Bệnh, hoặc không phải bệnh; lại vừa phải xem địa chi tuy là tàng có vật khác mà không nhất định xem, nếu tiếp tục xem vật khác thì do hỗn tạp mà không rõ ràng, cho nên viết: Tòng trọng giả luận. Lý này là phương pháp xem kém cỏi, nếu lấy hỏa luận, lại vừa tiếp tục có năm là thủy kim xem thổ, thì không phải là không biết tầm quan trọng của mệnh lý?

Nếu Tài Quan Ấn thụ có bệnh, thì Y Dược trị Tài Quan Ấn kéo dài vậy. Như thân chủ có bệnh, thì thầy thuốc sẽ chữa bệnh cho thân chủ vậy. Như bát tự đúng thuần mà không vượng không nhược, nguyên Tài Quan Ấn đều không bị tổn thương, khí nhật can lại được trung hòa, đều không có cần phải xem, việc này là người bình thường vậy. Nhưng thuyết Bệnh Dược, này là quan trọng bậc nhất, vì thế là phương pháp thích hợp không thể không tinh thông xem xét kỹ càng vậy, thuyết minh thấy rõ ở ứng nghiệm.

Thientam
11-04-14, 21:30
Điêu khô vượng nhược tứ bệnh thuyết loại

Sao gọi là Điêu vậy?
Giống như Ngọc tuy là báu vật, có nhiều cao quý là nhờ có công điêu khắc; cũng là vàng kim dù có ở hoàn toàn trong ngân khố, mà có cao quý là nhờ có lực để nung luyện. Nếu như Ngọc không được mài giũa, dù có nói núi đẹp cao nhất, thì cũng là viên ngọc vô dụng vậy; kim không nung luyện, dù có nói là rất mỹ lệ, thì cũng là kim vô dụng vậy, Bát tự con người, đại khái giống chỗ này. Như thấy Quan tinh không có Thương quan, thấy Tài tinh không có Tỉ Kiếp, thấy Ấn thụ không có Tài tinh, thấy Thực thần Thương quan nói không thấy Ấn thụ, chỗ này nếu thuần mà không tạp, không có cũng như không mài giũa ngọc, không nung luyện kim sao? Đại để giống như trời sinh ra con người vậy, mấu chốt là đầy đủ hay hư nhược, tăng hay giảm, không phải là không ở chỗ này. Như bốn mùa có sinh trường vậy, nhất định có Xuân Hạ ở đây; như bốn mùa có thu tàng vậy, tất nhiên có Thu Đông chỗ này. Lại như cái khung phong thủy, vẻ đẹp của Sa thủy huyệt, mà lai mạch lại cao quý có Phong Hạc nhất định quyết định chỗ này là tốt đẹp. Con người, lý lẻ tạo ra tốt xấu, thọ yểu, cũng nên coi trọng có thư thả phối hợp còn hay mất, lấy thủ dụng chỗ này. Vốn dĩ Bát tự có coi trọng chữ Điêu vậy.

Sao gọi là Khô vậy?
Gió, sương, cây cối, thời gian xuân tới đáng xem thế nào. Mầm gặp khô hạn, cơ hội gặp mưa thì khó ngăn chặn. Cho nên lông chim mạnh mẽ xung lên bầu trời. Quý không phải ở ba năm, âm thanh hùng vĩ kinh người, quý ở không rõ ba năm. Vốn dĩ thời gian rõ ràng. Dẫn thân mãi mãi ở sức nóng mãnh liệt quá thừa. Hòa mùa ấm áp, thường sau đó là thu vào ở mùa quá hàn lạnh. Cho nên tạo ra con người, là Quan quý có kết lại vậy, hành quan vượng địa, quý không thể nói. Tài quý có kết, hành đất Tài vượng, tài khó kể hết. Nhưng lại cần hỉ là có căn rễ ở mầm là trước tiên, đầy đủ mà theo sau là hoa, nhưng mà quý có đủ căn mà kết vậy, không quý có mầm mà kết vậy. Nếu tùy tiện Quan tinh vô căn, Quan tòng xuất ở đâu? Tài tinh vô căn, Tài tòng sinh ở đâu? Vốn dĩ Tài có Ấn thụ, quý có căn mà kết thành bệnh vậy. Có thể nếu vô căn, mà tự lo kết chỗ này, thì cũng không phải hĩ. Quý có căn mà kết thành bệnh vậy.

Sao lại gọi là Vượng vậy?
Hàng loạt hoa cỏ phát triển mạnh mẽ, đáng xem là chân mộc quang minh, vạn vật điêu tàn, có thể biết là chân kim túc sát, vốn dĩ đều đủ chất, đều có hình. Nếu mộc không phải mộc mà kim không phải kim, vượng không phải vượng và nhược không phải nhược, thì chất ngũ hành có thiếu vậy. Do đó, nghiên cứu nhập họa phúc cũng vậy chăng? Như con người dụng mộc xuất ra vậy, thì nên tụ hội, giúp cho tính mộc đang hỗn tạp. Như con người dụng hỏa vậy, thì cần phối hợp, giúp cho tính hỏa không mãnh liệt. Như Xuân đến vượng, thấy thủy nhiều thì thần càng mạnh thêm. Mùa Hạ hỏa viêm, thấy mộc nhiều càng sinh mãnh liệt. Bởi vì dẫn tới điểm khác biệt, do đó thì biết vượng, cần biết vượng ở đâu, nên hành Tỉ Kiếp động để khứ tài tinh; Ấn tinh quá vượng nên hành Tài tinh vận để phá Ấn; Nhật can quá vượng thì nên hành Quan Sát vận để chế nhật chủ. Một lý như vậy, trăm lý đều đúng. Nếu vượng nhược cùng tham gia, vì thế là thấp vậy. Vốn dĩ bát tự quý có vượng là bệnh vậy.

Sao gọi là Nhược vậy?
Ân huệ chưa đủ, thì tính vật là quấy rầy. Tinh khí không đầy đủ, thì thân thể trở thành gầy còm. Thiên căn nhẹ đỡ bệnh, Lục Dương nhược có thể nghe ư, nơi chỗ tháng có thể dò tìm, Lục Âm là nhược cùng cực vậy. Vốn dĩ Lục Dương nhược, cuối cùng không tới nhược, mà có 《 Lâm 》《 Thái 》 thể thừa. Lục âm nhược, cuối cùng không tới nhược, mà có 《 Độn 》《 Bỉ 》 thế mất. Do mệnh con người, nhược không nhược mà vượng không vượng, thì làm sao lấy liệt kê ra họa phúc đây? Nhưng dù có quý mẫu, thì vẫn sợ cực nhược vô căn, cho nên thủy tuy tới để thành cực nhược, nhưng bản thân có Canh kim là gốc thủy vậy. Hỏa tuy tới Hợi thành cực mẫu vậy, nhưng Hợi có mộc là gốc của hỏa vậy. Tạo ra con người, có Tài Quan Ấn thụ, quý có nhược vậy. Nếu không thì chỗ này có vượng. Như Quan tinh quá nhược, cần hành đất Quan vượng; Tài tinh quá nhược, cần hành đất Tài vượng; Nhật chủ quá nhược, cần hành đất thân vượng. Nhưng do sợ nhược là vô căn, chỗ này là căn rễ ở mầm là trước tiên vậy. Như mà có căn, thì Quan tinh tuy nhược mà không đến nỗi vượng, Tài tinh tuy nhược mà không đến nỗi cường. Vốn dĩ bát tự quý có nhược là bệnh vậy

Thientam
11-04-14, 21:32
Tổn, ích, sinh, trưởng, tứ dược thuyết loại

Sao gọi là Tổn?

Tổn là làm giảm đi kỳ có dư vậy. Như mộc sinh trưởng ở cung Chấn, khí chính mộc Đương quyền vậy. Kim sinh sản cạnh tranh cung, chính Kim thần là nơi Đắc vị.
Đương quyền thì không cần có sinh trợ, Đắc vị thì nhất định phải sinh phù.
Giả như thủy lại sinh thổ, thổ lại bồi cho kim, nếu mộc có dư là Bệnh, dụng kim để chế; khí kim có dư là Bệnh, dụng hỏa để khắc. Khí Quan tinh có dư, thì cần giảm đi kỳ Quan tinh; khí Tài tinh có dư, thì cần làm giảm đi kỳ Tài tinh. Giống như Bức tường thành gia tộc cuả nhân thân gốc thái vượng, đương nhiên lấy thuốc mát làm Dược để thông mà cứu giúp vậy.
Bát tự quý ở dùng Dược để làm giảm bớt cái dư vậy.


Sao gọi là Ích?

Ích là làm tăng thêm cái chưa đủ ( bất cập). Như nói mộc tử ở Ngọ, như thủy tử ở Mão vậy. Không đủ thì cần sinh trợ, giống như mộc khí có gốc suy, lại có Canh Tân đến khắc mộc vậy; thủy khí có gốc suy, lại có Mậu Kỷ thổ đến khắc thủy vậy, thì thủy và mộc không đủ chính là Bệnh.
Lý lẽ Ích là làm sao đây? Như mộc không đủ, có thể gặp hành thủy vận để lấy sinh cho là căn bản. Hoặc hành mộc vận lấy cho cành lá được tươi tốt. Như thủy không đủ, hoặc là hành kim vận để đào sâu mà lưu thông nguồn nước, hoặc hành thủy vận để nguồn nước dâng trào. Như cung sao khí chưa đủ thì hỉ đất Quan vượng; khí Tài tinh chưa đủ thì hỉ hành Tài vượng địa. Thí như khí huyết thân thể chưa đủ thì dụng ôn dược giúp đỡ để bổ túc vậy. Bát tự quý ở có Dược làm bổ ích vậy.

Thientam
11-04-14, 21:34
Sao gọi là Sinh vậy?

Lục Dương ở chỗ sinh, chân thực là sinh. Như Giáp mộc sinh ở Hợi, trong Hợi có Nhâm thủy, đến sinh cho Giáp mộc.
Lục âm ở chỗ sinh, đều là nhược, như Ất mộc sinh ở Ngọ vậy, trong Ngọ có Đinh hỏa tiết mộc làm tinh hoa, có Kỷ thổ làm cho Ất mộc ngăn cản mà khuất phục.
Lại như Lục Âm tử ở nơi sinh, như Ất mộc tử ở Hợi, Hợi có Nhâm thủy, trái lại đến sinh cho mộc vậy. Lục Dương tử ở nơi tử là chân tử, như Giáp mộc tử ở Ngọ, mà Ngọ trong có Đinh hỏa, tiết mộc là chân thực, Kỷ thổ là bị ngăn cản mà khuất phục. Mà như cái lý lẽ sinh, hình khí mới phân chia, trẻ sơ sinh chưa xa rời khỏi chăn mền, tinh hoa ban đầu bị rời lẻ, như đứa trẻ con ban đầu mới thoát khỏi bào thai. Như mộc sinh ở Hợi, căn khí vẫn còn kết cánh vậy, chưa có thể lấy mộc làm vượng vậy. Như hỏa sinh ở Dần, ngọn lửa vẫn còn bị hàn lạnh vậy, chưa có thể lấy hỏa vượng vậy. Lại như Tài Quan Ấn lâm ở sinh địa, chưa có thể lấy Tài Quan Ấn là vượng vậy. Phàm khí bất túc ( chưa đủ), cho nên quý ở nhờ Dược giúp mà có sinh trưởng vậy.

Sao gọi là Trưởng vậy?

Mùa Xuân Tầm làm kén, nói là phương của mộc khí.
Mùa Hạ nóng thành lò lửa, làm nổi bật ánh sáng quá nóng.
Như mộc đến ở cung Chấn, hỏa đến cung Ly. Giống như đất của Đế vượng, thực tế không giống như ở vị trí sinh trưởng. Vốn là lấy sinh là đầu của trưởng, trưởng là kế tiếp theo sinh. Như Tài Quan thuộc mộc, thì trưởng nuôi dưỡng ở phương Dần Mão Thìn, nói là phương của mộc khí vậy. Như thế thì cao quý ở hành kim vận để khắc thì cùng với mộc ở cung trường sinh thì lý không như nhau. Như Tài Quan thuộc hỏa, hỏa thì nuôi dưỡng lâu dài ở phương Tị Ngọ Mùi, khí hỏa này là phương lửa rực cháy. Thích hợp thì quý hành thủy vận để khắc thì cùng với hỏa ở cung Trường sinh là lý lẽ bất đồng vậy. Đến lấy hai chữ sinh trưởng, suy vượng là bất đồng, cho nên vận hành có hỉ sinh hỉ khắc là khác nhau. Bát tự quý ở có Dược làm cho tăng trưởng vậy.

Thientam
11-04-14, 21:34
Chính Quan cách

Nam viết: Chính Quan, tại sao lại nói vậy?

Lấy dương thấy âm, âm thấy dương, cho nên viết Nhất Ấm Nhất Dương gọi là đạo, như con người có một chồng một vợ, là có phối hợp đối xử vậy.

Sao lại gọi là Quan? Quan là báo đáp vậy. Như con người ở chỗ này, nhất định cần có Quan quản lý, sau đó theo quy tắc khuôn phép qui định, ở con người là Nghĩa, không dám buông thả mà vượt qua thành phạm pháp, cho nên là chế ta cung thân chủ vậy. Nhưng nguyệt lệnh đề cương có Quan, như bản thân ta dựa vào phủ Thái thú bản quan Huyện lệnh vậy. Nhưng cần chịu phục tùng sự quản lý, thì có thể khởi dụng. Cho nên phàm nguyệt thượng Quan tinh, lý không có thế dụng Quan, như thế mang đến thủ dụng? nhưng có thể chỉ có một điểm Quan tinh, nhật chủ lại vượng, thì Quan tinh khinh mà nhật chủ suy yếu, vận hành Quan vượng là tốt nhất. Ví như phủ Quan Huyện, là chủ của Ta vậy. Kim chủ Nhân yếu vậy. Nên lấy Tài sinh, hành Quan vận để trợ giúp. Nếu hành Ấn vận, thì lại bị tiết nhược khí Quan tinh. Như Quan tinh phạm nặng, nhật chủ căn nhược, là khắc chế nhật can quá nặng, thì không viết Quan tinh, mà viết Thất Sát vậy. Thất Sát khắc thân, thì Thương quan Thực thần, lấy chế Quan Sát vậy. Đại để dụng nguyệt thượng Quan tinh, cần Quan vượng, Quan vượng thủ dụng mới tốt. cần Quan tinh có bệnh, đều là do bệnh và dược, Quan vượng Quan nhiều, hỉ Thực thần để chế khứ, Quan tinh khí nhược, hỉ Tài thần để sinh, vận Quan vượng để trợ giúp. Nếu Nhật can và Quan tinh cả hai được thuần hòa không có bệnh, đều là người bình thường vậy. Nếu Tuế Nhật Thời thượng là hư Quan, dụng 10 thì có 9 là quý. Nhưng Quan là gốc phù thân, phu nhân không có Quan, thì vượt quá ở ngoài phép tắc, cho nên Quan tinh không nên phá tổn, mà cũng không thể dụng vậy. Duy chỉ có Quan tinh quá nhược hay quá vượng, mới là có bệnh, là do bệnh và dược, vì thế có thể lấy làm dụng thần mà luận họa phúc vậy.

《 Kế Thiện Thiên 》nói: Hữu Quan hữu Ấn vô phá, tác Lang Miếu chi tài.

Nam viết: Trước thời hiện đại, nói có Quan có Ấn, là chỗ tạp khí tàng chứa Quan Ấn vậy, là khiên cưỡng không thể theo.
Hoặc viết: Có Quan có Ấn, mà nói trong mệnh con người có Quan Tinh Ấn thụ song toàn giả, lại không có vật hình xung phá hại, vật phá thương Quan Ấn quý khí, thì Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân, thì người đó nhất định là hiền tài ở Lang Miếu đại tài. Thuyết này cũng không thể nghe theo. Ất sinh tháng Tân, Đinh sinh tháng Hợi, Kỷ sinh tháng Dần, Tân Quý sinh tháng Tị, đều là Quan Ấn lưỡng toàn, sao nhất định đều ở tạp khí lưỡng toàn ư? Huống chi tạp khí hỉ xung phá, nói không có thể xung chăng?

Cổ ca nói:
Chính khí quan tinh nguyệt thượng thôi,
Vô trùng vô phá thủy vi kỳ.
Trung niên tuế vận lai tương trợ,
Tương tương công hầu tổng khả vi.

Chính khí Quan tinh suy nguyệt thượng,
Không xung không phá mới thành kỳ,
Trung niên tuế vận đến tương trợ,
Lấy tướng công hầu có thể thành.

Bổ túc: Chính khí Quan tinh, nói là dương thấy âm, âm thấy dương, như ngày Lục Giáp sinh tháng Dậu, ngày Lục Ất sinh tháng Thân Tị, ngày Lục Bính sinh tháng Tý, ngày Lục Đinh sinh tháng Hợi các loại, chính là tháng Chính Quan vậy. Trong trụ không xung hình phá hại, thì công danh hiển đạt, mới là đặc biệt, đoạn văn ở dưới nói: "Đăng khoa giáp đệ, quan tinh lâm vô phá chi cung" là vậy. Trung niên Tuế Vận gặp Tài tinh, Ấn thụ, trợ giúp thân vượng. Lại không có hình thương Sát tạp, thì có thể bước lên Thai Các.

Thientam
11-04-14, 21:35
Cổ ca nói:
"Quan ấn tương sinh lâm tuế vận,
Ngọc đường kim mã tác triêu thần"

Quan Ấn tương sinh Tuế vận đến,
Ngọc đường Kim Mã làm triều thần.

Vốn là vậy.

Ti Mã Quý chủ nói: Thời ngộ chân quan, tảo đăng kim tử chi phong. ( Mùa gặp chân Quan, sớm bước lên điện vàng)

Bổ túc: Giờ gặp chân Quan là nói ngôi Quan tinh chân chính, gặp ở mùa sinh, là đúng.
《 Uyên Nguyên 》chỗ nói mùa thổ vốn là Chính Quan cách vậy, nhất định sớm được địa vị là quan cao. Giải thích thời là lấy thời nguyệt lệnh, không phải thời là giờ sinh. Lại ở thời Chính Quan cách, loại ra mà khứ mất, thì không phải vậy. Như lấy chỗ này gặp thời là thời nguyệt lệnh, thì 《 Hỉ Kỵ Thiên 》nói: "Thiên quan thì ngộ, tạo vi luận chi thì", gặp Quan tinh ở ngôi sinh vượng, cũng có thể nói thời lệnh ư? Là khiên cưỡng không thể nghe theo.

Cường Đô Hiến tạo: Tân Mùi, Ất Mùi, Đinh Mùi, Tân Hợi.
Hợi trong có Nhâm thủy, Đinh hỏa được Chính Quan, thì gặp chân Quan là chủ giờ vậy, có chắc chắn vậy.

《 Thông Minh phú 》nói: Lộc đắc thiên thì, kỳ hoa sinh vu kim đái.

Bổ túc: Lộc đắc thiên thời chính là can giờ được Chính Quan, mà lại thấy nói đến Lộc, nhất định có Hoa kim đái mà vinh quý. Cùng đoạn văn ở trên là thống nhất mà có hơi khác chút ít. Giải thích nói lộc mã là Quan, thì nói là Thiên thời tức là can, thì không thực tế gần gũi. Viết thiên hạ, thì năm tháng cũng ở trong vậy, ở can can thời thì ẩn mà tối vậy.

Đô Ngự Sử tạo: Quý Mùi, Ất Mão, Bính Tý, Quý Tị.
Tạo này can giờ, lấy Quý thủy là Quan, mà thấy Lộc ở Tý, Quan Ấn tương sinh, thì thiên thời là can giờ, không thể phiếm ngôn mà nói thiên can cũng rõ ràng vậy.

Giáp Ngọ, Đinh Sửu, Nhâm Thìn, Ất Tị.
Nghi hoàng huyền lưu cảnh bát công phú mệnh, sinh hoạt ở Tị cách.

Nam viết:
Nhâm sinh sửu nhật thủy nguyên thâm,
Điệp điệp tài quan cộng củng lâm.
Thủy nhập tốn quan tầm quý cách,
Đào Chu chi phú dị hồ nhân.

Nhâm thủy sinh đến tháng Sửu, thủy ở căn nguyên, tứ trụ có Tài Quan Thất Sát thái vượng, tạo này vốn khó nghiên cứu. Cái được giờ Tị, thủy nhập Tốn cung, hợp khởi kim cục, cái Nhâm thủy có thể sinh Giáp Ất mộc vậy. Giáp Ất mộc không sinh Bính Đinh hỏa vậy. Mà lại tứ trụ thuần túy, cùng không có gián cách, trên dưới trợ thân, chính là lấy không sinh sôi Tị cách để xem. Do đó hành Đông Nam Tây Bắc đều tốt, nên là đệ nhất phú nhân của một thành phố vậy. Thọ cao Ngũ Phúc, được thời thượng có Canh kim Ấn tinh vậy.

Thientam
11-04-14, 21:35
Quý Mão, Giáp Tý, Ất Tị, Quý Mùi.
Nữ, Khắc chế Khắc tinh cách.

Nam viết:
Ất Mùi phùng canh tiện tác phu,
Thương canh bính hỏa khí doanh dư.
Hỏa thần vị thượng trọng tương kiến,
Kiến hỏa thương canh thọ tất tồ.

Ất mộc sinh ở tháng Tý, dụng Tị trong có Canh kim là phu tinh, thì Phu tinh được trường sinh ở Tị vậy. Do đó, giàu có vượt qua từng giai đoạn, gốc nhật chủ không nhược, có thể đảm nhận Phu tinh. Không hợp gặp vào vận Bính Dần, Phu tinh bị khắc chế quá nặng, tai họa do bệnh đau mà chết, là rõ ràng vậy.

Tân Sửu, Ất Mùi, Mậu Tuất, Canh Thân.
Nữ mệnh, bần mà yểu, kiến phu thụ chế cách.

Nam viết:
Phu tinh Tử túc lưỡng tinh kỳ,
Tối thị khoa miêu thực bất thành.
Khô mộc bất kham kim quá khắc,
Tảo hành kim vận thọ tiên khuynh.

Mậu sinh tháng Mùi, Ất mộc Phu tinh thấu xuất, thông tục nhà nho suy ra là Phu minh Tử tú, không biết là Ất mộc bị kim phá. Mùi có Ất mộc, bị Sửu có Tân kim phá, Phu tinh bị chế quá mức, tuy có Canh kim Tử tinh, Phu tinh đã chế, Tử sao mà có thể yên ổn để sinh chăng? Đại vận nhập Dậu, Ất mộc tổn thương nặng, tự vận mà chết vậy.

Nhâm Tuất, Tân Hợi, Giáp Tý, Bính Dần.
Quý mà sớm co đơn, kim khinh hỏa trọng.

Nam viết:
Phu minh Tử thấu thấu thiên can,
Vận nhập tây phương phúc tự hoàn.
Tối hận Nam phương kim thụ chế,
Bất kham kính phá vũ cô loan.

Giáp mộc sinh tháng Hợi, Phu Tử tinh thấu thiên can, nhật chủ có căn, hoan hỉ mà gánh vác vậy. Nói sao mà Phu tinh hơi nhược, vận nhập Tây phương tinh đết sinh vượng, Phu đăng khoa giáp, làm quan tới Ngự Sử. Vận nhập Nam phương, hỏa chế Tân Phu thái quá, nhập Mùi vận Phu chết mà ở góa vậy. Bính Ngọ, hỏa khí quá nặng, mang bệnh tật mà chết.

Đinh Tị, Mậu Thân, Đinh Tị, Ất Tị.
Nữ mệnh yểu, Quan khinh chế trọng.

Nam viết:
Đinh phùng mậu thổ thái trọng trọng,
Nhâm thủy trọng tao khắc chế hung.
Mậu vận bất nghi trọng kiến thổ,
Trung gian tảo dĩ thất hành tung.

Đinh hỏa, lấy Nhâm thủy là Phu vậy. Phu ở đâu mà Mậu thổ có 4 vị là nặng, khắc chế thái quá, tuy có Tị có Canh kim, cũng không thể sinh, đại vận nhập Tuất, lại thấy Mậu thổ, một thủy như cái muỗng nước, sao có công mà thắng cả quần thổ ư? Bệnh tật tê liệt mà chết, là do Đinh hỏa nhật chủ thân suy, thấy thổ tiết nhược hết tinh khí vậy.

Đinh Dậu, Nhâm Dần, Tân Tị, Bính Thân.
Nữ quý mệnh, khứ lưu Quan cách.

Nam viết:
Sát tinh đắc chế độc lưu Quan,
Quan Sát tương đình lưỡng đắc an.
Tối hỉ Nam phương quan vượng dã,
Thời sư mạc tác đẳng nhàn khán.

Tân kim sinh ở tháng Dần, vốn sợ Đinh hỏa là Sát, được Đinh Nhâm hợp hóa. Lại sợ Bính hỏa Quan tinh thái trọng, hỉ có Thân được Nhâm thủy, xung khứ thời thượng Bính hỏa, độc nhất tồn lại ngày Tị có Bính hỏa là Phu tinh. Gốc Phu tinh khí nhược, hỉ hành Giáp Ất Bính Đinh đất vượng phu. Phu làm quan Liêm Sứ, nên là quý vậy.

Thientam
11-04-14, 21:36
Giáp Thìn, Giáp Tuất, Quý Mùi, Nhâm Tuất.
Nữ cô đơn mà yểu, là thổ trọng mộc khinh cách.

Nam viết:
Quý sinh tuất nguyệt thổ trọng trọng,
Giáp chế kiền đầu phản hữu công.
Đại vận bất nghi trọng kiến thổ,
Tái hành thổ vận thọ niên chung.

Quý thủy sinh tháng Tuất, Phu ở đâu năm tháng ngày giờ đều có thổ vượng, thủy cường tiến khí, cũng không thể thắng quần thổ vậy. Sớm hành đất Nhâm Quý, thủy sinh mộc vượng khắc thổ. Mẫu phu gia đinh giàu có, nhưng tứ khố quá nhiều, sinh con bất lương. Vận nhập chữ Mùi, thổ thần quá trọng, nôn máu mà chết.

Bính Ngọ, Tân Sửu, Giáp Tuất, Kỷ Tị.

Nam viết:
Giáp mộc phùng tân bản tác phu,
Canh tân phu vượng mộc thần kết.
Khởi nghi tái nhập tây phương vận,
Cô khổ bần hàn thọ tảo tồ.

Nhật chủ Giáp Tuất, tứ trụ Quan Sát quá thịnh. Vốn là lấy Quan tinh làm phu vậy, Phu tinh thái vượng, biến thành Sát khắc thân vậy. Vận nhập Tây phương, gặp lại Quan Sát, dâm tiện mà khắc chết phu, là do bản thân vậy, mà theo người vậy. Vận nhập Thân vận, Sát trọng mà chết. Đời người buộc vào không biết, lấy sai lầm là do Bát Bại mà trách là không tốt, riêng không hiểu vốn đúng là không tốt vậy.

Quý Sửu, Kỷ Mùi, Mậu Thìn, Canh Thân.
Nữ mệnh bần yểu, nói là khinh chế trọng.

Nam viết:
Mậu thổ phân minh lại mộc phù,
Mộc tinh nhập khố lưỡng mô hồ.
Bất kham tái nhập tây phương vận,
Bần yêu ứng tri phú bẩm khô.

Mậu thổ sinh tháng Mùi, phu tinh nhập mộ, lại thêm chữ Sửu xung, Thìn trong tuy cũng có Ất mộc, Canh Thân kim gần kề khắc mộc, thì làm sao mà tốt được? Vận nhập Tây phương, là bần nữ, phu xuất ra đi xa, nhập Dậu hội kim, tổn thương Ất mộc phu tinh uống thuốc mà chết, là thích hợp vậy.

Canh Ngọ, Mậu Dần, Kỷ Dậu, Giáp Tý.
Trước phú sau cô bần, phu nhược bị chế cách.

Nam viết:
Kỷ sinh dần nguyệt chính sơ tuần,
Mộc nộn phùng kim thái tổn thần.
Vận tảo bắc phương phu tử tú,
Tây phương vận nhập thụ cô bần.

Kỷ sinh tháng Dần, Giáp mộc phu tinh đắc lộc, sao mà không tốt vậy? Phu ở đâu sinh ở sau Lập Xuân 1, 2 ngày, Giáp mộc còn non nhu nhược, niên thượng Canh kim lộ xuất, Dậu trong lại có Tân kim, là mộc cực suy vậy. Sớm hành Bính Tý, Ất Hợi, Giáp vận, suy phu được sinh. Vượng Phu sinh Tử, phú đầy đủ kim châu. Vừa vào Tây phương vận, Phu tinh thụ chế, Phu Tử đều chết, mà cô bần vậy.

Đinh Tị, Đinh Mùi, Ất Mùi, Canh Thìn.
Mệnh vợ quan Bố Chính, là hỏa trọng kim khinh.

Nam viết:
Ất phùng canh vượng vượng phu tinh,
Hỏa trọng thương kim lý tự minh.
Tự tín trụ trung phu tử tú,
Trọng trọng phong tặng khởi thường nhân.

Ất mộc sinh tháng Mùi, Phu Tử lưỡng tinh rõ thấu. Lại nhật chủ có căn, thì Phu Tử lưỡng tinh có thể đảm nhận vậy. Vận nhập Tây phương, tướng Phu tướng Tử, đều bước lên đường mâyộ. Vận nhập Bắc phương, thấy thủy phá hỏa tồn phu, hưởng thụ bao phong, là lẽ đương nhiên vậy.

Thientam
11-04-14, 21:39
Thời thượng nhất vị quý cách

Nam viết: Thời thượng nhất vị cách, là lấy trụ giờ có một điểm Sát tinh. Nếu nhật can sinh vượng, thời thượng ( lộ trên can giờ) có Sát, thì dụng là thời thượng có một chức vụ quý. Nếu thân vượng Sát suy, hỉ Sát vượng vận, phú quý nhiều con, Sát chính là Tử tinh vậy, thân vượng có thể đảm nhận con vậy, nếu nhật can nhược, thời thượng có Sát vượng, sợ hành Sát vượng cùng Tài vận, chính là nói thời phùng Thất Sát cản trở thân suy, thì chủ bần tiện mà không có con. Sát có thể khắc thân, không thể sinh con, chính là nói thời phùng Thất Sát là gốc không có con cái. Nếu thời thượng có Sát, cũng cần trước tiên là bố trí Sát tinh, hoặc là chế khứ, hoặc là hợp khứ, phương có thể dụng nguyệt thượng là Dụng thần. Như chưa từng khắc chế Sát này thì buộc lấy thời thượng Sát làm dụng thần, nguyệt thượng tuy có Ấn tinh Tài tinh cũng không thể dùng. Cho nên cách cách nên nói rõ kỹ càng, lấy Sát làm trọng. Người xưa lập ngôn, thuyết không nói rõ ràng.

Bổ sung: Thời thượng là Quan, tức là thời thượng có một địa vị là quý cách vậy. Như dương thấy can dương, âm thấy can âm, vốn là tương khắc vậy. Thấu xuất là tốt, chỉ có định một địa vị, tứ trụ không có chấp nhận gặp lại. Nếu trụ năm, tháng, ngày lại có nữa thì mệnh sẽ nhận lấy cả đời lao khổ cùng cực vậy. Bản thân cần phải tự vượng như Giáp Dần, tự sinh như Giáp Tý các loại, lại cần có chế phục, có chế thì là Thiên Quan, không có chế thì là Thất Sát. Lại cần có chế phục được trung hòa, một vị Thất Sát, thì không nên có 2-3 vị chế phục, gọi là thái quá. Tuy có học vấn, mà đường làm quan không có vinh hiển, chính là một lão nho bần hàn.

Do đó 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: "Thiên quan thì ngộ, chế thượng phục thái quá, nãi thị bần nho." Tứ trụ chế phục nhiều, cần có hành Thất Sát vượng vận, hoặc tam hợp đắc địa, có thể phát. Nếu gốc không có chế phục, cần có hành chế phục vận, có thể phát. Như gặp Sát vượng, không có chế thì họa phát sinh. Nguyên tắc Thiên Quan là nhân tính thì nặng kiên cường, cố chấp không khuất phục, kiêu ngạo, tự kỉ, dũng khí, hào hùng. Tháng Thiên Quan cũng vậy.

Lại bổ sung: Thực thần chế Sát, hóa Quỷ làm Quan, người thích hợp là quyền quý. Cái gọi là Thực ở trước, Sát ở sau, vốn bản thân là công danh lưỡng toàn. Dương nhận hợp Sát, biến hung thành cát, cũng có thể là quyền quý, cái gọi là Giáp lấy Ất muội gả cho Canh kim, hung thành cát vậy.

Lại bổ sung: Thực thần chế Sát, không cần gặp thêm Kiêu thì mang họa, do đó ngày Thực thần chế Sát phùng Kiêu không bần thì cũng yểu, Dương Nhận hợp Sát, không cần Tài nhiều, nam nhiều tất gặp họa, do đó viết: Tài sinh Sát là bè đảng, lúc nhỏ chết yểu.

Lại viết: Thực thần do có thể chế Sát, mà Thương Quan cũng có thể chế Sát, thường thì lực của Thương Quan không bằng Thực thần. Nói Dương Nhận do có thể hợp Sát mà Thương Quan cũng có thể hợp Sát, nhưng Thương Quan không như Dương Nhận thế lực rõ hơn. Dương nhật, Thương quan có thể chế Sát mà không có thể hợp Sát, như Giáp nhật thấy Đinh là Thương Quan, có thể chế Canh kim là Sát mà không có thể Canh của mình. Âm nhật, Thương quan không thể hợp Sát mà tự khắc chế Sát, như Ất nhật thấy Bính là Thương Quan khó hợp với Tân kim là Sát mà có thể tự chế Tân.

Thientam
11-04-14, 21:40
Nam viết: Sát chuyên nhất mà thuần phục là dùng có hai, là chế cùng hóa vậy. Chế Sát là, Thực thần vậy, gọi là chịu phục vào lực lượng vậy. Hóa sát là, Ấn thụ vậy. Gọi là chịu phục vào đức dộ vậy. Cùng với lấy lực lượng để chế không bằng lấy đức độ để hóa, cho nên 《 Thông Minh phú 》nói: "Chế sát bất như hóa sát cao." Chế - Hóa không thể cùng xác lập, có chế thì không có hóa, có hóa thì không có chế. Mà nếu thần hóa nhược, thấn chế cường, việc ban ơn không đủ thì hóa oán; hóa thần vượng, chế thần suy, thì sự tình không có lực để cấm chế.

Cổ ca nói: Thời thượng Thiên Quan một vị cường, bản thân kiện vượng phú phi thường. Năm, tháng đều không có Quan Tài Sát, đơn độc chỉ có ở giờ thì vị trí tốt tương đương.

Lại viết: Thời thổ một vị quý,vốn tàng ở trong chi. Nhật chủ cần phải cương cường, lợi danh ở phương có khí.

Bổ túc: Lời nói giờ có Thiên Quan, như Giáp gặp giờ Thân, Ất gặp giờ Dậu các loại, chính là tàng ở trong chi vậy, nhật chủ cường vượng, danh lợi nhất định vang dội, duy chỉ có kỵ thân nhược, trăm lực lượng cũng không thể thắng vậy.

Lại viết: Thời thượng Thiên Quan hỉ có Dương Nhận xung, thân cường chế phục lộc phong phù, hưng thịnh. Chính Quan nếu cùng đến làm hỗn tạp, thân nhược Tài sinh thì chủ khốn cùng.

Bổ túc: Thời thượng Thiên Quan, như Giáp nhật thấy can Canh, Ất nhật thấy can Tân các loại, không sợ xung, hình, Dương Nhận vậy. 《 Kế Thiện thiên 》 khứ nói: "Thời thượng quan hỉ Nhận hỉ xung " Nhật chủ sinh vượng, năm, tháng có Thực chế phục, gọi là Thực ở trước, Sát ở sau, công danh lưỡng toàn, tước lộc phong hậu, không hỉ Chính Quan đến hỗn tạp. Có huynh không nên có đệ, gia tăng thì thân thế càng suy nhược, Tài sinh Sát cùng bè đảng, nhất định chủ bần hàn khốn khổ, do đó không toại nguyện.

Lại viết: Thời thượng Thiên Quan một vị cường, nhật thần tự cường quý phi thường. Có Tài có Ấn thì nhiều tài lộc, chủ định cả đời lấy vinh hiển.
Bổ túc: Thời thượng Thiên Quan, chỉ có hỉ một vị, trong tứ trụ không cần thấy tiếp. Nhật chủ tự vượng, như Giáp Dần, Ất Mão, hoặc sinh ở ngày Dần Mão các loại, thì thân Sát lưỡng cường, phú quý hơn người, có tài thì Sát có gốc, có Ấn thì hóa Sát sinh thân, Tài Mã Quan Lộc, tự nhiên hưng vượng.

Lại viết: Thời gặp Thất Sát là Thiên Quan, có chế, thân cường xem là mệnh tốt. Chế quá hỉ gặp Sát vượng vận, ba phương đều đắc địa phát sao khó?
Bổ túc: Thời gặp Thất Sát, chính là Thời thượng Thiên Quan cách. Thân vượng có chế, như có một vị Sát, thì có một vị chế, chính là có Quý nhân. Văn chương chấn phát, coi như là mệnh tốt. Nếu có 2-3 vị cùng chế người quá thì là chế phục thái quá, gặp Sát vượng cùng tam hợp, vận đắc địa, thì phát đạt vậy, bừng bừng là không thể gặp. Tùy tiện chế phục thái quá mà lại không thể hành Sát vượng vận, tuy có vượt qua văn chương nhưng gặp cây Lý chặn lại, cuối cùng không thể hiển đạt.

Lại viết: Không có lý chế phục vận cần thấy, không sợ hình xung nhiều toàn là Sát. Nếu là thân suy duy chỉ có Sát vượng, định mệnh này là bần hàn.
Bổ túc: Thiên Quan có chế phục, không cần thấy tiếp ở vận. Nếu đang sinh trưởng mà gốc không có chế phục, hỉ hành vận chế phục, nguyệt thượng có Thiên Quan, sợ hình xung hợp lại nhiều Sát. Thời thượng Thiên Quan, không sợ tam hình, lục hại, Dương Nhận xungg phá, tụ hợp lại nhiều Sát, duy chỉ có hỉ thân cường Sát ít. Nếu là Sát trọng thân khinh, cuối cùng thân có tổn hại, tha hồ không yểu thọ, định là bần hàn.

Thientam
11-04-14, 21:40
Lại viết: Thời phùng Thất Sát gốc không có con cái, lý ngày là nói người đang có con ít thôi. Năm, tháng, giờ bên trong biết có chế, định là có con quý mà hiếm.
Bổ túc: Thời thượng Thiên Quan kiến Lộc, chủ khắc tử. Nếu năm, tháng có Thực thần chế phục, hoặc có Nhận hợp, không chỉ có con mà lại quý. Cho nên viết: Thời thượng Thiên quan hữu chế, vãn Tử anh kỳ.

《 Tứ Ngôn Độc Bộ 》nói: Thời Sát vô căn, Sát vượng thủ quý. Thời Sát Đa căn, Sát vượng bất lợi.
Bổ túc: Mà như Canh dụng Bính là Sát, sinh ở Dần, vượng ở Tị Ngọ, khố ở Tuất, chính là gốc của Sát vậy. 《 Cách giải 》 lấy là gốc, cũng vậy. Nếu can thời hư lộ, đã không có khí gốc lại không có Tài sinh, vận động Sát vượng, phú quý có thể được, như Tam Hợp đắc địa, đã nhiều thì cần có khí gốc, lại có Tài sinh, tái hành đất Sát vượng, trái lại là không lợi mà nhiều bần khổ.

Như: Ất Sửu, Ất Dậu, Tân Tị, Giáp Ngọ quê hương ở phương Đông, từ thiếu gia ban đầu là quý mệnh, kim hỏa tương đình, kim trọng hỏa khinh cách.
Nam viết: Tân kim tọa Dậu vượng thành hành, hỏa luyện Thu kim rất phi thường. Kim vượng, hỏa khinh cần có hỏa vận, thiếu niên sớm bẻ quế ở quê hương (Ở đời khoa cử, ai đỗ khoa hương gọi là thiềm cung chiết quế, bẻ quế cung trăng).
Tân sinh tháng Dậu, hỉ đắc Tị Dậu Sửu đầy đủ thành Kim cục, hỉ được thời thượng một điểm Đinh hỏa thần đắc Lộc, thời thượng một vị quý vậy. Là sáng tỏ. Đại để, kim khí toàn cục, kim khí hoàn toàn thắng, cho nên hành Ngọ vận, Giáp Ngọ lưu niên, thi trung Hương, liên tiếp bước lên Hoàng Giáp. Có người sinh năm Ất Mùi, thiếu mất một điểm kim, chỡ vận Ngọ không tốt, do đó lấy kim cần phải vượng vậy.

Như: Đinh Hợi, Nhâm Tý, Tân Tị, Đinh Dậu, là Lâm Thư Thượng Thư quý mệnh, là kim bạch thủy thanh, thủy chế hỏa quá cách.
Nam viết: Tân sinh tháng Tý, thủy kim thanh, lưu Sát xung Quan là cách cục rõ ràng. Kim lạnh thủy khinh, trọng sợ thủy, cần có hành hỏa vận để triển khai qua luân phiên.
Khứ Lưu phối hợp ung dung, dùng cách rõ ràng. Can năm là Thất Sát, có Nhâm thủy khứ mất. Can ngày trong chi chứa Bính Chính Quan, trong Hợi có Nhâm thủy năng khứ mất. Duy chỉ có tồn tại thời thượng Đinh hỏa, lấy thời thượng một vị quý cách. Nhưng hỏa ở tháng 11 (Tý) là lúc phong hàn, hỏa khí suy nhược là bệnh, sợ đất kim thủy, cần có Bính Đinh Mậu Kỷ vận, là chân quý nhân vậy. Sắp xếp Bính Đinh có thể trợ giúp cho Sát đang suy vậy, Mậu Kỷ có thể chế Nhâm Quý thủy vậy.

Thientam
11-04-14, 21:41
Phụ Quan Sát khứ lưu tạp cách

《 Hỉ Kỵ thiên 》nói: Loại có khứ Quan lưu Sát, thì cũng có khứ Sát lưu Quan.
Bổ túc: Việc này chính là Ngũ hành gặp chi tháng là Thiên Quan trong đoạn viết của hai câu 《 Cách Giải 》không rõ ràng, hơn thế chọn lựa kèm theo hoàn toàn luận bản thân ở Thiên Quan cách bên dưới.

《Tam Xa nhất kiển 》 luận thuyết nói về Quan Sát khứ lưu cũng chọn lựa kèm theo, là có thể khứ Quan lưu Sát, tức là lấy Thiên Quan luận. Có thể khứ Sát lưu Quan, tức là lấy Chính Quan luận. Phàm xem khứ Quan lưu Sát, khứ lưu Quan đều cần xem bốn hướng Tây trong trụ Quan Sát cái nào khinh, thiên can thấu xuất thì dễ khứ, chi tháng tàng thì khó nói, cần được tứ trụ khứ Quan Sát của vật nhiều mà có lực, phương được Tài. Vật khứ Quan Sát vốn là Thương Quan, Thực Thần vậy.

《Hỉ Kỵ thiên 》nói: Thần Sát tương bán, khinh trọng giác lượng.
《Kế Thiện thiên 》nói: Tuế Nguyệt Thời trung, đại phạ Quan Sát hỗn tạp.
《 Dịch Giám 》nói: Thiên Địa Nhân nguyên phân ngũ âm, âm dương diệu quyết thẩm kỳ chân. Khứ lưu thư phối tu tham thấu, phúc trung gian gian lý tự minh. ( ý nói là, Thiên Địa Nhân nguyên phân ra ngũ âm, âm dương diệu quyết đích thực là chân. Khứ lưu phối hợp thư thả cần xen vào Thấu, thành phúc ở lý rõ ràng )
《 Vạn Kim phú 》nói: Quan tinh sợ hành Thất Sát vận, Thất Sát do sợ Quan tinh lâm. Quan Sát hỗn tạp làm thọ yểu, khứ Sát lưu Sát tử tế tìm.
Lưu Sát khứ Sát không phùng sát, lưu Sát khứ Quan mạc phùng Quan. Quan Sát thụ thương nhân tất yểu, tràng nghi Tài cách định tiền trình.
《 Tam Xa 》nói: Hợp Quan tinh không làm quý, hợp Thất Sát không là hung. Sao vậy? Nhật kinh nói: Hợp Quan tinh, trong trụ có Nhàn thần hợp khứ Quan tinh, do đó không là hung.

Lại viết: Đại để, Hung thần có vật hợp khứ, thì phản hung thành cát. Cát thần có vật hợp khứ, thì phản cát thành hung. Hung thần: Thất Sát, Dương Nhận, Kiếp Tài, Thiên Ấn, Kiêu Thần, Thương Quan là các thần này vậy. Cát, Hung, Thần, Sát, lại phải xem cách cục, hỉ thần nào, kỵ thần nào, không thể chấp nhất mà luận.

《 Tập thuyết 》nói: Tham hợp Vong Sát, tham hợp vong Quan. Như người sinh ngày Lục Quý, can đầu thấu lộ chữ Kỷ, chính là Quý gia Thất Sát. Như tiếp tục gặp chữ Giáp, chính là Kỷ gia hợp thần, thì hợp khứ chữ Kỷ, không còn là Sát nữa, gọi là Tham hợp vong Sát, ngày âm lấy Thương Quan mà hợp vậy. Lại như người sinh ngày Lục Nhâm, can đầu xuất ra chữ Kỷ là Quan tinh, như thấy chữ Giáp thấu xuất, chính là Kỷ gia bị hợp khứ chữ Kỷ, không còn là Quan tinh nữa, gọi là Tham hợp vong Quan, ngày dương lấy Thực thần mà hợp giới.

Lại nói: Nhâm thủy gặp lại giờ dương thổ, lòng mang thù hận tức giận khởi không phải tranh giành. Đột nhiên Quý thủy đến cứu giúp, hợp ở hung ác, ngoan cố không lấy uy quyền.
Bổ túc: Giờ dương thủy gặp loại Mậu thổ, tính tình như hổ, cấp táo như phong, thường trong lóng khí hay tức giận, thích đấu tranh, hay gay hấn, đột nhiên gặp em gái là Quý thủy, hoàn toàn là Sát Mậu thổ, thì Sát ngoan cố này tự tiêu tan, mà giảm bớt uy bạo. Như không có Quý muội đến hợp để cứu thì cương bạo không kể người thân, không khỏi thành kẻ giết người mà là kẻ giết nhà tù, chẳng phải có đau buồn, tư tưởng hãm hại cũng quá thay.

Thientam
11-04-14, 21:42
Lại viết: Nhâm gặp Kỷ thổ muốn làm Quan, thình lình bị dương thanh khởi tụng bắt đầu. Mê hoặc hợp khứ sinh chân quý, đến nỗi lệnh gặp khó khăn hàng vạn hàng nghìn cách.
Việc này nói đến Tham hợp vong Quan làm ví dụ vậy, cũng che đậy lấy Thực thần mà hợp Quan.

Bổ túc: Dương thanh là Giáp mộc vậy, Chân quý là Kỷ thổ là Quan vậy. Cái Nói Nhâm thủy lấy Kỷ thổ là Quan quý, sợ Thương sợ hợp, tùy tiện bị Giáp mộc hợp Quan tinh mà tổn thương thì là Tham hợp vong Quan. Đem thấy ở trung tín làm kẻ thù đấu tranh mà mợ đầu việc tranh cải kiện tụng, chân quý khứ mất mà làm hạ tiện, mà hàng vạn cách chịu nhục, do đó gọi Hợp Quan tinh không thành quý vậy.

Lại viết: Quan Sát Tương liên chỉ luận sao, can tháng có Sát, can năm sao Sát mà can tháng có Quan, gọi là Tương Liên, lập lấy Sát luận. Can năm là Quan, can giờ là Sát, can năm là Sát, can giờ là Quan, vốn là mỗi cái phân ra, chính là hỗn tạp. Thực thần phạm nặng, như Giáp thấy hai Bính, tam hợp là Thương Quan, thấy nhiều Quan tinh, như Giáp thấy hai Tân, địa chi thấy nặng, chỉ lấy Sát luận. Sát ở can, Quan ở chi, vốn là lộ Sát tàng Quan. Chính là lấy Sát nói, Quan ở can, Sát ở chi, vốn là lộ Quan tàng Sát. Chỉ lấy Quan luận. Thân thế cường kiện, thì lực có thể thắng Quan Sát này, nhiều nói là thanh quý, nếu thân nhược vô khí, Quan Sát thấy nặng thì tai họa ập đến, bản thân vốn là một điểm đặc biệt vậy.

Thientam
11-04-14, 21:43
Quyển nhị

Nguyệt chi Chính Tài cách, phụ khí tòng Tài cách

Nam viết: Chính Tài là gì? Tài là vật của tính mệnh Ta, người thấy không hẳn là không muốn. Nếu thân chủ có khí thì có thể đảm nhận, như vàng bạc châu báu, như điền sản, đều là vật dụng của Ta vậy. Thân nhược thì không thể đảm nhận, như cường đạo ăn trộm tài vật con người, sự việc phát sinh thì tài vật sẽ làm hại mệnh vậy. Sách nói: "Phùng Tài hỉ Sát nhi ngộ Sát, thập hữu cửu quý." ( Tức là: Gặp Tài mà hỉ Sát lại gặp Sát, thì mười phần có chín phần quý), kết quả cho dù hơn mà không cần phải nói. Như người dụng Tài, nhật can vượng, Tỉ kiên Huynh Đệ nhiều thì chỗ này là Tỉ Kiếp, lại thêm tranh đoạt Tài của ta vậy, thì hỉ có Quan Sát để khứ bớt Tỉ Kiếp, mà Tài tinh được tồn tại. Như thân nhược Tài nhiều, lại xuất hiện Quan Sát đến khắc thân, thì tính mệnh của bản thân tạm thời không thể bảo vệ thì làm sao có thể được yên ổn mà hưởng Tài? Tài, Quan tinh nhiều mà thân chủ vượng, thì hỉ Thực thần Thương quan để lấy sinh khởi Tài thần. Như thân chủ nhược, Tài tinh nhiều thì hỉ Huynh Đệ Tỉ Kiếp để phân chia, có phụ mẫu Ấn vận để trợ giúp. Phàm dụng Thiên Tài thì chủ gặp nhiều phú quý, dụng Chính Tài thì còn nhiều bất cập. Cái âm khắc thì rõ ràng là thích thêm, còn dương khắc dương mà Tài thần có khí thì dụng ngày giờ có Thiên Tài lại càng tốt. Chỗ này cần thử nghiệm nhiều, cho nên dùng Thiên Tài nhiều là thượng cách; cũng có khi Tài thần công hiệu gần gũi, nếu có Tỉ kiên ngăn cách, không thuần hòa thì cũng không tốt, chỗ này gắn bó với ngũ hành chính lý.

Khí mệnh tòng Tài cách, chỗ này không luận âm dương mà nhật chủ cũng tòng vậy. Tài chính là vợ của Ta, thân chủ không có lực, không thể đảm nhận Tài vậy, chỉ được bỏ mệnh mà tòng theo. Như bản thân con người không có chủ, chỉ được theo về nhà vợ mà sẽ sinh Tài tinh, mà cũng sợ thân nhập Tài, chính là đất Ấn sinh, tức là giống khí mệnh tòng Sát mà luận, lý lẽ xuất phát là thỏa đáng.

《 Kế Thiện thiên 》nói: Nhất thế an nhiên, Tài mệnh hữu khí.
Bổ túc: Đoạn này cũng có hai thuyết: Hoặc là Nhật Tài mệnh khí, là Tài tinh cùng thân mệnh đủ khí; Hoặc là Nhật thuần nói là Tài nguyệt ở đất có khí sinh vượng, nhiều kinh văn nói là chữ mệnh nối liền với chữ Tài, người thời nay cũng nói người đời thích mệnh tài là vậy. Sau khi thuyết phục mạnh mẽ.
Nghiên cứu 《Tiệp Huyền Diệu khối 》nói: "Quan chính là gốc phù thân, Tài là gốc dưỡng mệnh" thì mệnh là thân mệnh vậy. So với chú thích cũ cũng phân chia Tài Mệnh ra làm hai, nhưng cách chọn từ ngữ không rõ ràng, cho nên việc bày giải còn nhiều nông cạn, nghi ngờ. Như Tài vượng có khí, mà thân nhược, nhất quyết không có thể hưởng an vui suốt cả đời. Cho nên ở trên nói: "Tài đa thân vượng, tắc đa xưng ý."
Cổ ca lại nói: “Tắc tài mệnh đương vi quý, nhược thị thân suy họa tiện lâm”. Cho nên chỗ này thấy rõ là Tài và Thân mệnh là hai chữ khác nhau.

Thientam
11-04-14, 21:43
《Cô Chá thiên 》nói: Chính Tài có khí hỉ cường, dương lấy âm Tài, âm lấy dương Tài, thân nhược Tài vượng thì thành họa, thân cường Tài vượng lợi danh lâu dài. Chỉ lo Quan Quỷ sợ Không Vong, Ấn thụ tương sinh là vinh quý hưng thịnh. Hưu tù thì thiếu niên không như ý, lão đến vượng vận tốt thì hưng thịnh.
Bổ túc: Như Giáp sinh tháng Ngọ, Ngọ trong có Kỷ thổ, là Chính Tài của Giáp mộc và có Đinh hỏa sinh. Ất sinh tháng Tị, Tị trong có Mậu thổ, là Chính Tài của Ất, và Bính hỏa sinh cho, vốn là thân cường, Chính Tài có khí là tốt nhất vậy. Giáp sinh tháng Ngọ, Bính sinh tháng Dậu, Mậu sinh tháng Tý, Canh sinh tháng Mão, Nhâm sinh tháng Ngọ, chi âm mà can dương là Chính Tài vậy.
Ất sinh tháng Tị, Đinh sinh tháng Thân, Kỷ sinh tháng Hợi, Tân sinh tháng Dần, Quý sinh tháng Tị, lấy chi dương phối can âm là Chính Tài vậy.
Như thân ở đất hưu tù tử bại, thiên nguyên quá nhược, trong trụ can chi trọng nặng, có tam hợp Tài nhiều, không phải là kẻ vô ích, trái lại sinh Sát sinh nguy tai, là nói chỉ sợ gốc của nhật can tự nhược, là Tài nhiều sinh Sát gặp phải thân suy là vậy. Như thân ở đất lâm quan, vượng, hoặc bên trong có sinh phù, và tam hợp Tài quá vượng, thì phú quý lợi danh thanh hiển, còn chỗ Tài nhiều thì bản thân phải tự lượng sức mà làm,thì hãy tự toan tính thóc lúa cho ta là vậy. Sợ Quan quỷ, cái Quan quỷ chính là kẻ cướp lấy khí Tài mà khắc bản thân ta, vốn là đáng lo buồn, cướp khí Chính Tài nhiều thì bản thân tự nhu nhược vậy. Sợ Không Vong, chính là Lục Giáp Không Vong, như trong tuần Giáp Tý thì lấy Tuất Hợi là Không Vong. Tài lạc vào Không Vong, nhất định nghèo nàn, túng quẫn, không tụ tài được là đáng sợ. Không Vong làm hại nhất đối với sinh mệnh con người, dù cho có tích lũy tài của nhiều thì cũng nghèo mà suy vậy. Ấn thụ tương sinh vinh quý hưng thịnh, là nói Tài nhiều thân nhược, hoặc có mang Quan quỷ mà có Ấn thụ tương sinh thì tự nhiên phú quý vinh hưng thịnh.
《 Độc Bộ 》nói: "Tiên Tài hậu Ấn, phản thành kỳ phúc."
《 Thông Minh phú 》nói: "Tài phùng Ấn trợ, tương như thừa tứ mã chi xa." Chính là chỗ này vậy.
Còn hai câu Hưu Tù bạc niên, chỗ này là nói Tứ trụ nếu Tài đa thân nhược mà tuổi còn trẻ ở đất hưu tù thì cũng không như ý, không chỉ không phát phúc, mà cũng gặp họa hoạn cả trăm điều. Hoặc là năm gặp đến đất Ấn thụ, hoặc tam hợp trợ vượng cho Tài khinh, thì hỉ Tài Quan vượng vận, kỵ đất Thân vượng Tỉ Kiếp, cho nên cần phải biết tính toán khinh trọng . Cũng có thân nhược mà toàn là khí khắc căn gốc, cục đầy Tài Sát thì là khí mệnh tòng theo, hành đến đất Tài Quan vượng, có đại phát, không thể lấy Thân nhược Tài Đa mà đoán.

Thientam
11-04-14, 21:44
《Tứ ngôn Độc bộ 》nói:
Âm hỏa tháng Dậu,
Khí mệnh thành Tài.
Bắc hành nhập cách,
Nam đến thành tai.
Nêu ra một đoạn này, lấy ví dụ thập can Tài mà đoán.
Nam viết: Đinh hỏa trường sinh ở Dậu, là Thiên Tài đắc vị, trong trụ có ba kim, Tài nhiều mà khí gốc không có, thì là khí mệnh thành cách. Vận hành phương Nhâm Quý Hợi Tý là hành phương Bắc là trở thành nhiều phú quý, không thể không tòng theo Tài, nếu trái lại là mang tai họa. Chỗ hội gặp khí gốc, làm cho mệnh không có tình là vậy. Chỗ này xem một câu Nhập cách thì tòng Tài lại là kỵ Sát, càng không thể chấp nê vậy.

Tân Tị, Đinh Dậu, Bính Dần, Kỷ Sửu. Đây là phú mệnh, thân vượng có thể gánh nổi Tài.
Nam viết:
Bính sinh tháng gốc hỏa thần nhỏ,
Tài vượng ngại là hỏa khí thiếu.
Hỏa thiếu kim nhiều cần hỏa địa,
Bổng nhiên phát giàu nhờ đất vượng.
Bính hỏa tuy tử ở Dậu, được viêm Lộc ở Tị, Bính hỏa được sinh ở Dần, lại hỉ có Đinh hỏa Dương Nhận thấu thiên can tương phù vậy. Nhưng mà kim khí hoàn toàn thắng, hỏa khí hoàn toàn khinh, hỉ vận hành đến phương để bổ túc cho hỏa, là nơi tài phát kể ra hàng vạn đồng. Có Nhật can là Bính Tý thì chỉ lấy Tài đa thân nhược, tuy hành đến mà cũng bần vậy, là do gốc không có Dần cung hỏa vậy.

Mậu Dần, Ất Sửu, Bính Thân, Canh Dần. Vân Nam phú mệnh, thân vượng dụng Tài cách.
Nam viết:
Bính hỏa đề cương Nhị Dương hướng,
Hỉ đến Tài khố thêm thân cường.
Bính gặp thân vượng lại gặp Tài,
Nhật chân kim hỏa gấp bội thường.
Mặc dù không là Bính hỏa sinh mùa Hạ mà kim thì trùng điệp, mệnh giàu có , phàm Bính Đinh vượng thấy kim, nhưng có thể lý luận ở chỗ này là đơn độc có Bính Đinh thấy kim, là chân Tài của trời đất, nhật can gặp thì 10 có 9 phần là giàu có. Tạo này hỉ có trụ năm, trụ giờ Bính hỏa được trường sinh ở Dần, lại có Ất mộc kề thân, thì thành thân vượng. Mà Nhị Dương tiến khí, lại hỉ có Canh kim thấu xuất, Tài thần rõ ràng, sao không giàu? tháng Tị Ngọ Mùi, hỏa trái lại sợ nhược, hỉ hỏa vượng, tháng Tý Sửu Hợi vượng vậy. Chỗ này thấy ngoài chính lý vậy.
Giáp Ất sinh Dần Mão Thìn, Bính Đinh sinh Tị Ngọ Mùi, Canh Tân sinh Thân Dậu Tuất, Nhâm Quý sinh Hợi Tý Sửu, đều cần thân vượng. Sơ lược hỉ thấy 1, 2 điểm khắc thần, khắc nhiều thì nhiều là bần yểu, cho nên chỗ này thấy ngoài lý lẽ, cần thử nghiệm nhiều lần.

Thientam
11-04-14, 21:44
Bính Dần, Giáp Ngọ, Đinh Dậu, Ất Tị. Tân Bình Ngô phú mệnh, hỏa sinh trưởng mùa Hạ, kim trùng điệp cách.
Nam viết:
Đinh sinh tháng năm hỏa tuy viêm,
Hỏa vượng kim nhiều phú tự nhiên.
Hỏa nhiều kim ít là có bệnh,
Vận hành kim thủy phát rầm vang.
Đinh hỏa lộc vượng ở năm, năm tháng có Tỉ hộ hỏa thần thái vượng, cho nên tổ tiên tiền của ít vậy. Được Tị Dậu kết thành kim Tài cục, thân vượng dụng Tài, Bính Đinh hỏa vượng thấy Canh Tân, chính là chân Tài của trời đất. Phàm Bính Đinh nhược trái lại là không phải, càng thử nghiệm thì càng ứng. Nhưng mà dụng Canh Tân kim Tài tinh thấy Tý vận, do kim tử ở Tý vậy. Tạo này đại vận nhập Dậu Tài khinh, hỉ hành vận Tài vượng, tiếng tăm rền vang, nhập vào vận Tý nói tử hình, giàu có thì trờ lại như cũ vậy.

Giáp Thìn, Bính Tý, Kỷ Mùi, Mậu Thìn. Lâm Trung chỗ quý mệnh, thổ trọng mộc khinh cách.
Nam viết:
Nhật chủ can cường Thất Sát khinh,
Tài đến sinh Sát dưỡng tinh thần.
Sát tàng Quan lộ là chân quý,
Thiếu niên sớm đăng cao Hổ bảng.
Nhật can Kỷ Mùi, thân tọa mộc khố, lại thêm trụ năm, giờ trọng nặng thấy thổ, nhưng Kỷ thổ lại sinh ở tháng nhược, Tỉ nhiều cũng có thể hóa nhược thành vượng cho nên có thể dụng Tài, hỉ Tài tinh thành cục, mà thành Tài khố. Nhưng Mậu Kỷ thổ nhiều đến làm tổn Tài thần là bệnh, lại được tứ trụ có Giáp Ất là mộc, đến ám phá Mậu Kỷ là dược. Nhưng tháng Tý làm mộc khô, hỉ vận Đông phương vượng trợ giúp khí mộc bị suy, lấy phá Kỷ thổ vậy. Thiếu niên đậu khoa đệ là đương nhiên. Nhưng gốc mộc vượng thì sợ Đông phương. Mệnh này thì gốc mộc khinh, mà hỉ vượng vận vậy.

Đinh Mão, Ất Tị, Bính Dần, Đinh Dậu. Phu nhân quý mệnh, hỏa trường sinh ở dưới nghiêng về kim trùng điệp.
Nam viết:
Bính hỏa thân cường Tài cũng cường,
Vượng phu càng hỉ nhập Tài hương.
Tài thần thành cục gốc phong hậu,
Tử tú phu vinh lớn dị thường.
Bính hỏa thân vượng gặp Tài, không phải chỉ có nam nhân là phú quý, nữ mệnh gặp cũng chủ Tử quý, Phu vinh. Cái được Dậu là chân Tài thành cục, gốc Tài rất nhẹ, Tây phương bổ túc để khởi thần, chồng là quan Thái Thú, vàng bạc châu báu đầy nhà, chẳng phải thích hợp ư?

Thientam
11-04-14, 21:47
Nhâm Thìn, Mậu Thân, Quý Mão, Bính Thìn. Vợ Tham chính, tài vượng sinh cách.
Nam viết:
Sinh thân Mậu thổ thấu phu tinh,
Tài vượng sinh phu cách gốc rõ.
Vận nhập Nam phương phu vượng địa,
Giúp phu giúp Tử bước lộ trình.
Quý thủy hợp Mậu thành hỏa cục, thân chủ không nhu nhược, phu tinh khí nhẹ, chính là phương có bệnh thành quý vậy. Hành Nam phương Tài vận vượng phu, Phu Tử đều quý hiển, chẳng lẽ tình cờ ư?

Tân Dậu, Canh Tý, Mậu Tý, Quý Hợi. Phú nữ mệnh, phu khinh hành phu vượng vận cách.
Nam viết:
Mậu đến Tý nhật tọa Tài tinh,
Tối thượng phu tinh cách cục rõ.
Tối hỉ vận hành phu vượng địa,
Giúp hưng phu tử có thanh danh.
Mậu Tý nhật chủ, là Tài tinh quá nhiều vậy. Nếu vượng thì xem nhược, Giáp mộc là phu tinh bên trong cực suy, lại thêm Canh Tân kim làm tổn hại Giáp, vận nhập Đông phương trợ Phu sinh Tử mà phát đạt. Nhưng thân chủ nhược, dù cả đời phát tài mà thân thường là có tật bệnh vậy. Cho nên Tài Quan quá vượng, nhật chủ quá nhược, cha mẹ thì rất nghèo, gia đình chồng thì rất hưng thịnh, nhập Tị vận Canh khắc khứ phu tinh mà chết.

Thientam
11-04-14, 21:48
Thương Quan, Thực thần cách

Nam viết: Thương Quan, Thực thần, một âm một dương. Thương Quan âm thấy âm, Dương thấy dương. Thực thần đều là vật cướp khí của Ta vậy. Sách Tử Bình nói về thần Thương Thực, sách tuy quá nhiều nhưng chỗ nói đều là không gần gũi.
Sao gọi là Thương Quan vậy? Bản thân con người lấy Quan tinh là ông quan quản lý bản thân, như quan huyện phủ các loại vậy. Động tác vào ra đều cần có tuân thủ theo luật lệ, không thể làm điều xằng bậy được.

Trước mắt quy tắc xem Thương Quan còn gọi là Thương sát kỳ quan, không phục sự cai quản của Quan, như thương sát Quan trên vậy, thì thành là dân cường tặc sống ngoài vòng pháp luật. Như cách này, sẽ không thấy Quan tinh, như lại thấy Quan tinh, liền đến đánh quan phủ huyện, lại tiếp tục khứ mất Quan phủ huyện, thì Quan đồng ý tha cho anh ư? Sách hiện nay chỉ nói: "Thương quan kiến quan. Vi họa bách đoan." Mà không nói thẳng ra lý lẽ.

Lại viết: Thương Quan thương tẫn là tốt nhất, lại càng sợ thương tổn nhiều thì trái lại là không phù hợp. Chỗ này tuy là lý do chính 《 Chí Thông Huyền 》 nói: "Thương quan cách, tứ trụ đều không thấy Quan tinh, vốn là nhập cách, nhưng mà thanh thuần lại không có bệnh" có thể xem thêm thuyết về Bệnh Dược. Tuy nhiên, nhật can có khí, nếu tứ trụ trọng nặng Thương Quan, cướp lấy hết tinh khí của Ta, như người chịu nhiều lần phải uống thuốc bổ, thì thân do nóng mà tiết, đả thương nguyên khí, thì làm sao mà cứu. Như chỗ này là nhược, thì dụng thuốc phụ tử, phương có thể cứu được tính mệnh. Nếu bát tự trùng điệp Thương Quan, Thực thần, gốc nhật chủ lại càng suy nhược, cần cấp tốc hành Ấn vận để phá kỳ Thương Quan, hành Tài vận để tư nhuận cho nhật chủ, chỗ này là mệnh có bệnh, được dược cứu cũng là nhiều phú quý. Lại như nhật chủ sinh vượng, Tỉ kiên quá nhiều, Tài thần suy nhược, thì Thương quan lấy Tài làm dụng thần vậy. Chính là lại thấy Quan tinh để chế Tỉ Kiếp, mà lấy sự tồn tại cho Tài tinh vậy. Sao lại hỉ thấy Quan, trước sau tiến thoái mà nói vậy. Bởi vì bản thân ta nếu Huynh Đệ quá nhiều, nhưng Quan tinh lại đến chế huynh đệ ta, lấy tồn tại Tài tinh của ta, chỗ này Quan tinh là phúc cho Ta, không đến gây họa cho Ta vậy.

Cho nên sách nói:
"Mộc hỏa thấy Quan Quan cần vượng,
Kim Mộc thương hỉ lại thấy Quan."
Người lập ra lời nói này trái lại làm cho người ta càng nghi ngờ, hoàn toàn không nói rõ thuyết tiến thóai, chẳng phải là cố chấp hay sao? Sao vậy? Cái Mộc Hỏa Thương Quan cách, giống như Giáp Ất mộc sinh ở tháng Dần, thấy hỏa là Thương Quan, hỏa này là hư hỏa, ánh sáng chưa mạnh, mà khí mộc cứng cần đẽo gọt, tuy thấy hỏa mà tính chất mộc là chân thực không bị đốt cháy. Lại nếu mộc vượng, thì hỉ Canh kim Quan tinh vượng tướng, để khắc chế mộc vậy. Thì kim mộc có mặt mà nói là vật dụng, thì mộc hỏa thấy Quan Quan cần phải vượng, là lý lẽ phù hợp vậy. Nếu Giáp Ất mộc đến sinh tháng Tị Ngọ, viêm hỏa cướp khí Giáp Ất mộc, thì gọi là Thương Quan chân chính vậy. Gốc lại tiết mộc tinh anh quá nhiều, lại thêm Canh Tân Quan Sát, chế khắc nhật chủ, chỗ này thì mộc hỏa Thương Quan cũng sợ thấy Quan vậy. Nếu nhật chủ vượng, Thương Quan nhiều, thấy Quan Sát trái lại là quyền sát thuộc về ta, cũng nhiều phú quý.

Thientam
11-04-14, 21:48
Kim thủy Thương Quan hỉ thấy Quan là sao vậy? Nếu Canh Tân là nhật chủ, sinh ở tháng Tý, hoặc tháng Hợi Sửu, thủy khí trọng nặng, tiết nhược Canh Tân kim khí, thì gọi là Kim hàn Thủy lạnh, thì hỉ Bính Đinh hỏa Quan tinh, lấy kỳ làm ấm khí kim vậy. Nếu khí thủy không nhiều, khí kim không vượng, cũng sợ Quan tinh vậy.
Lại nói: "Thổ kim quan khứ phản thành quan." Cần khứ Quan khó lấy, là thuyết gần với lý lẽ."Duy chỉ có thủy mộc Thương Quan cách, Tài Quan đều thấy thì là vui vẽ" . Chỗ này thì cần thấy Tài vậy, thấy Quan thì không thích hợp vậy. Ở dưới chữ Quan này, trái lại làm cho người ta thêm nghi hoặc.
Song, Thương Quan cách có chân Thương Quan, có giả Thương Quan. Như chân Thương Quan là ngày sinh Giáp Ất ở tháng Tị Ngọ Mùi, chân hỏa là Thương Quan dụng sự, ngày Giáp Ất bị hỏa đốt kỳ tinh anh, nếu hỏa nhiều mà tính mộc bị mất, thì hỉ Bắc phương thủy vận, để phá kỳ Thương Quan, phù trợ cho mộc khí, như chỉ có 1, 2 điểm hỏa cũng sợ Ấn lấy phá, cho nên nói Phá liễu thương quan tổn thọ nguyên, như Giáp Ất mộc sinh tháng Dần Mão, thấy hỏa là giả Thương Quan vì ở trên hỏa khí rực sáng, thì dụng hư hỏa là dụng thần, chính gọi là mộc có thể sinh hỏa thì mộc vinh thịnh, là mộc hỏa thông minh phò tá Miếu Lang. Lại nói Giả Thương Quan hành vận Thương Quan là phát, nếu hành Nam phương hỏa vận. Động kỳ hỏa hư mà mộc khí cứng cần đẽo gọt, lại được hỏa để tiết kỳ tinh anh, kim chủ phú quý. Nếu hành vận Bắc phương, thì phá kỳ hỏa thịnh, chính gọi là Giả Thương Quan thì Ấn vận sẽ chết, chân Thương Quan Ấn vận nhất định chết, chân Thương Quan hành vận Thương Quan nhất định diệt. Như Giáp Ất mộc sinh ở tháng Tị Mùi, Thương Quan tiết khí quá nặng, lại hành vận đến Dần Ngọ Tuất hỏa, tiết mộc tinh anh quá nặng, sao yên ổn mà không chết ư? Sách nói: "Mộc tác phi hôi, nam kỷ thọ yêu." ( Mộc thành tro bụi, mệnh nam yểu thọ)
Nhưng mà người có Thương Quan cách thì có tính kiêu ngạo, là sao vậy? Tử Bình nói, không có lý luận. Cái người dụng Quan, thì Quan là cai quản Ta. Ta thì không sợ thì là Thương, là chịu buông thả Ta là không phải, chẳng phải là kiêu ngạo mà lạm quyền ư? Lại nhiều thông minh là sao vậy? Cái khí phá nhật chủ, tiết kỳ tinh anh, vốn là anh hoa phát hết ra bên ngoài vậy, cho nên chủ nhiều thông minh, nếu nhật can vượng, tinh anh hỉ tiết, thì là lúc niên thiếu sẽ là Khanh là Tướng. Nếu nhật can nhược, tiết khí quá nhiều thì đa số là thủ cựu, sai lầm, là hàn nho. Cái chỗ tiết tinh anh cũng phải tốt vậy. Nếu là nam thì lấy Quan tinh là con cái, thấy Thương quan để phá thì đa số là khắc con cái, lý này dễ hiểu. Nếu thấy Tài ám sinh cho Quan thì lại có con vậy, Thực thần cách cũng nhiều loại này. Nếu thấy 2,3 điểm thì hỗn tạp mà xem Thương Quan, nếu đơn độc thấy một điểm Thực thần, thì thành Thực thần sinh Tài cách, cũng cần nhật can vượng, Thực thần sinh Tài tinh thì kỵ nhất là có Thiên Ấn vì sẽ trở thành Kiêu thần đoạt Thực, nếu Thực thần nhiều thì không sợ vậy. Thứ nhất thì cùng chân Thương Quan giống nhau là không sợ Ấn vận vậy. Nếu chỉ có một điểm, lại như Thực thần khí nhược, vừa lại trong trụ có Quan Sát, nguyên chỗ này là dựa vào Thực thần chế Sát, trước mắt chỗ này gặp Kiêu Ấn phá khứ Thực thần không có thể đến để chế Sát, thì trái lại đến khắc thân, chủ đa số là yểu thọ mà bần hàn. Thương Quan cách đa số sợ nhập mộ vận, cho nên nói là gặp tai họa nặng, lý lẽ cũng không suy ra rõ ràng mà lập thuyết. Cái Thương Quan cách, chính là Thương sát Quan trường là người thì cũng giống như vậy, dẫn đến là vào lao ngục, nhất định nhiều khổ sở, thuyết này cũng không thật gần với lý lẽ vậy. Nhưng mà, gốc chân Thương Quan quá nhiều là tiết khí thái quá, nếu hành Thương Quan đến đất mộ địa, lại thêm một điểm Thương Quan càng tiết tinh thần nhiều mà chết, cũng không phải gặp mộ là hại vậy. Lại như Thương Quan khí nhẹ, nhật can vượng, thì hỉ Thương Quan tiết khí tinh thần, tiếp tục hành đến Thương Quan mộ địa, lại thêm một điểm để tiết kỳ tinh anh, nhập mộ vận trái lại là gặp nhiều phú quý, cũng không có thể lấy nhập mộ làm thành thuyết vậy, nhưng mà cần lấy Thương Quan khinh trọng mà luận, là lý lẽ thâm sâu vậy.

Thientam
11-04-14, 21:49
Bổ túc: Thương Quan là cái Ta sinh ra vậy. Dương thấy âm, như Giáp sinh tháng Ngọ, Mậu sinh tháng Dậu các loại; âm thấy dương, như Ất sinh tháng Tị, Kỷ sinh tháng Thân các loại. Cũng có tên là Đạo khí, hỉ thân vượng, hỉ Ấn thụ, hỉ Tài tinh, hỉ Thương quan, kỵ thân nhược, kỵ không có Tài, kỵ Quan tinh, tuế vận cũng giống như vậy. Như Giáp sinh tháng Ngọ, can đầu lại thấy Đinh hỏa trọng nặng, trong trụ có Quan tinh hiển lộ, tuế vận cũng thấy, gọi là thân nhược gặp Quan, thương không hết thì nói là họa không thể gánh nổi hết. Cho nên nói : "Thương quan kiến quan, vi họa bách đoan " , nếu có Tài có Ấn chính là giải nạn. Nếu Thương Quan thương tẫn, tứ trụ không có một điểm Quan tinh, lại hành thân vượng cùng Ấn vận, lại là quý vậy.
Cho nên 《Định Chân thiên 》nói: "Thương Quan thấy Ấn thụ, quý không thể nói." Như tứ trụ tuy là Thương tẫn Quan tinh, thân tuy vượng, nếu người không có một điểm Tài khí, chỉ là mệnh nghèo nàn, bạc bẽo.
Cho nên 《 Nguyên Lý phú 》nói: "Thương Quan không có Tài để nhờ cậy, tuy rằng khéo léo nhưng nhất định nghèo, cần thấy Tài mới tốt " bởi vì Tài có thể sinh Quan vậy. Thương Quan, Thất Sát, thì Thất Sát rất thích làm tổn thương thân, ứng nghiệm như thần. Năm mang theo Thương Quan, phụ mẫu không đầy đủ; Tháng mang theo Thương Quan, chỉ có em trai không còn; Giờ mang Thương Quan, con cái hung ác mà ngu dốt; Ngày mang Thương Quan, không có thê thiếp. Thương quan gốc có Quan tinh, vận phát sinh khứ Quan thì phát phúc, Thương quan dụng Ấn không kỵ Quan Sát, khứ Tài phương có thể phát. Thương Quan dụng Tài, thấy Tỉ là có họa, hành Thương quan vận thì phương sẽ phát. Nếu tứ trụ Thương quan không có Tài, lại gặp Tỉ Kiếp, chính là kẻ gian xảo, mệnh khắc vợ khắc con. Nguyên phạm Thương Quan nhiều, không nên phục hành Thương quan, cần phải thấy Quan thì mới phát, cho nên nói: Thương quan không có Quan, lại tiếp tục thấy thì gặp trắc trở không thuận lợi. Vận nhập đất Quan, trong cục trái lại là quý. Nếu Thương quan nhẹ chỉ cần một vị thì cần hành vận Thương quan, cần phải cân đo khinh trọng, không thể chấp nhất mà luận.

Thientam
11-04-14, 21:49
Lại viết: Thương Quan cách là người có tài cao, kiêu ngạo, thường lấy người trong thiên hạ là không bằng ta, nhiều thơ ca nói là người xấu xa, người làm nhiều điều ác, mà quý nhân cũng sợ gặp.

Cho nên《 Cổ ca 》nói:
"Thương Quan ý chí khinh vương hầu,
Đấu trường háo thắng vung tay mạnh"

Lại viết: Cho nên Thương Quan không hỉ Quan tinh gặp mặt nhau, như kim thủy Thương Quan, thủy mộc Thương Quan, mộc hỏa Thương quan không sợ thấy Quan tinh.

Cho nên《 Cổ ca 》nói:
"Hỏa thổ Thương quan cần thương tẫn,
Kim thủy Thương quan hỉ thấy Quan.
Mộc hỏa Thương quan Quan cần vượng,
Thổ kim Quan khứ lại thành Quan.
Duy có thủy mộc Thương quan cách,
Tài Quan đều thấy lại thành hay"

Lại viết: Nam mà có Thương quan nặng thì khắc con cháu, nhưng Thương quan có Tài thì cũng nhiều con. Như ngày có Thương quan mà có Tài, cung con cháu thì có con, nếu Thương quan không có Tài thì cung con không có con. Nữ phạm Thương quan cho nên hình phu, nhưng Tài Ấn đều có thì phu vinh. Cho nên nói: Nữ mệnh Thương quan, là cách đại kỵ. Tài vượng Ấn sinh, thì phu vinh tử quý.
《Kim Bất Hoán 》nói: Thương quan tứ trụ thấy Quan, đến già vần không có con.
Lại nói: Thương quan ắt phại thương tẫn, bỗng nhiên thấy Quan tinh thì hung. Thương quan thấy Quan, diệu kỳ nhất là nhập Tài Ấn để giải cứu.
《Toản yếu 》nói: Phàm Thương quan vượng thì cát, tử mộ thì hung. Dương thuận âm nghịch, lấy dụng thần mà suy ra. Mà như dụng Giáp, Giáp trường sinh ở Hợi địa, mộc dục ở Tý, Quan Đái ở Sửu, Lâm quan ở Dần, đế vượng ở Mão, suy ở Thìn, bệnh ở Tị, tử ở Ngọ, mộ ở Mùi, tuyệt ở Thân, thai ở Dậu, dưỡng ở Tuất là vậy.

Thientam
11-04-14, 21:50
Bổ túc: Phàm Thương quan cách, hành vượng tướng thì tốt, là nói tứ trụ Thương quan nhẹ, mà vận hành vượng tướng, là đất Lâm quan Đế vượng, thì cát mà phúc vinh. Tử mộ đều là đất hung họa, thua bại. Như Giáp sinh tháng Ngọ, Ất sinh tháng Tị, trong trụ có chữ Dần Ngọ Tuất, lại hành Tuất vận, Dần Ngọ Tuất là tam hợp Thương quan, nói là nhập mộ thì nhất định gặp họa là vậy. Dương thuận thì càng thêm thích phân ra rõ ràng hơn nghịch. Lấy dụng thần mà suy ra, là nói dương Thương quan là dụng thần, vận thuận hành, thì đa số là gặp họa vong mạng. Âm Thương quan là dụng thần, vận thuận hành, thì cũng phần đa là chết. Âm Thương quan là dụng thần, vận nghịch hành thì họa ít, mà chưa có chết vậy.
《 Túy Tỉnh Tử Khí Tượng thiên 》nói: "Nhập khố Thương quan, âm sinh dương tử." Nói đến Thương quan khinh mà hành vượng thì cát, như năm trên có Thương quan, trong trụ trọng nặng có tam hợp quá vượng, lại không có Tài, tuy là đến tiếp lại gặp đất hành vượng, tiết khí quá nặng thì trái lại là hung.
Cổ ca nói: "Can năm có Thương quan là sợ nhất, sợ nặng Thương quan có thể ngại không có thể miễn được."
Cổ ca lại nói: "Thương quan thương tẫn là tốt nhất, do sợ thương nhiều lại không tốt. Cách này thì trong cả trăm lại có cả nghìn cách biến hóa. Tiêu tức cần phải dụng tâm cơ" (Tiêu tức: tiêu là diệt đi, tức là tăng lên, thời vận tuần hoàn, lên lên xuống xuống gọi là tiêu tức).
Cổ ca lại nói:
"Mậu Kỷ sinh thời khí không đủ,
Nguyệt thời hai xứ là Thương quan.
Tất lấy mặt đầu có hao tổn,
Thiếu niên máu mũ lỡ loét khổ"
Xem bên trong cả ba trụ, Thương quan đã nặng, không thể hành vượng tướng cũng rõ ràng vậy. 《 Toản yếu 》nói là khinh, thì cần hành vượng tướng vậy. Lấy khinh trọng để đo lường, không thể cứ chấp nhất. Nói đến bên trong trụ có Thương quan nặng mà hòa hợp với đất tử mộ thì đầu là hung. Nhưng chính khí Thương Quan, tuy trong trụ khinh cũng không thể nhập vận mộ tử.

Cho nên cổ phú nói:
"Thương quan, Thực thần cùng thân vượng,
Gặp khố hưng tai có họa ương.
Tuy nhiên cần lấy âm dương nói,
Như trước nói rõ phải tinh tường."

Cách giải lại lấy có hai cách, cùng với cách này hợp lại giải thích, cũng không phải là làm tổn thương hết Quan. Lấy Nguyệt lệnh sinh Ta mà nói, chính là Đảo lộc, không phải lấy nói là chủ ám xung, bên trong có hai chữ phù phiếm, không phải tứ trụ dựa vào Thương Quan vậy.
《 Bổ túc Thực thần cách 》nói: "Thực thần là vị trí ta sinh ra vậy" Dương thấy can dương, âm thấy can âm, như Giáp nhật thấy Bính, Ất nhật thấy Đinh. Bính lộc ở Tị, ta là Giáp thì Bính là Thực, lại thấy chữ Tị, Đinh lộc ở Ngọ, Ta là Ất thì Đinh là Thực, lại thấy chữ Ngọ, chính là Thiên Trù Thực Thần. Mà Thực thần có khí, muốn nói là bản thân vượng, thì quý mà có lộc, phú mà có thọ, cho nên nói Thực thần hữu khí thắng Tài Quan. Trước tiên cần ở đất cường can gốc vượng, kỵ nhất có Kiêu thần đoạt Thực, chỗ này đảm nhận phân chia Thực, lại không hỉ thấy Quan tinh cùng hình xung, hỉ Tài tinh tương sinh, nếu chỉ có thấy một vị trí thì là quý thần, nếu trọng gặp thấy thì thành Thương Quan, thì trái lại là không tốt làm cho ít con cháu, có thể khó tồn tại. Như Thực thần thuần túy, người chủ tiền của nhiều mà Thực phong phú, độ lượng, khoan hồng, cơ thể mập mạp, cuộc sống nhàn hạ, có con cháu, có thọ. Lại kỵ hành Thực thần vận gặp tử tuyệt, cùng Thiên Ấn Kiêu thần vận, chủ sinh tai biến mà không có lợi, duy chỉ có Thiên Tài là có thể chế cứu.
Cho nên 《Hồng Phạm 》 nói: "Thiên Tài có thể tăng thêm thọ lâu dài " ý là lấy Thiên Tài có thể chế Kiêu vậy.

Thientam
11-04-14, 21:51
Lại nói:
"Thực thần sáng rõ thọ lâu dài,
Nối tiếp mà gặp không thể gánh.
Như không có thích đến cứu trợ,
Như cỏ mùa Thu gặp được sương."
Cổ ca nói:
"Thực thần sinh vượng hỉ sinh Tài,
Nhật chủ cương cường gặp phúc lộc,
Thân nhược Thực nhiều lại thành hại,
Hoặc gặp Kiêu thần chủ hung tai."

Lại nói:
"Thực thần sinh vượng không hình khắc,
Gặp đủ cách này thắng Tài Quan.
Lại được vận hành sinh vượng địa,
Thiếu niên bẻ Quế bái ngai vàng."

Thientam
11-04-14, 21:51
Thương quan thập luận

Giáp mộc Thương Quan Dần Ngọ đủ,
Hỏa sáng mộc nở vững lợi danh.
Vận hành sợ nhất Tài Quan vượng,
Thấy Tuất đi tới cản thọ nguyên.

Ất mộc Thương Quan hỏa đứng đầu,
Vận gặp Quan Sát chuyển thành tốt.
Chỉ sợ thủy nhiều thương không tẫn,
Cả đời danh lợi sẽ bày ra.

Bính hỏa Thương Quan táo thổ nặng,
Vận hành Tài vượng phúc hưng long.
Như gặp thủy vận mạng tất vong,
Đời người tranh chấp trở thành không.

Đinh hỏa Thương Quan hỏa lại mềm,
Sinh người kiêu ngạo mưu mô lắm.
Vận gặp Ấn thụ gắn Quan Sát,
Khinh lấy thành gia bạn với ai.

Ngày Mậu Thương quan sợ kim nhất,
Trụ thành cách sợ mộc tới gần.
Kim suy không hỉ hành Tài vận,
Thổ đã tiêu tan kim lại chìm.

Ngày Kỷ Thương Quan kim vượng nhất,
Kim nhược thổ nhu hỉ đất Tài.
Vận gặp Quan Sát cả đời phúc,
Danh lợi hưng tốt không dài lâu.

Ngày Canh Thương Quan hỉ thấy Quan,
Vận gặp Quan Sát tự dưng quý.
Đúng là kim ngu gặp hỏa luyện,
Thiếu niên bẻ Quế bái ngai vàng.

Ngày Tân Thương quan Thân Tý Thìn,
Thương Quan thương tẫn hỉ Tài tinh.
Đông Nam thuận vận cuồn cuộn tốt,
Thấy Quan thấy Sát lại thành thù.

Tiếp hành Tài vượng sinh Quan địa,
Tài lộc không mất đến cuối đời.
Quý thủy Thương Quan sợ thấy Quan,
Ngại nhất Mậu Kỷ thấu thiên can.

Tiếp hành Tài vượng sinh Quan địa,
Cả đời lao ngục họa đủ điều.

Thientam
11-04-14, 21:52
Đinh Sửu, Canh Tuất, Ất Tị, Nhâm Ngọ. Kim kê Trần Tú nhị công phú mệnh, là mộc hỏa Thương Quan, Canh kim là bệnh.
Nam viết:
Ất sinh tháng Tuất mộc thần khinh,
Dụng hỏa Thương quan lấy dụng thần.
Kim thủy hai thứ làm Ta bệnh,
Nam phương hỏa vận sức sống dài.

Ất mộc sinh ở tháng Tuất, vốn là kim mạnh mà mộc yếu vậy. Nếu lấy vượng nhược mà suy ra, mệnh hành Nam phương, là tự tiết khí vậy. Mệnh vượng nhược, chính là kỹ thuật ngu dốt không có lý lẽ tinh diệu. Đại để là cần lấy có bệnh mà luận, 10 phần thì có 9 phần ứng nghiệm. Cho nên Bát tự có bệnh lấp hành vận khứ bệnh. Người nhiều phú quý, tạo này rất hỉ Tuất trong có một điểm hỏa tinh, thấu xuất thiên can, tiếp là hỉ có Tuất Ngọ hợp thành hỏa cục, lấy mộc hỏa Thương Quan mà xem, hỉ có can tháng một điểm Canh kim là Quan tinh, làm bệnh thần vậy. Sao lại nói vậy? Cái Thương Quan lấy Quan tinh là bệnh. Sách nói: "Hữu bệnh phương vi quý", thiếu niên Kỷ Dậu, Mậu Thân, bệnh thần được lộc, suy ra là không tốt. Đến Nam phương Bính Ngọ, Đinh Mùi, khứ Canh kim bệnh thần, chỗ làm nên khứ bệnh, Tài lộc cả hai đều thuận tiện, hưng gia lập nghiệp, mà lấy giàu có. Trong vận Ất Giáp, tuy không bằng Bính Đinh viêm nóng, khứ Canh kim là gần gũi, nhưng cũng hỉ Giáp Ất lấy sinh Bính Đinh vậy. Do đó càng về già tăng thêm sức sống, chỉ sợ vận Nhâm đến phá hỏa, chữ Canh được phóng ra, sợ sinh không được lộc. Nhưng mà Tử tinh không đủ, bởi vì nhật chủ khí hỏa trung hòa vậy. Nếu lấy Tạp khí Tài Quan luận thì hoàn toàn không phải là diệu lý vậy.

Kỷ Tị, Tân Mùi, Ất Hợi, Đinh Sửu. Doanh Sơn Ngô Tinh tam công, Canh Tân kim là bệnh thần, Bính Đinh hỏa là phúc thần.

Nam viết:
Ất mộc sinh ở đề Mùi nguyệt,
Thương Quan mộc hỏa là chân cơ.
Tân kim thấu xuất là chân bệnh,
Bính Đinh giao đến là phúc cơ.

Ất mộc sinh ở tháng Mùi, thấu xuất Đinh hỏa lấy là chân Thương Quan. Thấy Tân kim Kỷ Sửu, Thất Sát là bệnh. Hành Đinh Mão, Bính Dần, khắc khứ Canh kim, là khứ bệnh thần. Nhiều tử sinh Tài, nhật can có khí, có thể nhận tử vậy. Nhập Sửu vận, tam hợp khởi phát Sát tinh, gặp kiện tụng việc quan là lẽ đương nhiên vậy.

Thientam
11-04-14, 21:52
Kỷ Tị, Quý Dậu, Mậu Thìn, Bính Thìn. Lâm xuyên Nhiêu Huệ Huy nhập lục công phú mệnh, thổ kim Thương Quan dụng thần.
Nam viết:
Mậu đến Dậu nguyệt tiết tinh anh,
Bính hỏa sinh thân dụng Ấn rõ.
Quý thủy Kiếp đến thương Bính hỏa,
Nam phương thổ vận phát không nhẹ.

Mậu thổ tử ở Bính, tiết thổ tinh hoa anh, được Kỷ cung Bính hỏa, thấu xuất thiên can. Thương quan thân nhược, dụng Ấn rõ ràng. Nguyệt thượng Quý thủy khắc Ấn là bệnh thần, lại được niên thượng Kỷ thổ, khắc khứ Quý thủy, vận Quan phục hành Quan vận mà chết. Đại phú thành tro bụi. Bởi vì bát tự thuần túy, hỉ có Quan tinh bệnh thần, hành quá Tân Mùi, Canh Ngọ, đều khứ bệnh thần vậy. Lại hỉ Mậu Kỷ lại khứ Nhâm Quý thủy là bệnh, cả hai bệnh đều bị khứ mất, kỳ phú là đương nhiên.

Giáp Tuất, Canh Ngọ, Ất Hợi, Đinh Sửu. Mệnh chân thương quan, Canh kim Quan tinh là bệnh.

Nam viết:
Ất mộc sinh ở tuần hỏa thổ,
Thời can tú lộ hỏa là chân.
Canh kim nguyệt thượng là chân bệnh,
Nhâm Quý thương Đinh liền thấy ôi!

Ất mộc sinh Ngọ, thấu Đinh, dụng hỏa là Thương Quan. Thế nhưng Canh kim gần thân chế thân Ta, mà không có thể dụng Bính Đinh hỏa địa. Cho nên đường thanh vân không có thể thành, chỉ là do ở chỗ có một điểm Canh kim trói buộc. Tiếp hành Nhâm Quý, giống như làm tổn hại chỗ thấu Đinh hỏa, càng không có thể khứ Canh vậy. Tro than lại chỉ có sợ mỗi thiên can nhâm Quý thủy, cái bởi vì Đinh hỏa lộ xuất, hỏa thiếu mất vậy. Không sợ địa chi có thủy bởi vì địa chi hỏa nhiều có thổ khứ thủy vậy.

Ất Dậu, Kỷ Sửu, Canh Tý, Nhâm Ngọ. Chân Thương Quan dụng Kiếp.
Nam viết:
Canh sinh Sửu nguyệt khí hàn ngưng,
Khí nhược thuận thân Kiếp có tình.
Sợ nhất Bính Đinh thuận phá Kiếp,
Tây phương kim vượng rất tinh thông.

Canh sinh tháng Sửu, thấu xuất Nhâm thủy, lấy kim thủy Thương Quan. Kim vốn hàn mà hỉ Đinh hỏa, làm ấm kim vật. Nhưng bị Tý thủy xung, không dụng Đinh hỏa là rõ ràng. Hỉ có năm tháng là Dậu kim, loại tụ một xứ, Canh kim thấy chỗ này mà dụng Kiếp làm dụng thần. Sớm hành Bính Mậu Đinh vận, phá Kiếp thần thành nhiều bệnh, đến nhập Dậu Thân, Tỉ Kiếp đắc địa, lần lượt thân vượng.

Thientam
11-04-14, 21:53
Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Bính Tuất, Kỷ Hợi. Thúc Tổ Trọng khí công, Hỏa thổ Thương Quan dụng Ấn cách.
Nam viết:
Mậu thổ trọng nặng tiết tinh hỏa,
Thân suy dụng Ấn lý rõ phân.
Thiếu niên sợ nhất Tài thương Ấn,
Hỏa vận đến sinh Ấn tình xa.

Bính hỏa sinh tháng Mùi, hỏa tuy có khí, nhưng tứ trụ thổ nhiều, tiết hỏa tinh anh, biến vượng thành nhược. Dựa vào có Giáp Ất mộc thần thành cục, thân nhược dụng rõ ràng. Sớm hành Tây phương, kim có thể khắc Ấn làm bất lợi, nhập Tuất thấy thổ làm tổn tử. Vận nhập Bắc phương, thủy sinh khí cho Ấn, có thể bắt đầu hưng thịnh. Nhập Dần Cấn thổ làm mờ hỏa, năm 74 tuổi mất.

Mậu Tý, Ất Mão, Đinh Tị, Đinh Mùi. Các lão quý mệnh, giả điền Quan cách.
Nam viết:
Hỏa khí trọng nặng tạo Tứ Dương,
Tiếp hành mộc vượng hỏa khó gánh.
Trụ trong thấu thổ thành chân cách,
Giữ thổ tồn Tài nhập Miếu Lang.

Ngày Đinh Tị, sinh ở tháng thuộc Tứ Dương, là phương khí rực sáng, lại thêm Mão Mùi kết thành mộc kiêng theo sinh, thì hỏa khí càng viêm nóng. Rất thích được tiết, hỉ can năm thấu Mậu thổ, thì hỏa thấy thổ mà tiết thực chỗ này, tú khí thì ở thổ vậy. Nhưng Mậu thổ đến tháng Mão là cực suy, mà lại có Ất Mão kết cục mộc, lấy phá thổ, thì thổ là dụng thần sợ mộc làm khắc thổ là bệnh vậy. Cho nên, thổ thiếu mộc nhiều, là bệnh rất nặng. Sớm hành Mậu Ngọ Kỷ Mùi, thổ suy cũng cần hành thổ vận. Vừa vào vận Canh Thân, Tân Dậu, trên dưới đều là kim, cùng khắc mộc mất hết, khứ hết căn bệnh, địa vị nhập Thai Các. Nhập Hợi mộc khí được sinh, bệnh thần phục lấy thành phương mà chết. Có người lấy Sát Ấn luận, hoặc lấy Củng Lộc cách luận, đều không có một hào ứng nghiệm.

Canh Tý, Kỷ Sửu, Nhâm Dần, Tân Hợi. Giang Hạ Lương Thắng lại bộ lang trung, thủy mộc giả Thương Quan.
Nam viết:
Tháng Sửu đầu tháng thủy có dư,
Ngày giờ loại tụ mộc thần ngự.
Mộc suy hỉ nhất Đông phương vận,
Vừa đến đất kim liền không tốt.

Nhật chủ Nhâm thủy sinh ở tháng mười hai, đầu tháng thủy khí còn vượng, lại thêm can năm là Canh Tý, đều là đất của thủy, thời thượng kim thủy khí vượng, Nhâm thủy vượng nặng, rất thích được tiết khí vậy. Nữ nhân huyết khí vượng thịnh, đa số rất thích dâm tiết vậy. Nhâm thủy trông thấy Dần Hợi là mộc tiến khí. Nhâm thì tiết kỳ tinh anh ở trên Dần Hợi mộc. Chỗ quý là tứ trụ có Canh Tân kim, đến ám tổn hại mộc, giống như loại mộc thành đống mà ngu muội, cố chấp vậy. Mộc thần chịu bệnh rất nặng, đại vận nhập Mão, lại gặp Đinh Mão lưu niên, suy mộc được cục, như mầm khô mà gặp mưa rào, bỗng nhiên mà hưng thịnh, đúng là Giang Tây thủ khoa. Nhâm Thìn Quý vận, thủy sinh cho mộc khô, Bắc phương nhấc lên làm quan lại, lại tuyển chọn làm Lang Trung, danh hiển thiên hạ, đại vận nhập Kỷ Tị, có Canh kim hình khắc Dần Hợi làm suy mộc, dâng sớ tấu vua, đóng giữ nước Đông Liêu kiên cường bảo vệ thành mà chết vậy. Là do Hợi lại hội hai chữ nối liền, mộc thần có khí, hai điểm Thực thần, đủ lấy làm Giả Thương Quan cách, chính là Giả Thương Quan vận mà phát vậy. Như Giáp mộc bị loại trừ, gốc không phải là hội tụ, cũng không lấy cách này, phần lớn xem cách không trói buộc ở Nguyệt lệnh, chỉ xem vận tĩnh, tú khí quy về ở xứ nào, 10 thì có 8,9 phần là ứng nghiệm vậy.

Thientam
11-04-14, 21:54
Giáp Ngọ, Bính Dần, Ất Sửu, Quý Mùi. Giang Trương Tư bố chính quý mệnh, mộc hỏa thông minh cách.
Nam viết:
Ất mộc sinh dần hỉ khí sâu,
Mộc hỏa thuận rõ ánh sáng chiếu.
Ngày giờ Quý thủy danh là bệnh,
Hỏa hư phưng Nam xuất Hàn Lâm.
(Quan Hàn Lâm coi về việc văn thư)

Ngày Ất Sửu, sinh đầu tháng Dần, mộc không non nớt mà hỏa cùng không suy vậy. Năm tháng thấu hỏa có thể sáng rõ, thời thượng mộc thần có thần, được Sửu trong lại có Quý thủy, thấu xuất thời thượng, đến ám khắc hỏa, làm Quý thủy thành bệnh vậy. Cho nên, vận hành Mậu Kỷ khứ bệnh mà lưu tồn hỏa, lại hành Nam phương cũng sợ tiết khí mộc. Chỗ này thì gốc thủy phá hỏa, cho nên lấy hỏa khinh vậy, cho nên hành lấy bổ túc mà khởi đến hỏa, vốn là lấy quý vậy. Vận nhập Nhâm Thân, phá tổn dụng thần, làm hư hỏa mà chết. Chỗ này cũng là Giả Thương Quan mà hành Thương Quan vận thì nhiều vinh hiển, Giả Thương Quan mà hành Ấn vận thì nhất định chết.

Nhâm Tý, Bính Ngọ, Ất Hợi, Đinh Hợi. Giang Diêu Hoằng thập công, chế quá Thương Quan cách.
Nam viết:
Ất sinh nơi Ly hỏa tuy nóng,
Nhâm thủy trọng nặng sợ chế phục.
Thủy nặng hỏa nhẹ cần thấy thổ,
Bắc phương thủy vận Thực khó khỏi.

Ất mộc sinh ở tháng Ngọ, tuy có hai Bính Đinh hỏa chỗ làm giới hạn, đến gốc hỏa thổ là chân Thương Quan,nhưng vốn là không rất sợ thủy nặng, Nhâm Quý thủy ở nơi quá nhiều, thủy nhiều thì có thể diệt ánh sáng của hỏa. Sớm hành Mậu vận, khứ thủy tồn hỏa, sinh Tài. Đại vận nhập thân Nhâm, thủy được sinh địa, phá hỏa đủ tai họa phá hình bản thân mà chết, may mắn mà có Mậu cái đầu, Kỷ Dậu, Canh Tuất, nơi giàu có mà mang bệnh tật.Vừa đến Hợi vận, Nhâm thủy được gốc mà chết, chính là phá mất đại diện cho xứ Quan tổn hại Thọ nguyên.

Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Bính Tuất, Kỷ Hợi. Thúc Tổ Trọng khí công, hỏa thổ Thương Quan dụng Ấn cách.
Nam viết:
Mậu thổ trọng nặng tiết hỏa tinh,
Thân suy dụng Ấn lý phân rõ.
Thiếu niên sợ nhất Tài thương Ấn,
Hỏa vận đến sinh Ấn có tình.

Bính hỏa sinh tháng Mùi, hỏa tuy có khí, nhưng tứ trụ thổ nhiều, tiết hỏa tinh anh, biến vượng thành nhược. Lại có Giáp Ất mộc thần thành cục, thân nhược dụng rõ ràng. Sớm hành Tây phương, kim có thể khắc Ấn làm bất lợi, nhập Tuất thấy thổ làm tổn thương con. Vận nhập Bắc phương, thủy sinh khí Ấn, cơ nghiệp hưng thịnh có thể ứng nghiệm. Nhập Dần Cấn thổ làm mờ hỏa, thọ 74 tuổi thì chết.

Thientam
11-04-14, 21:54
Đinh Dậu, Bính Ngọ, Đinh Sửu, Tân Hợi. Phúc kiến Bùi Ứng Chương thượng thư, lấy Kiến Lộc cách.
Nam viết:
Đinh hỏa viêm hỏa nhật chủ cường,
Cần nhất Tài khố tọa tàng dưới.
Dậu Sửu kim cục nhiều tọa Sát,
Tây phương vận lý tính danh dương.

Nhật chủ Đinh Sửu, xem can tháng hội hỏa cục, chi hội kim cục. Tài năng sinh trưởng, chính là quý ẩn tàng ở trong chi có ác, Bính Tân hợp quý khí, hợp nhật can Tài có thể sinh sát, lợi danh hiển đạt Tây phương tài lộ, mà vạn dặm bay cao, tự bản thân thơm mát, công danh hiển đạt, thọ không thể kể, địa vị quyền cao làm chấn động đến vua. Cha mẹ bị mất, vợ chồng phân ly, mãi về sau mới được ba con đoàn viên, là mệnh phúc thọ song toàn vậy.

Bính Dần, Canh Tý, Nhâm Tý, Tân Hợi. Thư Lâm Tràng Hoàn ngũ công phú quý, Giả Thương Quan cách.
Nam viết:
Nhâm thủy trọng nặng khí có dư,
Tuế thời có mộc thổ Nam chi.
Mộc trong có Quý Canh Tân bệnh,
Vận đến Đông phương có dư nhiều.

Nhâm Tý nhật can, sinh ở tháng 11, thiên can lại có Canh Tân, kề trợ thân cường. Nhâm thủy là sao quý, tú khí tòng sao mà tiết? Cái hỉ có Dần Hợi hai mộc, Mong chờ một mạch mà sinh, lưỡng mộc loại tụ có tình. Nhâm thủy thấy mộc, mà tiết kỳ chân tinh, tú khí phân rõ ở mộc. Mộc suy thành bệnh, lại càng có Tân phù kim, ở xa muốn khắc mộc, nhưng vận Canh Tân kim, cũng không thể khắc địa chi mộc tĩnh này vậy. Vừa đến Đông phương Dần Mão Thìn Ất, suy mộc được nơi này nhưng bởi vì khô mộc gặp xuân vậy, thì phú quý không phong phú mà có ở về sau. Vận nhập Tị có Canh kim làm tổn mộc, suy ra là kỳ bất lợi, nhập Ngọ Mùi Thân địa, Ngọ trong có Kỷ thổ, mà lại làm tổn Nhận, lý thì chết cũng có thể hiểu vậy.

Ất Tị, Quý Mùi, Mậu Tý, Quý Sửu. Khê Hồ Tích tam công phú mệnh, Giả Thương Quan cách.
Nam viết:
Mậu ở Mùi nguyệt thổ càng cường,
Hỉ nhất kim thành Tị Sửu phương.
Thổ dày thấy kim nhiều tú khí,
Nhật ngại chuyển vận hỏa đến sinh.

Mậu thổ sinh tháng Mùi, là thổ vượng cực kỳ vậy. Nhưng Thìn Tuất Sửu Mùi là thần tứ thổ, nhưng Thìn thổ mang mộc khí khắc, Tuất Sửu thổ mang kim khí tiết, Mậu thổ này tuy vượng mà không vượng cho nên Mậu đến chỗ này là Tam Vị đủ, nhiều thì lấy Giá Sắc cách, không mất trung hòa. Như tháng Mùi thổ hỏa khí vậy, thấy hỏa lấy sinh cho nên thổ là cực vượng vậy. Như thổ lâm chỗ Mùi nguyệt, thấy tứ trụ thổ trọng, lấy nhiều làm hỏa viêm thổ táo, không thể là xem Giá Sắc. Nhưng đến tháng này thuộc thổ, thấy kim thành cục, không quý cũng phú vậy. sách nói: "Thổ phùng quý vị kiến kim đa" cuối cùng là luận quý. Như tạo này thiếu niên hành Ngọ vận ở trên bỏ vì hỏa thương kim vậy. Vừa đến vận Tân Tị, Canh Thìn, suy kim được chỗ vượng, tài phát hàng vạn đồng. lại đến Dần vận, Giáp Thìn niên, tôm nhái đều bệnh mà chết, giống như coi không có nhà, là do hỏa khắc suy kim vậy.

Thientam
11-04-14, 21:55
Ất Tị, Đinh Hợi, Nhâm Ngọ, Canh Tuất. Vượng biến thành nhược cách.
Nam viết:
Nhâm đến Hợi nguyệt thủy khó gánh,
Tài Sát trọng nặng chịu tai ương.
Thủy vượng cũng cần là thấy thổ,
Nếu làm thổ nặng họa khó đương.

Nhâm thủy lại sinh ở tháng Hợi, vốn là thủy vượng vậy. Nhưng tứ trụ hỏa thổ đều trọng nặng, can năm Tị xung Hợi lộc, thiếu niên xuất gia, Bính Tuất vận rất nghèo, do hỏa thổ dày vậy; Ất Dậu, Giáp Thân, Quý vận, kim thủy có khí, gốc lấy Thương Quan rất kiêu ngạo, rất làm oai là phúc, y phục lại có thể an thân. Vừa đến Mùi vận, hỏa thổ đại vượng làm tổn kim, năm Đinh Dậu tháng năm hỏa vượng mà chết. Phàm Giáp Ất sinh tháng Dần Mão Thìn nhiều kim, Bính Đinh sinh tháng Tị Ngọ Mùi nhiều thủy, Canh Tân sinh tháng Thân Dậu Tuất nhiều hỏa, Nhâm Quý sinh tháng Hợi Tý Sửu nhiều thổ thì đều là không bần thì yểu. Nhưng hỉ có hai điểm khắc thần, nhiều khắc đều không tốt, rất ứng nghiệm vậy. Chỗ này là thấy ở ngoàiTử Bình, cần thí nghiệm nhiều lần vậy.

Kỷ Dậu, Bính Dần, Giáp Tý, Ất Sửu. Lưu Khánh Nhị đạo nhân, mộc suy kim vượng cách.
Nam viết:
Giáp mộc sinh Dần mộc trên suy,
Đầu mùa mộc non sợ kim khí.
Tuy nhiên có hỏa sợ kim mất,
Thủy vận sao kham hỏa lại nguy.

Giáp mộc sinh ở tháng Dần, đầu mùa Mộc hỏa đang còn sơ sinh. Thuật thổ suy ra kỳ Mộc hướng xuân sinh, mộc hỏa thông minh có quý. Sao nói là Mộc non không thắng kim chế, mà Dậu Sửu hợp thành kim cục, ban đầu hành Bắc phương thủy sinh mộc khí, ăn mặc giao phó rất tốt đẹp. Vừa đến Tây phương kim vượng vận, lấy lều cỏ mà sinh sống, mà thân bị tê liệt, Dậu vận mà chết, như chỉ có một điểm kim ở trên thì đỡ hơn vậy.

Kỷ Tị, Bính Dần, Giáp Dần, Ất Hợi. Lưu Hàn thập nhất công, kim mộc tương đình cách.
Nam viết:
Giáp sinh Dần nguyệt kể là khinh,
Mộc non kim nhẹ đượcc lưỡng đình.
Vận nhập Tây phương kim liền thắng,
Trung hòa khí mất thiếu yên tĩnh.

Giáp mộc sinh Dần, tứ trụ mộc kim, tục xem thì nói mộc đa kim thiếu vậy. Không biết là tháng Dần khí còn hàn lạnh, mộc thần mềm yếu dễ gãy, mộc không thể thắng kim, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất vận, sinh mộc, tài phát hàng vạn. Tây phương Thân Dậu Tuất, gặp trì trệ mà mạng vong vậy.

Tân Mão, Tân Sửu, Đinh Mão, Quý Mão.
Nam viết:
Đinh sinh Sửu nguyệt là thổ thần,
Mão mộc tam trọng khắc quá chi.
Hỉ có tam kim đến khắc mộc,
Một phen bệnh nặng một phen chữa.

Đinh sinh tháng Sửu, mệnh này rất khó tìm dụng thần, cái Sửu trong có một Kỷ thổ vậy, được có ba điểm Ất mộc gần thân khắc chế, chỗ này thì dụng Kỷ thổ là dụng thần, Ất mộc là bệnh vậy, rõ ràng. Cái được ba điểm Tân kim, lại đến khắc mộc vậy, một bệnh một dược, thích hợp nghiên cứu tuổi thọ lẽ nào là chỗ này vậy. Cả đời chỉ được Dậu vận 5 năm, là vận cực tốt. Cái chữ Dậu xung khứ Mão trong có Ất mộc là bệnh vậy, vận nhập Đông phương mộc vượng, 80 tuổi có thừa mới mất.

Thientam
11-04-14, 21:55
Ất Mão, Kỷ Sửu, Đinh Hợi, Nhâm Dần. Phủ thành Lý Nguyên lục công, thổ khinh mộc trọng cách.
Nam viết:
Đinh sinh Sửu nguyệt thổ thần rõ,
Hỏa thổ Thương Quan cách tự thành.
Chỉ sợ mộc kim đến khắc thổ,
Tiếp hành mộc vận họa không khinh.

Đinh sinh tháng Sửu, Kỷ thổ thấu xuất, chính là lấy Thương Quan, dụng thổ là rõ ràng. Ban đầu hành Bính Tuất, hỏa đến sinh thổ, tài rất là toại nguyện. Đại vận nhập Ất, mộc đến khắc thổ, phá mất Thương Quan mà chết. Bởi vì gốc có Ất Mão kề thân, lại có Dần Hợi hai mộc lấy trợ giúp, cho nên lại tiếp thấy Ất vận, chính là gốc vận hội có chỗ để hại thân, làm sao yên ổn mà không chết ư?

Nhâm Thìn, Tân Hợi, Giáp Tuất, Bính Dần. Lâm Xuyên Ngô Khai lục công phú mệnh, Giả Thương Quan cách.
Nam viết:
Giáp mộc tuy suy cũng có căn,
Bính Dần thời thấu hỏa thần xinh.
Hỏa hư có sáng thành chân cách,
Kim thủy nguyên nhân làm gây bệnh.

Giáp mộc được sinh ở Hợi, năm Thìn mộc khí nắm căn, Giáp mộc giờ Dần đắc lộc. Tứ trụ mộc đều đắc khí, lại có Nhâm thủy sinh cho, Giáp mộc thì biến nhược thành cường, trông thấy thời thượng Bính hỏa, thấu hoàn mỹ cũng kề thân, thì Giáp mộc tình tư hướng Bính hỏa là dụng thần vậy. Thì lấy Nhâm hỏa là phá Bính là bệnh, Tân kim là phá cách cũng là bệnh, sớm hành Nhâm Tý, Quý Sửu, nặng hơn bình thường, phá hư Bính hỏa dụng thần. Trông thấy Đông Nam, có mộc có hỏa, có thổ khắc thủy, có hỏa khắc kim, bệnh thần cùng mất, càng vang lừng, đến Canh Thân kim thủy phá cách mà chết vậy.

Đinh Sửu, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Mão. Giả Thương Quan sợ Ấn.
Nam viết:
Nhâm đến Hợi nguyệt thủy mênh mông,
Mộc thấu thiên can lấy Giả Thương.
Sửu trong kim khí không đủ ở,
Tây phương kim vận cực khó nhận.

Nhâm thủy sinh Hợi, tuy có nguyệt thượng Tài hư, bị thời thượng Quý thủy động, tuy có mộc là Thương Quan, mộc tháng mười gốc khô lá rụng. Gốc có Sửu trong có Tân kim làm tổn mộc, vừa đến Tây phương Dậu vận, hội khởi kim đến làm tổn mộc. Bệnh hoạn tê liệt, cùng lấy đủ hành làm ăn mày, mà lại thông minh, Thương Quan tiết khí mà chết vậy.

Bính Tý, Đinh Dậu, Nhâm Thân, Tân Hợi. Trần Đô Gia quý mệnh, thời thượng Giả Thực Thần, thủy thanh kim bạch cách.
Nam viết:
Kim thủy trong thanh kỳ hai chữ,
Thời quy Nhật Lộc lý theo nhau.
Phân rõ thủy hỏa là chân tú,
Hoàng Các danh cao ở thế gian.

Nhâm sinh tháng Dậu, hai chữ kim thủy đều trong thanh, khí kim thủy có dư, hai chữ Mộc Hỏa không đủ. Kim tuy có dư mà hỉ thiên can có Bính Đinh, xa đến làm tổn kim vậy. Hỉ không có địa chi Ngọ hỏa, thực tế là khứ phá Ấn, cho nên Ấn được lưỡng toàn tốt đẹp, Nhâm thủy khí tuy có dư, hỉ Hợi trong có Giáp mộc, tiết kỳ tinh anh vậy. Quý như thế, Bính mất sáng, ám loại bỏ Canh kim, mà tồn hại khởi Hợi ở trên Thực Thần. Cho nên tháng tám mộc khí điêu tàn, kỳ bệnh là rất nặng, do đó lấy bệnh nặng gặp kim là đại quý vậy. Vận nhập Đông phương, bổ sung khởi hai chữ thủy hỏa mà bước lên Hoàng Các vậy, là phù hợp. Chỗ này chính là thiên địa sinh mệnh lấy thanh, cho nên là quý nhân thiên hạ vậy.

Thientam
11-04-14, 21:56
Giáp Tuất, Tân Mùi, Kỷ Dậu, Kỷ Tị. Ngô Đô Hà nhập bát công, Giả Thương Quan phú mệnh, kim khinh hỏa trọng cách.
Nam viết:
Kỷ đến Mùi thổ nóng bốc hơi,
Thấy hỏa sinh thân tăng tráng thần.
Thổ vượng hỉ kim cần tiết khí,
Dưỡng kim hỉ thủy định siêu quần.
Kỷ thổ sinh ở tháng Mùi, hỏa thổ viêm nóng mà bốc hơi, kỳ Kỷ thổ khí nóng vượng thịnh, lại càng có hỏa khí sinh cho, thổ trông thấy Kỷ Dậu cả hai đủ hội tụ, cũng thấu Dậu kim, Kỷ thổ thì tiết tú khí cho ở trên kim mà mất. Lấy Bính Đinh hỏa làm thần tổn thương kim. Nhâm Thân, Quý Dậu vận tốt, Giáp tuất luận tai họa, cùng Bắc phương dụng thủy khứ hỏa, tài phú. Vừa đến Dần vận, hội thành hỏa cục, phá kim mà chết.

Mậu Thân, Kỷ Mùi, Mậu Ngọ, Tân Dậu. Phủ thành Chu Hoài lỗ khoa quý mệnh, thổ kiến kim cách.
Nam viết:
Mậu đến Mùi nguyệt thổ trọng nặng,
Táo thổ càng sợ hỏa khí hồng.
Thời Tuế hỉ xem kim thổ tú,
Vận hành Tây Bắc đến mây xanh.
Nhật ở tháng Mùi, là cách hỏa viêm thổ táo. Được giờ Tân Dậu, Kim Thần thấu xuất, năm Thân cung có thủy phá hỏa, chỗ này lấy hỏa là bệnh, thủy là phúc vậy. Đại vận nhập Nhâm, được Nhâm đến khắc hỏa, phóng xuất Tân kim, bẻ Quế cung trăng, là lý lẽ tự nhiên vậy. về sau hành Bắc phương thủy vận càng tốt đẹp. Phàm Mậu Kỷ thổ vượng, thấy kim nhiều là cực kỳ thông minh tú khí, là mệnh lấy thanh lấy quý vậy.

Quý Mão, Giáp Dần, Bính Ngọ, Mậu Tuất. Lâm Xuyên Viên ứng long, nguyên quý Giả Thương Quan, thổ khinh mộc trọng.
Nam viết:
Bính hỏa sinh Dần thành hỏa cục,
Hỏa sinh Mậu thổ tiết tinh nguyên,
Không kham suy thổ nặng gặp mộc,
Sớm bước cung trăng mất thiếu niên.
Bính hành nhật chủ, kết thành hỏa cục, hỏa vượng. Nguyên trong Dần có Mậu thổ, trong Ngọ có Kỷ thổ, lại vừa Thời thượng thấu xuất Kỷ thổ, Bính hỏa thân vượng, chỗ này thấy thổ mà hảo tiết kỳ tinh anh vậy. Chính là có bệnh phương thành quý cách. Thoát khỏi Tân gặp Quý Dậu lưu niên, khắc khứ Giáp mộc bệnh thần, cho nên sớm bước lên cửa Thi Hương, năm Giáp Tuất nhập Hợi vận, gốc có Giáp mộc, được sinh ở Hợi, chính là phá Thương Quan làm tổn hại Thọ nguyên mà chết. Cái tháng Dần gặp Mậu Kỷ, mang chữ mộc vậy, mà thổ thần cực suy, rất sợ vượng mộc đến khắc, nhập Hợi vận Giáp mộc được sinh, mà chết là rõ ràng, nếu mược thiên can năm, như hành Canh Tuất vận, Canh kim khắc khứ Giáp mộc quý không thể nói vậy. Phàm nhật can vượng thấy có Thực thần, Thương Quan. Tuy ở ngày giờ cũng chỉ lấy Thương Quan xem, là sao? Phàm nhật can vượng, tinh khí giữ đầy đủ, thấy có nơi thông tiết huyết khí thì theo tú khí, Tử Bình không thể chấp nê chỉ lấy Nguyệt lệnh ở trên dụng thần. Như nhật chủ suy nhược thấy Ấn tinh cùng Dương Nhận, thân nhược thì thân thiện với Ấn thụ Dương Nhận vậy, thân vượng thì tự thân với Thực thần Thương quan vậy. Như dụng Thực thần Thương quan, chỉ cần Thực Thương hội tụ một chỗ có tình, không thích ngăn cách, như trước mùa Hạ thì mệnh dụng mộc là vậy. Như tạo này, đa số không hiểu tác dụng thổ, chỉ lấy Quan Ấn. Nếu dụng Quan Ấn, như Mão Hợi vận không ngu dốt vậy. Chỗ này thì dụng suy thổ, thấy mộc khắc là rõ ràng.

Thientam
11-04-14, 21:57
Bính Dần, Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Đinh Mão. Ngô Đô phó hậu am công, mộc hỏa Giả Thương Quan, mộc đủ Dần Mão Thìn.
Nam viết:
Giáp mộc trọng nặng vượng khí sâu,
Mộc đến dụng hỏa thấu Xuân tới.
Trụ trong hỉ nhất Nhâm là bệnh,
Hỏa thổ trọng gặp thường khác loại.
Giáp mộc sinh tháng Thìn, nói đủ Dần Mão Thìn Đông phương mà tú khí, hỉ có năm giờ Bính Đinh hỏa hư thấu xuất. Lấy mộc hỏa làm Giả Quan, thấu xuất Nhâm thủy, phá hỏa là bệnh thần, vận hành Nam phương, hỏa suy đắc địa thành tốt, tuy có Thân Dậu sinh thủy phá hỏa, cũng hỉ có Bính Đinh cái đầu. Mậu Kỷ vận, thổ có thể phá thủy, phóng khởi dụng thần, về già càng tăng sức sống, phúc thọ lưỡng toàn, chỉ sợ Bắc phương thủy phá dụng thần vậy.

Bính Thân, Quý Tị, Tân Mão, Nhâm Thìn. Giả Thương quan dụng địa Kiếp.
Nam viết:
Tân kim sinh Tị thủy trọng nặng,
Hình phá Quan tinh thủy có công.
Thân Tị lưỡng Canh đến tác dụng,
Vận hành Thân Dậu ung dung vui.
Tân sinh tháng Tị, vốn là dụng Bính hỏa, sao nói gần thân có Thân, phá Bính rõ ràng. Can năm Bính hỏa, vốn là Quan hư có thể dụng, giờ có Nhâm thủy phá, do là bỏ Bính mà tòng thủy vậy. Lấy thủy là Thương Quan hư nhược, năm tháng có 2 Canh, hội tụ có tình, chính là lấy kim thủy Thương Quan dụng Kiếp vậy. Hành Thân Dậu Tỉ Kiếp được sinh, an vui mà hưởng. Nhập Mậu Kỷ phá khứ Giả Thương Quan, động nhiều khinh lận, nhập Hợi sinh Tài, đại vận 66 tuổi, Canh kim Kiếp thần mà chết.

Đinh Mùi, Nhâm Dần, Ất Sửu, Đinh Hợi. Mộc hỏa Thương Quan Quan bất túc cách.
Nam viết:
Ấm mộc sinh Dần tiến xin thời,
Lại kiêm tam Ấn sinh trùng chi.
Tài Quan tới vận nặng trọng hỉ,
Thủy hỏa tới gặp Thực đáng buồn.
Ất sinh tháng Dần là mộc tiến khí, lại thông ba mộc sinh thân, bất đắc dĩ Tỉ Kiếp trọng nặng tranh tài mà Tài thì không đủ vậy. Bốn hỏa chế Sát thái quá, sớm hành Bắc phương không tốt, hỉ Canh Tân kim cái đầu, phá Kiếp bảo tồn Tài tinh, lấy vận Tài vượng sinh Quan, có làm Tỉ Kiếp khiếp sợ. Hành Hợi vận, Nhâm thủy sinh Tỉ Kiếp, tranh Tài bất đắc dĩ, lại hợp Bính Tý niên, hỏa chế kim mà thủy sinh mộc, sách nói: "Mộc hỏa thương quan quan yếu vượng." Dụng thần chịu khốn đốn, tại họa gây ra mà chết vậy.

Mậu Dần, Kỷ Mùi, Bính Tuất, Ất Mùi. Quý Nữ mệnh lấy chân Thương Quan dụng Ấn cách.
Nam viết:
Hỏa gặp Giá Sắc tiết tinh thần,
Lại hỉ trụ trong có Ấn thụ.
Suy Ấn tối cần trọng thấy Ấn,
Bao Ấn lưỡng quốc khởi thường nhân.
Bính hỏa sinh tháng Mùi, tứ trụ thổ khí trọng nặng, tiết nhược khí Bính hỏa, chính là lấy hỏa thổ Thương Quan, thân nhược do tự thân với Ấn thụ vậy. Nguyên gốc Ấn tinh suy nhược, vận hành đến đất Ấn vượng. Chồng con đều được hai nước phong tặng. Đại vận nhập Sửu, Tân kim phá Ất mà chết.

Thientam
11-04-14, 21:59
Ấn thụ cách

Nam viết: Chính Ấn, Thiên Ấn cách giống như phụ mẫu sinh thân, nghĩa là nhật chủ được kỳ sinh trợ.
Sách nói: " Tháng sinh Ấn thụ lợi cho Quan vận, sợ nhập đất Tài, Tài chính là phá khí Ấn vậy". Chỗ này sách nói như đường cùng, không phải là đạo biến thông vậy. Nhưng tứ trụ có Ấn tinh quá vượng, nhật chủ có khí, Ấn nhiều sinh thân, như nhân nguyên bản khí vượng, lại thêm bổ sung dược, sinh có thể tồn tại ư? Chỗ này thì bản thân dụng thấy tàn sát để phá Ấn vậy. Tứ tài thiếu, nhất định cần ở trên vận có Tài thần là tốt. Lại như nhật chủ căn khinh, Ấn tinh lại nhược, rất sợ Tài tinh, gọi là Tham Tài tổn Ấn, là phù hợp vậy. Lại có chân Ấn, giả Ấn, như người sinh ngày Bính, sinh ở tháng Hợi, hoặc dụng tháng Hợi trong có Giáp mộc lấy giả Ấn địa vậy. Tháng mười mộc khí, gốc hư kết thành là rụng thì chỗ này là mộc suy, cần hành đến đất Đông phương mộc vượng, lấy để phụ trợ cho khí gốc, thì thành Khô miêu đắc vũ ( mầm khô gặp mưa rào), bỗng nhiên mà hưng thịnh, sợ Tị Dậu Sửu vận, xung khắc khí mộc, càng sợ hành Tây phương gốc của Thân Tân, thiên can địa chi đều đủ, thì tổn thương càng nặng. Như thiên can được Nhâm Quý Giáp Ất Bính Đinh cái đầu, tuy có họa cũng nhẹ, lại như nhật chủ là Bính Đinh, đến Dần Mão là đất nhiều gốc, gọi là Chân Ấn vậy. Như Ấn nhiều thì không sợ Tài tinh; nhật chủ khinh như chỉ có 1,2 điểm Ấn, cũng sợ Tài vậy.
Nói chung, mộc không có thể thắng kim, gọi là Ấn thụ bị thương. Nếu như vinh hoa chẳng bao lâu mà lấy Chân Giả Ấn biện luận thì không thể không cứu. Tài, Quan, Ấn, Sát, Thực thần, Thương Quan, sáu thần này chính là nhật can Nguyệt lệnh. Ngoài chính cách còn có Dương Nhận cách! Hệ thống này là Nhật Nguyệt tương thông. Xuất ra ngoài chỗ này, hoặc là Tài Quan bị hư vô, hoặc là hình hợp Tài Quan, hoặc là ám củng Tài Quan, hoặc là xung xa Tài Quan, vốn cũng là cận lý. Giới thiệu một vài đoạn văn nhỏ như sau:

《Kế Thiện thiên 》nói: Quan hình không phạm, Ấn thụ Thiên Đức, năm tháng ngày giờ đều đồng nhất cung phân ra. Cho nên thông cách giải nói nhưng mà tứ trụ trong đều có thì chính là Mệnh cung giống nhau mà phân ra, không nên như nhau. Như Giáp Dần, Bính Dần, Bính Dần, Đinh Dậu, là Thiên Đức ở Đinh, Nguyệt Đức ở Bính, Ấn thụ ở Dần. Như Canh Thân, Canh Thìn, Canh Tý, Nhâm Ngọ, vốn là Thiên Đức Nguyệt Đức đều có ở Nhâm, Ấn thụ ở Thìn, Thiên Đức cùng Ấn thụ , Mệnh cung giống nhau là càng lưu thông. Xâm phạm nghiêm ngặt Mệnh thư là sao Thiên Nguyệt nhị Đức, ở Nhật thượng là đích xác, chỗ khác thấy không cần lấy Đức mà luận.

Thientam
11-04-14, 22:00
Cổ ca nói:
Nguyệt gặp Ấn thụ hỉ Quan tinh,
Vận nhập đất Quan phúc tất thanh.
Đến vận Tử tuyệt thân bất lợi,
sau hành Tài vận trăm không thành.

Bổ túc: Giáp Ất sinh ở tháng Hợi Tý, Bính Đinh sinh ở tháng Dần Mão, Mậu Kỷ sinh ở tháng Tị Ngọ, Nhâm Quý sinh ở tháng Thân Dậu, Canh Tân sinh ở tháng Thìn Tuất Sửu Mùi hoặc ở tháng Tị Ngọ đều là Nguyệt gặp Ấn thụ vậy. Như tứ trụ trong có gốc Quan tinh, chính là Quan Ấn tương sinh, phương thành quý nhân, thành Ấn thụ cách là chỗ tốt nhất vậy. Nếu hành vận đất Quan thì phát phúc là thanh trong về sau. Hành tử tuyệt vận, nhẹ thì tai ách bệnh tật, tổn thương nặng thì tử vong tang phục. Nếu hành đất Tài thì là Tham Tài phá Ấn, tai họa đủ điều.

Lại nói:
Trọng nặng sinh khí nếu không Quan,
Thường lấy thanh cao kỹ nghệ xem.
Quan Sát không đến không có lộc,
Tóm lại có kỹ nghệ cũng cô hàn.

Bổ túc: Nguyệt sinh nhật can, trụ năm giờ đều có Ấn thụ, vốn là sinh khí trọng nặng vậy, có Quan mà suy ra phương thành quý. Như không có Quan Sát, không phải là kỹ nghệ lưu thông thì quay lưng lại là bình thường. Tóm lại, kỹ nghệ thanh cao cũng không miễn được cô đơn, suy nhược, mà lấy hàn vi. Vì Ấn thụ vượng mà Tử tức hiếm là dừng lại.

Lại nói: Ấn thụ can đầu trọng thấy Tỉ, như hành vận trợ thêm nhất định thương thân. Cách này không có tuyệt vời, vận nhập đất Tài phúc là chính xác.

Bổ túc: Tháng sinh Ấn thụ, can đầu trọng nặng, vừa thấy Tỉ kiên Ấn thụ, lại hành vận Ấn vượng, nhất định thương thân. Vì mộc dựa vào thủy sinh, thủy thịnh thì mộc trôi nổi, phép gặp Nhâm Quý thủy trôi nổi, nhật chủ không có gốc thì uổng phí mức độ của mùa sinh. Ấn vượng gặp Tài chính là phát triển, cần nhập vận đến đất Tài chính là có thể phát phúc phát lộc, như thủy thịnh mộc trôi, nhất định cần hành bại vận, lấy thổ chế thủy thì thực vật cây cối sẽ có rễ là phúc, là chỗ tuế vận như hành Tài vượng vậy, ngược lại là hung biến thành cát mà gặp Vương hầu là vậy. 《 Cách giải 》nói chỗ câu Ấn thụ sợ nhập Tài hương không có thể ôm cố chấp là vậy.

Lại nói:
Ấn thụ Quan tinh vượng khí thuần,
Thương quan gặp nhiều tinh thần chuyển.
Như hành tử tuyệt cùng Tài địa,
Không cứu thì về nơi suối vàng.

Bổ túc: Ấn gặp Quan tinh, như biết chỗ hỉ thì là vượng khí thuần vậy. Thương Quan gặp nhiều, gặp như chỗ kỵ, thì không thể miễn chuyển mà không có sức sống vậy. Nguyên đoạn văn cũ là như vậy, mà hoặc là sửa đổi vượng khí thành vận khí, sửa Thương Quan thành Thiên Quan, để chuyển tinh thần thành có tinh thần thì không phải vậy.

Lại nói:
Ấn tinh thiên lệch là Kiêu thần,
Trong trụ hỉ nhất thấy Tài tinh.
Thân vượng phương gặp vốn là phúc,
Thân suy Kiêu vượng càng vô tình.

Bổ túc: Ấn tinh thiên lệch như Giáp sinh tháng Hợi, Ất sinh tháng Tý các loại. Không có Thực thì là Thiên Ấn, có Thực thì là Kiêu thần. Trong trụ thấy Thiên Tài Chính Tài thì cát, cho nên nói Thiên Ấn gặp Tài thì phát, lại nói Thiên Tài có thể lợi ích [ thọ ] , gặp năm thân vượng thì cát. Nếu thân nhược gặp Kiêu vượng thì thành họa. Chỗ gọi là Kiêu thần hưng thịnh mà sớm bị chết yểu vậy.

Thientam
11-04-14, 22:00
《Lạc Dịch phú 》nói: Ấn đến vị trí Tử tức, con cái được vinh. Kiêu ở vị trí tổ tông, thì phá hại cơ đồ tổ tông.
Bổ túc: Hoặc nói Kiêu ở vị trí Tổ tông, thì phá hại cơ đồ tổ tông rất nặng, rất ứng nghiệm. Xem《 Lục Thân luận 》nói: "Ngày giờ có Sát Nhận gặp Kiêu, một nửa nói là vợ con ly tán" có thể gặp. 《 Cách Giải 》lại tiếp tục nói vị trí Kiêu ở vị trí tổ là phá cơ nghiệp tổ.

《 Ngọc Hạp phú 》nói:
Hoa Cái, Văn Tinh cùng cộng hội,
Quan trì thành Ngũ bá lương thần.

Bổ túc: Văn tinh là Ấn thụ vậy. Cho nên《 Thông Minh thiên 》nói: "Ấn thụ văn hoa vậy", chứ không phải Văn Xương là văn.

《 Thốn Kim thiêm 》nói:
Ấn thụ không hỉ gặp Lâm Quan,
Cùng không mừng lại gặp Đế Vượng.
Bát tự gặp Tài không chỗ dụng,
Hành Tài không lợi tự dưng mất.

Bổ túc: Lâm Quan là nhật can hành đến đất Lâm quan, Ấn gặp thì bệnh, cho nên nói không mừng thấy Lâm quan, Đế vượng. Là can hành đến đất Đế vượng, Ấn gặp thì chết, cho nên nói gặp cùng không vui, trong bát tự phát sinh thấy Tài tinh, hỉ thấy Quan tinh, như hành đến đất Tài vượng thì là Tham Tài phôi Ấn là gặp tai họa đủ điều. Như nơi hành đến đất tử tuyệt, tài vượng thì không có cứu trái lại là thành người nơi dưới suối vàng.

《 Vạn Kim phú 》nói:
Hạng nhất hạn đến quê Ấn thụ.
Vận hành sinh vượng phải tốt vinh.
Đất Quan hội hợp Thiên Quan chức.
Tử tuyệt đứng đầu là họa tai.
《Uyên Nguyên ca 》nói:
Có Ấn không Tài là mối phúc,
Hỉ gặp vị Quan sợ đến Tài.
Chủ người bao quát văn chương giỏi,
Một lúc Đan Trì hướng mang theo.
( Đan Trì: Chữ Đan là màu đỏ, cung điện đời xưa đều chuộng sắc đỏ, cho nên gọi sân hè nhà Vua là Đan Trì)

《Vân Lý phú 》nói: Thủy phiếm giả hoạt mộc.

Bổ sung: cách nói này là cách thủy phiếm mộc phù vậy. Như Giáp mộc sinh ở Hợi, thì như không. Ất mộc tử ở Hợi, thủy trôi mộc nổi, sợ không có hội tụ.

Lại nói: Thủy thịnh thì mộc nổi không định, nếu hành thổ vận là phương vinh.
Bổ sung: Đoạn văn ở trên luận âm mộc, chỗ này thì luận dương mộc. Nói Giáp mộc quy ở tử, là đất thủy bại, trong trụ thủy Ấn thái thịnh, mất thổ không có chỗ dừng. Sinh mệnh gặp phải thì chủ trôi nỗi không có định hướng, thích hoa thích tửu, mệnh không thành. Gặp thổ vận thì dừng được thủy, phát phúc là vinh.

Lại nói: Tham Thực thông minh sợ mệnh dụng Kiêu thần là có bệnh.
Bổ sung: Như nhật tọa Kiêu thần, hoặc can chi có Kiêu Ấn nặng, vận gặp Thực thần, nhất định chủ ngheo nàn mà sinh bệnh, lại mang theo hình pháp, lấy tai nạn bất ngờ. Cho nên 《 Áo Chỉ phú 》nói: "Năm, tháng, giở trong có Thiên Ấn, cát hung chưa nảy sinh. Đại vận, Tuế quân gặp Thọ tinh, tai ương lập tức đến"

Lại nói: Mệnh dụng Kiêu thần, nhà giàu tự lo liệu quản lý.

Lại nói:
Thiên can hai Bính,
Địa chi toàn Dần,
Lại thêm sinh Ấn,
Thấy chết gặp hung.

Lại nói:
Nhâm Quý nhiều kim,
Khí sinh Dậu Thân.
Thổ vượng thì quý,
Thủy vượng thì nghèo.

Lại nói:
Quý nhật Thân đề,
Tuế thời Dần Mão.
Niên Sát nguyệt Kiếp,
Lấy là cô thê.

Thientam
11-04-14, 22:02
Kỷ Hợi, Ất Hợi, Ất Sửu, Đinh Hợi. Lâm xuyên Hoàng Lương tam công phú mệnh, thủy trọng khinh.
Nam viết:
Thủy khí trọng nặng ở địa chi,
Mộc phiêu, Thủy phiếm sẽ theo đâu?
Cần nhất thổ vận đến khắc thủy,
Tài bạch kim châu mừng có dư.

Ất mộc sinh tháng Hợi, trọng nặng khí thủy theo trôi nỗi, sớm hành Quý Dậu, Nhâm Thân, mộc nhiều thấy thủy là bất lợi, vừa nhập 4 vận Tân Mùi, Canh Ngọ, Kỷ Tị, Mậu Thìn, thổ ngăn thủy lưu, tài phát hàng vạn đồng, chính là Ấn thụ nếu nhiều thì cần có Tài vậy.

Đinh Hợi, Tân Hợi, Ất Hợi, Đinh Hợi. Lưu Tam tam công, cách cục thủy đa phiêu mộc.
Nam viết:
Ất sinh Hợi nguyệt thủy trọng nặng,
Sát Ấn phân rõ tổ nghiệp lớn.
Mậu Kỷ vận trong tuy phát phúc,
Tái hành thủy vận tuổi thọ hết.

Ất mộc sinh tháng Hợi, thủy khí trọng nặng, nhưng mà hỉ thuần túy, gốc thủy không bị cái đầu. Được Tổ Tài phong phú, Kỷ Dậu Mậu vận, rất nổi tiếng, Dậu địa Sát khinh được lộc vậy. Vốn Sát tinh thấy thủy, nhiều tiết khứ mất sức sống, sát nhược nhập Dậu được lộc, sống chết rất nhiều. Vừa vào Thân vận, Nhâm thủy thái vượng, thủy đến làm phiếm mộc mà chết.

Nhâm Dần, Tân Hợi, Đinh Tị, Tân Hợi. Lưu Anh Thiên cửu công phú mệnh, cách cục suy Ấn sợ Tài.
Nam viết:
Đinh hỏa đến sinh can Hợi nguyệt,
Mộc thần loại tụ hỉ tương liên.
Trụ trong sợ nhất kim thành bệnh,
Vận nhập Đông phương phúc lộc toàn.

Đinh hỏa sinh ở tháng Hợi, hỏa thần suy nhược, hỉ có can năm thấu xuất Nhâm thủy, Đinh nhâm hóa mộc ở Hợi là loại tụ mộc thần, dụng thần không cần. Được Tị cung có Canh đến làm tổn mộc, thì Kim là bệnh rõ ràng. Vận hành Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh vận, khô mộc gặp Xuân, lại hỉ có hỏa phá Canh kim lưu tồn mộc, phú hưởng an nhàn. Nhập Tị cường tặc phá hại nhà, gặp họa con mất, cái sợ Tị trong có kim đến khắc mộc vậy. Ngọ Mùi mộc tử mất thọ.

Ất Sửu, Tân Tị, Kỷ Tị, Canh Ngọ. Phong thành Tôn Thế Hữu bố chính quý mệnh, vượng biến thành nhược dụng Ấn cách.
Nam viết:
Kỷ thổ tuy nhiên tọa đất vượng,
Trọng nặng khí kim tổn tinh dương.
Vượng trung biến nhược đến thân Ấn,
Sát vận ứng biết giúp Miếu Lang.
( Cái điện trước cung vua, vì thế nên mọi sự cử động của vua đều gọi là Miếu; Lanh là hành lang. )

Kỷ thổ tuy sinh tháng Tị, vốn là khu vực hỏa sinh. Sao nói kim khí trọng nặng? Kỷ thổ thấy kim là tiết kỳ tinh khí, dựa vào có tam trọng hỏa khí, nói chung là thổ thích ấm mà sợ hàn, thì Kỷ thổ thân thiện với hỏa là Ấn thụ. Vận hành Kỷ Mão, Mậu Dần, Sát tinh thái vượng, cho nên nói là Ấn khinh dựa vào có Quan Sát để sinh cho nên đến địa vị là phương làm vương bá. Tây nội vận hỏa khinh, là do cần phải bổ sung để bắt đầu hỏa đến. Đại vận nhập Tý thấy Tài mà phá Ấn, Tài chính là vợ vậy, bởi vì do vợ mà gặp họa vậy. Cái gốc không có thủy chỉ có hỏa thổ, thì Đông phương thủy vận là không tốt, chỗ này thì thổ hư mà thích hỏa, sợ thủy làm tổn thương hỏa, Tý vận chết là rõ ràng.

Thientam
11-04-14, 22:03
Nhâm Tuất, Nhâm Dần, Đinh Mão, Mậu Thân. Sùng Nhân phương vũ thập lăng trì tử, Tham Tài phôi Ấn.
Nam viết:
Đinh hỏa sinh Dần mộc khí nhu,
Tài đến xung Ấn liền thành lo.
Tái hành Tài vận tai khó miễn,
Thẳng đợi lăng trì chết mà thôi.

Đinh hỏa nhật can, sinh ở Lập Xuân sau hai ba ngày, khí còn hàn lạnh mà mộc lại còn rất non nớt. Chính là Mộc nộn hỏa suy, không hợp có năm tháng hai điểm Nhâm thủy, lại tiếp thấy thấp hỏa, thấp mộc, thời thượng Thân cung là Canh kim xung mất nộn mộc. Mà có Tuất thấu xuất rồi, chi năm Mậu thổ thấu xuất, can tháng là chân thổ, chính là lấy hỏa thổ Thương Quan dụng Ấn, không hợp suy Ấn bị thương. Vừa vào vận Tị, Canh kim được sinh ở Tị, phá mất Ấn suy, bởi vì đánh chết Nhạc An Đông, thuật lại người nói số mệnh có nhiều chữ Nhâm, thì trở thành vũ lực, thẩm vấn là lăng trì. Khác hẳn các tội trạng mà nguy hiểm. Cái thấu xuất Thương Quan, thân suy dụng Ấn, Ấn lấy thụ thương, cho nên phạm cực hình này.

Ất Hợi, Quý Mùi, Đinh Mão, Giáp Thìn. Phủ thành quá Hoàn Cửu công, mộc vô kim chi cách.

Nam viết:
Đinh sinh Mùi nguyệt hỏa dương uy,
Thấy mộc trọng sinh không biết hỏa.
Đại hỉ Canh Tân làm tổn mộc,
Tiếp hành mộc vận vốn không nên.

Đinh hỏa sinh tháng Mùi, hỏa thần vượng, lại thấy mộc nhiều, trái lại là trợ giúp viêm nóng thêm mãnh liệt. Ban đầu hành vận Tân Tị Canh, mộc nhiều thấy kim mà khắc, hành Tài có phần phải theo đuổi. Nhưng mà tứ trụ gốc không có một điểm kim khí, Tài thần không có gốc, sinh Tài mà không khắc hết thông suốt. Hành là thê, hành Dần Mão trợ giúp Tỉ Kiếp cướp thê. Đến chỗ này thì loại bỏ vợ mà xa con, thân gặp bất lợi, chẳng lẽ không phải mệnh đến như thế ư?

Tân Mão, Tân Mão, Mậu Dần, Nhâm Tý. Mệnh khứ Quan lưu Sát đồng Ấn.
Nam viết:
Khứ Quan lưu Sát lý phân rõ,
Chủ nhược phân rõ dụng Ấn tinh.
Vận nhập Nam phương Phu Tử vượng,
Gặp Thân phá Ấn họa đến cùng.

Chi năm lưỡng trọng vị trí Ất là phu tinh, gặp thiên can lưỡng Tân khứ, chỉ đơn độc dụng Dần trong có hai chữ Giáp Bính. Sớm hành vận Nhâm Quý, trùng điệp làm tổn hại con, là Nhâm Quý thương tổn Ấn vậy. Nhập Tị, Bính hỏa được lộc, sinh con mà chồng mạnh, Nam phương hỏa vượng, tài hưởng an phúc. Thoát khỏi Giáp gặp hoạn tật mà chết, là do Nhâm thủy phá Ấn vậy.

Ất Mão, Mậu Dần, Bính Tuất, Ất Mùi. Phú Nữ mệnh, vô phu nhập cách.
Nam viết:
Bính hỏa sinh Dần thổ thấu thiên,
Không chồng nhập cách phúc liên miên.
Thân suy cần vào Nam phương vận,
Dụng Ấn phân rõ khởi ngẫu nhiên.

Bính hỏa sinh tháng Dần, Dần đúng ở Cấn thổ, Mậu không lại có thổ, can tháng có Mậu thổ thấu xuất, tháng Dần hỏa hư, thổ tiết tinh anh thái quá, chính là lấy hỏa thổ Thương Quan dụng Ấn. Cái Thương Quan suy dụng Ấn, gốc là hỉ có trong trụ không thấy Phu tinh. Gốc nếu có Phu hành Nam phương vận, nhất định là chủ cô bần, chỗ này thì gốc không có Phu tinh, thì không luận Phu vậy, cho nên Nam phương vận, trợ giúp phu sinh con mà giàu có. Lại lấy hỏa hư có chiếu sáng, vừa vào vận Thân, thấy kim phá mộc mà chết.

Thientam
11-04-14, 22:04
Dương Nhận cách phụ Tỉ Kiếp, Kiến Lộc cách

Nam viết: Dương Nhận cách, Lục Dương nhật can ở vị trí Dương Nhận vậy, Lục Ấm nhật can không có vị trí Nhận.
Nhưng mà Thuyết dụng Nhận, lý là chưa nghiên cứu thì ngu muội mà không biết vậy. Sách nói Dương Nhận không xung có thể đạt đến hàng cực phẩm. Cái Giáp nhật sinh ở tháng Mão, Giáp thấy Mão trong có Ất mộc, như huynh thấy đệ, thì có thể phân chia tổ tài của ta, đoạt lấy tổ nghiệp của Ta. Lại thêm năm, ngày, giờ trong có mộc lại có khí, sao mà dụng Ất mộc tiếp tục trợ giúp Ta ư? Như vậy thì không dụng Nhận vậy, mà lấy Nhận là bệnh thì dụng Canh kim Thất Sát. Nếu khứ Nhận, trùng điệp có Tài Quan Thất Sát thì nhật can tuy vượng sẽ biến thành nhược, chỗ này thì Giáp Nhận là dụng thần. Nếu hành Dậu vận, xung khứ Nhận tinh, giống như con người suy nhược không có lực, đều cần phải có em đến phù trợ, lệnh bị Dậu kim giết chết em của ta vậy, thì chủ gặp việc cực hung, gặp họa cọp rắn sát thương vậy. Nếu như đợi đến chỗ này thì cần phải có vận Ấn thụ, Nhận tinh của Ta phát sinh vậy. Tỉ kiên vận, lấy trợ khởi cho Nhận tinh. Lại không có Sát thì Nhận không hiện, không có Nhận thì Sát không có uy. Nhật chủ vượng, được Sát để hợp khứ kỳ Nhận tinh. Nhưng Sát là con người, Nhận là khí, Nhận Sát đình quân, phần đa làm nên hình luật trong quân đội là quan vinh hiển, nếu nhật chủ nhược thì Nhận làm trợ giúp, thấy Quan Sát nhiều, chế khứ Nhận, phần đa chủ là kẻ chờ cướp nàng hầu, nhưng Dương Nhận cách, cùng Kiến Lộc cách có phần hơi giống nhau. Nhưng mà Kiến Lộc không nói Nhận, cái ngày ở nguyệt lệnh đều giống nhau về hình thể thuần hòa vậy. Tứ trụ thái vượng, lại lộ xuất ra Đinh hỏa gần thân, là Nhận càng rực cháy thì thân lấy Quan yên ổn mà không được chỗ ư? Như mệnh Hạ Trụ Châu là rất ứng nghiệm..

Kiến Lộc cách là nhật chủ được đất Lộc, không phải là quan lộc vậy. Sách nói Nguyệt lệnh Kiến Lộc, phần đa không có Tổ ốc, mà không nói rõ lý lẽ, con người dụng Tài là Mã, dụng Quan là Lộc, giả như Giáp nhật sinh tháng Dần, Giáp lấy Tân là Quan, Kỷ thổ là Tài, Tài Quan đến Dần là đất tử tuyệt. Con người thì lấy Tài làm Tổ nghiệp, lấy Quan là phúc thần, Tổ là phúc thần đều là nguồn gốc, cách này đa số là không có Tổ nghiệp là rất nghiệm. Vốn là Giáp nhật sinh Dần, nhưng ở trên chính là bỏ Giáp mộc, Tài Quan lại để trống, lại yên ổn mà có Tổ ốc ư! Can năm nêý thấy Lộc này, cùng chủ Tổ nghiệp trôi nỗi. Thấy mang theo cách này, đa số là chủ hình thê, cùng Dương Nhận cách giống nhau. Như Giáp nhật thấy Dần, Dần trong có Giáp mộc đến khắc thê vậy. Như tứ trụ có khí thái vượng, không thong thả mà Kiến Lộc cách, cần có Quan Sát khắc chế kỳ Lộc, cần Tài tinh để thành thân vượng mà cầm. Nếu có một ít năm, ngày đúng hưng thịnh, Tài Sát quá nhiều, tức là biến vượng thành nhược cũng cần có Ấn vận để sinh phúc thần, cần vận chuyển động để trợ khởi cho Lộc vậy. Lại như ngày vừa thấy Tài Quan, tự nhiên mà phát phúc. Thân vượng, gốc là bỏ ruộng đất nhà cửa mà bên trong không có Tài Quan, hì không có tổ nghiệp, nếu thân vượng thì có thể đảm nhận tài, khởi không phải tay trắng mà thành gia ư?

Thientam
11-04-14, 22:05
Bổ sung: Nói về Dương Nhận thì ở trời là Tử ám tinh, chuyên hành chém giết, trừng phạt. Ở đất thì là Dương Nhận sát, là trước Lộc một vị trí vậy. Hỉ có Thất Sát phục dưới, thì Dương Nhận khởi ở bên cạnh Tuất, phát phú phát quý, đa số là làm tướng sói.
Cho nên 《 Thiên Lý Mã 》nói: "Dương nhận thiên quan hữu chế, ứng chức chưởng vu binh quyền."
《 Tam Xa Nhất Lãm 》cũng nói: "Dương Nhận nếu cùng sinh khí, bậc cửa bên trong bất cứ ai cũng nắm quyền, kỵ phản phục ngâm";
Sách nói: Gặp ngâm thì phản Nhận, tuế vận cùng mệnh giống nhau, như Mão thấy Mão, Dậu thấy Dậu vậy. Gặp thì nhất định hung, tức là tuế vận cùng đến tai ương lập tức gặp vậy. Sao gọi là vặn ngâm? Chính làvị trí xung kích vậy. Như Dậu xung Mão Nhận, Mão xung Dậu Nhận vậy. Đến chỗ gặp, tức là Dương Nhận xung hợp với Tuế quân bỗng nhiên họa đến vậy, kỵ Dậu Nhận tam hợp với tuế quân, Lưu niên thấy Tuất, mà Mão Nhận thành tam hợp, lưu niên thấy Kỷ Sửu, mà Dậu Nhận tam hợp, như lưu niên thấy Tuất, mà gặp Mão là lục hợp, lưu niên thấy Thìn, mà Dậu là lục hợp, con người năm đó gặp thì họa nhất định đến rất nhanh, tức là Dương Nhận hợp Tuế Quân, đột nhiên họa đến là vậy. Kỵ Khôi Cương hình hại, hoàn toàn không có Quan Ấn, phúc thần tương trợ thì thành họa, có Quan Ấn, phúc thần tương trợ thì lại thành phúc, hóa thành có quý.

Sao gọi là Dương Nhận? như Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là ngũ dương có Nhận, Ất Đinh Kỷ Tân Quý là ngũ âm không có Nhận, nói tên là Dương Nhận, như trong mệnh có Nhận, không thể liền nói là hung, nói chung là cùng Thất Sát giống nhau. Phàm có Nhận thì đa số có phú nhân, hỉ nhất là thân vượng tọa Lộc, hợp Sát có chế, Sát Nhận lưỡng toàn, là mệnh phi thường.

《Tam Xa Nhất Lãm 》nói: Dương Nhận có 2 hoặc 3 cách. Có Kiếp tài Dương Nhận, như Giáp thấy Ất vậy, không lợi ở Tài Quan cách. Bảo vệ Lộc mà kéo dài Nhận, như Giáp thấy Mão vậy, đại lợi ở Quy Lộc cách. Vì thế nói như vậy là xác thực.
Nếu Ất thấy Bính, gọi là Đảo Lộc Dương Nhận, thì không phải vậy. Cái Kỷ thấy Bính, danh là Bối Lộc Thương quan, thành đại lợi ở nơi Khứ Quan lưu Sát. Danh là Bối lộc Dương nhận, cách giải rất là miễn cưỡng. Cũng là thuyết Ất thấy Bính, sợ không chịu, đúng vậy.
Lại nói: Kiếp Tài nhiều cách, đại kỵ Tài Quan càng nặng, tuy nhiên cũng có lúc dùng.

《Hỉ Kỵ thiên 》nói: Nhật can vô khí, thời gặp Dương Nhận không là hung.
《 Kế Thiện thiên 》nói: Quân tử đúng cách, cũng phạm Thất Sát Dương Nhận. Lại nói: Giáp lấy Ất muội gã làm vợ cho Canh, hung thành cát. Chỗ này xem ra lại không thể chấp nhất mà luận vậy.
《Hồng Phạm 》nói Dương Nhận hỉ đoạt của cải mà hóa quỷ.
Lại nói: Thân yếu mà tài phong phú, thì hỉ có Dương Nhận khiến cho đệ thành trợ giúp.
《Toát yếu 》nói Dương Nhận sợ xung mà cần hợp.
《 Dịch Giam 》nói Dương Nhận trọng nặng thì nhất định khắc thê.
《Thốn Kim phú 》nói Kiếp tài thương phụ lẫn thương thê.
《 Vạn Kim phú 》nói: Kiếp nếu trọng gặp thì người yểu thọ.
《Nguyên Lý phú 》nói: Sát Nhận lại hiện quân đình, địa vị đến Vương hầu. Sát Nhận nặng mà không có chế, thân thành quan lại.
Lại nói: Nam nhiều Dương Nhận nhất định trùng hôn.
Lại nói: Dương Nhận không hỉ hình xung.
《 Vạn Thượng Thư phú 》Quan tinh mang theo Nhận, chấp chưởng uy quyền vạn tướng.
Lại nói: Thương Quan có Nhận, làm tướng công hầu. Lại nói: Ấn Nhận tương đương, quan cao cực phẩm.
Lại nói: Sát Nhận hưu tù, kẻ sĩ lộc ít, lại nói: Sát chế Nhận hưng, chủ chấp chưởng quản lý binh tốt tốt. Nếu là dụng thần khinh nhẹ, quyết là quan lại thấp hèn. Lại nói: Nhận kèm Thương Quan, hội tụ một chút mây xanh.

Thientam
11-04-14, 22:05
Cổ ca nói:
Dương Nhận Thất Sát sợ gặp Quan,
Hình xung phá hại họa phi thường.
Sợ nhất Tài vượng nơi tam hợp,
Đứt đoạn nảy sinh chủ tàn ngụy.
Lại nói:
Xuân Hạ hỏa gặp thời lại vượng,
Thu Kim Đông thủy cùng giống nhau.
Không cần Dương Nhận thiên can thấu,
Vận đến trọng phùng định có hung.
Lại nói:
Kiếp Tài Dương Nhận không kham lấn,
Không mang Quan tinh cả đời bần.
Giáp Ất cùng gặp này đều giống,
Dẫu nhiều tài bạch hóa bụi tro.
Lại nói:
Thương Quan không kỵ Kiếp tương phùng,
Thất Sát Thiên Quan lý cùng đồng.
Nếu là không Quan không kỵ Kiếp,
Thân cường gặp Tỉ Kiếp nặng ngờ.
Lại nói:
Kiếp tài Dương Nhận hai đầu trú,
Bên ngoài thì sáng bên trong hư.
Quan Sát hai đầu đều không xuất,
Thiếu niên chết yểu che thở than.
Lại nói:
Giáp Tý, Đinh Mão không phải Nhận,
Ất Dậu, Canh Thân lý cũng đồng.
Hợp khởi nhân nguyên Tài Mã vượng,
Trung niên hiển đạt phú hào ông.
Lại nói:
Nhật Nhận quy thời thân cần vượng,
Chính Tài kỵ vận kỵ gặp xung.
Mà như Mậu nhật Ngọ là Nhận,
Tý Sửu kiến Tài lập tức hung.

Tài vận không xung lại không kỵ,
Quan tinh chế Nhận được tôn vinh.
Nguyệt trong có Ấn, Ấn này thông,
Vận đến Quan hương quý cũng đồng.

Trụ nếu Tài nhiều ngại Sát vận,
Không Tài, Sát vận hỉ hưng long.

《 Túy Tỉnh Tử Khí Tượng thiên 》nói: Quyền Nhận lại hành đất Quyền Nhận, thuốc Nhận sẽ làm mạng vong. Gốc chú thích nói: Quyền là Sát vậy, Nhận là quân đội vậy. Thân vượng dụng hai vị này, chính là người đứng đầu dụng binh hình vậy. Sát vượng hỉ hành ở quê hương, Nhận vượng bị tổn hại ở Sát địa, nếu gốc Sát vượng phục hành đất Sát vượng, là xây dựng sự nghiệp nơi công lý, không thể miễn chết bởi dưới lưỡi đao kiếm. Nhận nhiều lại hành đến đất Dương Nhận, tiến lộc được ở Tài, tất nhiên cuối cùng lại là nơi gian nhà thuốc bằng đá, là do số sai khiến vậy.
Lại nói: Trợ thân là Dương Nhận, hỉ hợp mà sợ xung.
Gốc chú thích nói: Nhận chính là vật trợ tài thân, sợ nhất là gặp thân vượng, được một Sát cùng Nhận tương hợp, hóa thành quyền tinh. Nếu thấy Quan cùng Nhận xung chiến, chính là thành ác tính sát nhân. Dụng cần phải suy xét khinh trọng, giống như tốt và xấu như thế nào vậy.
Lại nói: Dương Nhận đến nơi ngũ quỷ, xác định cần phải phạm nặng việc di dời.

Gốc chú thích là: Như người sinh Nhâm Thân thì Ngũ Quỷ ở Tý. Người sinh Quý Dậu thì Ngũ Quỷ ở Sửu. Người sinh Bính Dần thì Ngũ Quỷ ở Ngọ. Người sinh Đinh Mão thì Ngũ Quỷ ở Mùi. Giống như là loại Tam hợp vậy.

Thientam
11-04-14, 22:06
Nhất hành sư 《 Mệnh thư 》nói: Dương Nhận trọng nặng lại thấy Kiến Lộc, phúc quý kim ngọc, này có thể là cát.
《Lý Ngu ca 》nói: Đảo Qua Sát, Huyền; Nhận lại đồng hành, hình thể không thể miễn cùng giống nhau.
Gốc chú thích là: Đảo chính là Đảo qua sát, Huyền chính là Huyền châm sát. Phàm gặp Đảo qua sát, chỉ có phạm chữ Mậu, đều nói là Đảo qua. Huyền châm là can lấy chữ Giáp, cùng chữ Tân, ban tế lễ thì lấy chữ Mão, chữ Ngọ cùng chữ Thân, chỗ này đều gọi là Huyền Châm Sát vậy.
《Kỳ Tiệt ca 》nói: Dương Nhận lại thêm Đảo qua, nhất định lấy cảnh làm quỷ tự sát.
Kinh nói: Vận phùng Dương Nhận, tài vật hao tán.
Luận về Nhận, xưa có nói: Nhật Nhận có Tuất Ngọ, Nhâm Tý ba ngày, cùng Dương Nhận phép giống nhau, kỵ hình phá hại hội hợp, thích Thất Sát, cần hành đất Quan thì là quý mệnh. Nếu tứ trụ gặp thứ nhất là hội hợp, nhất định chủ tai họa. Người chủ rất cần phải cường, tính cương quả nghị, không có tâm trắc ẩn, nhân từ, có khắc cướp, bất chấp không thương hại, có tam hình, khôi cương, thì phát tại ở nơi chiến trận. Như hoặc là vô tình, hoặc là lâm Tài vượng, thì chủ tai họa. Hoặc có Xá thần, như hình hại đều đủ, giống như đều đắc địa, quý không thể nói,khi nói chỉ có đơn độc là Dương Nhận, trong tứ trụ không cần nhập đất Tài, sợ xung Dương Nhận. Như Mậu nhật Nhận ở Ngọ, kỵ hành Tý chính là Tài vận; Nhâm Nhận ở Tý, kỵ hành Ngọ chính là Tài vận; Canh Nhận ở Dậu, kỵ hành Mão chính là Tài vận; Giáp nhận ở Mão, hành Tị Ngọ cùng Thìn Tuất Sửu Mùi là Tài vận không phương, kỵ Dậu vận; Bính nhật Nhận ở Ngọ, hành Thân Dậu Canh Tân Tài vận không phương, kỵ Tý vận.

Luận Tỉ kiếp , nói đến Tỉ Kiếp là dương thấy dương, âm thấy âm, là Tỉ. Như Giáp thấy Giáp, ất thấy ất các loại đều là hại thê, hại tử. Ngũ dương thấy ngũ âm như Giáp thấy Ất, là huynh thấy đệ, là Kiếp Tài, không khắc thê. Tài là do tâm mong muốn mà có, phương làm cho thấy nhiều thì có tranh cạnh, như bình thương như nhau thì có mấy người.
《 Lục Thân tiệp yếu luận 》nói: Phân ra lộc cần phải đả thương chủ mà đem tặng cho người, cũng ví như là bệnh tật nguy kịch trùng điệp làm tổn hại nghiêm họ hàng thân tộc.
Bổ sung: Tài đa thân nhược, hỉ có Tỉ Kiếp tài phù trợ là phúc. Cho nên nói Nam gặp Dương Nhận mà thân nhược, gặp là thành kỳ, Tài khinh mà thân cường thì mới kỵ đoạt. Cho nên nói Dương Nhận nhiều mà Thê cung có tổn hại.
Ca viết: Giáp Ất cùng thấy tất thương thê, Bại tài khắc cha định là không thể nghi ngờ.
《Kim Bất Hoán 》nói: Thân vượng mà Tỉ Kiếp trọng, tổn tài lại thương thê. Tỉ Kiếp gặp Kiêu Thực, thê gặp sinh sản mà lâm nguy.
《Lục Thân luận 》nói: Nguyệt trong quy lộc không có Tài Quan, thì cha mất mà ly hương. Lại nói: Nhật gặp Nhận giờ gặp Kiếp, thê sinh bị chết. Lại nói: Ngày giờ có Bối Mã phân Tài không có cứu trợ, vợ con ly tán.
《Toát Yếu 》nói: Tỉ kiên cần gặp Thất Sát chế.
Kiến Lộc cách 《 Hỉ Kỵ thiên 》nói: Lệnh sớm gặp Kiến Lộc, hợp mạnh hội Sát thành hung 《 Cách Giải 》Hai thuyết nói trước đợi mà xem. Chỗ này đúng cần lấy để truyền không phạm khuyết điểm, nhưng không gặp hoàn toàn Kiến Lộc vừa nói, lại phụ chú là Chính Quan cũng không phải.
Xưa chú thích: Lấy hội Sát, là ám nhằm vào Thất Sát là hung triệu. Như Giáp nhật dụng tháng Dậu là Quan tinh chính khí, như năm giờ là Tý Thìn, thì hội khởi Thân kim là Thất Sát, chính là kẻ xâm lược Giáp, cho nên là hung. Nhưng lộc của Quan lộc, dụng chữ lệnh tuy cùng gặp chữ thấy khiên cưỡng. Huống chi Tý Thìn ám hội, là hợp thân với Sát. Lại còn liên quan đến hội không thể tòng.

Thientam
11-04-14, 22:06
Hoặc nói là hội Sát, nói là tọa thấy Thất Sát. Năm, giờ thiên can đều hiển lộ, địa chi ẩn tàng. Không có chế phục vốn là vậy. Tựa như là thắng chú thích trước đây. Cũng cùng chữ lệnh, được chữ phùng chữ kiến không nhận, cũng không có thể tòng. Hoặc giả như lại lấy Nguyệt lệnh Kiến Lộc, chỗ này vốn là đúng, nhưng mà không có chú giải. Ngu dốt bổ sung nói rằng Kiến Lộc, nguyệt lệnh thập can lộc là vậy, không phải là lộc của quan lộc. Như Giáp Ất lộc ở Dần Mão, Bính/ Mậu lộc ở Tị, Đinh/ Kỷ lộc ở Ngọ, Canh lộc ở Thân, Tân lộc ở Dậu, Nhâm lộc ở Hợi, Quý lộc ở Tý là vậy. Hội Sát như thiên can đã thấy Sát, địa chi hội hợp Sát vượng gọi là vậy. Như Giáp lộc ở Dần kỵ Canh Sát, Ất lộc vượng hành là lộc, cũng không cần quá vượng. Hỉ thấy Tài cung, cùng thiên can thấu lộ, cho nên nói Kiến Lộc sinh Đề Nguyệt, Tài Quan hỉ thấu thiên, khôngt hích thân ở vượng địa, duy chỉ có hỉ Mậu là gốc Tài. Lại như nhật nguyệt lệnh Kiến Lộc, đa số là không có tổ ốc. Vừa thấy Tài Quan, tự nhiên thành phúc. Thì phúc suy nhược, trái lại là hung họa, cho nên ngày Ất mộc sinh ở Mão, Canh Tân can thượng gặp. Hỏa vượng người phát phúc, Sát địa hết Thọ nguyên.
Lại nói: Xuân mộc không có kim không là kỳ, kim nhiều càng sợ trái lại là gặp nguy. Trụ trong lấy được khí trung hòa, phúc thọ càng yên tỉnh cần cho trăm sự. Lại nói: Nguyệt lệnh Kiến Lộc, hội Sát thành hung là có thể vậy. Lại lấy thêm tuy gặp từ thiết kỵ là sao vậy? Kiến Lộc thì thân vượng, có Tỉ kiên phù trợ cho nên không sợ Sát. Nhưng Sát như mãnh hổ, có phục chế thì thành quý, nếu không có chế mà hội Sát vượng, không nói thân cường nhược, nhất định là hung, huống chi Kiến Lộc cách chỉ hỉ Tài Quan, tốt nhất là không hỉ thấy can mang theo Sát mà chi hội vượng, cho nên nói Nguyệt lệnh tuy phùng Kiến Lộc, thiết kỵ hội Sát hung. Thì tuy có gặp chữ “phùng” chữ “thiết kỵ” , mới có bỏ quên, thiết lập chữ “lệnh” rõ ràng không nên khiên cưỡng. Cho nên lấy thuyết này, lại là sử dụng đệ giải phá hai tuyết trước.
Lại như 《 Quan Động Huyền Kinh 》nói: "Giáp dĩ dần lộc, canh nhâm bản phi giá." Lại nói: “Lộc có thể lấy vọt lên cao hưng thịnh, có lấy ở vô dụng” thì tuy có chữ “thiết kỵ”, có khinh trọng mà châm chước rõ ràng.

Ví dụ: Hỉ kiến Tài Quan.
Canh Tý, Mậu Tý, Quý Sửu, Canh Thân. Hàn Thị Lang tạo.
Nhâm Thân, Bính Ngọ, Kỷ Hợi, Canh Ngọ. Triệu Thừa Tướng tạo.

Ví dụ: Kiến Sát hữu chế.
Tân Sửu, Canh Dần, Giáp Thìn, Ất Hợi. Hạ Thừa Tướng tạo.
Mộc vượng xuân lệnh, nhật can đầu Quan Sát nối liền, chỉ luận Sát, vận hành Bính Tuất Đinh, chế Sát hương, trở thành đại quý vậy. Huống chi Giáp Ất cùng Canh Tân kim đều thành phối ngẫu. Cho nên là không kỵ Sát vậy.

Ví dụ: Hội sát vi hung.
Tân Sửu, Tân Mão, Ất Sửu, Canh Thìn. Thi Hồng phú mệnh cách.
Ất lộc ở Mão, can đầu đều thấu lộ Canh Tân, hỉ hành Tuất Hợi hai vận, mộc hỏa vượng vị, đất chế phục là phát phúc. Nhập Dậu vận, Sửu Dậu hội Sát vượng, bỏ mạng mà chết.

Thientam
11-04-14, 22:07
Nhâm Dần, Đinh Mùi, Bính Dần, Nhâm Thìn. Hạ Các lão quý mệnh, hỏa hữu dư thủy bất túc cách.
Nam viết:
Bính hỏa viêm sáng cháy nếu nấu,
Cần hành Sát vận cứu bốn phương.
Canh Tân Nhâm Quý đăng Hoàng Các,
Ấn Tỉ trọng nặng thọ tạ thế.

Bính Dần nhật chủ, năm tháng hỏa khí rất nóng được trụ năm giờ có Nhâm thủy giá xuất, chính là thủy hỏa có Ký Tế lập công, nhưng mà tứ trụ khí hỏa thổ còn thắng, khí kim thủy còn nhẹ vậy, cho nên lấy vận đến Nhâm Tý, Quý Sửu, can chi đều là thủy, thành khí thủy không vượt, lấy bổ sung thủy vậy, do đó vận bước lên Hoàng Các, bây giờ gọi là Thủ tưóng vậy. Quý là ở Nguyệt nơi Đinh Mùi, thấu xuất Dương Nhận, hợp khứ Nhâm Sát, chính là Nhận Sát tương trợ, uy quyền vạn dặm. Vừa vào vận Giáp Dần, trợ khởi hỏa khí thì lại hỏa có dư mà thủy không đủ vậy. Là dựa vào Đinh hỏa Dương Nhận thấu xuất vậy, chính là Dương Nhận Đảo Qua, nhất định lấy quỷ không đầu, Giáp vận mạng vong.

Nhâm Dần, Đinh Mùi, Bính Thân, Nhâm Thìn.
Nam viết:
Bính Đinh Mùi nguyệt hỏa tuy viêm,
Thủy khí trọng lại gần lại không phải.
Hỏa khí nếu suy cần mộc vận,
Tiếp hành thủy vận họa liên miên.

Bính hỏa tuy vượng, không hợp Hạ Chí sau lúc Nhị Ấm, thủy khí tiến khí, lại thêm Bính ở Thân vị, tam hợp hỏa cục, thủy có dư mà hỏa không đủ vậy. Mà như ở Bính hỏa cuối mùa, kim thủy tiến khí, hỏa khí tương suy. Nếu Hạ Các Lão sinh ở Bính hỏa đầu mùa, hỏa thần chính vượng. Mệnh này tái hành Nhâm Tý, Quý Sửu, không khởi Sát trọng thân khinh chăng. Sơ hành Tây phương, ở trên lấy không thuận lợi mà làm nhà nho giáo, tái hành Bắc phương mà làm ăn mày. Mệnh này vốn là không tương xứng sắp xếp vào ví dụ này, nhưng cùng tạo Hạ Thôi Châu chỉ khác có một chữ, cho nên sắp xếp giống nhau để tiện có ví dụ mà so sánh vậy.

Canh Ngọ, Tân Tị, Bính Thân, Nhâm Thìn.
Nam viết:
Bính hỏa tuy sinh được đất Lộc,
Không kham Tài Sát nặng mênh mông.
Biến cường thành nhược nhiều bần yểu,
Lại nhập Tài hương thọ sao dài?

Bính hỏa tuy đắc lộc ở Tị, không hợp tứ trụ có nhiều khí thủy thắng, sớm hành Ngọ Mùi vận, hỏa vượng trợ thân, áo cơm có phần no đủ, vừa vào vận Thân, Tài Sát quá nhiều, mang bệnh tật mà chết. Có người sinh giờ Ất Mùi, hỏa vượng rất vượng, nhập Tây phương có khả quan, chỗ này là mệnh Ngô Đô Chiêm vậy.

Thientam
11-04-14, 22:08
Tạp khí Tài, Quan, Ấn thụ cách. Phụ thời mộ cách.

Nam viết: Tạp khí Tài Quan là 4 chữ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, chính là khí thiên địa bất chính, là bốn vị trí chỗ lao ngục của thiên địa, lại là 4 chỗ được cất giữ lại trong kho ( khố) khí của trời đất. Như ngày sinh là Bính Đinh ở tháng Thìn, nếu như thiên can đều thấu Mậu Kỷ nhiều thì lấy tạp khí hỏa thổ Thương Quan cách; như thấu xuất Ất mộc nhiều thì lấy tạp khí Ấn Thụ cách; như thấu xuất Quý thủy nhiều thì lấy phương tạp khí Tài Quan cách; như ngày Mậu sinh tháng Tuất, thân nhược thấu Đinh hỏa nhiều thì lấy tạp khí Ấn thụ cách, thấu Tân kim lấy tạp khí Thương Quan cách.
Lại viết: Tạp khí Tài Quan hỉ thấy xung. Duy chỉ có Nhật can vượng, là dụng tạp khí Tài Quan, hỉ thấy gốc Tài tàng thiên địa ỡ trong khố thì gắn bó bền vững, kiên cố. Như ngày Mậu sinh ở tháng Thìn, thấy Quý Ất là Tài Quan, là tiền bạc ở trong khố, là vô cùng bền vững, nếu không có giờ Tuất thì chìa khóa làm sao mở được, xung khai Tài khố, dĩ nhiên là phúc đức hưng long vậy. Nếu không dụng Tài Quan thì không thể đem xung khai để luận. Đương nhiên phải xem trung hòa hay thiên khô, hoặc sợ kỳ xung là hại thần, gặp tiếp tục xung cũng đến nữa thì tai họa càng nặng. Như ngày Bính sinh tháng Thìn, lộ xuất Ất mộc Ấn tinh, lại xem tiếp có Ất mộc, lại vừa có trợ giúp cho Ấn thụ cách. Nhưng trong trụ nếu gốc có kim khí, thì gốc của Ấn tinh suy vậy, nếu tiếp tục gặp hành vận Tuất, trong Tuất có Tân kim, xung phá Ất mộc chứa trong Thìn, chỗ này gọi là Tham Tài phôi Ấn, thì làm sao có thể lấy tạp khí Tài Quan hỉ thấy xung mà luận vậy? Lại như có ngày Bính Đinh sinh ở tháng Tuất, thấu xuất Mậu thổ nhiều, lấy tạp khí Thương Quan cách xem, nguyên nhật can Bính Đinh thuộc hỏa, đến tháng chín là tháng trao áo, hỏa khí mát lạnh, thấy thổ nhiều là hỏa bị tinh hoa, hỉ phía Đông là chủ mộc vận, khắc mất kỳ Thương Quan, không đến tiết khí Ta, hỉ mộc vận lại đến sinh Ta thì cát. Nếu đến Thìn vận, tái xung xuất Tuất trong chứa Mậu thổ, thì càng tiết nhược tinh thần của ta, thì có an ổn được không? Việc này cũng không thể lấy tạp khí Tài Quan hỉ thấy xung được vậy. Duy chỉ có thân vượng có Tài Quan, thì phương hỉ có xung khai, sớm phát đạt. Cách này cùng Thương Quan là khó xem, cách này cần phải có vật lộ ra trong khố vừa đến thì phương có thể xác định dụng thần. Trong sách đại thể lấy xung khai là tốt, là không sai lầm vậy.

Thientam
11-04-14, 22:08
Cổ ca nói: Tháng Tạp khí Tài Quan Ấn, thiên can thấu lộ mới là phong phú. Tài nhiều Quan vượng cần phải xung phá, can chi cần tránh kỵ áp chế nặng.

Bổ túc: Tài là nguồn dưỡng mệnh; Quan là gốc phù thân; Ấn thụ là nền tảng sinh thân vậy. Ba loại này tích trữ ẩn náu ở trong tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, chính là khí Tứ ngung ( bốn góc), không phải là thiên địa chính khí Đông Tây Nam Bắc, cho nên viết là Tạp khí Tài Quan Ấn thụ cách. Cách này hỉ thấu lộ, hỉ hình xung phá hại, hoặc dụng Tài quan, mà Tài Quan thấu, hoặc dụng Ấn thụ mà Ấn thụ thấu, thấu Tài thì phú, thấu Quan thì quý, thấu Ấn thì cát, vạn vật hưởng thụ khi thành, cho nên viết là Thủy vi phong ( là sớm thành đạt). Nếu Tài Quan Ấn đóng kiên cố ở trong khố, không xung không hình thì thiếu niên không phát, do đó cần phải xung phá vậy. Nếu can chi mà gặp Tỉ Kiếp áp chế, Quan gặp Thực Thương áp chế, Ấn thụ gặp Tài tinh áp chế hơn nữa quá nhiều thì ham muốn phú quý mà hưởng ngay lúc đó cũng rất khó, cho nên viết là Thiết kỵ can chi áp phục trọng.

Lại viết: Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Quý, Ấn thụ Tài Quan ở tạp khí. Can đầu thấu xuất là chân cách, chỉ luận Tài nhiều là tôn quý.

Bổ túc: Thìn có Ất Mậu Quý, chính là mộ khố của thủy thổ, là tháng cuối mùa Xuân ( còn gọi là Quý Xuân); Tuất trong có Tân Mậu Đinh, chính là mộ khố của hỏa, là tháng cuối mùa Thu ( còn gọi là Quý Thu); Sửu trong có Kỷ Quý Tân, chính là mộ khố của kim, là tháng cuối mùa Đông ( còn gọi là Quý Đông); Mùi trong có Đinh Kỷ Ất, chính là mộ khố của mộc, là tháng cuối mùa Hạ ( còn gọi là Quý Hạ). Trong tháng Tứ Quý, sở tàng Ấn thụ Tài Quan, đều là khí của thiên địa bất chính, cho nên viết là ở tạp khí. Cần xem trong cách có thấu xuất, chính là phúc. Đại khái tạp khí cách, thấu xuất quý khí cho nên tốt, cũng lấy Tài nhiều là tôn quý, bởi vì không có Quan mà thấy Tài, thì cũng có thể sinh Quan, đa số vốn là mệnh đỗ đạt.

Lại viết: Thuận theo tạp khí là không thuần, thiên can thấu xuất mới là chân, thân cường Tài vượng sinh Quan lộc, vận thấy xung hình tụ báu vật quý giá.

Bổ túc: Thìn Tuất Sửu Mùi, cư ở tứ ngung, tuy không phải là chính khí của Đông Tây Nam Bắc, nhưng thiên nguyên thấu lộ, phương là chân cách. Thân cường, như loại Canh Thân, Tân Dậu. Tài vượng, như Mùi khố mộc hành Đông phương, Tuất khố hỏa hành Nam phương, Thìn khố thủy hành Bắc phương, Sửu khố kim hành Tây phương, là đất sinh vượng thì bản thân có con thanh quý, mà phát quan phát lộc. Tứ trụ người không có xung hình, mà gặp vận thì châu bàu tự nhiên tụ lại, thì kho tàng người đó chứa đầy vàng bạc, châu báu.

Lại viết: Ngũ hành gặp tháng tứ quý, can đầu là Ấn thụ thì hiển vinh. Tứ trụ tương sinh hỉ Quan Sát, càng dồi dào tài sản.

Bổ túc: Giáp Ất sinh ở tháng Sửu, Bính Đinh sinh ở tháng Thìn, Mậu Kỷ sinh ở tháng Tuất, Canh kim sinh ở tháng Thìn Tuất, Nhâm Quý sinh ở tháng Tuất, đều là các tháng cuối mỗi mùa vậy, tất cả có Ấn thụ tàng khố, hỉ có can đầu hiển lộ, lại cần phải có trong trụ Quan Sát tương sinh, Tài tinh có khí, thì Tài sinh Quan, Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân. Thân khắc Tài thì vinh quý, là vì Ấn nhờ Sát sinh, Quan dựa vào Tài vượng để sinh. Hoặc viết cách này lấy tạp khí mà nói, có Quan Lộc, không chỉ là quý hiển, tài sản càng nhiều phong phú hưng thịnh, cũng không cần phải thấy Tài.

Thientam
11-04-14, 22:09
Lại viết: Nguyệt lệnh đề cương không thể xung, 10 phần xung thì có 9 phần là hung. Duy chỉ có gặp mộ khố Tài Quan, vận hành đến đó trái lại là thành công.

Bổ túc: Tài Quan gặp ở Đề Nguyệt, tối kỵ gặp xung, xung 10 thì có 9 là hung. Duy có Tài Quan ở khố là không xung không phát, cần gặp hành vận phương có thể phát phúc.

Lại viết: Sinh Vượng cần gặp Mộ Khố tuyệt, mộ khố thì nhất định đến sinh vượng phát. Sinh mệnh gặp quá sinh vượng thì không phải thích hợp, mộ khố gặp hưu tù thì cuối cùng không phát.

Bổ túc: Sinh cộng thêm quá sinh vượng thì không phải thích hợp, nói theo đoạn văn ở trên thì sinh tài cần gặp mộ, khố, tuyệt, mà nói vậy, ý cũng không phải là có khác biệt. Mộ khố gặp hưu tù cuối cùng không phát, chữ Nhật thượng mộ khố ( can ngày mà có chi là mộ khố) nhất định là nói đến sinh vượng vậy, ý này cũng không phải có khác biệt. Như trong trụ có Tài Quan Ấn sinh vượng, thì không cần nhập mộ Tài Quan Ấn vậy, cho nên viết là Vượng Quan vượng Ấn dữ vượng tài, nhập mộ hữu họa. Như nhật can sinh vượng, không cần nhập nhật can khố địa, cho nên viết là Thân vượng nhập khố tất hưng tai. Mộ nhất định đến sinh vượng là phát, như Tài Quan cư ở mộ khố, nhất định đến Tài Quan sinh địa là phát Tài, phát Quan. Như thân chủ mộ khố, nhất định đến đất thân chủ sinh Tài thì có thể lấy thân phát. Lại sinh cộng thêm vượng quá thì không phù hợp, như thân cư sinh vượng, cộng thêm vận lấy thân Tài Quan sinh vượng thì thái quá tất gặp họa, vì gặp tương phùng sinh địa, thân chủ cần phải gặp vận thoái khí bớt sinh vượng, thì thái quá có xấu. Vì Tài nhiều không có tài, vận gặp hóa Sát sinh tai họa, Quan nhiều không có Quan, bản thân thái vượng thì trút hết nguy hiểm. Như thân cư ở sinh vượng, cộng thêm lấy vận thân chủ sinh vượng thì thái nhất định nhược, vì gặp sinh địa tương phùng, thần cần phải thoái khí mà né tránh chức vị, sinh địa tương phùng, vốn là bản thân thời thanh niên mất lộc. Mộ khố gặp hưu tù cuối cùng không phát, như Tài Quan cư ở đất mộ khố, vận đến lại gặp thân chủ bị hưu bại thì làm sao mà thân phát.

《 Tam Xa 》nói: Tài Quan tạp khí cách, cũng thấu Tài là giàu có, cũng thấu Quan là quý, cũng thấu Ấn thụ là hưởng của phụ mẫu điền sản trạch xá, tài bạch giàu có, như sách vở có nói Sắc ấm tí chi quý. Như không có thấu xuất, thiếu xung khai thì có phát, thân vượng thành tốt, không hợp thân nhược, hình xung thái quá.
《 Cảnh Giám 》 nói: "Tạp khí tài quan thân vượng, hữu trùng nhi phát, nhược thái quá phản thụ cô bần." Cô bần là thân nhược thì tài bị bế tắc lại tiêu hao phóng đãng, vốn là cà hai phía bị hình xung vậy.
《 Tập Thuyết 》nói: Tài khố là kho tàng tích trữ, là nơi Thìn Tuất Sửu Mùi vậy. Như nguyệt lệnh thấu xuất, hoặc năm, giờ cũng thấu Tài, cũng không cần một điểm Quan tinh, vẫnc có thể dùng cách này. Do thấy Thìn thổ khố là Tài khố, tứ trụ cần có thiên can thấu xuất Mậu Kỷ là tốt. Đại để, trong tứ trụ có Tài khí nhiều, không có không nhập quý cách. Không có Quan thấy Tài cũng có thể sinh Quan, là mệnh nhập nhiều Tài phủ. Nhưng không hợp Tài tàng ở trong khố, cần phải có hình xung phá hại, lấy để mở chìa khóa trong cục, là phương có thể phát phúc.

Thientam
11-04-14, 22:09
Lại viết: Nói về khố Quan là kho tích trữ địa vị, lấy Thìn Tuất Sửu Mùi là tháng được Tứ Quý, nhưng không biết là trong khố phải thấu xuất, dụng Nguyệt can thấu xuất Thất Sát. Không sợ hình xung phá hại, càng hỉ ở đất chế phục, lại cần có hợp, phương có thể thành quý. Như không có chế phục, lại không có hợp, bản thân lại nhược, nhất định là có hại vậy. Như nhật can Bính Tý, giờ Thìn là khố Quan, nhất định khó phát ở thiếu niên, thuộc thủy khố quá nhiều. Nhưng không cần có thiên can Thương Quan, như tác phẩm Quan chúa tể hào muộn thành. Hành vận cũng không cần hành ở đất Thương Quan, hỉ đất Quan tinh, hỉ thân vượng Quan vượng, hỉ xung hỉ lộ, thiên can Tài Ấn kỵ bị bế tắc.

Lại viết: Như người sinh Bính Đinh, lấy Thìn là khố Quan, thủy thổ khố ở Thìn là kiên cố vậy. Cần có năm tháng ngày giờ có mộc, hoặc Hợi Mão Mùi cùng Dần là thanh. Như không có mộc, thì thổ đoạt Quan tinh Bính Đinh, thì là trọc thấp mà không thanh, cũng không vinh hiển.

《 Hồng Phạm 》nói: "Thời phùng Ất mộc dữ Nam mộ. Tuy phú nhi bất nhân, Bính ngộ kim âm nhi Bắc mộ, túng bần nhi hữu đức."
Bổ túc: Nam mộ là Mùi khố vậy, Bắc mộ là Sửu khố vậy; âm kim là Tân kim là Chính Tài của Bính hỏa vậy.

Lại viết: Thìn Tuất Sửu Mùi có đầy đủ chính là Tài khố, tôn là phú quý.
Lại viết: Tài tinh nhập mộ, chính là chủ hình xung thì nhất định hình thê.
Lại viết: Quan lại gặp nhau, xác định là phong thanh xấu.
Bổ túc: Thần Tuất Sửu Mùi hỗ hoán (trao đổi, hoán vị), phạm cho nên viết là Hỗ phùng ( tức là gặp lẫn nhau), xác định là chủ phong thanh không tốt, việc này lấy Nữ mệnh mà nói. Nam mệnh gặp là đại phú quý, nhưng cuối cùng là chủ khắc phụ mẫu.
Lại viết: Tứ trụ mộ có Quỷ, chính là không có sợ về nơi suối vàng, Tuế vận không là đất tinh tuyệt, định chủ uyên ương phối hợp không phải là con đường khác.

《Tập Thuyết 》viết: Trong bát tự, Giáp lấy Tân là không có, gặp Sửu vốn là kim Quỷ khố. Nếu trọng thấy Tân, nhất định chủ người đàn ông sợ nhập hoàng tuyền vậy. Lưu niên, đại vận nhập Quan Quỷ ở đất tuyệt bại, nhất định chủ vợ chồng gặp tử biệt.
Lại viết: Tài tinh nhập mộ, có một chút hình xung nhất định phát.
《 Tứ ngôn độc bộ 》nói: Tháng sinh Tứ Quý, Nhật tọa Canh kim, sao lo chủ nhược, vượng địa là thành danh.

Lại viết: Ngày Nhâm tháng Tuất, can Quý tháng Mùi. Vận hỉ Đông phương, gặp khắc thì tuyệt. Ở trước có lẽ sửa thành gặp xung thì tuyệt.
Lại viết: Ngày Tuất tháng Sửu, Tỉ kiên không kỵ. Kim trùng nhiều mà nhập cách, kỵ gặp Ngọ Tuất.
Lại viết: Khúc Trực tháng Sửu, Tỉ nhớ Kiên lại mang Ấn mà nhiều kim, ngày Nhâm Quý Sửu, là thổ dày mà nhiều.
Bổ túc: Khúc Trực vốn là Giáp Ất mộc sinh tháng Sửu. Kim nhiều thì quý, Ấn có thể hóa địch Sát vậy. Nhâm Quý sinh tháng Sửu, thổ dày thì quý. Lấy kỳ kim khố sinh thân vững bền vậy.

Thientam
11-04-14, 22:11
Cổ ca nói: Gặp Tài Quan tàng ở trong khố, dấu diếm ánh sáng hạnh phúc không hưng thịnh. Nếu được cửa khố mở thấu lộ, xác định là người thấy trong quân đội không phải bình thường.

《 Kế Thiện thiên 》nói: Nạp túc tấu danh, tài khố cư sinh vượng chi địa. Đoạn này《Cách Giải 》kèm theo Chính Tài gặp ở dưới, là do người thời nay đính chính lại.

Bổ túc: Đoạn này có hai thuyết, thuyết thứ nhất là Tài khố cư sinh vượng, như kim sinh ở tháng Mùi, vốn là Tài khố. Nhật can cần cư ở đất sinh, vượng, phương có thể được tài, phát phúc lâu dài.
Thuyết này có thể theo. 《 Cách Giải 》 thì giải thích bản văn chưa thuận, không phải vậy. Cái thủ dụng dựa vào ở tháng sinh, lấy tháng là Tứ quý, là tạp khí Tài khố, hoặc giờ có tạp khí, nhà nước xuất bản có nói Nhật tọa Khố, như ngày Tân Mùi, mà lấy cách vậy. Huống chi tạp khí hỉ thân vượng, nói là nhật can lấy ở sinh địa, như ngày Giáp Tý cư Tý là bàn thân tự vượng, như loại Giáp Dần, sinh ở tháng Thìn là Tài khố.
Chú thích cũ: Nói là cần phải có một lúc khai, như Tuất xung khai Thìn khố vậy.
Kinh viết: "Thiểu niên nan phát khố trung nhân. Chích phạ hữu vật áp chi, cố viết nạp túc tấu danh." Thuyết này thuận mà có lý, sao nói là không thuận!
Thuyết thứ nhất này nói con người ở thế gian nhờ Nạp túc tấu danh (nộp đủ để lấy danh), chính là nói Thân lâm ở Tài khố. Lấy cư ở nguyệt lệnh sinh vượng. Như kim lấy mộc làm tài, khố ở Mùi, người sinh ngày Tân Mùi , chính là thân lâm Tài khố, nếu sinh ở tháng mùa Đông, nói là Tài khố ở sinh địa, nếu sinh ở tháng mùa Xuân, nói là Tài khố ở vượng địa, cho nên ngày tọa Tài khố ở đất sinh vượng. Thuyết này cũng có vẻ gượng ép. Cái tạp khí hỉ thích thân vượng, như thân cư ở hưu tù thì thiên nguyên suy nhược, chính là Phú thất bần nhân, sao có thể nói Nạp túc tấu danh ư? Tài khố vững chắc cần phải có sinh vượng, thân cần phải cư ở đất sinh vượng, mới có thể đảm đương. Thuyết này không như thuyết trước, cũng đang tham khảo. Như thân cư ở sinh vượng, Tài khố cũng sinh vượng thì càng đẹp, nhưng ở bên ngoài thân mà chuyên nói là tài khố sinh vượng ư?

《 Chá Cô thiên 》nói:
Tạp khí Tài Quan cẩn thận suy,
Càn Khôn Tứ Quý nói chói lọi.
Thân cường Tài vượng sinh Quan vị,
Vận đến trung niên khoác áo quan.
Quan tinh hiển đạt lợi danh đủ,
Nhẹ được Tài phú Phượng Hoàng trì.
Anh hùng nếu được khai Tài khố,
Ngũ hoa quan cáo bái Đan trì ( sân Vua ở).

Thientam
11-04-14, 22:11
Lại viết: Ấn thụ sinh thân nói khí thanh, chỉ có ở tháng sinh là Thìn Tuất Sửu Mùi. Tứ trụ không có Tài làm hiển đạt, gặp Ấn thì thăng chức cộng với phúc thọ tăng.
Vận Quan vượng xác định hưởng thông suốt, Nhà Rồng Gác Phượng cũng nức tiếng. Thiếu niên không có trì trệ khoa giáp đệ, một tiếng sét đánh chấn động cả gia phong.

《 Huyền Ky phú 》nói: vượng Quan vượng Ấn cùng vượng Tài, nhập mộ thì có tai họa. Thương quan, Thực thần cùng thân vượng, gặp khố kiến hưng tai.

Bổ túc: Quan nhẹ, Ấn Tài nhẹ, nhập mộ không có sao. Như tứ trụ có Tài Quan, tam Hợp thái vượng, thì thiên nguyên quá nhược, lại nhập mộ vận tam hợp, thì Quan vượng sẽ khắc thân, Tài vượng sẽ sinh Sát, thì quá nhược nhất định gặp tai họa. Như trên trụ Ấn thụ thái vượng, trọng gặp tam hợp, lại còn nhập mộ vận tam hợp, thì sinh khí thái quá mà gặp họa. Không nói là mộc thịnh thủy phiêu, thổ đa kim mai vậy. Trụ bên trong có Thương Quan, Thực thần nhẹ, gặp khố không có tai họa, nếu Thương Quan, Thực Thần tam hợp thái vượng, lại gặp Mộ hợp, thì tuyệt khí, tất nhiên là tai họa càng nặng, cách này lấy thân nhược quá mức mà nói.
Đã có nói phần luận về Thương Quan cách. Thân nhược gặp khố là không có tai họa, duy chỉ có ở tứ trụ Tỉ Kiếp tam hợp, thì là thân vượng lấy không có dựa vào Kiếp, lại gặp khố thân càng vượng, không có chế thì nguy tai, cách này lấy thân vượng quá cực điểm nà nói. Cho nên viết Vượng tuy gặp Mộ khố, Tuyệt, sinh cộng thêm gia sinh là vượng quá không cần thiết.

Lại nói: Trung hòa vi phúc, thiên đảng vi tai.

Thientam
11-04-14, 22:20
Quyển 3

Khúc trực Nhân thọ cách

Nam viết: Như Giáp nhật can, địa chi đều đủ Dần Mão Thìn, liền được khí đông phương Nhân thọ, trước đó còn có tên Khúc Trực cách. Rất ngại gặp các chữ Canh Tân Thân Dậu, xung phá đông phương tú khí, mặc dù chết yểu cũng quý. Gặp cách này, cũng không sợ gặp phải kỳ Dần Mão Thìn quá nhiều, cùng không sợ Nhâm Quý sinh mộc. Duy chỉ sợ gặp phải canh Tân Thân Dậu là phá cách. Chỉ cần ba chữ Dần Mão Thìn đầy đủ, thành phương cách này. Nếu có một chữ Thân Dậu là phá cách.

Cách giải nói: Cách này Nhật chủ là Giáp Ất mộc, địa chỉ phải là Dần Mão Thìn, hoặc là đầy đủ Hợi Mão Mùi, không có ½ phần Canh Tân khí, hành vận mừng gặp ở phương Đông Bắc, cách này sợ gặp Tây phương vận, càng sợ hình xung.

Như mệnh của Lý Bộ Binh: Giáp Dần/Đinh Mão/Ất Mùi/Bính Tý.

Thi viết: Người sinh Giáp Ất, Dần Mão Thìn, lại có 2 danh nghĩa là nhân ái, sống thọ, chịu đựng sự phê bình. Đủ Hợi Mão Mùi thì hiềm gặp Bạch đế ( kim), nếu phùng vị trí Khảm ( thủy) thì tất nhiên là thân vinh.

Bích Yên phú: Hợi Mão Mùi gặp tại Giáp Ất, phú quý không phù hợp. Lại nói: Mộc truyền phương Dần Mão Thìn, công danh tự nhiên có. Như:
Nhâm Dần/Quý Mão/Giáp Tý/ Mậu Thìn

Nam viết: Giáp mộc sinh Dần Mão Thìn, mộc toàn loại tương hỉ toàn Nhân ái. Giờ phùng Tài Khố là dựa vào hưu, phía Nam phùng sinh, người khác thường lắm của.
Giáp mộc sinh Mão, mộc thuần túy, địa chi cũng toàn phương đông, đồng nhất tú khí. Lại hỉ có Tài thấu xuất, thân vượng, dụng Thời thượng Thiên Tài, cực tốt nếu làm công việc bố thí giúp đỡ cô quả, cách này vốn là như vậy.
Có một Giáp Thân nhật can, thì trái lại là bần, cái là có Thân kim, năng phá đông phương tú khí, người không biết trái lại lấy đó là tốt. tức không biết cách này vậy. Nhập Thân vận thì chết, phá mộc sáng tỏ vậy.

Thientam
11-04-14, 22:21
Giá Sắc cách

Nam viết: Giá sắc cách, lấy nhật can Mậu Kỷ, gặp Thìn Tuất Sửu Mùi, cùng Tị Ngọ Mùi nhiều chữ. Nếu tứ trụ không có Quan Sát, thì dùng cách này.
Nhưng, tháng Sửu Thìn Tuất, tứ trụ thuần thổ không có mộc khắc vậy, đa số theo cách này. Vận hỉ đất của Nam phương hỏa thổ cùng tây phương kim chế mộc vận vậy. Đa số phú quý gặp mộc vận khắc phá Giá Sắc, hẳn phải chết, kỳ diệu tải ở gặp nghiệm ứng ở loại Giá Sắc. Ngày Mậu Kỷ sinh ở tháng Mùi thái vượng, thì không nhập cách này. Nhưng tháng Thìn Tuất Sửu thì thổ nhược, thì thành cách này.

Cách giải nói: Cách này có Nhật can Mậu Kỷ, địa chi cần Thìn Tuất Sửu Mùi đủ cả, không có mộc khắc chế, có thủy làm dụng, phương thành cách này. Vận hỉ Tây Nam , kỵ Đông Bắc.

Như mệnh của Trương Chân Nhân, Mậu Tuất/Kỷ Mùi/Mậu Thìn/Quý Sửu.

Thi viết: Mậu Kỷ sinh ở Tứ Quý, Thìn Tuất Sửu Mùi đều gặp đủ. Hỉ phùng Tài địa, sợ Quan Sát, vận gặp phương đông lập tức kiến hung tai.
Vừa nói chữ Đông phương vận, Bắc phương Tài vận, đều là kỵ, cho nên viết là ngại ( Hiềm) vậy. Đông Bắc càng sợ hình xung cách này.

Bính Yên Phú nói: Mậu Kỷ cục toàn Tứ Quý, vinh quang.

Nhâm Ngọ/Quý Sửu/Kỷ Sửu/Mậu Thìn
Kỷ lâm Sửu nguyệt, thổ rất trọng, thổ hàn, chịu nổi toàn bộ công Giá Sắc. Có chút ít mộc kẹp làm bệnh, vận hành kim chủ tiền bạc phong phú.
Kỷ thổ sinh vào 12 tháng, nhật tọa thổ lâu bền, tứ trụ thuần thổ, mà thổ khí hàn lạnh, chịu đựng làm thổ toàn Giá sắc. Nhờ vã giờ Thìn, là có thủy khí, ám đến tổn thổ, bắt đầu không là bệnh ư? Sớm hành Đông phương Giáp Dần, Ất Mão, đưa ra Thìn tàng chứa ất mộc, đến khắc Giá sắc là thổ, khắc sâu là bất lợi. Vận đáo gặp Bính Thìn, Đinh Tị, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, thổ suy nhưng mừng gặp sinh phù, tài phát sổ hàng vạn đồng. Tài hành Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, khắc hết Thìn tàng chứa Ất mộc bệnh thần, giàu sang nhất Quận. Hành Hợi hội mộc cục, phương chết, sống thọ 50 tuổi, vốn là tự nhiên vậy.

Có một mệnh: Nhâm Ngọ/Quý Sửu/Kỷ Sửu/Kỷ Tị, cái duyên là Tỵ Sửu hợp thành kim cục, chỉ có lấy Thương Quan, không lấy Giá sắc, vừa bần mà có tật tai điếc, chỉ lấy thầy đông y, gọi là Thương Quan hành Tài suy vận vậy.

Thientam
11-04-14, 22:21
Viêm Thượng cách

Nam viết: Viêm Thượng Cách, Bính Đinh sinh tháng Dần Mão, được cả Dần Ngọ Tuất, thì là hỏa hư mà vẫn có ánh sáng, sợ nhất là có thủy phá cách. Cũng sợ hỏa khí thái quá, thì hỏa hư không vậy. Sợ kim thủy phá mộc hỏa, cách này lại ứng nghiệm.

Cách giải nói: 2 ngày Bính Đinh gặp toàn Dần Ngọ Tuất, hoặc Tị Ngọ cũng là cách này. Kỵ đất kim thủy, hỉ hành đông phương vận, sợ xung, yêu cầu thân vượng, tuế vận giống nhau.

Như mệnh Trương Thái Bảo: Ất Mùi/Tân Tị/ Bính Ngọ/Giáp Ngọ

Thi viết: Dưới hỏa trên viêm ( nóng), ngọn lửa cao, vốn là phương hướng đều là vinh hiển hào hùng. Vận hành mộc địa phương thành khí, tài hoa xuất chúng đoạt Cẩm bào.

Bích Yên phú nói: Dần Ngọ Tuất gặp tại Bính Đinh, được có ngày vinh hoa. Lại viết: Hỏa lâm khu vực Tị Ngọ Mùi, người hiển đạt.

Thientam
11-04-14, 22:22
Nhuận Hạ cách

Cách giải viết: Như ngày Nhâm Quý, yêu cầu toàn bộ là Thân Tý Thìn, hoặc Hợi Tý Sửu cũng là cách này. Kỵ Thìn Tuất Sửu Mùi. Hỉ Tây phương vận, không hợp Đông Nam, sợ xung khắc, tuế vận đồng nhau.

Thi viết: Thiên can Nhâm Quý, hỉ mùa đông, càng tốt khi gặp Thân Thìn hội cục. Hoặc toàn bộ là Hợi Tý Sửu, bình thường bằng phẳng bước lên mây xanh.

Như mệnh Vạn Tông Nhân:
Canh Tý/Canh Thìn/Nhâm Thân/Tân Hợi

Bình Yên Phú nói: Nhâm Quý cách được Thân Tý Thìn, phúc đầy đủ, tài sung túc.
Lại nói: Thủy quy về Hợi Tý Sửu, người đầy vinh hoa phú quý.

Thientam
11-04-14, 22:22
Tòng hóa cách

Nam viết: Tòng Hóa cách.
Sách nói: "Đắc hóa đắc tòng, hiển đạt công danh chi khách."

Nhưng mà Nhật chủ là Lục Âm, thân nhược quá mức thì lấy Tòng Hóa, chủ gặp nhiều phú quý. Như can ngày là Ất, giờ Canh Thìn, địa chi hoặc là đủ Tị Dậu Sửu, hoặc thấy Thìn Tuất Sửu Mùi bốn chữ nhiều, cũng lấy thành Ất Canh hóa kim mà xem, hành Tây phương phú quý không thể nghi ngờ. Đồng thấy vận Bính Đinh, phá kim mà chết. Thuyết thấy ở đoạn văn dưới mà nghiệm, các loại Tòng Hóa cách.

Nhật can Lục Dương thì không thể lấy Tòng Hóa vậy.

《Cách giải 》nói: Tham khảo thêm Luận Thập can hóa hợp “Uyên Hải thập đoạn cẩm” .

Phú nói: Người xưa luận mệnh, trước là luận Tòng Hóa, tòng hóa không thành thì phương luận Tài Quan. Tài Quan không lấy, phương luận cách cục. Như tòng hóa thành cục, thì có phú quý.
Giáp Kỷ hóa thổ tòng mộc, Ất Canh hóa kim tòng hỏa, Mậu Quý hóa hỏa tòng thủy, Đinh Nhâm hóa mộc tòng hỏa, Bính Tân hóa thủy tòng hỏa.
Luận cách hóa thì có hóa là chân, thì công danh cự khanh; nếu hóa là giả, cô độc mà tính tình khác thường. Gặp Thìn thì hóa tốt, rồng bay lên trời, lợi thấy đại nhân.

Tống Tiêu Thừa tướng tạo: Quý Tị, Đinh Tị, Quý Dậu, Mậu Ngọ.
Chỗ này chính là Mậu Quý hóa hỏa cách, lại gặp tiếp Mậu Quý hóa hỏa, sinh ở tháng Hợi không đắc lệnh. Lại một mệnh: Quý Hợi, Quý Hợi, Quý Hợi, Mậu Ngọ, nghèo là bệnh thiếu tiền.

Mệnh cổ phú quý : Giáp Tuất, Đinh Mão, Nhâm Dần, Giáp Thìn. Mệnh này chính là tượng Đinh Nhâm hóa mộc, đắc lệnh, lại có Dần Mão Thìn đầy đủ.

Phương Trạng nguyên tạo: Tân Hợi, Tân Sửu, Bính Tý, Kỷ Hợi. Chỗ này chính là tượng Bính Tân hóa thủy.

Tống Chương Thừa tướng tạo: Bính Tuất, Canh Dần, Tân Tị, Giáp Ngọ.
Chỗ này là Bính Tân tòng hỏa, thê tòng phu hóa.

Trương Chủ sự tạo: Kỷ Mùi, Bính Dần, Đinh Tị, Nhâm Dần. Chỗ này là tượng Đinh Nhâm hóa mộc.

Lý Tri phủ tạo: Đinh Dậu, Bính Ngọ, Đinh Tị, Nhâm Dần. chỗ này là Đinh Nhâm tòng hỏa, phu tòng thê hóa.

Lại một tạo: Giáp Tý, Đinh Mão, Nhâm Thân, Ất Tị. Đinh Nhâm hóa mộc, tháng hai đắc lệnh. Khác ở chỗ là Tị Thân có kim, hóa mộc không thành, gốc địa chi bì hình phá.

Thientam
11-04-14, 22:23
《 Tứ ngôn Độc bộ 》nói:
“ Thập can hóa thần,
Hữu ảnh vô hình.
Vô trung sinh hữu,
Họa phúc nan bằng.”

Tạm dịch:

Thập can hóa thần,
Có ảnh không hình.
Trong không có sinh,
Họa phúc khó nhờ.

Cách nói này là hóa hợp không thể chỉ có nhờ cậy vậy.

《 Nguyên Lý phú 》nói: "Bất hóa bất tòng, yêm lưu nhân lộ chi nhân. Đắc hóa đắc tòng, hiển đạt công danh chi sĩ. Hóa chí lộc vượng giả sinh, hóa thành lộc tuyệt giả tử." (Tạm dịch : Không hóa không tòng, người tích trữ nhiều lòng nhân ái. Được hóa được tòng, làm quan công danh hiển đạt . Hóa đến lộc vượng là sinh trưởng, hóa thành lộc tuyệt là chết) . Lời nói này là hóa hợp nhận để làm tham khảo vậy.

Bổ túc: Hóa thành có phúc, cần hành mộc cục, lộc vượng thì phát. Như Đinh Nhâm hóa mộc, nguyệt lệnh hỉ Dần, hoặc hành Đông Nam phương vận thì phát. Còn lại như ví dụ trên mà mô phỏng. Hóa thành có phúc, sợ nhất hành Lộc Mã ở đất suy tuyệt, Mậu Quý hóa hỏa hành đến đất thủy, Đinh Nhâm hóa mộc hành đến đất kim, nhẹ thì bãi chức, nặng thì mệnh vong.

Tân Hợi, Quý Tị, Mậu Ngọ, Bính Thìn. Lâm Xuyên Lục Giang Phó Sứ, mệnh hóa hỏa sợ thủy.

Nam viết:
“ Mậu phùng Quý hóa hỏa thần cao,
Tị Ngọ căn thông hỏa cục lao.
Hợi Tị bản lai vi ngã bệnh,
Đông phương mộc hỏa hiển anh hào.”

Tạm dịch:

Mậu gặp Quý hóa hỏa thần cao,
Tị Ngọ thông căn hỏa cục vững.
Hợi Tị ban đầu làm Ta bệnh,
Đông phương mộc hỏa lộ anh tài.

Mậu Ngọ sinh tháng Tị, can thông hỏa cục, hỉ Quý thủy kề thân, Mậu tòng Quý hóa, dụng hỏa có tình. Lại hỉ giờ Bính Thìn, là có hỏa thấu vậy, dụng hỏa không nghi ngờ. Lại được Hợi trong có Nhâm, đến thành phá hỏa, bệnh ở chỗ này vậy, chỗ này là tượng hỏa không đủ vậy. Vận hành Đông phương, liên đăng hoàng giáp làm đến Phó Sứ. Cái được Sát vượng, mà có ám sinh Bính hỏa vậy. Bang trợ mặc dù có Sát, gặp Canh khắc, Sát Ấn bệnh trong lòng thành bệnh, do đó Đông phương là phạm Sát, đều là hiển mà quý. Chỗ này chính là đại vận nhập Tý, xung phá Ngọ trong có Đinh hỏa mà chết, phá cách phá Ấn rõ ràng vậy. Nếu trong trụ không có thủy hỏa nhiều thì Bắc phương là không sợ, bởi vì do gốc mang theo thủy vậy.

Thientam
11-04-14, 22:24
Đinh Tị, Quý Sửu, Ất Dậu, Canh Thìn. Giang Phó Bật vương công phú mệnh, Ất Canh hóa kim cách.

Nam viết:
“ Ất mộc sinh phùng kim cục toàn,
Ất phùng Canh hóa thấu thiên nguyên.
Bản văn kim vận khoa hào phú,
Kiến hỏa thương kim thọ bất kiên.”

Tạm dịch:

Ất mộc sinh gặp kim cục đủ,
Ất gặp Canh hóa thấu ra can.
Bản gốc kim vận khoa hào phú,
Thấy hỏa thương kim thọ không bền.

Ất mộc không có gốc, sinh tháng Sửu hợp thành kim cục. Mà thời thượng Canh kim thấu xuất, Ất mộc bỏ mệnh mà tòng Canh. Đại vận hỉ nhập Tây phương, đất thuần kim, kẹp đất tài phú, vừa nhập Giáp mộc ám tổn kim khí, trở lại làm thoái tài. Lại nhập Bính vận, Bính hỏa khắc Canh, thương tổn Kim thần, mà chết. Tuy không có kim cục, nếu có Thìn Tuất Sửu nhiều sinh kim, cũng nhập cách này.

Thientam
11-04-14, 22:25
Kim bất hoán khán mệnh thằng xích

Tài Quan vượng mà nhật chủ nhược, vận hành thân vượng là tốt nhất.
Nhật chủ vượng mà Tài Quan nhược, vận hành Tài hương danh lợi theo đuổi.
Thân vượng Tỉ Kiếp nặng, tổn Tài lại thương thê.
Tỉ Kiếp gặp Kiêu Thực, vợ gặp nguy cơ khi sinh đẻ.
Gặp Quan Quan nhập mộ, cha chết nơi quê người, can chi Quan Quỷ nhiều, Huynh Đệ trở nên khó khăn nhất.
Tứ trụ thấy Thương Quan , đến già cũng không có con.
Địa chi thuần Tài cục, đại phú đại quý không nghi ngờ. Nều hành Quan vượng vận, nạp đủ thóc lúa mà trở thành người hiền tài danh tiếng.
Khứ Quan lưu Sát thì uy hiển nợi biên cương.
Tài vượng ám sinh Quan, dụng của cải mà cầu danh lợi, khí Ấn đến Tài thì con cái kế thừa địa vị mà chỉnh đốn sự nghiệp.
Thiên Ấn chống Thương Quan, Nữ nhân tối kỵ nhất.
Hình phu cùng hại tử, bản thân trở nên cô đơn.
Thương Quan thấy Quan cần vận hỉ nhập Tài địa.
Danh tiếng nổi bật ở Long Hổ bảng, thân đến Phượng Hoàng trì.
Tỉ Kiếp Thiên Ấn cách, Thương Quan chịu khắc chế. Cháu trai kế thừa họ hàng, con gái nuôi trở thành vợ riêng.
Thiên Quan chế phục quá, nhàn hạ mà thành tăng đạo.
Tài đa, Thân nhược thì bị chìm dưới sông mà thi thể trôi nổi.
Thân vượng mà đối địch Sát, áo quần sắc tía mà thành đỏ tươi ( ý nói làm quan đến nhất phẩm) .
Hư đến cùng ám củng, sớm bước lên mây xanh.
Kẹp quý cùng Lục Hợp, đủ làm nên việc lớn. Được chia ra Tam cách, thì nhờ tổ tiên ẩn hộ giúp.

Thientam
11-04-14, 22:25
Kim bất hoán cốt tủy ca đoạn

Giáp nhật Tý đề là Ấn thụ,
Thuận hành không hơn nghịch hành cao.
Quan nhiều Sát thịnh chủ thành tốt,
Ngọ Mùi cùng gặp uổng phí công.

Dương mộc thiên nguyên gặp Sửu đề,
Phân rõ đại vận hỉ Đông Tây.
Phát tài phát phúc nhiều vinh đạt,
Ngọ Mùi hướng tới cũng không nên.

Giáp mộc sinh Đông gặp tháng Giêng,
Tài đa Sát nặng định siêu quần.
Thuận hành hỏa địa lộ nhiều khó,
Nghịch chạy trọn thành người giàu sang.

Dương mộc sinh xuân gặp Mão đề,
Trong trụ có Sát là tốt nhất.
Không bắt thuận nghịch Đông Nam địa,
Thân Dậu cùng gặp lại không nên.

Giáp mộc Thìn đề hỉ có Quan,
Nghịch hành Đông địa phất thành vui.
Thuận hành Nam địa nhiều điên đảo,
Loại trừ căn thâm giàu có xem.

Dương mộc căn thâm ở tháng Tị,
Trụ được Tài Sát hỉ tương phùng.
Nghịch hành niên thiếu thanh danh hiển,
Thuận hành lấy trọn chết yểu thôi.

Giáp mộc nhật can ở tháng Ngọ,
Thương Quan mộc hỏa hỉ sinh Tài.
Thuận hành sợ nhập Tây phương vận,
Đông Bắc hành đến càng đẹp thay!

Dương mộc có căn sinh Mùi nguyệt,
Tài Quan có khí phúc phi thường.
Nghịch hành tốt nhất đông phương vận,
Duy sợ sơ sinh thọ không dài.

Thientam
11-04-14, 22:28
Giáp mộc không căn gặp đầu Thu,
Tài đa Sát vượng hận thân nhược.
Vận hành thuận đất phương chậm tốt,
Nghịch vận nên phòng lại yểu thôi.

Giáp mộc Dậu đề dụng Chính Quan,
Thuận hành đất Khảm tất thành vui.
Nghịch chuyển Nam Ly Quan bị chế,
Cần biết hết lộc thấy Diêm Vương.

Giáp mộc Tuất đề Tài Quan dụng,
Vận thuận Đông Nam phúc lại giàu.
Nếu trong trụ được Hợi Mùi gặp,
Nghịch hành danh tính đạt chuông vàng.

Giáp mộc gốc sinh gặp đề Hợi,
Trụ được có Sát lại thành kỳ.
Trung niên hỉ nhất Đông phương vận,
Gặp phải Ngọ Mùi số không đều.

Ất mộc sinh ở nơi Tý nguyệt,
Lại không Quan Sát hỉ vội vàng.
Nghịch hành đại vận đặc biệt tốt,
Không Sát không Quan nghịch vận thông.

Ất mộc đề cương gặp Sửu Quan,
Đệ nhất Nam phương Đông Tây thứ.
Dù cho danh không đăng kim bảng,
Hào phú cuối đợi sánh Thạch Sùng.

Ất sinh Dần nguyệt mộc Thương Quan,
Tài Sát gặp nhau lại càng mừng.
Vận thuận liên hành nhiều phúc lộc,
Không Tài không Sát cũng nghèo hèn.

Ất mộc đề cương gặp giữa Xuân,
Tài Quan có khí cũng hơn người.
Hỏa kim đại vận đều thành tốt,
Tay trắng thành gia vững bước lên.

Ất mộc Thìn đề là tạp khí,
Đại vận Tây phương cũng thành cao.
Như hành Tuất vận nhiều điên đảo,
Hình nhập vào tài thọ không lâu.

Thientam
11-04-14, 22:28
Ất mộc cùng nhau mùa đầu Hạ,
Vận hành Đông Bắc thủy thành kỳ.
Trụ trong lại gặp không căn gốc,
Vận thuận hết phòng thọ không đều.

Ất mộc như gặp ở tháng Ngọ,
Thực thần có khí sợ thân khinh.
Trụ trong nếu là căn cơ mỏng,
Đại vận đề phòng hỉ nghịch hành.

Nhật can Ất sinh gặp Mùi nguyệt,
Trụ được Quan Sát cũng thành vui.
Thuận hành Tây Bắc thương nguyên thọ,
Nghịch chạy Đông Nam phúc lại giàu.

Ất mộc đến sinh gặp Thân nguyệt,
Tài Quan Ấn thụ kỵ thân mềm.
Trung niên không được hành Tây Bắc,
Vận thuận không như nghịch vận thông.

Ất mộc Dậu nguyệt Sát nhiều cường,
Đại vận công danh giúp Miếu Lang.
Nếu là có căn lại càng đẹp,
Nam hành hỏa vận quý phi thường.

Ất sinh tháng Tuất nhiều Tài Sát,
Duy sợ sơ niên sinh tật bệnh.
Nếu đến trung niên nhiều phát đạt,
Thuận nghịch đều phải cứ nên hành.

Ất mộc nơi Hợi Ấn sinh thân,
Nghịch chạy Tây Nam chân phú quý.
Có Sát có Quan do hỉ thuận,
Đến đầu đại hạn sợ gặp Thìn.

Bính hỏa sinh Đông gặp đề Tý,
Có Ấn sinh thân đại cát xương.
Vận nhập Đông Nam nhiều phát đạt,
Nghịch hành khó bảo năm thọ dài.

Bính hỏa như tháng Sửu trông,
Thổ nhiều cách cục Thương Quan lấy.
Ấn nhiền nhập vận Tây phương tốt,
Căn ít Đông Nam phúc không dày.

Bính nhiều Quan Sát gặp Dần đề,
Vận nhập Nam phương ngoài phận sự.
Như là Quan khinh lại hỉ Bắc,
Đại vận đương nhiên phải hành Tây.

Bính hỏa nhật can đề cương Mão,
Can nhược như gặp hỉ hỏa hương.
Như là không Quan càng bất lợi,
Lại hành thân vượng cũng bình thường.

Thientam
11-04-14, 22:29
Bính hỏa Thìn đề nhiều Mậu Kỷ,
Hỏa thổ Thương Quan lại thế nào?
Gặp Tài gặp Ấn nhiều thông đạt,
Nam Bắc gặp nhau nhất trên đời.

Bính hỏa Kiến Lộc nhật can cường,
Quan Sát gặp nhau đại cát xương.
Thuận nghịch vận hành nhiều phát đạt,
Như hành vận Tuất có tai ương.

Bính hỏa tháng Ngọ Thương Quan lấy,
Có Sát nên là quý mệnh xem.
Kim thủy vận hành nhiều cát lợi,
Như hành thủy địa không là vui.

Bính gặp tháng Mùi Thương Quan lộ,
Quan Sát gặp nhau kỳ chưa đủ.
Như được độc Quan khí thành quý,
Tây Bắc vận hành lợi trì danh.

Bính hỏa Thân đề nhật chủ nhược,
Được tòng được hóa thủy là ưu.
Như tòng thủy vị tổn nguyên thọ,
Nghịch khứ Đông Nam phúc lộc đầy.

Bính gặp tháng Dậu hỏa thành suy,
Tỉ Kiếp phù thân thọ không kỳ.
Nghịch khứ Đông Nam là Bối Lộc,
Thuận hành thủy địa thủy thành kỳ.

Bính gặp tháng Tuất thổ nặng trọng,
Có Sát không Quan về không giống.
Đại vận thuận hành phú quý nhiều,
Như gặp Quan Sát cũng là trung.

Bính hỏa Hợi đề là Sát Ấn,
Phân rõ đại vận hỉ Đông Nam.
Trung niên phú quý đặc biệt tốt,
Như vận Tây phương thọ không đều.

Đinh hỏa như gặp nguyệt đề Tý,
Trụ trong có Sát càng không giảm.
Cả đời hỉ nhất Đông phương vận,
Như đến Tây phương phúc không đều.

Đinh hỏa tháng Sửu việc thế nào?
Tứ trụ phân rõ sợ thổ quá.
Vận nhập Đông phương đều phát đạt,
Nam phương hỏa địa không nên cần.

Đinh hỏa gặp Dần Ấn thụ rõ,
Trụ trong có thủy hỉ Nam hành.
Vận hành Bắc địa càng thông đạt,
Tây phương đất Tài họa hoạn sinh.

Thientam
11-04-14, 22:30
Đinh gặp Mão nguyệt có Ấn tinh,
Nam Bắc ứng nhiều toại lợi danh.
Độc Sát nếu không Quan hỗn tạp,
Tấu kim tử (*) chịu đến công hầu.
(*: Dây thao, đời xưa có chức kim tử quang lộc đại phu,nghĩa là chức quan được dùng ấn vàng dây thao tím, vì thế nên gọi những người bỗng dưng mà phú quý là thủ thanh tử như thập giới)

Đinh gặp tháng Thìn gốc Thương Quan,
Thuận nhập Nam phương phúc càng mở.
Nghịch vận thiếu niên nhiều trục trặc,
Lại gặp Tuất Hợi thọ liên can.

Đinh gặp Tháng Tị gốc cương cường,
Đại vận sao sầu nhập thủy hương.
Vận nhập thuận hành sớm bất lợi,
Trung niên hỉ nhất nhập Tây phương.

Đinh gặp Kiến Lộc gốc thân cường,
Không thủy cần phòng thọ không đủ.
Nếu được trong vận gặp Thất Sát,
Tính danh xa đạt nhiều lần thiên.

Mùi nguyệt gặp Đinh cần thấy Tài,
Không Tài tóm lại mệnh nhiều khôn.
Nếu gặp Tài Sát phương thành tốt,
Đại vận Tây phương càng hiếm thay!

Đinh gặp tháng Thân nguyệt nhật can cường,
Đại vận Nam phương hỉ nghịch hành.
Nếu là căn sâu càng hỉ thuận,
Trung niên phát đạt càng tài hoa.

Đinh gặp Dậu nguyệt dụng Thiên Tài,
Quan Sát gặp nhau càng đẹp quá.
Đại vận nghịch hành nhiều toại nguyện,
Công danh gai chữ ôm vừa lòng.

Đinh gặp Tuất nguyệt Thương Quan vượng,
Quan Sát tuy nhiều lại bất ngờ.
Nam cùng Đông phương nhiều thuận lợi,
Vinh hoa phú quý phúc vô cương.

Đinh sinh tháng Hợi dụng Quan tinh,
Thuận nghịch Đông Nam phúc không nhẹ.
Nếu là Sát tinh nhiều hỗn tạp,
Tuổi thọ càng sợ nửa yếu suy.

Thientam
11-04-14, 22:30
Mậu thổ nhật can sinh Tý nguyệt,
Tọa chi Thìn Tuất đứng đầu kỳ.
Chi hư lại gặp Tài thần vị,
Vận sợ Đông này lại sợ Tây.

Mậu thổ Sửu nguyệt nhật can chắc,
Lại có Tài Quan đủ phúc thọ.
Thuận nghịch vận hành đều đắc địa,
Nếu không Tài Sát cũng uổng công.

Mậu thổ Dần nguyệt nhật can nhẹ,
Sát Ấn tương sinh cách cục thành.
Vận nhập hỏa hương càng phát đạt,
Nghịch hành thủy địa cứ bình bình.

Mậu thổ Mão nguyệt dụng Quan tinh,
Có Ấn tương sinh cách cục thanh.
Nam vận phát tài cường Bắc vận,
Như gặp Dậu địa thọ nguyên nghiêng.

Mậu thổ Thìn nguyệt nhật can cường,
Lại có Tài tinh phúc lộc thịnh.
Thuận vận Tây Nam phát đạt ứng,
Tài Quan khinh xứ cũng không lành.

Mậu thổ Tị đề là Kiến Lộc,
Trụ trong Tài Sát trở thành kỳ.
Nghịch hành đại vận cần Đông Bắc,
Thuận chạy Tây Nam việc không đều.

Mậu thổ tháng năm Ấn cầm quyền,
Đại vận phân rõ hỉ Sát Quan.
Quan Sát trọng mùa cần thuận vận,
Quan khinh nghịch vận tốt tự nhiên.

Mậu thổ đến sinh tháng Mùi Hạ,
Nếu không Tài Sát chưa toàn diện.
Nghịch hành lại hỉ Đông phương vận,
Thuận nghịch Tài nhiều cũng bằng không.

Mậu thổ sinh Thân dụng Thực Thần,
Có Tài có Sát quý cùng chịu.
Nghịch hành hỏa địa tất thành công,
Hỏa địa hành đến lại chịu khó.

Mậu thổ đến sinh gặp đề Dậu,
Sợ hành Khảm thủy hỉ hỏa Ly.
Trừ phi tứ trụ nguyên thần vượng,
Mão vận cùng nhau không nên cần.

Mậu thổ Tuất nguyệt nhật can cường,
Tài Sát gặp nặng lại cát tường.
Vận khí đều không hành thuận nghịch,
Nếu không Tài Sát cũng bình thường.

Mậu thổ Hợi đề chân Tài Sát,
Thân cường có hỏa lại siêu quần.
Nghịch hành niên thiếu cần phòng Dậu,
Vận thuận trung niên kỵ Mão Thìn.

Thientam
11-04-14, 22:31
Kỷ thổ Tý nguyệt Tài tinh dụng,
Có Sát không Quan cách cục thanh.
Sớ nhất trụ thân trong thái nhược,
Thuận hành Dần Mão sớm điêu linh.

Kỷ thổ Sửu nguyệt nhật can chắc,
Tứ trụ rõ phân kỵ Tỉ kiên.
Như có Tài cung cùng có Sát,
Nghịch hành đại vận phúc khôn cùng

( Sách thiếu Kỷ thổ sinh tháng Dần)

Kỷ thổ Mão nguyệt Sát cầm quyền,
Nghịch vận cần biết thọ không chắc.
Thuận nghịch hỏa hương không có đẹp,
Quan tinh tương hội không chu toàn.

Kỷ thổ Thìn đề chân tạp khí,
Tài Quan có khí định siêu quần.
Thuận hành vận khí càng nắm đẹp,
Nghịch vận hành thời không hoàn toàn.

Kỷ thổ tháng Tị thân càng vượng,
Ấn thụ Thương Quan cách cục thanh.
Thân vượng cần nhất Tài vận gặp,
Không Tài nghịch vận cũng bề ngoài.

Kỷ thổ tháng Ngọ bản thân cường,
Kiến Lộc phân rõ lý dài hơn.
Quan Sát khinh thời cần thuận vận,
Quan khinh nghịch vận cũng vinh xương.

Kỷ thổ tháng Mùi vui gặp Sát,
Nhận Sát gặp nhau càng hay quá.
Vận khí trung niên phát đạt nhiều,
Đều không thuận nghịch nhớ vừa lòng.

Kỷ thổ tháng Thân Thương Quan dụng,
Nếu là thân khinh tất không an.
Chỗ hỉ phải cần hành nghịch vận,
Sợ gặp Mão Dần Sát liên can.

Kỷ thổ Bát nguyệt Tân kim vượng,
Như là thân khinh mệnh không bền.
Vượng hỉ thuận hành suy hỉ nghịch,
Không Tài không Sát không là cao.

Kỷ thổ nếu gặp tháng chín thiên,
Tài Quan lưỡng vượng phúc không kể.
Vận hành thuận nghịch đều bình ổn,
Phát đạt hướng về ở thanh niên.

Hợi đề Kỷ thổ Tài Quan dụng,
Thân vượng Tài Quan nói chung vui.
Nếu là thân nhu vui thuận vận,
Đông phương khó nói thọ bình an.

Thientam
11-04-14, 22:33
Tý nguyệt như gặp Canh can nhật,
Có Tài có Sát thủy bình an.
Tây phương không giống Đông phương vận,
Ngọ vận như phùng số hết thọ.

Canh kim tháng Sửu có Tài Quan,
Cách cục rõ phân xem tạp khí.
Mộc hỏa trụ không cuối không đẹp,
Đông Nam vận khí gặp là vui.

Canh kim Dần nguyệt nhật can nhỏ,
Thấu thượng thiên can mệnh càng tốt.
Nghịch vận thiếu niên sợ Tý Sửu,
Thuận hành đại vận sợ khó khăn.

Canh kim sinh gặp mùa giữa Xuân,
Quan Sát như mệnh gặp thủy kỳ.
Nhưng sợ tứ trụ nguyên thần nhược,
Thuận vận ba câu sợ vẫn nguy.

Canh kim tháng ba thổ trọng nặng,
Lại có Tài Quan phúc lộc phong.
Nghịch vận cố biết cường thuận vận,
Trong phùng Tý địa có tai hung.

Canh kim tháng tư Sát tinh cường,
Có chế biết phương Sát cường phục.
Nếu là không căn lại không chế,
Kỳ người đa số thiếu niên vong.

Tháng năm Canh kim hỉ có căn,
Có căn có thủy quý nói được.
Nghịch hành đại vận cần đất Đông,
Chữ Tý gặp nhau mãi bằng không.

Canh kim Mùi nguyệt thổ vượng địa,
Mậu Kỷ thổ nặng mệnh không quá.
Nếu là thổ nhẹ hành nghịch vận,
An khang phúc thọ sửa chạy ơn.

Tháng bảy Canh kim kim thái vượng,
Tọa chi nếu đầy cũng bình thường.
Tài Quan lưỡng vượng cần hành thuận,
Tài Sát thời khinh nghịch vận cường.

Tháng tám Canh kim Nhận tinh dụng,
Trong trụ có Sát phải đứng đầu.
Có Tài không Sát thuần kim cục,
Tòng cách càng phải lộ tính danh.

Canh kim tháng chín hỉ gặp Tài,
Sát thấu thiên can cũng đẹp quá.
Mệnh thuận thiếu niên sợ Tý địa,
Nghịch hành Ly Tốn có hung tai.

Canh kim tháng mười nhật can suy,
Có thổ gặp nhau cũng quá đẹp.
Thuận vận tất nhiên nghịch vận cường,
Trung niên duy sợ có nguy tai.

Thientam
11-04-14, 22:34
Tý nguyệt Tân kim hỉ Bính Đinh,
Nếu nhưng không hỏa cũng bình bình.
Vận hành mộc hỏa nhiều thông đạt,
Tài Sát thời nhiều hỉ nghịch hành.

Tân kim Sửu nguyệt cần Đinh hỏa,
Mậu Kỷ nặng trọng cũng không phương.
Không hỏa thổ nhiều phòng yểu thọ,
Dù cho không yểu cũng bình thường.

Tân kim Dần nguyệt Tài Quan vượng,
Đại vận không cần hỉ nghịch hành.
Nếu là không Tài hành thuận vận,
Trung niên duy sợ mất cuối đời.

Mão nguyệt Tân kim như có Sát,
Tọa chi có thổ lại thành kỳ.
Thuận hành nghịch chuyển danh lộ nhiều,
Nếu đến Tây phương lại không đều.

Tân kim sinh ở trong Thìn nguyệt,
Có Tài có Sát càng hòa đồng.
Thuận hành nghịch vận nhiều thông đạt,
Phú quý vinh hoa phúc thọ Sùng.

Tân kim tháng Tị Quan tinh vượng,
Thương Thực không đủ cũng không quá.
Nghịch hành nhưng phương Quan không Tý,
Hành thuận một đường phí hoài công.

Tân kim tháng Ngọ Sát đương quyền,
Tứ trụ căn sâu nghịch thuận chắc.
Như là không căn mệnh khí nhận,
Như hành Tây vận đại gian nan.

Tháng Mùi Tân kim đủ Sát Ấn,
Ấn nhiều càng tự lại cứ giảm.
Nghịch hành thủy vận thông đạt nhiều,
Thuận vận thiếu niên không phải bỏ.

Thân nguyệt Tân kim kim thủy thanh,
Thương Quan có Sát đứng đầu nói.
Chi tọa không Dậu phương thành đẹp,
Vận nhập Đông Nam hiển tính danh.

Tân kim tháng Dậu nhật can cường,
Tài Sát gặp nhau lại dị thường.
Nghịch vận đến đầu nhiều phát đạt,
Thuận hành thủy địa không là lành.

Tuất nguyệt Tân kim Sát Ấn đủ,
Trụ trong có chế phúc vô biên.
Nghịch hành thuận khứ đều không trở,
Đất Tị gặp nhau mãi khỏi cần.

Tân kim tháng Hợi nếu không Quan,
Thủy lạnh ứng biết kim quá hàn.
Nếu có Quan tinh lại có Sát,
Định ứng tính danh đến kim loan.

Thientam
11-04-14, 22:34
Nhâm Tý sinh phùng mùa Tý nguyệt,
Không Tài không Sát chưa chu toàn.
Cả đời thân khốn nhiều lưu lạc,
Mà đến Tài hương cũng uổng công.

Nhâm thủy tháng Sửu hỉ gặp Tài,
Tài vượng thân cường càng quá đẹp.
Vận khí thuận hành sợ thủy hỏa,
Lại thành vạn sự nhớ vừa lòng.

Nhâm thủy như gặp sinh Dần nguyệt,
Thực thần vượng tướng cũng tương ứng.
Nam phương vận khí tăng tài bạch,
Có Sát mãi cần bá tính danh.

Nhâm gặp Mão nguyệt Thương Quan cách,
Nghịch hành như không thuận vận cao.
Sát thấu lại thêm xứ thân vượng,
Công danh phú quý thọ càng cao.

Nhâm thủy tháng Thìn Sát tinh vượng,
Giáp Ất gặp nhau Sát hạ xuống.
Lại được Tài tinh cùng Ấn thụ,
Không buộc thuận nghịch cũng như nhau.

Nhâm thủy gặp sinh tháng Tì Hạ,
Tài tinh Quan Sát vượng trước nhà.
Không căn chỉ sợ thiếu niên yểu,
Như đến trung niên phúc càng bền.

Nhâm thủy tháng Ngọ Tài tinh vượng,
Hợi thủy tương phùng lại dị thường.
Nếu là không căn mệnh nhiều khí,
Cả đời tay trắng lấy điền trang.

Nhâm thủy gặp sinh mùa cuối hạ,
Phân rõ tạp khí khác thành kỳ.
Thuận hành nghịch chuyển đều thông đạt,
Mão địa gặp nhau nói không nên.

Nhâm thủy sinh Thân là Sát Ấn,
Có Tài có dụng cũng như nhau.
Vận hành Nam địa cường như Bắc,
Mão địa gặp nhau mệnh không dài.

Nhâm thủy gặp nhau trời tháng tám,
Phân rõ Ấn thụ cách đương quyền.
Không Quan sợ nhập Tài hương vận,
Có Sát cần ứng phúc càng bền.

Nhâm thủy đến sinh gặp cuối Thu,
Tài đa Sát vượng kỵ thân nhược.
Tài cư hỏa địa đều thông đạt,
Gặp Mộc quê hương lại không toàn.

Nhâm thủy Hợi đề là Kiến Lộc,
Trong trụ có hỏa vận cần Đông.
Nam phương vận khí đếu là tốt,
Nếu là không Tài cũng không thông.

Thientam
11-04-14, 22:35
Quý thủy sinh Đông sinh gặp Tý đề,
Tài Quan trọng thấy đứng đầu kỳ.
Thuận hành hỉ đến Đông Nam vận,
Nghịch chạy Tây phương cũng không nên.

Quý thủy Sửu đề là tạp khí,
Không Tài không Ấn không kham nổi.
Thuận hành mộc hỏa đều đạp thay,
Nghịch vận Tây Nam thọ không đều.

Quý thủy Dần nguyệt mộc Thương Quan,
Quan Sát trọng gặp họa đủ điều.
Bắc vận không như Nam vận tốt,
Như đến thân cung thọ có khô.

Quý thủy đến sinh trong Mão nguyệt,
Không Quan không Sát hỉ hòa đồng.
Thuận hành Nam địa nhiều thanh quý,
Sợ nhập Tây phương sớm hết thọ.

Quý thủy tháng Thìn hỉ gặp Tài,
Tạp khí rõ phân cách quá đẹp.
Nếu là không căn thân quá nhược,
Thuận hành Nam vận tất nhiều tai.

Quý thủy tháng Tị Tài càng vượng,
Quan nhiều không cùng Sát tương đồng.
Có căn nghịch vận Tai nhiều đủ,
Thuận nhập Tây phương sớm thấy hung.

Quý thủy gặp sinh trong tháng Ngọ,
Phân rõ Tài Sát cách tương đồng.
Không căn vận không hành được địa,
Khí thủy tòng Tài lại có công.

Quý thủy tháng Mùi Sát tinh mạnh,
Có Nhận không Quan lộc vị xương.
Vận nhập Đông phương sợ chế phục,
Định xem danh tính vào triều đình.

Quý thủy đến sinh gặp đầu Thu,
Có Tài mãi không kỵ thân nhược.
Thuận hành Bắc vận càng đẹp quá,
Như là không Tài lại không đầy.

Quý thủy tháng Dậu Ấn sinh thân,
Có Sát phương thành chân cách cục.
Nghịch vận cần biết thuận vận cường,
Công danh phú quý càng hơn người.

Tháng Tuất như gặp can Quý nhật,
Phân rõ tạp khí dụng Tài Quan.
Vận hành mộc hỏa nhiều tài lộc,
Nghịch vận thiếu niên thọ có khô.

Quý nhật đến sinh trong tháng Hợi,
Thương Quan thủy mộc nói tương đồng.
Nghịch hành đẹp nhất Nam phương vận,
Thuận chạy cần biết kỵ Mão hung.

Thientam
11-04-14, 22:36
Quyển Tứ

Thập Thiên Can thể tượng toàn biên luận

Thơ nói về Giáp mộc:

Giáp mộc thiên can xếp đứng đầu,
Gốc không có lá cùng không rễ.
Muốn lưu trời đất ngàn năm dài,
Thẳng hướng bùn cát vạn trượng chôn.

Thành tựu không cần viêm hỏa luyện,
Yêu thích sinh phù hơn ấm nê.
Đã kiêng đảm nhận kim được dụng,
Hóa thành than tro hỏa là tai.

Thơ nói về Ất mộc:

Ất mộc loài cây rễ khắc sâu,
Chỉ cần dương địa âm không cần.
Nổi trôi rất sợ gặp nhiều thủy,
Khắc mất sao cần khổ dụng kim?

Phương Nam mất hỏa tai không nhẹ,
Hành Tây thổ nặng họa lại gần.
Rường cột không đúng cây liền rễ,
Bản lĩnh phân rõ tốt ở tâm.

Thơ nói về Bính hỏa:

Bính hỏa rõ ràng một Thái Dương,
Gốc tòng chính đại lập Cương Thường (*).
Ánh Hồng không chỉ nhìn vạn dặm,
Khí lớn lại có vang khắp nơi.

(*) Cương Thường: là đạo thường của con người, gồm: Tam Cương là quân thần, phụ tử, phu phụ; Ngũ Thường là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.

Sinh ra chịu làm hạt cây nổi,
Truyền kiếp không làm mẹ ấm nê.
Bốn phương liều chết sao hay khắc,
Chỉ sợ rừng cây gánh tai ương.

Thientam
11-04-14, 22:36
Thơ nói về Đinh hỏa:

Đinh hỏa hình thể một cây đèn,
Thái Dương cùng gặp đoạt ánh sáng.
Được mùa có thể đúc nghìn vàng,
Mất lệnh khó nấu một tấc kim.

Tuy thiếu củi trời vẫn có thể,
Dù nhiều thấp mộc vẫn không sinh.
Suy Vượng trong đó nên hiểu rõ,
Vượng một lò Suy một bệ nến.

Thơ nói về Mậu thổ:

Mậu thổ thành tường giống bờ đê,
Núi sông cùng biển cần căn trọng.
Trụ trong mang hợp hình còn mạnh,
Dưới ngày thừa cơ thế lực nghèo.

Lực mỏng không thắng kim lậu tiết,
Công thành an dụng thủy khai thông.
Cả đời cần nhất Đông Nam mạnh,
Thân vượng Đông Nam mạnh mất trong.

Thơ nói về Kỷ thổ:

Kỷ thổ điền viên thuộc Tứ Duy,
Đất sâu là gốc của vạn vật.
Thủy kim vượng xứ thân còn nhược,
Hỏa thổ công thành cục đứng đầu.

Mất lệnh sao hay vùi kiếm kích,
Được mùa phương hướng dụng từ căn.
Tốt đẹp Ấn vượng kiêm nhiều hợp,
Không gặp hình xung cuối cùng không.

Thientam
11-04-14, 22:37
Thơ nói về Đinh hỏa:

Đinh hỏa hình thể một cây đèn,
Thái Dương cùng gặp đoạt ánh sáng.
Được mùa có thể đúc nghìn vàng,
Mất lệnh khó nấu một tấc kim.

Tuy thiếu củi trời vẫn có thể,
Dù nhiều thấp mộc vẫn không sinh.
Suy Vượng trong đó nên hiểu rõ,
Vượng một lò Suy một bệ nến.

Thơ nói về Mậu thổ:

Mậu thổ thành tường giống bờ đê,
Núi sông cùng biển cần căn trọng.
Trụ trong mang hợp hình còn mạnh,
Dưới ngày thừa cơ thế lực nghèo.

Lực mỏng không thắng kim lậu tiết,
Công thành an dụng thủy khai thông.
Cả đời cần nhất Đông Nam mạnh,
Thân vượng Đông Nam mạnh mất trong.

Thơ nói về Kỷ thổ:

Kỷ thổ điền viên thuộc Tứ Duy,
Đất sâu là gốc của vạn vật.
Thủy kim vượng xứ thân còn nhược,
Hỏa thổ công thành cục đứng đầu.

Mất lệnh sao hay vùi kiếm kích,
Được mùa phương hướng dụng từ căn.
Tốt đẹp Ấn vượng kiêm nhiều hợp,
Không gặp hình xung cuối cùng không.

Thientam
11-04-14, 22:38
Thơ nói về Canh kim:

Canh kim ngu dốt tính cố chấp,
Hỏa chế công thành sợ hỏa hương.
Sinh Hạ Đông Nam gặp rèn đúc,
Sinh Thu Tây Bắc cũng vẻ vang.

Thủy sâu ngược thấy phương khác khắc,
Mộc vượng thuận theo tự hại mình.
Mậu Kỷ can chi trọng gặp thổ,
Không gặp xung phá tức vùi chôn.

Thơ nói về Tân kim:

Tân kim châu ngọc tính hư rỗng,
Thích nhất dương cùng cát thủy thanh.
Thành tựu không nhọc viêm hỏa luyện,
Sinh phù yêu thích thấp nê sinh.

Mộc đa hỏa vượng cần Tây Bắc,
Thủy lạnh kim hàn cần Bính Đinh.
Tọa Lộc thông căn thân vượng địa,
Sao sầu dày thổ hình thấy không.

Thơ nói về Nhâm thủy:

Nhâm thủy mênh mông hợp cuồn cuộn,
Tràn khắp không trung không giới hạn.
Can chi nhiều hợp thành lêu lổng,
Hỏa thổ trọng phùng hại cội nguồn.

Dưỡng tính kết Thai nơi Mùi Ngọ,
Trường sinh quy lộc thuộc Càn Khôn.
Thân cường nguyên gốc không tài lộc,
Tây Bắc hành trình nạn thiếu niên.

Thơ nói về Quý thủy:

Quý thủy ứng là đường mưa nhỏ,
Thông căn Hợi Tý tức sông ngòi.
Trụ không Khôn Khảm còn thân nhược,
Cục có Tài Quan không cao nhiều.

Thân Tý Thìn đủ thành thượng lộ,
Ngọ Dần Tuất cần có trung hòa.
Giả nhiều hỏa thổ sinh cuối Hạ,
Tây Bắc hành trình sao lớn thay!

Thientam
11-04-14, 22:38
Thập nhị Địa chi Vịnh

( Trích Thần Phong Thông Khảo, T/g Trương Nam)

Tý cung:
Nguyệt chi Tý thủy chiêm danh tướng,
Khe suối mênh mông không hết tình.
Đạo trời dương khí hồi vượng thổ,
Nhân gian thủy ấm nhờ kim sinh.

Nếu gặp Ngọ phá không luận ứng,
Dù gặp Mão hình lại có tình.
Trụ có Thân Thìn đến hợp cục,
Tức thành sông biển phát sóng cao.

Sửu cung:
Đông rét thấy Sửu sợ băng sương,
Ai nhớ thiên thời chuyển Nhị Dương.
Sinh ấm thuận thành sinh vạn vật,
Kim hàn chẳng lẽ chỉ tàng sâu.

Hình xung Mùi Tuất không vô dụng,
Hợp lại Kê Xà phương có tin.
Nếu ở nhật thời nhiều thủy mộc,
Nhập Tốn tu hành phài ly hương.

Dần cung:
Cấn cung hướng mộc thấy ở Xuân,
Khí tụ Tam Dương hỏa ở Dần.
Đến hợp Xà Hầu tam quý khách,
Đồng loại Mão Mùi một gia nhân.

Siêu phàm nhập thánh chỉ gặp Ngọ,
Phá lộc thương đề chỉ lo Thân.
Tứ trụ hỏa nhiều ngại đất hỏa,
Tòng làm khô mộc không đến Nam.

Thientam
11-04-14, 22:39
Mão cung:
Mão mộc phồn hoa khí bẩm sâu,
Trọng xuân khó nói kim không ngại.
Canh Tân trùng thấy sầu Thân Dậu,
Hợi Tý trọng đến kỵ Quý Nhâm.

Lục xung thấy họa lá rụng ứng,
Hỉ phùng tam hợp liền thành Lâm.
Thuận về thời nhật Thu kim nặng,
Càng hướng Tây đi họa khỏi không?

Thìn cung:
Thìn quản tháng ba thủy nê thấp,
Trường dưỡng đắp bồi vạn vật căn.
Dù cho suy Giáp Ất dư khí,
Trước sau Nhâm mộ Quý gặp hồn.

Cần làm một khóa khai thông khố,
Nếu gặp tam xung tức phá Môn.
Thủy thổ trọng phùng Tây Bắc vận,
Chỉ sầu dày thổ không có lưu.

Tị cung:
Tị quản đầu Hạ hỏa thêm sáng,
Tạo hóa lưu hành đúng Lục Dương.
Mất lệnh Canh kim sinh dựa mẫu,
Đắc thời Mậu thổ lộc nương theo.

Tam hình chuyên chở lật không hại,
Vừa thấy rõ leo bị thương liền.
Hành đến Đông Nam sinh phát địa,
Trời đốt nóng viêm không tầm thường.

Thientam
11-04-14, 22:39
Ngọ cung:
Tháng năm viêm nóng hỏa lên đúng,
Lục Dương khí đuổi Nhất Âm sinh.
Canh kim mất vị thân vô dụng,
Kỷ thổ quy viên Lộc có thành.

Thân Tý cùng đến có khắc chiến,
Dần Tuất cùng thấy càng sáng tươi.
Đông Nam chính thị thân cường địa,
Tây Bắc hưu tù Tị hình tang.

Mùi cung:
Mùi nguyệt âm sâu hỏa suy dần,
Tàng Quan tàng Ấn tàng Tài không.
Không kề Mão Hợi khó biến hình,
Mang xa xung hình khố cũng khai.

Hỏa không sợ hành kim thủy khứ,
Lạnh nhiều thiên vị đến Bính Đinh.
Dụng thần hỉ kỵ nên hiểu rõ,
Không đem hòn ngọc lấy đá ngờ.

Thân cung:
Thân kim cương kiện phùng chi tháng,
Thổ thủy trường sinh ở Thân cung.
Tị Ngọ trong lò thành kiếm kích,
Thìn Tý lý cục được vẽ vang.

Mộc nhiều không hỏa sau hay thắng,
Thổ trọng chôn kim lại có hung.
Muốn nhớ thần này sao bị vượt,
Châu ngọc dịu dàng bất tương đồng.

Thientam
11-04-14, 22:41
Dậu cung:
Bát nguyệt tòng khôi được danh để,
Kim bạch ước muốn thủy lưu thanh.
Hỏa nhiều Đông khứ sầu Dần Mão,
Mộc vượng hành Nam sợ Bính Đinh.

Trụ thấy thủy nê có dụng ứng,
Vận lâm Tây Bắc khởi vô tình.
Tam hợp thêm vào hay cứng nhọn,
Không bằng kim bướng luyện chưa thành.

Tuất cung:
Cửu nguyệt tòng Khôi quá cương tính,
Mạn nói chỗ này vật thu tàng.
Hỏa lớn đỏ lò có thành tựu,
Kim ngu cùng sắt nhờ chủ trương.

Chốn biển xung Long sinh Vũ Lộ,
Đỉnh núi hợp Hổ động văn chương.
Thượng giới tuy là mê hồn trận,
Đơn độc bị thương hỏa mệnh phùng.

Hợi cung:
Nơi thủy căn sâu rõ ràng bước,
Mưa tuyết sinh hàn gặp Lục Âm.
Cần đợi thắng quang phương dụng thổ,
Không phùng chuyên chở đợt nhiều kim.

Quy tụ năm hồ nguồn thành tượng,
Tam hợp buộc lưu chính có tâm.
Muốn nhớ Càn Khôn cùng xứ ấm,
Liền theo Cấn Chấn tìm Tốn Ly.

Thientam
11-04-14, 22:41
Dậu cung:
Bát nguyệt tòng khôi được danh để,
Kim bạch ước muốn thủy lưu thanh.
Hỏa nhiều Đông khứ sầu Dần Mão,
Mộc vượng hành Nam sợ Bính Đinh.

Trụ thấy thủy nê có dụng ứng,
Vận lâm Tây Bắc khởi vô tình.
Tam hợp thêm vào hay cứng nhọn,
Không bằng kim bướng luyện chưa thành.

Tuất cung:
Cửu nguyệt tòng Khôi quá cương tính,
Mạn nói chỗ này vật thu tàng.
Hỏa lớn đỏ lò có thành tựu,
Kim ngu cùng sắt nhờ chủ trương.

Chốn biển xung Long sinh Vũ Lộ,
Đỉnh núi hợp Hổ động văn chương.
Thượng giới tuy là mê hồn trận,
Đơn độc bị thương hỏa mệnh phùng.

Hợi cung:
Nơi thủy căn sâu rõ ràng bước,
Mưa tuyết sinh hàn gặp Lục Âm.
Cần đợi thắng quang phương dụng thổ,
Không phùng chuyên chở đợt nhiều kim.

Quy tụ năm hồ nguồn thành tượng,
Tam hợp buộc lưu chính có tâm.
Muốn nhớ Càn Khôn cùng xứ ấm,
Liền theo Cấn Chấn tìm Tốn Ly.

Thientam
11-04-14, 22:47
Tổng vịnh

Phép dùng Ngũ hành chung quy không có chuẩn, đi đến siêu phàm thì tinh thần có khác. Thẳng nhìn về ngọn nguồn mà tìm xuất xứ, vượng, suy, sinh, tử tự có thể phân biệt được.

Can chi chỗ thuộc về Đông phương là Giáp Ất Dần Mão mộc, Nam phương là Bính Đinh Tị Ngọ hỏa, Tây phương là Canh Tân Thân Dậu kim, Bắc phương là Nhâm Quý Hợi Tý thủy, Trung ương Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thổ.

Thiên can hợp: Giáp cùng Kỷ hợp, Ất cùng Canh hợp, Bính cùng Tân hợp, Đinh cùng Nhâm hợp, Mậu cùng Quý hợp.

Địa Chi hợp: Tý cùng Sửu hợp, Dần cùng Hợi hợp, Mão cùng Tuất hợp, Thìn cùng Dậu hợp, Tị cùng Thân hợp, Ngọ cùng Mùi hợp.

Địa Chi hội cục: Dần Ngọ Tuất hội thành hỏa cục, Hợi Mão Mùi hội thành mộc cục, Thân Tý Thìn hội thành thủy cục, Tị Dậu Sửu hội thành kim cục.

Ngũ hành tương sinh: kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim.

Ngũ hành tương khắc: kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim.

Thập can Lộc: Giáp lộc ở Dần, Ất lộc ở Mão, Bính/Mậu lộc ở Tị, Đinh/Kỷ lộc ở Ngọ, Canh lộc ở Thân, Tân lộc ở Dậu, Nhâm lộc ở Hợi, Quý lộc ở Tý.

Thientam
11-04-14, 22:48
Ngũ hành phát dụng
Trường sinh, Mộc dục, Quan đái, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Tứ sinh: Hỏa sinh ở Dần, Kim sinh ở Tị, Thủy/Thổ trường sinh ở Thân, Mộc sinh ở Hợi.

Tứ bại ( Mộc dục): Hỏa bại ở Mão, Kim bại ở Ngọ, Thủy/Thổ bại ở Dậu, Mộc bại ở Tý.

Tứ quan (Lộc): Hỏa quan ở Tị, Kim quan ở Thân, Thủy/Thổ lâm quan ở Hợi, Mộc quan ở Dần.

Tứ khố: Hỏa khố ở Tuất, Kim khố ở Sửu, Thủy/Thổ khố ở Thìn, Mộc khố ở Mùi.

Tứ tuyệt: Hỏa tuyệt ở Hợi, Kim tuyệt ở Dần, Thủy/Thổ tuyệt ở Tị, Mộc tuyệt ở Thân.

Như lấy theo Ngũ hành ở trên thì: trường sinh, mộc dục, bại, quan, khố, tuyệt các loại, ở Dương thì thuận mà Ấm thì nghịch hình đồ bên trong mà khảo sát ra, coi như là ban đầu chỗ học mà giữ lấy làm theo vậy.

Địa chi tương xung: Tý Ngọ tương xung, Dần Thân tương xung, Mão Dậu tương xung, Thìn Tuất tương xung, Tị Hợi tương xung, Sửu Mùi tương xung.

Tam hình:
Dần hình Tị thượng Tị hình Thân,
Sửu Tuất tương hình Mùi với Thìn.
Mão hình Tý thượng Tý hình Mão,
Thìn Ngọ Dậu Hợi tự tương hình.

Lục hại:
Lục hại Tý Mùi không tương thân,
Sửu hại Ngọ vậy Dần Tị giận.
Mão hại Thìn này Thân hại Hợi,
Dậu Tuất tương phùng chuyển thấy sâu.

Thientam
11-04-14, 22:48
Thập nhị chi trung sở tàng pháp

Tý tàng Quý thủy là lộc vị,
Sửu Kỷ tam phân Tân cùng Quý.
Dần tàng Giáp Bính Mậu mộc hỏa,
Mão cung Ất mộc độc tương phùng.
Thìn có Mậu này Ất cùng Quý.
Tị tàng Bính Mậu cùng Canh kim,
Ngọ cung khước có Đinh hỏa Kỷ.
Mùi cung Đinh Ất Kỷ đồng lâm,
Thân cung Canh kim Nhâm thủy Mậu.
Dậu cung Tân kim một vị tốt,
Tuất có Đinh Tân Mậu thổ đến.
Hợi tàng Nhâm Giáp nhị thiên can,
Thập nhị cung cần phải nhớ lấy.

Thientam
11-04-14, 22:49
Luận ngũ hành sinh, khắc, chế, hóa đều có sở hỉ kỵ lệ:

Kim vượng đắc hỏa,
Phương thành khí mãnh.
Hỏa vượng đắc thủy,
Phương thành tương tế.
Thủy vượng đắc thổ,
Phương thành đầm ao.
Thổ vượng đắc mộc,
Phương thành khai thông.
Mộc vượng đắc kim,
Phương thành trụ cột.

Chỗ này là thân vượng gặp Quan Sát nhập cách. Thuần túy không tạp, vận lại không quay lưng, tức đến đất làm Khanh tướng.

Kim dựa thổ sinh,
Thổ nhiều chôn kim.
Thổ dựa hỏa sinh,
Hỏa nhiều thổ khét.
Hỏa dựa mộc sinh,
Mộc nhiều hỏa cháy.
Mộc dựa thủy sinh,
Thủy nhiều mộc trôi.
Thủy dựa kim sinh,
Kim nhiều thủy đục.

Chỗ này là thân nhược phùng Ấn, thái vượng trùng nặng, tức là chỗ hại. Kim nhiều sinh thủy không kỵ, thủy đơn độc phạm ba Canh Tân.

Kim thuận sinh thủy,
Thủy nhiều kim chìm.
Thủy hay sinh mộc,
Mộc thịnh thủy co.
Mộc hay sinh hỏa,
Hỏa nhiều mộc thiêu.
Hỏa hay sinh thổ,
Thổ nhiều hỏa lấp.
Thổ thuận sinh kim,
Kim nhiều thổ hư.

Chỗ này là thân nhược gặp Thương Quan Thực thần quá vượng còn trùng điệp, cho nên có hại. Giống như nhật cường, lại vừa có Tỉ kiên trùng điệp, phương không kỵ Thương quan, Thực thần. Nếu thuần nhất không tạp, lại thành cách cục.

Thientam
11-04-14, 22:50
Kim hay khắc mộc,
Mộc cứng kim khuyết.
Mộc hay khắc thổ,
Thổ nặng mộc gãy.
Thổ hay khắc thủy,
Thủy nhiều thổ rửa.
Thủy hay khắc hỏa,
Hỏa nóng thủy khô.
Hỏa hay khắc kim,
Kim nhiều hỏa dứt.
Chỗ này là thân nhược, gặp Tài thái vượng trùng điệp, trái lại là tương hại. Nếu thân cường gặp Tài nhập cách cục tức là bát tự phú quý.

Kim nhược gặp hỏa, tất bị nung chảy.
Hỏa nhược gặp thủy, tất bị dập tắt.
Thủy nhược gặp thổ, tất bị lấp kín.
Thổ nhược gặp mộc, tất bị sụp đỗ.
Mộc nhược gặp kim, tất bị gãy ngã.

Chỗ này là thân nhược lại gặp Quan Sát bác tạp thái vượng, nhất định là tàn tật chết yểu, hoặc là bần tiện vậy.

Cường kim đắc thủy, phương tỏa kỳ phong.
Cường thủy đắc mộc, phương tiết kỳ thế.
Cường mộc đắc hỏa, phương hóa kỳ ngoan.
Cường hỏa đắc thổ, phương chỉ kỳ diễm.
Cường thổ đắc kim, phương tuyên kỳ trệ.

Chỗ này là thân nhược gặp quỷ, được vật để hóa thì cát. Như Giáp nhật bị kim Sát đến tổn thương, nếu thời thượng có một vị Nhâm Quý thủy, Thân Tý Thìn giải tức là hóa hung thành cát.

Còn lại cứ theo cách này suy ra.

Thientam
11-04-14, 22:50
Cát thần loại

Thiên Ất quý nhân:
Giáp Mậu gồm Sửu Mùi,
Ất Kỷ đất Thân Mão,
Bính Đinh Hợi Dậu vị,
Nhâm Quý Mão Tị tàng,
Canh Tân gặp Dần Ngọ,
Cách này phương Quý Nhân.

《 Tam Xa Nhất Lãm phú 》nói: Thiên Ất Văn tinh, được thì thông minh trí tuệ.
《 Kinh Thần phú 》nói: Nhật can tọa quý hiển, một đời thanh cao.
《Thông Minh phú 》nói: Tam Hình áp chế quý trong thì cuối cùng chấp chưởng chính vị. Nhất định làm chính trị.
《 Bí quyết 》nói: Quý nhân hỉ hợp. Lại nói: Thiên Ất sinh vượng là người chính đại
《 Phú Quý phú 》nói: Thân đến Quý ở là hiển quý.

Thiên đức : Sinh Tháng giêng thấy chữ Đinh, sinh tháng hai thấy chữ Thân, sinh tháng ba thấy chữ Nhâm, sinh tháng tư thấy chữ Tân, sinh tháng năm thấy chữ Hợi, sinh tháng sáu thấy chữ Giáp, sinh tháng bảy thấy chữ Quý, sinh tháng tám thấy chữ Dần, sinh tháng chín thấy chữ Bính, sinh tháng mười thấy chữ Ất, sinh tháng mười một thấy chữ Tý, sinh tháng mười hai thấy chữ Canh, chỗ này là Thiên Đức.

Nguyệt đức : Tháng Dần Ngọ Tuất ở Bính, tháng Thân Tý Thìn ở Nhâm, tháng Hợi Mão Mùi ở Giáp, tháng Tị Dậu Sửu ở Canh, cách này là Nguyệt Đức.

《 Tam Xa Nhất Lãm phú 》nói: Thiên Nguyệt Nhị Đức giúp đỡ thì lợi đường quan mà ít bệnh. Lại nói: Nhị Đức giúp đỡ, ác nhiều đều bị loại trừ.

《 Tâm Kính phú 》nói: Thiên Nguyệt Nhị Đức là cứu giải, trăm tai nạn đều không bị hại.
《Tương Tâm phú 》nói: Ấn sinh Nhị Đức, làm việc hay ban ơn bố thí đức.
《U Vi phú 》nói: hiền lành, minh mẫn, thông minh là nhờ mệnh có Thiên Nguyệt Nhị Đức.
《Áo Chỉ phú 》nói: Mệnh giảm bớt Sát vượng, cần cầu xin Thiên Nguyệt Nhị Đức cứu giúp.
《Bí quyết 》nói: Thiên Nguyệt Nhị Đức đến Nhật chủ, cả đời không có nguy không có lo lắng. Lại gặp Tướng tinh, danh đăng cửa quan.

Thientam
11-04-14, 22:51
Học đường : Sinh ngày Giáp gặp tháng Hợi, hoặc giờ Hợi. Sinh ngày Ất gặp tháng Ngọ, hoặc giờ Ngọ. Sinh ngày Bính gặp tháng Dần, hoặc giờ Dần. Sinh ngày Đinh gặp tháng Dậu, hoặc giờ Dậu. Sinh ngày Mậu gặp tháng Dần, hoặc giờ Dần. Sinh ngày Kỷ gặp tháng Dậu, hoặc giờ Dậu. Sinh ngày Canh gặp tháng Tị, hoặc giờ Tị. Sinh ngày Tân gặp tháng Tý, hoặc giờ Tý. Sinh ngày Nhâm gặp tháng Thân, hoặc giờ Thân. Sinh ngày Quý gặp tháng Mão, hoặc giờ Mão.
《 Tam Xa Nhất Lãm 》nói: Học Đường có khí, chỉ lợi làm thầy dạy nho.
《Phú Quý phú 》nói: Thông minh mệnh tọa Học Đường.

Quan quý Học quán : Quan quý Học quán là lấy Quan quý trường sinh gọi là Học quán. Như Giáp Ất lấy Canh Tân kim làm Quan quý, kim sinh ở Tị, Lâm quan ở Thân, như người sinh ngày Giáp Ất gặp chữ Tị Thân Quan, tức là Quan quý Học quán. Thập can theo ví dụ này mà suy ra.

Hoa cái : sinh Dần Ngọ Tuất thấy chữ Tuất, Hợi Mão Mùi thấy chữ Mùi, Thân Tý Thìn thấy chữ Thìn, Tị Dậu Sửu thấy chữ Sửu, chỗ này là Hoa Cái vậy.
《 Tam Xa phú 》nói: Hoa Cái trọng nặng, tư tưởng siêng năng mà học tập. Lại nói: Hoa Cái chính là kẻ sĩ thông minh.
Xưa nói: Hoa Cái gặp Không Vong, nghiêng về Tăng đạo.
《 Áo Chỉ phú 》nói: Trụ nếu gặp Hoa Cái, phạm Nhị Đức, chính là người thanh quý.
《Thông Minh phú 》nói: Hoa Cái đến thân, định là người nước ngoài, chỉ chú ý đến tòa Sen bục Lan, đầu gối để ở bồ đoàn cây trúc với kinh kệ nơi cửa Phật.
《Tạo Vi phú 》nói: Ấn thụ gặp Hoa Cái, được tôn kính nơi Vua chúa.
Ca cổ nói: Sinh gặp Hoa Cái chủ văn chương, nghệ thuật, thiên về suy nghĩ nhiều, hay lo nghĩ.

Tướng tinh : Như sinh Dần Ngọ Tuất thấy chữ Ngọ, Thân Tý Thìn thấy chữ Tý, Tị Dậu Sửu thấy chữ Dậu, Hợi Mão Mùi thấy chữ Mão, chính là Tướng Tinh.
Cổ ca nói: Tướng tinh văn võ đều thích hợp, Lộc trọng Quyền cao có thể đủ.

Dịch mã : Sinh Dần Ngọ Tuất thấy chữ Thân, Thân Tý Thìn thấy chữ Dần, Tị Dậu Sửu thấy chữ Hợi, Hợi Mão Mùi thấy chữ Tị, chính là Dịch Mã.
《 Tam Xa phú 》nói: Mã gặp roi ngựa, thân không an nhàn.
《Tạo Vi luận 》nói: Mã đứng đầu đeo kiếm, trấn giữ biên cương. Lại nói: Nhâm Thân, Quý Dậu là chân kiếm.
《 Thân Mệnh phú 》nói: Mã đến đất Tài, phát như mãnh hổ.
《 Tập thuyết 》nói: Quý nhân gặp Mã nhiều thì dễ cất nhắc thăng chức, người thường gặp Mã nhiều thì hay bôn ba. Lại nói: Mã kỵ Không Vong.
Cổ ca nói: Sinh mệnh nếu còn gặp Dịch Mã, đại lợi cho cầu danh, cầu lợi.

Thiên xá : Mùa Xuân ngày Mậu Dần, Mùa Hạ ngày Giáp Ngọ, Mùa Thu ngày Mậu Thân, Mùa Đông ngày Giáp Tý.
《 Tam Xa Nhất Lãm 》nói: Trong mệnh nếu gặp Thiên Xá, đối xử trăm sự không lo.
《 Tập thuyết 》nói: Thiên Xá nếu ở trong mệnh, gặp hung không hung, rất thích rượu.

Phúc đức, Tú khí : Cần nhật chủ Kỷ Sửu, sinh đến địa chi đủ Tị Dậu Sửu, là Phúc đức. Thiên can cần có ba chữ Ất, địa chi đủ Tị Dậu Sửu, là Tú khí.

Phúc tinh quý nhân : Giáp Bính cùng nhau đón nhập đất Dần, lại gặp huyệt này là xuất sắc nhất. Mậu Thân, Kỷ Mùi, Đinh Hợi gặp Ất Quý gặp Sửu thì phúc lộc hưng thịnh.
Canh đến đầu Mã Tân mang Tị,
Nhâm kỵ long bối mừng phi thường.
《 Tam Xa Nhất Lãm phú 》nói: Phúc Tinh Quý nhân nhiều chỗ tôn quý, trong mệnh mừng nhất gặp thần này.

Loan Hỉ nhị Đức:
Mão khởi Hồng Loan nghịch số thông,
Muốn biết Thiên Hỉ là gặp xung.
Càng có Giải Thần cần nghịch số,
Tuất phải đến Dậu là chính tông.
Muốn cầu Thiên Đức thuận theo Dậu,
Nguyệt Đức cần dựa Tị thuận phùng.
Sinh mệnh có hạn gặp người đến,
Hỉ được cộng hỉ lại không hung.

Thientam
11-04-14, 22:52
Hung thần loại

Lục giáp không vong: Tuần Giáp Tý không có Tuất Hợi, Tuần Giáp Tuất không có Thân Dậu, tuần Giáp Thân không có Ngọ Mùi, tuần Giáp Ngọ không có Thìn Tị, tuần Giáp Thìn không có Dần Mão, tuần Giáp Dần không có Tý Sửu.
《Tạo Vi phú 》nói: Không Vong càng ít đến, cô độc đến già.
《Tập thuyết 》nói: Phàm mệnh con người bên trong mang Không Vong, cả đời chủ thông minh.

Tang môn: Người sinh năm Tý thấy chữ Dần; Người sinh năm Sửu chữ Mão; Người sinh năm Dần thấy chữ Thìn; Người sinh năm Mão thấy chữ Tị; Người sinh năm Thìn thấy chữ Ngọ; Người sinh năm Tị thấy chữ Mùi; Người sinh năm Ngọ thấy chữ Thân; Người sinh năm Mùi thấy chữ Dậu; Người sinh năm Thân thấy chữ Tuất; Người sinh năm Dậu thấy chữ Hợi; Người sinh năm Tuất thấy chữ Tý; Người sinh năm Hợi thấy chữ Sửu, cách này chỉ lấy năm sinh mà suy ra.

Điếu khách : Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu, theo trước Tang Môn mà suy ra là Điếu Khách.
《Tập thuyết 》nói: Trước mệnh 3 ngày là Tang Môn, sau mệnh ba ngày là Điếu Khách, vốn là mệnh phạm Tuế thần là chủ tang phục, khóc lóc, nhẹ thì chủ tổn thương thân.

Cấu thần: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần, theo ví dụ ở trước mà suy ra, tức là Cấu Thần.

Giảo thần: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân, theo ví dụ ở trước mà suy ra, tức là Giảo Thần.
《Tạo vi luận 》nói: Câu Thần trùng với Tam Hình, định là gặp nhiều lần xếp kết hợp với nhau.
《Tập thuyết 》nói: Trước mệnh 4 thần là Cấu, sau mệnh bốn thần là Giảo. Như người sinh Ngọ thì Dậu là Cấu, Mão là Giảo. Như vốn là nói cùng Tuế Vận gặp nhau thì tai ương, trì trệ, thương thân, hoặc thoái tài đều có liên quan sự việc với nhau.

Thientam
11-04-14, 22:52
Cô Thần: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi; Dần Dần, Tị Tị, Tị Thân, Thân Thân, Hợi Hợi, Hợi Dần, theo ví dụ trước mà suyra, tức là Cô Thần.

Quả túc: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi; Tuất Tuất, Sửu Sửu, Sửu Thìn, Thìn Thìn, Mùi Mùi, Mùi Tuất, theo ví dụ trước mà suy ra, tức là Quả Túc.
Bí quyết nói: Song Thần hợp lại thành bè đảng, góa vợ hoặc góa chồng mà cô đơn.
《Kinh Thần phú 》nói: Phương thành thần thì ôm Cô Quả, Quý Nhân cùng vị trí. Lại nói: Cô Thần, Hoa Cái, nói giờ mà phạm thì chủ cô đơn, lại nói: Cô thần, Hoa cái chủ phần đông là Tăng ni.
《 Thông Minh phú 》nói: Cô Quả hai thần mang theo Quan Ấn, định lấy tập hợp lĩnh tụ.
《Thân Mệnh phú 》nói: Nam Cô thần, là khách tha hương. Nữ Quả túc, là phụ nữ có hành vi khác thường. Cổ ca nói: Cô thần thì nên tránh, nam khắc vợ, Quả túc nói Nữ hại chồng.

Cách giác: Lấy ngày giờ mà thượng khởi, ngày cùng giờ cách một chữ, tức là Cách giác. Như ngày Sửu giờ Mão, ngày Thìn giờ Ngọ, ngày Mùi giờ Dậu, ngày Tuất giờ Tý ….
《Tâm Kính phú 》nói: Cách Giác lại gặp Tuế Quân, xác định rõ là bị lưu đày.

Hàm trì: Dần Ngọ Tuất người sinh thấy chữ Mão, Thân Tý Thần người sinh thấy chữ Dậu, Tị Dậu Sửu ngày sinh thấy chữ Ngọ, Hợi Mão Mùi người sinh thấy chữ Tý, tức là Hàm Trì Sát. Lấy năm sinh niên hoặc lấy ngày sinh mà thượng khởi, nếu ở trên ngày giờ có Sát thì là khẩn cấp.
《U Vi phú 》nói: Tửu sắc điên cuồng, chỉ có ở Đào Hoa mang theo Sát.
《Kim Ngọc phú 》nói: Thiên Đức cùng Hàm trì đồng hội tụ, về già có tình ý gió trăng.
《Bí quyết 》nói: Đào Hoa, Dịch Mã, cả đời không thể miễn tung bay. Lại nói: Đào Hoa đảo sáp, khảng khái phong lưu. Lại nói: Sinh mệnh bên trong có mang Hàm Trì, đương nhiên ông trời gây ra những chuyện rắc rối, lôi thôi. Nam gặp thì nhiều rộng rãi, phóng khoáng, nữ nhân thì hay lẳng lơ.
《Thông Minh phú 》nói: Đào Hoa lại mang hợp, nhất định là người hay rong chơi thành kẻ lãng từ.
《 Tạo Vi luận 》nói: Hàm Trì càng hợp lại nói là có chức quan, bởi vì vợ làm nên giàu có. Lại nói: Đào Hoa nếu đến Đế Tọa, thì vong thân do mê sắc đẹp.
《Kinh Thần phú 》nói: Phong lưu, phóng đãng, là bởi do thông dâm mà khô nhược, bởi tọa Hàm Trì.

Phục ngâm: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi gặp Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, chữ đối diện mà suy ra, tức là Phục ngâm.

Phản ngâm: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi gặp Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị, là cung xung đối nhau mà suy ra, tức là Phản ngâm.
Sách nói: "Phản ngâm, Phục ngâm, khóc lóc lệ rơi. Bản thân không tổn thương thì người thân cũng bị tổn hại"
Phép này như người sinh năm Tý, gặp lưu niên Tuế Quân cũng là Tý, tức là Phục ngâm. Như người sinh năm Tý mà gặp lưu niên Tuế quân là Ngọ, tức là Phản ngâm, còn lại đều suy ra như vậy.
《Cổ ca nói 》: Sát mà phục ngâm thì không chịu nổi tiếng tăm, vận hạn thì luận như ví dụ trên. Lại nói: Phản ngâm chẳng những hại vợ con mà gia đình cũng gặp khó khăn kéo dài.

Thientam
11-04-14, 22:53
Nguyên thần: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi gặp như sinh năm Tý thấy chữ Mùi, sinh năm Sửu thấy chữ Ngọ, sinh năm Dần thấy chữ Dậu, sinh năm Mão thấy chữ Thân, sinh năm Thìn thấy chữ Hợi, sinh năm Tị thấy chữ Tuất, là vậy.
《 Bí quyết 》nói: Tiêu hao lớn như kim châm, không bần thì yểu.

Kiếp sát: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi gặp Tị Dần Hợi Thân Tị Dần Hợi Thân Tị Dần Hợi Thân, như năm sinh Thân Tý Thìn thấy chữ , năm sinh Dần Ngọ Tuất thấy chữ Hợi, năm sinh Hợi Mão Mùi thấy chữ Thân, sinh năm Tị Dậu Sửu thấy chữ Dần, là vậy.

Phá quân: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi gặp Hợi Thân Tị Dần Hợi Thân Tị Dần Hợi Thân Tị Dần, như năm sinh Thân Tý Thìn thấy chữ Hợi, năm sinh Hợi Mão Mùi thấy chữ Dần, năm sinh Dần Ngọ Tuất thấy chữ Tị, năm sinh Tị Dậu Sửu thấy chữ Thân, là vậy.
《Tam Xa Nhất Lãm phú 》nói: Vong Kiếp đến, là thế hệ khẩu Phật mà tâm Xà. Lại vừa có Phá Quân là ba cái nặng, nhất định là thế hệ xấu xa.
Cổ ca nói: Mệnh gặp Quan phù là gặp việc quan sự nhiều, là kẻ cướp nổi tiếng khắp nơi. Tiền của Tổ tiên cao như núi, cũng thành nước chảy cuốn trôi.
Lại nói: Một vị Phá Quân như cửa miệng, nếu có cả hai trọng sinh vượng thì chủ là kẻ xấu. Ba trọng gặp đúng thì giống như Giảo, bốn vị gặp nhau thì xác định là mất đầu.

Huyền châm: Phàm Bát tự trong trụ có hình nhiều kép chân, như tình trạng Huyền Châm, tức là Huyền Châm Sát. Như Giáp Thân, Tân Mão, Giáp Ngọ là các loại vậy. Bí quyết nói: Huyền Châm hợp với Nhận, có thể là làm nghề đồ tể.

Bình Đầu: Phàm trong Bát tự Tứ trụ, nhiều chữ Bình Đầu thì gọi là Bình Đầu Sát, như Giáp Tý, Giáp Thìn, Giáp Dần, Bính Thìn, Bính Tuất, Bính Dần các loại vậy. Bí Quyết nói: Bình Đầu, Huyền Châm mang theo Nhận, chủ đúng là súc vật.
Tập thuyết nói:
Bình Đầu một cách chiếm thiên can,
Niên Nhận Huyền Châm Sát hợp đọ.
Phá cách hình xung không vượng khí,
Khoác Dê mang Giác súc sinh xem.

Tử ám tinh: Trước Lộc một vị, ở trời là Tử ám tinh, chuyên hành giết hại. Sinh mệnh gặp chỗ này, lại thêm hình xung phá hại, là người nhất định rất hung ác, chết dưới giáo thương trong quân đội.

Lưu hà sát : Giáp, Dậu, Ất, Tuất thêm Bính Mùi, Đinh thì đất Thân, Mậu thấy Tị, Kỷ Ngọ, Canh Thìn, Tân ở Mão, Nhâm thì Hợi, Quý thì Dần chính là Lưu Hà.
Nam thì chủ tha hương mà mất, Nữ chủ bị sản hậu mất.

Xung thiên sát : Ngày sinh đối diện với giờ sinh thì đoản thọ, năm sinh đối với thàng sinh thì thọ không dài. Giờ này Ngũ hành xung Thiên Sát, có nhiều người gặp thời thiếu niên chết.
Kỵ ngày sinh đối diện giờ sinh, là giờ sinh đối diện với sinh mệnh vậy.

Ngũ quỷ sát : Mộc mệnh gặp Tý Sửu, kim kỵ Ngọ Mùi. Hỏa gặp Mão Thìn, thủy thổ gặp Tuất Dậu. Nam nữ mệnh gặp cách này, đều coi như nhà bỏ trống.

Hồng diễm sát : Đa tình, đa dục, thiếu nhân tri.
Lục Bính gặp Dần, Tân thấy Dậu.
Quý đến trên Thân, Đinh thấy Mùi,
Mặt mày rạng rỡ chơi đùa giỡn.
Giáp, Ất ,Ngọ, Thân, Canh thấy Tuất,
Đời người chỉ làm Thê mọi người.
Mậu Kỷ sợ Thìn Nhâm sợ Tý,
Lộc Mã gặp nhau làm điếm phường.
Nhâm phải giàu làm quan tỳ nữ,
Trước hoa dưới nguyệt hẹn ngày cưới.

Thientam
11-04-14, 22:54
Thôn diễm sát :
Hợi Tuất Mùi gặp Dần tất thương,
Thân Tị hội lại chịu mất đầu.
Tuất gặp Dậu Tý bị kẻ phối,
Mão gặp Tị mà đi xa quê.

Chỗ này thấy Tuất nên là dữ,
Ngọ Sửu gặp Dần định tổn thương.
Mão Thân gặp Tuất khó quay về,
Thìn đến Thìn khứ thủy trung ương.

Tam khâu ngũ mộ :
Tam Khâu Ngũ Mộ có người sầu,
Cha mẹ vợ con hết hoàn hảo.
Xuân Sửu Hạ Thìn Thu là Mùi,
Mùa Đông gặp Tuất là Tam Khâu.
Muốn biết Ngũ Mộ vốn cung đối,
Mệnh nhược gặp phải kỵ ưu phiền.

Thiên la địa võng : Thìn là Thiên La, Tuất là Địa Võng. Thường nói là Thìn Tuất tên là La Võng. Thiên Ất không đến. Như sinh mệnh có cách này, thì chủ thất bại, hãm hại, đau khổ, trì trệ, tai họa về lao ngục.

Thần Sát to lớn như Dịch Mã, Lục Hại, Hoa Cái, Kiếp Sát, Tai Sát, Niên Sát, Nguyệt Sát, Vong Thần, Tướng Tinh, Phàn An.

Lưu niên tinh diệu :
Gươm Thái Tuế phục bầy tôi hợp,
Hai nói Thái Dương hợp thời tiết,
Ba là Tang Môn hợp tang ma,
Bốn là Cấu Giảo nói đồng lấy,
Năm là Quan Phù hợp Ngũ Quỷ,
Sáu là Tử phù Tiểu háo công,
Bảy là Lan can hợp Đại háo,
Tám là Bạo Bại cùng Thiên Ách,
Chín là Phi liêm Bạch Hổ vị,
Mười là xoắn lưỡi Phúc tinh thông,
Mười một Thiên Cẩu Điếu Khách họa,
Mười hai Bệnh Phù hợp chớ phùng.

Thái bạch tinh : Tý Ngọ Mão Dậu đúng ở Tị, Dần Thân Tị Hợi đúng ở Dậu, Thìn Tuất Sửu Mùi đúng ở Sửu, sinh mệnh gặp cách này thì chủ cô đơn, yểu mệnh, bần tiện, tàn tật, làm kẻ xấu.

Phủ phách tinh : Tý Ngọ Mão Dậu gặp đầu Tị thì phát khởi. Dần Thân Tị Hợi, gặp đầu Dậu thì tan tành. Thìn Tuất Sửu Mùi gặp đầu Sửu thì đại kỵ. Mệnh nếu có cách này, chủ phá tài, gặp hình xung cũng vậy.

Cô, Hư thần : Không Vong đối cung là Cô Hư. Như sinh trong tuần Giáp Tý, lấy chữ Tuất Hợi là Không Vong, tức lấy Tuất Hợi đối cung là Thìn Tị là Cô Hư. Còn lại giống như vậy suy ra.

Thientam
11-04-14, 22:54
Vận hối ca

Tỉ kiên sự vật không tranh luận,
Tiếng tăm, tranh cải là khác người.
Huynh đệ thân bằng việc tài bạch,
Đóng cửa chớ cùng luận hòa bình.

Kiếp tài Dương Nhận hai đầu ở,
Ngoài mặt thì sáng trong thì tối.
Quan Sát hai đầu không cần ở,
Than ôi! xứng làm người ngạo mạn .


Vận thông ca

Tam hợp Tài Quan được thời vận,
Hoa lụa thơm ngon hội ngày cưới.
Đại dương đã đạt ý mây xanh,
Tài lộc hôn nhân hỉ hợp khí.

Vận đạt thời đến nên sự việc,
Hàn vi có phận thang trên trời.
Quý nhân theo nhẹ hơn lực trẻ,
Hướng về mây xanh kỳ kết quả.

Bản thân từ bé đã không nghèo,
Quan nơi nhà đẹp bốn mùa xuân.
Hạ mát Đông ấm thanh cao xứ,
Chén khay soạn tiệc tính khác người.

Vận này tươi sáng việc chuyển mới,
Không mất lòng nhau tính dương xuân.
Mây xanh có tin gần thượng giới,
Định là vượt trội quá nhóm người.

Giáp Tý Đinh Mão không là Nhận,
Ất Dậu Canh Thân lý như nhau.
Hợp khởi Nhân nguyên Tài Mã vượng,
Trung niên hiển đạt nhà phú ông.

Thientam
11-04-14, 22:55
Thiên nguyên nhất tự ca

Thiên nguyên một chữ thủy là gốc,
Sinh ở Thu Đông không diệu kì.
Lớn nhỏ cát thần gặp một vị,
Thiếu niên đường mây tận trời cao.

Thiên nguyên một chữ gốc là thổ,
Tứ quý sinh thời liền là kỳ.
Tân Dậu hai loại thành cách cục,
Thông Minh, tuấn tú khác người thường.

Thiên nguyên một chữ mộc là gốc,
Chuyên chở rõ bước phúc hiển lộ.
Tứ trụ Quan tinh như đắc địa,
Công danh, lợi lộc bước lên cao.

Thiên nguyên một chữ như gặp kim,
Thời nhật Khôi cương sâu phúc khí.
Khố vị gặp xung cùng mang Quý,
Cả đời đức hạnh trọng quý nhân.

Thiên nguyên một chữ hỏa ấm áp,
Đại cát Công Tào thời nhật xung.
Xung khởi Tài Quan là phát dụng,
Cả đời phú quý phúc hưng long.

Thientam
11-04-14, 22:56
Thiên nguyên nhất tự ca

Thiên nguyên một chữ thủy là gốc,
Sinh ở Thu Đông không diệu kì.
Lớn nhỏ cát thần gặp một vị,
Thiếu niên đường mây tận trời cao.

Thiên nguyên một chữ gốc là thổ,
Tứ quý sinh thời liền là kỳ.
Tân Dậu hai loại thành cách cục,
Thông Minh, tuấn tú khác người thường.

Thiên nguyên một chữ mộc là gốc,
Chuyên chở rõ bước phúc hiển lộ.
Tứ trụ Quan tinh như đắc địa,
Công danh, lợi lộc bước lên cao.

Thiên nguyên một chữ như gặp kim,
Thời nhật Khôi cương sâu phúc khí.
Khố vị gặp xung cùng mang Quý,
Cả đời đức hạnh trọng quý nhân.

Thiên nguyên một chữ hỏa ấm áp,
Đại cát Công Tào thời nhật xung.
Xung khởi Tài Quan là phát dụng,
Cả đời phú quý phúc hưng long.

Thientam
11-04-14, 22:57
Khắc Tử ca

Ngũ hành tứ trụ có Thương Quan,
Tử tức thiếu niên tất không an.
Quan quỷ vận đến thân vượng địa,
Được gửi một hai lão đến xem.

Tử trúng xung vượng thấy hình xung,
Nguyệt lệnh hưu tù không Tử Tức.
Quan quỷ bại vong nặng thấy khắc,
Như không thấy nhiều tất nghĩa tử.

Ấn thụ trùng điệp khắc Tử tinh,
Tử tức khó tồn ai làm bạn.
Như còn lưu được ở bên người,
Mang phá bướng bỉnh khó khiến sai.

Giờ phùng Thất Sát vốn không con,
Lý này người cần suy tử tế.
Can thượng Thực thần lại hội hợp,
Cháu con định lấy quý thành kỳ.

Nữ nhân Ấn thụ gặp giờ tháng,
Quan Thực gặp thương Tử tức không.
Chủ làm nghĩa tử kiêm biệt lập,
Cô thần phạm nặng đều không công.

Cục bị Quan Sát đều khó thanh,
Dương Nhận trọng nặng có trợ giúp.
Bát tự thuần dương Thiên Ấn nặng,
Khó chồng trùng điệp lại khó con.

Thientam
11-04-14, 22:58
Mang Tật ca

Mậu Kỷ sinh thời khí không đủ,
Nguyệt thời hai xứ thấy Thương Quan.
Tất đương đầu mặt có suy tổn,
Máu mủ lở loét khổ thiểu niên.

Nhật chủ đến thêm sinh Mậu Kỷ,
Chi thần hỏa cục khí thêm cháy.
Hình xung khắc phá lấy tàn tật,
Phát trọc an nhàn mắt tối tăm.

Bính Đinh nhật chủ ngũ hành suy,
Thất Sát đến thêm gặp tam hợp.
Thăng hợp nhật cầu áo cơm thiếu,
Tai điếc tàn tật mặt bụi nhơ.

Nhâm Quý trọng nặng trùng điệp xếp,
Canh giờ nếu nhược thấy Thiên Tài.
Cho dù đầu mặt không ghẻ lở,
Định là một thân bệnh mắt tai.

Bính Đinh hỏa vượng tật khó phòng,
Tứ trụ hưu tù phương Thìn Tị.
Mộc hỏa tương sinh đến đất này,
Câm do bệnh phong âm thầm chết.

Thientam
11-04-14, 22:58
Thọ nguyên ca

Đoán Thọ vô hình hiểu huyền bí,
Biết thời cần biết tiết thiên cơ.
Lục thân trong có kẻ thù hận,
Tuế Vận gặp nhau thành không hợp.

Thọ tinh sáng tỏ thần gốc thọ,
Mẹ kế gặp chi không thể cần.
Yêu thiếp không đến cùng cứu trợ,
Mệnh như cỏ yếu gặp thu sương.

Bính đến ngôi Thân gặp dương thủy,
Định thấy tuổi trời yểu cũng biết.
Thấu xuất can đầu Nhâm Quý thủy,
Một thân nhất định chết chắc chắn.

Thientam
11-04-14, 22:59
Phiêu đãng ca

Thiên Tài đắc vị phải tha hương,
Khảng khái phong lưu tính muốn cường.
Biệt lập gia đình hai ba xứ,
Bỏ danh bỏ lợi bận gia đình.

Thiên tài đắc sở là lành nhất,
Thấu xuất Dương Nhận đả thương nặng.
Phá đãng gia đình kẻ nhàn sự,
Bại môn nhục tổ tính bạo cường.

Thiên Tài biệt lập ở phương xa,
Yêu thiếp phòng vợ lại tổn thương.
Ái dục có tình nhiều thê thiếp,
Lại càng say tửu cùng hương hoa.

Thientam
11-04-14, 22:59
Nữ mệnh ca

Tài Quan Ấn thụ ba bàn vật,
Nữ mệnh gặp này tất vượng phu.
Không phạm Sát nhiều không hỗn tạp,
Thân cường chế phục có tiếng xưng.

Nữ mệnh Thương quan phúc không rõ,
Không Tài không Ấn là cô bần.
Cục bị nhược thấy Thương quan thấu,
Tất đứng trước đường người sai khiến.

Có chồng mang hợp cần cải chính,
Có hợp không chồng định là Thiên.
Quan Sát phạm nặng thành hạ cách,
Thương quan nặng hợp nói không cần.

Quan mang Đào Hoa phúc thọ thịnh,
Đào hoa mang Sát thiếu trinh nguyên.
Mệnh bị gặp kỵ Đào hoa phạm,
Kiếp Tỉ Đào Hoa đại bất lương.

Nữ mệnh trong sợ Thương quan cách,
Mang Tài mang Ấn phương phúc vững.
Thương quan vượng xứ chủ khắc chồng,
Phá mất Thương quan tổn tuổi thọ.

Thientam
11-04-14, 23:01
Nguyệt kiến sinh khắc ca

Trước khi viết tiếp bài mới của Quyển Thần Phong Thông Khảo, tôi chỉ viết những gì không trùng lắp với các quyển như TBCTBC, TLMC như luận về nguyên lý ngũ hành, định cách cục, ... bởi vì gần giống nhau.
Cho nên tôi chỉ gửi lên diễn đàn những bài phú, vịnh, cổ ca để chúng ta cùng nhau ngâm cứu. Chứ thực ra mấu chốt vẫn là ngũ hành mà suy ra thôi.

Tháng giêng, kiến Dần ca:

Chính nguyệt Dần cung gốc là mộc,
Mộc sinh hỏa vượng được trường sinh.
Tuất kiêm Ngọ Mùi cung đúng hỉ,
Thân Dậu hưu tù số làm không.

Dần nguyệt trọng phùng Ngọ Hợi Tuất,
Canh Thân là chủ hai hàng suy.
Không căn có lực phương cần hỏa,
Chủ nhược hưu tù sợ hỏa phương.

Như dụng Dần cung mộc hỏa thần,
Nam phương Mùi Ngọ tài lộc vui.
Nghịch hành Hợi Tuất còn đang vượng,
Phá tổn ưu sầu thấy Dậu Thân.

Canh Tân chủ nhược gặp Dần nguyệt,
Ngọ Tuất đến cộng Sát tinh hội.
Nhật chủ vô căn cần thấu thổ,
Nghịch hành kim thủy phúc hưng long.

Mậu Kỷ thân suy hỉ thấy Dần,
Trọng nặng Sát Quan thân tất vinh.
Chỉ cần mộc hỏa tương sinh cục,
Vận đến Tây phương sợ Dậu Thân.

Thientam
11-04-14, 23:02
Tháng hai, kiến Mão ca

Bính Đinh tháng Mão thân gặp Ấn,
Đại sợ Canh Tân Dậu Sửu thương.
Thủy vận phát vinh mộc hỏa vượng,
Tây phương hành vận gặp tai ương.

Giáp Nhật Mão nguyệt trọng gặp Sửu,
Trong cách có hỏa ngại không cần.
Tiếp hành hỏa thổ hưng tài lộc,
Tuế Vận cần kim sợ thủy ràng.

Chính mộc vinh ở đúng Mão nguyệt,
Như gặp là dụng hỉ phùng sinh.
Bắc phương Hợi Tý thành danh lợi,
Ngọ Mùi hành đến trợ phúc dày.

Nhật chủ Kỷ Mão đang tháng Mão,
Sát tinh có lộ phúc vị thiên.
Chỉ cần mộc hỏa nghênh đón trọng,
Kim thủy hành đến số phải thua.

Canh Tân Mão nguyệt nhiều gặp mộc,
Nhật chủ không căn sợ vượng tài.
Nam Bắc hai đầu nhiều có phá,
Như phùng Thân Dậu phúc đến phương.

Mão cung sợ nhất gặp kim giáng,
Hỏa vượng gốc sâu chế phục cường.
Tứ trụ có kim ngại Tị Sửu,
Vận đến Dậu đi định tổn thương.

Quý nhật không căn gặp tháng Mão,
Trong cục có hỏa lại thành công.
Như hành thân vượng nhiều tài phúc,
Nếu đến Quan hương số tất xong.

Tháng ba, kiến Thìn ca

Tam nguyệt cung Thìn chỉ luận thổ,
Sát nhiều kim thủy hóa làm lành.
Đề cương như dụng Tài Quan Ấn,
Kim thủy gặp nhau mệnh tổn thương.

Mậu thổ không căn nhật tọa Dần,
Trọng nặng thủy vượng phúc tài sâu.
Như hành thủy hỏa cung đúng tốt,
Kim thủy gặp nhau họa tất gần.

Tam nguyệt can đầu lấy kim dụng,
Hỏa sinh thổ lại phúc rõ dày.
Thân là Nhâm Quý nhiều gặp thổ,
Hỏa vượng họa đến tất đề phòng.

Thientam
11-04-14, 23:02
Tháng tư, kiến Tị ca

Giáp Ất như đến bốn ngày kịp,
Mộc hương thủy vượng gốc Tài dày.
Bắc phương thủy địa nhiều hung phá,
Dậu Sửu gặp nhau Ta nói tiện.

Tứ nguyệt can đầu gặp thủy thổ,
Đất hỏa mộc vượng lộc còn thông.
Như hành kim thủy nhiều thành bại,
Càng sợ đề cương xung đối nhau.

Kim thủy can đầu thai tứ nguyệt,
Thổ là Chính Ấn Mộc là Tài.
Thân cường dày thổ cần kim thủy,
Nhật chủ khinh phù sợ thủy ra.

Ngày Nhâm tháng Tị kim hỏa thổ,
Không căn không Ấn sợ Tài hương.
Thuận hành Thân Dậu thăng danh lợi,
Nghịch đến Đông phương thọ không bền.

Tứ nguyệt kim sinh hỏa vượng thổ,
Ba loại dụng thần cần rõ phân.
Tài Quan Ấn thụ tàng cung nội,
Xem vận thấp cao tử tế tìm.

Tháng năm, kiến Ngọ ca

Tháng năm chính cung đúng vinh hỏa,
Cao thấp quý tiện đều rõ phân.
Tài Quan đều dụng cần sinh vượng,
Hóa Sát gặp mừng thủy cần hòa.

Tháng năm viêm nóng chính luận hỏa,
Như gặp mộc hỏa tự nhiên hưng.
Tây phương kim thủy đề phòng khắc,
Sửu cao cần biết sợ đón Tý.

Ngọ cung sợ thủy Tý đến xung,
Dụng hỏa gặp xung số tất hung.
Nhật chủ Canh Tân như hội Sát,
Vận phải gặp thì lại thành công.

Tài Quan Ấn thụ như tàng Ngọ,
Tây Bắc hưu lâm Thân Tý Thìn.
Mộc thổ hỏa hương lại phú quý,
Tiếp hành Thân Dậu Tuất trọng tai.

Tháng sáu, kiến Mùi ca

Tháng Mùi chi tàng mộc Quan thời,
Không phân thuận nghịch cao thấp cách.
Nam phương hành khứ Đông phương vượng,
Tây vị hưu sầu Tuất Hợi suy.

Thientam
11-04-14, 23:03
Tháng bảy, kiến Thân ca

Ấn thụ Tài Quan được nguyệt kiến,
Bắc phương về hỉ phúc còn hơn.
Thủy thanh kim vượng sinh nhiều quý,
Đại hạn hành đến sợ nhất Dần.

Canh Tân hai ngày tàng Thân nguyệt,
Có Quan có Ấn có Tài tinh.
Nghịch hành Thìn Tị vinh tài lộc,
Bắc phương cần biết phú quý thành.

Nhâm Quý sinh nơi tháng bảy, tám,
Hỏa thổ dày nhiều hỉ Bắc phương.
Không thương không phá thôi hành thủy,
Đế vượng chữ này vận không hay.

Tháng tám, kiến Dậu ca

Giáp Ất vô căn gặp tháng tám,
Canh Tân kim vượng không ngại hung.
Bắc phương thủy vận Tài tinh đủ,
Nghịch đến Nam phương lấy mất thành.

Tháng Dậu tàng kim ngày gặp Ất,
Bắc phương Hợi Tý thủy trọng phùng.
Thiếu sáng Ngọ Mùi Tài Quyền trọng,
Tị Sửu lâm thêm thọ tất vong.
Tháng Dậu Giáp Ất nhiều Quan Sát,
Không căn Nhật chủ thấp cả đời.
Bắc phương thuận đến hưu nơi Sửu,
Nghịch đến Nam phương Tị trên suy.

Đinh sinh tháng Dậu thiên can quý,
Khứ Sát nơi phương để khứ Tài.
Có khí giữ thân còn Ấn thụ,
Vô tình đến thủy hành lại tới.

Thu kim Dậu Sửu kim vượng nặng,
Trừ phi hỏa luyện được thanh danh.
Đông phương hành khứ dư tài lộc,
Tây Bắc đã tới họa tất nghiêng.

Dậu là Ấn thụ hỏa là Tài,
Thực dụng Thương Quan một cách bày.
Kim thủy sinh nhau dày vinh phúc,
Nam phương hưu đến được tới Ngọ.

Tháng chín, kiến Tuất ca

Tháng chín Tuất trong tàng hỏa thổ,
Canh Tân không kỵ Nhật không căn.
Cách thành như không Tài Quan Ấn,
Vận đến Nam phương phúc lộc chân.

Giáp Ất sinh Thu đúng Cửu nguyệt,
Hỏa suy kim vượng sợ Canh Tân.
Như tới mộc hỏa hưng gia tính,
Kim thủy ràng quanh tới phúc liền.

Tài Quan Ấn thụ nơi Cửu nguyệt,
Phát vượng bay lên thấy Mão Dần.
Thuận khứ Bắc phương hành Tý Sửu,
Nghịch hành sợ Dậu phá gặp Thân.

Tháng chín kim sinh tàng hỏa thổ,
Hoặc hành Nam Bắc hoặc hành Đông.
Không phân thuận nghịch cao thấp cách,
Đại vận gặp Thìn thọ tất vong.

Ngày Nhâm không căn nhiều Mậu Kỷ,
Sinh ở tháng này kỵ quá Tài.
Nghịch hành hưu dụng Nam phương Ngọ,
Dần Sửu như gặp làm sao đâu?

Nhật chủ Bính Đinh lại gặp Tuất,
Tài thấu thiên can lấy dụng thần.
Cách này Thương Quan hỉ vượng Sát,
Chỉ sầu Sát vượng lại thương thân.

Thientam
11-04-14, 23:03
Tháng mười, kiến Hợi ca

Thủy mộc sinh nơi can tháng Hợi,
Tài Quan Ấn thụ hỉ nối liền.
Dụng Nhâm vận vượng Tây phương khứ,
Dụng mộc cần vui Dần Mão gần.

Tháng Hợi Sát Nhâm Đông Nam hỉ,
Đến tới Đông Nam phát hiển Quan.
Đại vận gặp sầu kim thủy địa,
Tiếp hành Đoài Tây thọ khó còn.

Tài Quan Ấn thụ Càn cung lập,
Thủy mộc sinh nhau phúc lộc thông.
Hỉ thủy hỉ kim ngại hỏa thổ,
Vận hành sợ nhất Tị hình xung.

Thủy vượng đang sinh cung Tý Hợi,
Gốc nhiều thủy nhược cách gặp được.
Nặng hành hỏa thổ vượng Tài Quan,
Vận đến Tây phương một mạch thông.

Nhật chủ không căn can kim thượng,
Nguyệt thông Hợi Tý sắp tới thổ.
Chỉ cần Ấn thụ trợ phù thân,
Sao sợ đề cương tổn dụng thần?

Tháng mười một, kiến Tý ca

Nhật chủ Bính đinh tháng gặp Tý,
Chi dưới giờ Thân lại thêm Thìn.
Hỏa thổ đất vượng thành phú quý,
Tiếp hành kim thủy họa khó ngăn.

Tý cung có thủy kim đất vượng,
Thấy thổ hưu tù kỵ phá chi.
Gốc có thổ xa gặp thủy quý,
Ngọ tới phá xung hết thọ nguyên.

Canh kim gặp thủy nhiều thuận lợi,
Hỏa thổ gặp nhau chưa chắc hung.
Vận khứ nguyên thần phen lấy quý,
Tiếp hành vận Ngọ nặng tai ương.

Ngày Canh mà gặp Dần Ngọ Tuất,
Nhật thông hỏa cục vốn đề cương.
Như hành kim thủy phen thành cục,
Hỏa thổ đến họa chịu nổi sao?

Thủy về Đông vượng vui không buồn,
Thấu dụng Tài Quan phú chín châu.
Thuận nghịch không phân còn phú quý,
Đề cương hình khắc cố sự nhiều.

Tháng mười hai, kiến Sửu ca

Giáp Tý sinh ở nơi Sửu nguyệt,
Vô căn kim thủy không ngại hung.
Trọng hành kim thủy thanh danh hiển,
Hỏa thổ gặp nhau gốc phá Tông.

Bính Đinh tọa Sửu Tài trong Sát,
Tứ trụ vô căn thủy hương kỵ.
Vận đến hỏa hương thêm hỏa trợ,
Cần biết đất hiển chấn lợi danh.

Nhâm Quý sinh nơi đề Sửu nguyệt,
Có kim có thổ cách đúng kỳ.
Thuận hành Thìn Tị hưng tài lộc,
Nghịch khứ bay cao Thân Dậu chi.

Mậu thổ sinh nơi thập nhị nguyệt,
Thương Quan Tài vượng tàng tiết mùa.
Thủy thanh kim bạch trợ trong cách,
Như thấy hỏa thổ đổ gãy nhiều.

Can Kỷ tháng Sửu chi kim cục,
Sát vượng thân cường cách cục cao.
Kim thủy đến nặng dày danh lợi,
Đất Tài hỏa địa không vững bền.

Ngày Bính căn nhiều gặp Sửu cục,
Tài Quan Kiến Lộc tàng ở trong.
Đất thủy có vượng quê kim tốt,
Thổ khốn hành Nam cuối cùng không.

Canh Tân tháng Sửu thân ở chính,
Hỏa thổ đến tới phúc lộc cùng.
Nhâm Quý thiên can hoặc chi xuất,
Một thấy thổ Kỷ cần phải mừng.

Thientam
11-04-14, 23:04
Luận chư cách hữu cứu
( Nhiều cách có cứu)

Hợi Mão mộc vượng không gặp kim,
Sửu thổ than hưu thấy mộc gần.
Tị Ngọ thổ cao sao sợ mộc,
Dần cung sao kỵ thủy gốc sâu.

Sửu Tị kim cứng hưu sợ hỏa,
Ấn mộc phân rõ kỵ Dậu kim.
Tuất Thìn Mùi thổ sao lo thủy,
Thân hỉ viêm thần kỵ thổ tinh.

Dậu kim đại kỵ Dần hợp Ngọ,
Thuận nghịch thấp cao cẩn thận tìm.
Vận hướng Bắc phương là phú quý,
Như đến hỏa Ly tất thương thân.

Nhâm Quý phùng Thân hỏa phá chi,
Cục trong có Sát quý phương hiểu.
Duy có Dần cung sợ nhất Thân,
Thủy đến khắc hỏa quá vô tình,

Mộc nhiều căn vượng phương được cứu,
Không Giáp quanh năm phá háo người.
Giáp Ất đến can gặp Tỉ kiên,
Bính Đinh tháng Sửu không ngại gì.

Canh kim sinh Tị lại thành quý,
Nhâm Quý gặp Ly phá mất mạng.
Mậu Kỷ sinh ở nơi tháng Sửu,
Hoặc gặp Dương Nhận ở thiên cung.

Kim nhiều có thủy phương thành quý,
Hỏa trọng phải sợ Tỉ kiếp đồng.

Thientam
11-04-14, 23:05
Nhai tuyền Nam mệnh phú

Phàm xem nam mệnh, trước tiên xem Nhật chủ thịnh suy, sau xem Tài Quan cường nhược.
Nhật chủ vượng, Tài Quan đắc địa, cả đời phúc lộc đầy đủ; Nhật can suy, Tài Quan bại tuyệt, cả đời bần cùng đến già.
Nhật chủ vượng mà Tài Quan suy, gặp Tài Quan phát phúc. Tài Quan vượng mà nhật chủ nhược, vận hành thân vượng nắm lấy danh.
Tài vượng Quan suy, không thể lấy Quan suy mà nói không quý.
Quan vượng Tài tuyệt, bỏ quý mà cũng không thể hiển vinh.
Tài tinh nhập khố gặp xung phá, phú có ngàn kho.
Quan tinh chính khí gặp xung hình, quý mà không dài lâu.
Quan nhược có xung còn có hợp, có tài hơn người; khố gặp xung phá đứng đầu gặp xung, của cải gia đình dần dần sa sút.
Tứ trụ thuần Tài, thân lại vượng, không quý tức là nắm đại phú.
Tài Quan nhập mộ, không tổn hại Tử tức, cũng thương thê.
Tài quan đều đến đất bại tuyệt, cô độc, bần hàn không dứt.
Tài Quan đều gặp ở Không vong, trên đường con mất vợ tổn thương, con đường quan lộ chạy theo khó thành.
Thương Quan gặp lộc, Tài tinh nắm lệnh, sớm kết duyên với con gái hiền lành, thùy mị con nhà giàu có, quyền quý.
Quan tinh đắc lộc ở ngày giờ, định là người tài năng.
Nguyệt lệnh có Tài ở tuyệt địa, vợ không có tài năng giúp đỡ.
Thời thượng Quan tinh không có khí, có con mà không thể thành tài.
Thương Quan, Dương Nhận ở ngày giờ, như Trang Tử gỏ bồn mà than thở.
Bính Tân độn nhập vào giờ Dậu, ngày khác vì sao mà loại bỏ? Tài tinh mang hợp nhật can suy, bên ngoài thì vui vẽ mà bên trong chứa đầy gian trá, dương mộc kim nhiều không có hỏa chế, tính cương bạo mà là phường hung ác, Ấn vượng Tài khinh thân lại nhược, là người tâm đẹp mà lời nói cũng hài lòng; Tài nhiều Ấn khinh thân lại nhược, có học nhưng là người keo kiệt.
Thân nhược Tài nhiều, nghe lệch theo lời nói. Quan ít thân nhược, chỉ truyền lại một con. Biển học cấp tốc, không phải là người phù tá giỏi cho quan, chỉ là hàn nho.
Tài nhiều Sát trọng, gia đình giàu có nhưng thiếu vinh hiển.
Ấn phá Tài thương, ít toại nguyện con đường thanh vân.
Ấn vượng một thấy Tài hương, tự nhiên gia đình giàu có mà nhà cửa nhiều, Ấn khinh nhưng hành Tài vận, bỗng nhiên vào đất không thành.
Ấn trọng nặng mà Tài bị Kiếp, gặp cảnh khốn cùng.
Ấn thụ nhược hành vận thân vượng, cuối cùng tầm thường.

Thientam
11-04-14, 23:06
Dương cương âm nhu, huynh mạnh đệ yếu.
Âm thịnh dương suy, đệ tất mạnh hơn huynh.
Dương Nhận, Kiếp Tài, Tài trùng điệp, việc kết hôn chói sáng.
Trong học thuật là Sát Ấn tương sinh, thân vượng thì công danh hiển đạt.
Ấn vượng Sát khinh, thân cầm xác định hưởng khoa danh.
Sát vượng Ấn khinh, xuất ra làm quan ở võ tướng.
Mang Sát, Khôi cương gặp xung chiến, tính tình cao cường mà sinh Sát nắm quyền. Dương Nhận, Thất Sát giao gia, nhận lấy biên cương mà quân dân chịu ơn huệ. Thất Sát có chế hóa thành quyền, định là phát sinh người là Kỳ Lân ( tài năng).
Thực nhiều Sát ít lại thân suy, con ít mà tính tình không hơn người.
Thương quan nhập mộ, cần phân ra âm dương: Dương Thương quan nhập mộ, đất cụ già bỏ hoang; âm Thương Quan nhập mộ có bệnh sợ gì trở ngại. Thương quan nhược thấy tứ trụ, có con khó kế tục thư hương.
Đại vận được nhập Tài hương, là của quý báu. Kim thủy Thương quan đắc lệnh, đứng đầu văn chương Ngũ kinh (kinh điển Nho giáo: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu).
Hỏa thổ thủy mộc Thương quan, là bản thân hay xúc phạm hay coi thường người. Hỏa minh mộc tú, nhật chủ cường định lấy Trạng nguyên lang.
Thương quan thân vượng nếu gặp Tài, thân đến đài quan Phượng Hoàng; Thương quan, thân nhược thấy Thương quan, đang bằng phẳng bỗng gặp phong ba.
Thương quan vận nếu thấy xung hình, nằm mộng nhập cõi u minh. Dương Nhận Sát địch Sát, bảng hoàng kim ở trên định thanh danh.
Thương quan có tình đến hợp Sát, kim bảng tiêu danh định là chân.
Tuổi đàn ông luận vợ tai nạn ở xứ nào, xem Tài tinh chịu khắc nông sâu.
Mệnh có suy từ mẹ bệnh gốc sâu, xem Ấn tinh chịu thương khinh trọng.
Quý dụng Canh kim là Ấn tinh, Ất Canh ám hợp, định là mẹ có tâm tà.
Canh dụng Ất mộc lấy Tài tinh, trọng thấy Canh Tân, tất chủ là người thất nhân mà bên trong hỗn loạn.
Mậu dụng Quý là vợ tọa ở Hợi Dậu, vợ chủ háo sắc mà háo tửu, Kỷ dụng Giáp là Quan tử ở giờ Ngọ, ngay cả con bị tổn hại mà nguy vong.
Đảo xung cách Tỉnh Lan Xoa, có Tài vị ở thai các.
Giáp xu Càn, Nhâm xu Cấn, thân vượng là tướng triều đình.
Củng lộc Quý Giáp gặp đất khâu hương, không có điền thực, là người ở lang miếu ( hoàng cung).
Kim mộc giao xoa thân lại nhược, là do tài nghệ mà gây ra thị phi.
Thủy hỏa chuyển giao mang Khôi Cương, phạm hình danh mà gặp ngục thất.
Dương Nhận, Thương quan gặp xung chiến, tính hung ác mà cùng người ít hợp.

Thientam
11-04-14, 23:07
Thủy nhiều mộc ít lại thân suy, tính phiêu bồng nơi ngũ hồ, tứ hải.
Quần dương đố hợp một âm, như tượng Sở Hán tranh hùng.
Quần âm tranh hợp một dương, bất quá như con ếch kêu, con ve sầu.
Gặp xung thì hung, có hợp lại là cát. Có hợp thì cát, đố hợp lại là hung.
Giáp Ất sinh gặp Dần Mão Thìn, là Nhân Thọ, thấy Khảm địa nhiều là đăng vinh. Bính Đinh cục đủ Dần Ngọ Tuất, nói là nặng quyền cao gặp thủy hương Khảm Ly giao cấu. Mậu Kỷ cục đủ Thìn Tuất, hỏa vận mới hứa bay cao.
Ngày Nhâm gặp đủ Thân Tý Thìn là Tòng Nhuận Hạ, thấy Tài địa thì đăng vinh trên đường quan lộ; ngày Tân giờ Tý sợ cung Ly, hỉ thấy Tây phương, nếu mà có cứu. Nhâm Quý sinh Thân Hợi Tý, trí thức nhiều tài năng. Vận hành hỏa thổ hương, danh tiếng vang lừng thời đại. Ngày Giáp tháng Hợi, thấy Ly thì thọ ngắn.
Ngày Ất tháng Mão, Quan hương thì phát lộc. Đề cương có chữ Mão, đến Càn cung quy về nương nhờ hai đường.
Bính Tý tháng Dần, gặp Khôn Đoài, hỏa không hành phương Tây.
Ngày Đinh tháng Dậu, đến Cấn phương, ánh sáng không bất diệt.
Nhâm thủy tháng Hợi đến Chấn phương, tử ở Tốn phương, là Tử vượng Mẫu suy; âm thủy vận đến Khôn Thân sinh, thổ trọng thì lộ ra hạt châu khô ráo, âm mộc vận đến Tốn phương, mộc bị Tốn gió thổi gãy, đến Ly vị thì khói tắt bụi bay. Dương thổ dương kim dương hỏa, gặp Khảm địa chung quy là nhập cõi u minh. Âm mộc âm kim âm thủy, đến Ly Tốn, nơi yên ổn không lo buồn suy nghĩ.
Nhâm Quý hao tổn ở Bắc phương, không có thổ chế định là tổn hại đều ở nơi sông ngòi, khe suối, ngày Mậu tháng Dần thấy Dậu Thân, thì thập tử nhất sinh, ngày Kỷ tháng Dậu đến Dần cung, ít đủ nhàn hạ.
Tân gặp Tốn địa, ít vui mà buồn nhiều.

Thientam
11-04-14, 23:07
Nhai tuyền Nữ mệnh phú

Phàm xem Nữ mệnh cần thân nhược,
Chính khí Quan tinh cần đắc lộc.
Có Tài không Sát hỗn Quan tinh,
Định phối hiền lương phú quý tộc.

Không Quan cần phải xem Tài tinh,
Tài vượng sinh Quan chân phú quý.
Thực thần Lộc vượng lại có Tài,
Con quý chồng vinh lý sáng tinh.

Thực thần Lộc vượng Tài Quan suy,
Con quý chồng ngu không chỗ gửi.
Tài Quan bại tuyệt Thực thần suy,
Chồng ngu con yếu khó nương nhờ.

Tài Quan đắc lộc Thực thần cường,
Cả chồng lẫn con mặc áo tía.
Thực thần nhập mộ con tất yếu,
Quan tinh nhập mộ chồng quy tiên.

Thực thần thấy trọng ở trung ương,
Thiếu niên cha mẹ trước sau tổn.
Ngay cả côn trùng đang ẩn náu,
Ngọn dưa kéo dài cũng khó đương.

Can chi Quan Thực lạc Không Vong,
Con cháu phu quân mệnh không dài.
Ngày giờ Thìn Tuất tương xung gặp,
Đã làm vợ nhỏ phòng cũng không.

Mặc dù có con khó thi đỗ,
Trăm năm thời gian trọn không tốt.
Kim thủy Thương quan trụ trong phùng,
Một thân trong trắng càng lung linh.

Thientam
11-04-14, 23:08
Có Tài mang Ấn theo chồng quý,
Thùy mị dịu dàng chủ được dâng.
Thương quan quá vượng nếu không Tài,
Cả đôi uyên ương cùng tan vỡ.

Can đầu Mậu Kỷ thổ nặng trọng,
Trong tâm lả lướt không phát đạt.
Tý Ngọ Mão Dậu hiệu Đào Hoa,
Quan đái Đào hoa phúc lộc khoa.

Sát mang Đào Hoa bần mà tiện,
Là ca là kỹ nơi chân trời.
Trụ đúng Thực Kiêu cùng Thương quan,
Con chết chồng mất cả hai đầu.

Kiêu Thực Thương quan nữ mệnh sợ,
Tài Thực Quan Ấn nữ mệnh mừng.
Kiêu Thực Thương quan vận thấy Tài,
Tất nhiên có con không hoài nghi.

Trong Chi Tài Quan Ấn thụ nhiều,
Không dâm tức tiện tổn chồng con.
Người sinh ngày Quý dụng Quan Mậu,
Thiếu niên định lấy ông chồng già.

Nếu còn Hợi Dậu trong chi thấy,
Quả chín ăn ngon đêm đợi chàng.
Can chi ám hợp quý nhân nhiều,
Họa Mi hướng về cười hả hê.

Trong Chi ám tàng Quan mang hợp,
Tất nhiên vợ lẻ được sủng ái.
Chọn vợ trầm tĩnh cần thuần hòa,
Xét kĩ không cần phải dụng nhiều.

Nhận biết giới hạn giống như phú,
Vạn sách nghìn thu không mờ phai.

Thientam
11-04-14, 23:09
Quyển Ngũ

Lục thần thiên
( Trích Thần Phong thông Khảo)


Ngũ hành là tuyệt diệu, khó mà bỏ sót thành một lý. Tiến thoái tồn vong cần ghi nhớ đạo biến thông. Mệnh là lý, thánh nhân ít nói.

Chính quan bội ấn, bất như thừa mã.
( Chính Quan mang theo Ấn, không bằng đón Mã)
Thơ giải thích:
Chính Quan không Ấn gốc không quyền,
Bội Ấn thế nào lại không phải?
Chỉ là Ấn nhiều tiết khí Quan,
Không bằng dụng Mã được tiến thăng.

Thất sát dụng tài, khởi nghi đắc lộc.
( Thất Sát dụng Tài, khởi cần được Lộc)
Thơ giải thích:
Tài tinh sinh vượng Sát thương thân,
Tứ trụ toàn không có dựa thần.
Mệnh trời theo về thành tượng quý,
Vận hành được Lộc chịu cô bần.

Ấn phùng tài nhi bãi chức.
( Ấn gặp Tài mà mất chức vụ)
Thơ giải thích:
Ấn thụ tham Tài đức hạnh tổn,
Khó theo trời đất lập cương thường(*)
Càng không có động tương cứu đến,
Bãi chức tạm nhàn về cố hương.
(*) Cương Thường là Tam cương, ngũ thường (Tam cương là quân thần, phụ tử, phu phụ; Ngũ thường là Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín)

Tài phùng ấn dĩ thiên quan.
( Tài gặp Ấn lấy Thiên Quan)
Thơ giải thích:
Thân vượng có thành tài năng nắm,
Tài nhiều thân nhược sinh tai liền.
Thiên Quan vì sao cầu căn bản,
Tuế Vận Ấn đến vẫn có cần.

Thientam
11-04-14, 23:10
Mệnh đương yêu chiết, thực thần kiết lập phùng kiêu.
( Mệnh chết yểu là do Thực thần đơn độc mà gặp Kiêu thần)
Thơ giải thích:
Thất sát trùng điệp Chủ quá nhu,
Thực thần một vị lập nên đường.
Kiêu thần Ấn thụ không Tài cứu,
Phương hồn chết yểu nước chảy theo.

Vận chí hung nguy, dương nhận trọng phùng phá cục.
( Vận đến hung nguy, Dương Nhận nặng xung phá cục)
Thơ giải thích:
Dụng Tài không có Sát trọng đến,
Dương Nhận gặp nhau phải đoạt Tài.
Lại gặp đất Nhận phá cục ứng,
Thương thê bại nghiệp thấy vạ tai.

Tranh chính quan bất khả vô thương.
( Đoạt Chính Quan không thể không có Thương)
Thơ giải thích:
Quan tinh một vị Tỉ kiên nặng,
Ở giữa tranh đoạt thì rất hung,
Thương tận mãi cần Quan không dụng,
Bởi không than giá đến phải hung.

Quy thất sát tối hiềm hữu chế
( Quy về Thất Sát sợ nhất là có chế)
Thơ giải thích:
Tỉ kiên vốn là vật không có,
Một thấy Thương Quan thế phải về.
Sợ thứ Thực thần đến có chế,
Tang gia tâm sự tro bụi thành.

Thientam
11-04-14, 23:11
Quan tinh sát địa, nan thủ kỳ quan.
( Quan tinh ở đất Sát, khó lấy thành Quan)
Thơ giải thích:
Chính Quan thuần tạp Sát như ngu,
Bụi Gai ở cửa khó lập thành.
Tình tính sao chẳng quân tử giận?
Băng cứng giữa đường Hổ Sói giam.

Sát tại quan hương khởi năng biến sát.
( Sát ở đất Quan khởi biến thành Sát)
Thơ giải thích:
Sát nhiều kiên nịnh tính thiên cương,
Hỗn nhập Quan tinh đất lễ nghi.
Gàn bướng làm sao khởi biến hóa,
Tâm sự như xưa hơn Sói Lang.

Tham tài phôi ấn trạc cao khoa, ấn phân khinh trọng.
( Tham Tài phá Ấn bỏ khoa cao, Ấn cần phân ra nặng nhẹ)
Thơ giải thích:
Ấn vượng Thiên Quan nếu bất kham,
Dụng Tài sinh Sát khởi là tham.
Chỉ sầu Ấn nhược gặp Tài vượng,
Không hứa cung trăng đem Quế trèo.

Vận bỉ dụng tài triền vạn quán, bỉ đắc tư phù.
( Vận Tỉ dụng Tài vướng vạn lần nối liền, Tỉ được sinh phù)
Thơ giải thích:
Thấy Tài lại không ra sao chăng?
Tài nhiều vượng nặng nhật can suy.
Được gặp Tỉ kiên sinh phù xứ,
Tay trắng tài năng tụ đại tài.

Thientam
11-04-14, 23:11
Vận đáo vượng hương thân phản nhược.
( Vận đến đất vượng, thân không nhược)
Thơ giải thích:
Thân nhược khác gốc thành có trợ,
Không tòng Thất Sát không tòng Tài.
Mượn thêm Tuế vận phù thân nhớ,
Giặc sợ không thành lực phản suy.

Tài vượng kiếp xử họa do khinh.
( Tài vượng xứ Kiếp họa không nhẹ)
Thơ giải thích:
Thiên Chính Tài nhiều họa tất nhiều,
Nhật can vô lực như thế nào?
Chân gặp Tỉ Kiếp đem chia khứ,
Để khỏi mắc bệnh cùng bần ma.

Tài phùng hữu thương, hoàn kỵ âm mưu chi tặc.
( Tài gặp có Thương, vẫn còn kỵ âm mưu của giặc)
Thơ giải thích:
Tài không Kiếp đoạt thì không thương,
Chi khố trung gian có ám tàng.
Chớ nói tiểu nhân không minh lộ,
Sao biết quân tử ở cầu cao.

Sát vô minh chế, đương tầm phục địch chi binh.
( Sát không chế rõ, cần tìm địch phục binh)
Thơ giải thích:
Nhập nhiều Thất Sát đúng tương hình,
Không có chế rõ tự sợ mình.
Xung xuất ám tàng có binh dụng,
Mã mộ dựng lên hỏa thiêu rừng.

Thientam
11-04-14, 23:12
Quý nhân đầu thượng đái tài quan, môn sung tứ mã.
( Trên đầu Tài Quan mang Quý nhân, cánh cửa nạp đầy xe tứ mã)
Thơ giải thích:
Quý nhân trao đổi được tương thành,
Tài Quan đeo trên càng minh hiển.
Tiến khí có căn còn có hợp,
Định tòng thiên lý nắm quyền binh.

Sinh vượng cung trung tàng kiếp sát, dũng đoạt tam quân.
( Trong cung sinh vượng tàng Kiếp Sát, dũng cảm đoạt ba quân)
Thơ giải thích:
Kiếp Sát Trường sinh không phải gốc,
Trong cung sinh vượng lại đúng cần.
Cử đỉnh có thành chân đủ tiện,
Tòng biên hay lại phất cao cờ.

Vi khóa mã dĩ vong thân.
( Dụng mã thành để vong thân)
Thơ giải thích:
Tuế Vận gặp Tài nhật chủ tham,
Lại không Tỉ Nhận cùng làm thành.
Cách thành nếu thấy như trong cục,
Mệnh này lập Mã liền nguy vong.

Nhân đắc lộc nhi tị vị.
( Do đắc Lộc mà tránh địa vị)
Thơ giải thích:
Quan tinh mất Mã Quan không thành,
Được Mã thường leo tự nhiên lý.
Chỉ sợ thân này gặp Lộc hành,
Cởi trả kim đeo hướng về cội.

Thientam
11-04-14, 23:13
Ấn giải lưỡng hiền chi ách.
( Hiền tài bỏ Ấn là tai ách)
Thơ giải thích:
Lưỡng Sát trọng đến uy chế trọng,
Thực thần không thể thấy thần Kiêu.
Trong trụ được Ấn có thể hóa,
Đinh hỏa sao theo hại thân này.

Tài câu lục quốc chi tranh.
(Đạt tài Lục Quốc tranh hùng)
Thơ giải thích:
Tỉ Nhận tham Quan đường danh lợi,
Không Tài cũng vậy tự tĩnh yên.
Vừa thấy vật báu chiến cục thành,
Khiêu khích Yên Tề Ngụy Triệu tranh.

Chúng sát hỗn hành, nhất nhân khả hóa.
(Nhiều Sát hợp thành ra hỗn tạp, một chút nhân từ có thể hóa)
Thơ giải thích:
Thiên Quan trùng điệp làm sao cứu,
Chế Sát không bằng hóa Sát cao.
Hành khứ không nhọc trọng kiến Thực,
Tật đã nhiều họa lại gặp nhau.

Nhất Sát xướng loạn, độc lực khả cầm.
(Một Sát khởi loạn, một mình cầm được)
Thơ giải thích:
Một Sát thành quỷ thưa có hạn,
Không gặp Tài Ấn gốc là phúc.
Chỉ biến một Thực lực của Ta,
Cần gì can chi chế phục nhiều.

Thientam
11-04-14, 23:14
Ấn cư sát địa, hóa chi dĩ đức.
(Ấn ở Sát địa, hóa lấy đức)
Thơ giải thích:
Giáp mộc gặp Thân dụng Sát thần,
Cho dù không hỏa chửa thương thân.
Trong tàng Nhâm thủy hóa sinh về,
Chỉ sợ thổ thần ở can chi.

Ấn cư sát địa, tề chi dĩ hình.
( Ấn ở Sát địa, đủ cả hình)
Thơ giải thích:
Thiên Tài Thiên Quan một cung tọa,
Không thể thành phúc lại thành hung.
Cục trong cần giải tai họa đến,
Chế phục lại cần dụng nhất xung.

Huynh đệ phá tài tài đắc dụng.
( Tỉ Kiếp phá Tài, Tài đắc dụng)
Thơ giải thích:
Phép này theo hư mời Lộc Mã,
Thiên can không động địa chi xung.
Nhưng sầu mắc hợp cùng điền thực,
Dụng lực gian nan không có công.

Sát quan tư chủ chủ tu tòng.
( Sát Quan khắc chủ, chủ cần tòng)
Thơ giải thích:
Một lực vượng Sát sao có thể?
Vô căn đích thực chỉ tương tòng.
Hành đến vận đến thành gia nghiệp,
Vận ta thân cường nghiệp lại không.

Thientam
11-04-14, 23:14
Nhất mã tại cứu, nhân bất cảm trục.
( Một Mã vào cứu, người không dám đuổi)
Thơ giải thích:
Một Tài được chổ không che xát,
Trời đất quang minh xem người nhiều.
Tính lấy thu tiền không ứng được,
Chỉ có riêng tư hướng giữa tìm.

Nhất mã tại dã, nhân cộng trục chi.
( Một Mã ở đồng, người cùng đuổi)
Thơ giải thích:
Khố mộ tàng Tài, Tài không lộ,
Phát sinh trở ngại có ngờ vực.
Ai ngờ Tỉ Kiếp năng thành phúc,
Ám trong ngấm ngầm dám nhận không.

Tài lâm sinh kiếp khố phá sinh cung, kiêm phụng lưỡng gia tông kỳ.
( Tài đến sinh Kiếp phá khố cung sinh, bao gồm tiếp nhận cả hai nhà tổ tông hưng thịnh)
Thơ giải thích:
Trong cục lấy Tài là nơi ở,
Tài cần gốc sâu Ấn cần sáng.
Như khiến phá căn Tài không đứng,
Con nuôi kế tiếp định không tồi.

Thân tọa bỉ kiên thành bỉ cục, đương vi kỷ độ tân lang.
( Thân tọa Tỉ kiên thành Tỉ cục, cần làm bàn nhỏ đo lường chú rễ)
Thơ giải thích:
Ta thành cục Ta phải tổn Thê,
Tỉ chiếm Thê cung cầm không hợp.
Vợ chồng bạc tóc lều ở hợp,
Không như vắng vẻ kẻ tri âm.

Thientam
11-04-14, 23:15
Phụ mẫu nhất ly nhất hợp, tu tri ấn thụ lâm tài.
( Phụ mẫu một ly một hợp, cần biết Ấn thụ đến với Tài)
Thơ giải thích:
Chân chính Thiên Tài chỗ giống nhau,
Vui buồn hợp tan chối từ sao?
Ấn Tài sinh Lộc cùng quê đó,
Dựng nghiệp thành gia có hưởng cho.

Phu thê tùy thú tùy thương, cái vi bỉ kiên phục mã.
( Vợ chồng tùy theo mà lấy, tùy theo mà tổn hại, đại khái được Tỉ kiên phục Mã)
Thơ giải thích:
Tỉ kiên gốc ẩn Thê tài dưới,
Thất Sát tàng thân đoạt chưa thành.
Đột nhiên Thực thần đến chế Sát,
Bồn gõ sinh nhanh khó tránh khen.

Tử vi tử điền, cô tha bá đạo.
( Con cái nói là Tử, bàn bạc trẻ mồ côi nói anh chồng)
Thơ giải thích:
Muốn cầu Tử vị ở giờ sinh,
Điền thực, hưu tù sợ con một.
Cô bần khó hiểu mệnh vốn có,
Lý lẽ oán trời nói quá không?

Thê cung thê thủ, hiền tề mạnh quang.
( Thê cung coi vợ, hiền đức cùng nha vinh quang trước)
Thơ giải thích:
Coi vợ Thê cung không tương khắc,
Ngũ Sát, Đào Hoa không có duyên.
Người nào tạ ơn Tài chịu nổi,
Giúp chồng đều ứng trước hiền tài.

Thientam
11-04-14, 23:16
Nhập khố thương cung, âm sinh dương tử.
Thơ giải thích:
Ngũ dương về Khố không sinh khí,
Do có Thương Quan nhập khố danh.
Trời đất chưa hề ngừng sinh ý,
Hồn về do ở Ngũ âm sinh.

Bang thân dương nhận, hỉ hợp hiềm trùng.
( Dương Nhận trợ thân, hỉ có hợp mà sợ xung)
Thơ giải thích:
Dương Nhận xung trụ vốn là hung,
Hợp Sát thành quyền có công nhất.
Phá cục mất thân nặng bại khốn,
Thiên Quan mất hợp Chính Quan xung.

Quyền nhận phục hành quyền nhận, đao dược vong thân.
( Quyền Nhận ẩn hành Quyền Nhận, đao chữa mất thân.)
Thơ giải thích:
Thiên Quan, Dương Nhận cần quân bình,
Hiển hách bay lên danh ngàn dặm.
Dụng thần càng đến đất Quyền Sát,
Anh hùng khó miễn nạn binh đao.
Tài quan tái ngộ tài quan, tham ô bãi chức.
( Tài Qian lại gặp Tài Quan, do tham ô mà mất chức)
Thơ giải thích:
Lộc không cầu tiến không dư bổng,
Tiết nhẹ thanh cao Kỷ không bằng.
Hành đến Tài Quan gặp lộc bổng,
Tham ô khứ mất thở dài buông.

Thientam
11-04-14, 23:17
Lộc đáo trường sinh nguyên hữu ấn, thanh nhâm gia quan.
( Lộc mang trường sinh gốc có Ấn, thanh trong đảm nhận mà thăng chức)
Thơ giải thích:
Quan cường, Ấn vượng đều thành quý,
Ấn vượng, Quan cường không cùng dụng.
Lộc đến Trường sinh Quan sở đắc,
Mưa chín ngày đầu đội vinh quang.

Mã hành đế vượng cựu vô thương, quan đồ tiến tước.
( Mã đến đế vượng không có tổn thương, đường quan tiến vào)
Thơ giải thích:
Thiên, Chính Tài nhẹ dụng đắc ý,
Không gặp đố hợp cùng hình thương.
Đế vượng, Lâm quan, xứ lướt trội,
Trắng góp đống vàng hưởng đại danh.

Tài vượng thân suy, phùng sinh tức tử.
( Tài vượng thân suy, gặp sinh tất chết)
Thơ giải thích:
Cô hàn sao có lấy được Tài?
Đang muốn tương cầu nếu tự chống.
Bỗng gặp có tình sinh xứ vượng,
Nếu tham rước lấy họa tang thân.

Nhận cường sát bạc, kiến sát sinh quan.
( Dương Nhận mạnh mà Sát yếu, cần thấy Sát sinh Quan)
Thơ giải thích:
Dương Nhận cường mạnh Tài khinh một,
Ý ở sinh Quan không dám sinh.
Thất Sát đều đến thành phối hợp,
Tài vây được sống vượng Quan tinh.

Tư pháp huyền huyền chi diệu, kim pha tập nhi thành chương. Thiểu trợ ngu mông, tịnh minh vạn nhất.
( Phép này thật huyện diệu, thời nay khá luyện tập mà thành chương. Thiếu trợ giúp ngu muội mê mẫn, cũng rõ ràng mà ngộ ra).

Thientam
11-04-14, 23:18
Khí tượng thiên

Hiện nay, nói lập tứ trụ mà áp dụng ngũ hành, định một vận mà xem đủ hết. Thanh, Trọc, Thuần, Tạp, muôn vạn sự việc đều không giống nhau, tốt xấu đúng sai, lý khó mà chấp nhất. Chính xác nhất định trước tiên phải xem quy tắc khí tượng, cương lĩnh tất cả cụ thể chính là phú quý bần cùng. Thứ đến là luận dụng thần ở đâu, thông thường sinh, tử, cùng, thông là hết sức tinh vi.

Nãi nhược nhất dương giải đống.
Chú thích: Tháng mùa Đông thủy thành đóng băng, là mùa thịnh hàn vậy. Sau đến là Nhất Dương phát động, khí ấm bắt đầu sinh, có hỏa thì đắc dụng, thì dù có băng hàn kiên cố cũng có thể giải.

Tam phục sinh hàn.
Chú thích: Hạ đã cực viêm thì sau đó đến Nhất Âm phát sinh. Trong Tam phục này là có âm thịnh thâm sâu, là hỏa thoái mà hàn sinh dần dần, gọi là Hạ Thảo tao Sương ( Cây cỏ mùa Hạ mà gặp sương) vậy.

Dương kháng bất chế, kháng tắc hại dã.
Chú thích: Tượng này nói dương vượt quá mà không có chế, càng không chứa đựng âm vật, mà vận lại hành về Đông Nam thì bên trong dương cương bị mất mà nhất định bị hại vậy. Dụng cách này thì là người cô bần, hung bạo.

Cương nhi năng nhu, cát chi đạo dã.
Chú thích: Cách nói này nghĩa là Ngũ Dương sinh ở tháng thuộc âm, can chi xen lẫn hợp với âm nhu, vận mệnh lại hành về đất âm nhu, chính là cát vậy, dụng cách này cho dù bần tiện, cuối cùng nhất định vinh hoa.

Nhu nhược thiên khô, tiểu nhân chi tượng.
Chú thích: Tượng này là phương hướng bất trung vậy, trong tứ trụ chỉ thấy âm nhu mà không nhập cách. Can Chi lại không bọc dương, thì cuối cùng là kẻ nhu nhược, hèn nhát. Dụng cách này là người xảo trá, thâm hiểm, không có chỗ nào mà không đến.

Cương kiện trung chính, quân tử chi phong.
Chú thích: Tứ trụ trong dương mà tàng âm, cương nhu phù hợp, không phạm khắc phá hình xung, dụng cách này là người đức hạnh hơn người, trung trực hơn đời, do đó viết Quân Tử chi phong

Thientam
11-04-14, 23:18
Quá vu hàn bạc, hòa noãn xử chung nan phấn phát.
Chú thích: Tứ trụ thuần dương, sinh ở tháng 10, Ngũ âm tuyệt gốc, nhật can lại gặp hàn nhược mà không có khí cương kiện, dù có gặp khí ấm làm hòa cũng khó mà phát đạt.

Quá vu táo liệt, thủy kích xử phản hữu hung tai.
Chú thích: Tứ trụ thuần hỏa, sinh ở trước Hạ Chí, tính hỏa viêm mãnh liệt, lại gặp thủy kích động thì không chỉ có không thể khống chế mà trái lại gặp hại. Dụng cách này là người cô đơn nghèo khổ hoặc là chết yểu.

Quá vu chấp thực, sự nan hiển khoát.
Chú thích: Chấp Thực là dụng một mà không thông vậy. Giả như dụng Quan mà không có Tài, dụng Ấn mà không có Sát, hợp nhiều mà ít thành công, gặp như vậy cuối cùng là không có hiển đạt.

Quá vu thanh lãnh, tư hữu thê lương.
Chú thích: Việc này là nói kim thủyvượt quá khỏi thanh hàn, không gặp vận nóng ấm để trung hòa, cả đời làm ăn cô độc đến khi nhắm mắt, kiếp sống buồn tẻ, người không chịu nỗi sự ưu phiền.

Quá vu hữu tình, chí vô viễn đạt.
Chú thích: Vật trong cục không thể vượt quá chỗ có tình, nếu gặp có tình, thì liền mê muội không thể tự thoát, thấy ở bên ngoài, ý chí an định có thể đạt được xa chăng!

Quá vu dụng lực, thành diệc đa nan.
Chú thích: Phàm ở bên trong đạt được tự nhiên thì đẹp tuyệt vời, nếu dụng lực giúp đỡ thì cuối cùng là không tốt, thành tựu rồi cuối cùng nhất định cũng gặp gian nan.

Quá vu quý nhân, phùng tai tự dũ.
Chú thích: Trong Bát tự gốc có nhiều Quý nhân, Nhị Đức phù giúp dùng Tài Quan, không có hình phá, dù ở bên trong nghiêng ngửa cũng không sao.

Quá vu ác sát, ngộ phúc nan hanh.
Chú thích: Trong Bát tự gốc gặp nhiều Ác Sát, tam hình lục xung, lại cùng Tài Quan trái lại quay lưng, dù cho gặp đất Tài Quan làm sao mà hưởng phúc được.

Thientam
11-04-14, 23:19
Ngũ hành tuyệt xứ, lộc mã phù thân.
Chú thích: Phàm gặp đất tuyệt, không thể nói là hung. Cái đất hung cũng có phúc thần tương trợ, như mộc tuyệt ở Thân, Thân có Nhâm thủy là Ấn, Canh Mậu là Tài Quan, đều là vật dùng của ta thì không thể thương tổn thân được.
(Lộc, Mã chính là Tài, Quan)

Tứ trụ kỳ trung, bỉ kiên phân phúc.
Chú thích: Xưa lấy Quan làm quý, lấy Tài làm kỳ, trong cục được gặp Tài Quan, chính là cát vậy. Như thấy Tỉ kiên thì không có kiêng kỵ, tranh Quan Kiếp tài, phúc không có tốt trọn vẹn.

Âm dương cố hữu cương nhu.
Chú thích: Dương cương Âm nhu, là đạo của trời đất vậy. Việc này là nói đạo của Cương Nhu, tuy là âm dương nhưng chỉ có ức mà không thể khứ vậy.

Can chi khởi vô điên đảo.
Chú thích: Điên đảo là phản phúc vậy, như can có Nhâm Quý Giáp Ất Bính Đinh, chi có Hợi Tý Sửu các loại vậy.

Phụ vô tử nhi bất độc.
Chú thích: Mộc lấy hỏa là Tử tức, trong tứ trụ như không có vị trí Bính Đinh Tị Ngọ, thì không có con. Nếu Địa chi ám giữ có hỏa, cũng không là không có con vậy.

Tử hữu phụ nhi phản cô.
Chú thích: Mộc lấy thủy làm phụ mẫu, nếu bị tổn khắc thì không được. Như Ngày Giáp Ất sinh ở năm tháng là Hợi Tý, gặp tứ quý, thủy bị thổ thương, là người mất sức sống, chẳng phải là cô nhi ư!

Sinh thượng khả dĩ tái sinh.
Chú thích: Thực chất trong cục gốc có Trường sinh, đầu tiên bị khắc tổn, tuế vận phục gặp đất sinh vượng, thân lực phục cường như tái sinh vậy.

Tử bất khả dĩ phục tử.
Chú thích: Phàm trong tứ trụ gốc gặp cung tử tuyệt, phục đến tuế vận lại gặp tử địa, không luận là càng hung vì cái chết không có hai lần vậy.

Tức tử diệc phi vi quỷ.
Chú thích: Mộc gặp sinh ở Xuân, được mùa chính là vượng. Trong trụ tuy gặp tử tuyệt, nếu vận hành đến đất sinh vượng cũng không là chết vậy.

Thientam
11-04-14, 23:19
Phùng sinh hựu bất thành nhân.
Chú thích: Mộc sinh ở mùa Thu, mất mùa chính là nhược. Trong trụ tuy gặp Quan sinh vượng , nếu vận hành gặp đất suy tuyệt thì cuối cùng không phải là đất sinh địa.

Ngũ hành các đắc kỳ sở giả, quy tụ thành phúc.
Chú thích: Phàm ngũ hành không thể hư danh mất vị trí, đều cần đắc lệnh thì phương có thể thành quý, nếu quy tụ một cục thì tốt không thể nói.

Nhất cục giai thất kỳ viên giả, lưu đãng vô y.
Chú giải: Phàm dụng thần nhật chủ đều cần nơi đúng chỗ. Như trong tứ trụ không được thông căn có dựa vào, lại gặp Không Vong, tử tuyệt, thì cuối cùng không có thành lập thì tất nhiên phiêu lạc mất chỗ vậy.

Đại vận chiết trừ thành tuế.
Chú thích: Đại vận là bày tỏ lý lẽ của bát tự vậy. Lấy dụng chính là để đo lường nông sâu, tuổi trưởng thành vốn là cần phải biết nhiều hay ít vậy.

Tiểu vận nghịch thuận do thời.
Chú thích: Tiểu vận chính là bổ túc cho Đại vận chưa đủ, mà xác lập danh tính vậy. Cổ nhân lấy Nam khởi Bính Dần, Nữ khởi ở Nhâm Thân, vốn là lấy quy định cho từng năm họa phúc, có tốt đẹp hay không giáng xuống vậy. Tôi ( tác giả) đã từng trông thấy một bí mật, để là nam nữ tiểu vận đều từ mùa sinh mà hành, thuận nghịch cũng lấy năm mà định.

Lục hợp hữu công, quyền tôn lục bộ.
Chú thích: Phàm trong tứ trụ có hình xung khắc phá, mộc là luận hung, được thần xoay chuyển có lực, tức trở lại thành tốt, kỳ phúc cao hậu.

Tam hình đắc dụng, uy chấn biên cương.
Chú thích: Hình bản chất là không tốt, đắc dụng thì phú quý thông minh, vô dụng thì cô bần hung yểu. Sao gọi là đắc dụng? Tam hình có khí, nhật chủ cương cường. Sao gọi là vô dụng? Tam hình vô khí, nhật chủ suy nhược.

Thiên địa bao tàng thần đắc dụng, khoát đạt hung khâm.
Chú thích: Như trong bát tự không thấy hai chữ Hợi Thân, được thần bên trái bên phải vây quanh hai chữ, bao gồm có quý khí, không lạc Không Vong, cần phải làm lộ ra rõ ràng.

Phong vũ kích liệt quý vô khuy, phát dương tính tự.
Chú thích: Tị là Phong Môn, Mão là Lôi Môn, trong bát tự Hư Củng hai vị, thêm Tuế Vận có Quý nhân, nếu gặp xung khởi, nhất định có thể phát đạt.

Thientam
11-04-14, 23:20
Tặc địa thành gia, tặc loạn gia vong thân tất tang.
Chú thích: Phép này như trong năm tháng ngày, có thần tranh hợp với thê, Nguyệt chi bên trong bị hảm nhược, muốn ra mà không thể được, do đó viết là Tặc địa. Lại thêm năm tháng có tự hình, không có hợp ta, được thời thừa cơ cùng Nguyệt chi thành hợp, gọi là Tặc địa thành gia. Phú quý không ít, đại vận khứ mất tặc thì an bình, nếu tiếp tục gặp tặc loạn thì gia đình nhất định mất mà bản thân thì mất vậy.

Lương tài tựu đoạn, mộc đa kim khuyết dụng nan thành.
Chú thích: Nói Mộc nhờ kim chặt để thành khí, nếu kim bị thần hợp giữ lại mà không thể khắc được mộc, lại cần mộc cùng kim kề nhau, liền kề nhau thì có thể điêu khắc vậy. Nếu mộc thịnh kim nhược, thì dù kề với kim cũng không thể khắc mà hữu dụng; mộc cùng kim tác hợp, cả hai bên đều mạnh chính là luận quý hiển.

Thuần dương địa hộ bao âm, binh quyền hiển hách.
Chú thích: Bát tự thuần dương, vốn là cùng họ hàng, thật không biết Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất là dương, ám củng Sửu Mão Tị Hợi Mùi Dậu là âm, hai tượng cùng cứu giúp nhau, thì trái lại thiên địa đều đủ chính khí, phát phúc không ít.

Độc hổ thiên môn đái mộc, thai các thanh cao.
Chú thích: Phàm năm tháng được một vị trí Dần, lại cần giờ mang Thiên Môn, Hổ( Dần) nhất định hướng lên trời,trụ Giáp nhật bên trong thêm Mão Mùi hợp cục, mộc thịnh sinh phong, phong tòng ở Dần, sao không đẹp ư! Nếu hình xung khắc phá, không được Ấn thụ, Tài Quan thì vô dụng vậy.

Học đường phùng dịch mã, sơn đấu văn chương.
Chú thích: Phàm thân tọa vị trí Trường sinh đều là Học Đường, càng được Dịch Mã đến chạy, lại được khí tượng to lớn. Mang Tài Sát, Quý nhân thì văn chương nhất định hơn người.

Nhật chủ tọa hàm trì, giang hồ hoa tửu.
Chú thích: Hàm trì, lại có tên là Đào Hoa sát, nam nữ gặp thì nhất định dâm loạn, người nhiều tửu sắc , lưu lạc giang hồ. Nếu gặp Tài Quan Quý Đức đồng cung, trái lại được phong cách thanh cao, phú quý an hưởng, đại kỵ hình hợp, chỉ hỉ Không Vong.

Phúc mãn tu phòng hữu họa.
Chú thích: Phàm dụng Ấn sinh thân, chính là cái phúc của Ta vậy. Vận hành Tỉ Ấn vượng địa, sinh phù thái quá, nơi phúc đầy sao không có họa sinh, vốn là lấy Quân tử cần biết để phòng vậy.

Hung đa vị tất vô trinh.
Chú thích: Trong cục vốn nhiều Quan Sát, lại tiếp hành đến Tuế vận Quan Sát, kỳ hung chính là nặng. Nhiều lần hết gian nan, về sau nhất định có vận chế thân vượng, là tượng hết cùng lại thông.

Mã đầu đái tiến, sinh vu tần nhi tử vu sở.
Chú thích: Việc này nói đến Dịch Mã. Ở dưới ngày, giờ nếu thấy có hình xung, gọi là Mang mũi tên (Đái tiễn), chủ người quyết định ra ngoài mạng vong.

Mã hậu gia tiên, triêu hồ nam nhi mộ hồ bắc.
Chú thích: Phàm thủ dụng Dịch Mã, thuận thì năm lấy ngày, giờ, nghịch thì thì dụng giờ nhật chủ, Mã không có đề cập ngăn cản, thì thả ra mà không có ngăn cấm, như về sau lại có thêm hình xung, Mã nhất định lao nhanh, cuối cùng không có đất ổn định, chủ nhân cả đời vất vã, bôn ba bốn phương. Nếu thần hình xung gặp có tam hợp, lục hợp thì không có tăng thêm roi vọt để chạy.

Thientam
11-04-14, 23:21
Nhất tương đương quan, quần tà tự phục.
Chú thích: Tướng là thần quý trọng vậy, Quan ( đóng) là nơi quan trọng vậy. Tà là vật đố kỵ với Ta vậy. Giả như ngày Giáp Ất sinh ở năm tháng có kim vượng, đều đến khắc Ta, được Bính Đinh thấu xuất can là chế Sát làm quyền, mà Sát tự phục vậy.

Chúng hung khắc chủ, cô lực nan thắng.
Chú thích: Lời nói này là Sát trọng Thân khinh, cô độc không có trợ giúp, không có thần canh gác đóng lại được cứu giúp, thì không thể thắng nỗi cái khắc vậy, quyết là chủ bệnh tật, chết yểu.

Thoát thử bối kỵ kiến thử bối.
Chú thích: Lời nói này như Giáp Kỷ hóa thổ, thoát mộc khí mà theo nhà vợ, nếu thấy Giáp Ất Dần Mão Mùi Hợi, đều là đồng với Ta là Tỉ kiên, thì có gốc vượng hỗn tạp, sao không gặp tai nạn!

Hóa tư thần hỉ kiến tư thần.
Chú thích: Như Ất Canh hóa kim, hỉ thấy kim vượng, mà vợ được dựa vào chồng. Đinh Nhâm hóa mộc hỉ thấy mộc vượng mà con được dựa vào mẹ … vậy.

Dịch mã vô cương, nam bắc đông tây chi khách.
Chú thích: Vô cương là Mã không có hợp vậy. Đông Tây Nam Bắc, không có chỗ nào mà không tới vậy. Nếu gặp cách này, nhất định chủ phiêu linh.

Đào hoa đái sát, xướng kỹ đãi tốt chi đồ.
Chú thích: Đào Hoa, vốn là ngày giờ đều thấy vậy. Không chỉ kỵ hình hợp có tình, càng kỵ Ngũ Sát đồng xứ, phàm gặp cách này không biết thế nào là lễ nghĩa, liêm sỉ vậy.

Mẫu tử hữu thủy chung chi kháo.
Chú thích: Như ngày Mậu tọa Thìn, sinh ở tháng Thân, nhưng thổ lấy kim làm con, kim dưỡng ở Thìn, thiếu dựa vào mẹ mà tự cường, về già được con mà có chỗ dựa.

Phu thê đắc sinh tử tương y.
Chú thích: Như Bính Đinh tọa tháng Tý, dụng Dậu kim. Nhưng hỏa lấy kim làm vợ. Kim dưỡng ở Tý, thích hợp về nhà chồng để dưỡng thân. Hỏa đến Dậu thì mất, mệnh dựa vào gia đình vợ để sống.

Song nhãn vô đồng, hỏa thổ ngao kiền quý thủy.
Chú thích: Quý thủy ở người thuộc Thận, là nền tảng của thân, là gốc của đôi mắt. Mắt liên quan đến ngũ hành,riêng con ngươi là thuộc thủy, thủy khô cạn thì thận hư, thì con ngươi không có chỗ dựa.

Đại tràng hữu bệnh, bính đinh khắc tổn canh kim.
Chú thích: Canh thuộc Đại Tràng, cần đất thủy thổ, sợ Bính Đinh Dần Mão được cục mà không có chế. Nhưng Canh kim dù được nắm căn, lại bị xung phá, cũng có bệnh này.

Thientam
11-04-14, 23:22
Thổ hành thấp địa nhi khuynh căn, bá ngưu hữu hận.
Chú thích: Mậu thổ thuộc Tỳ, trong tứ trụ không có vị trí sinh vượng thông căn lại thêm thủy dầm mà kim hư, vận hành đất ẩm ướt, tuổi thấy mộc khắc, là nguyên nhân gây ra bệnh tật.

Hỏa trị viêm thiên nhi đắc cục, nhan tử vô ưu.
Chú thích: Hỏa chính là tượng văn minh, sinh ở mùa hạ, tam hợp Dần Ngọ Tuất, dụng hỏa càng sáng chói, thiếu dụng mộc sinh hỏa, không cần thấy thủy gốc khác, cản trở hỏa viêm. Người sinh cách này, lý lẽ vui mừng. Hỏa hành cực xứ, gặp nhiều mộc sinh, trái lại là chủ bần yểu đến bất lợi vậy.

Thủy phiếm mộc phù, tử vô quan quách.
Chú thích: Mộc tòng theo thủy mà trôi nổi, không gặp thổ để phòng, lại gặp đất tử cùng xung, là nhất định rơi xuống vực hoặc rơi xuống nước, tai họa bất ngờ mà chết, không nhiều là tốt.

Hỏa viêm thổ táo, chủ thụ cô đan.
Chú thích: Thổ theo hỏa táo, vạn vật không có sức sống. Sơ vận Nam hành, bỏ đi mà không có vận, về sau đến dù có gặp Tài Quan cũng không thể làm dụng, đến nỗi cô bần bôn tẩu, là mệnh không có nhà cửa vậy.

Thê đa lực nhược, hoa phấn sinh nhai.
Chú thích: Phàm dụng Tài là thê, cần nhất là đắc vị, đắc thời, nhật chủ càng hỉ cương cường, năm tháng có chỗ dựa, âm dương tất cả được kỳ, là mệnh lương thiện, có thể kết duyên. Nếu tài nhiều tán loạn, hình hợp không đều, nhật chủ cô nhu, không thể đảm nhận, nhất định dựa vào vợ mà có lợi, để dưỡng thân vậy.

Mã nhược bỉ đa, hình hài phiêu bạc.
Chú thích: Phàm gặp Tài vượng Thân cường, cả đời vui vẽ, an bình. Nếu thấy Tài khinh Tỉ trọng, cuối cùng nhất định phiêu bạc giang hồ, theo tài mà khốn khổ, an hưởng sao được.

Tính linh hình tẩm, đa nhân trọc lý lưu thanh.
Chú thích: Phàm bát tự, trong Trọc lưu có một điểm Thanh, thì là người tuy chất phát, xấu xí nhưng thông minh, mưu mẹo khác thường vậy.

Mạo tuấn tâm mông, cái thị thanh trung hàm trọc.
Chú thích: Cách này là dụng thần thanh kỳ, đặc biệt thiết lập ở trong hoặc có vật đến gây tổn thương, chủ người bên ngoài tuy đẹp mà bên trong không có học thức, đam mê tửu sắc.


Phàm gặp hung thần giao hội, thiện tuy ít mà khó thành. Cát diệu đều có, ác tuy nhiều mà cũng hóa. Đạo tòng theo lý, thần nhập tâm sinh. Đọc thuộc cầu mãi, sẽ hiểu được sự mầu nhiệm to lớn vậy.

Thientam
11-04-14, 23:23
Vị kính luận

( Chương này luận về phụ nữ, trích từ Thần phong thông khảo)

《 Dịch 》 viết: "Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ." Âm dương cương nhu, tất cả đều có hình thể. Cho nên, Nữ mệnh lấy nhu làm gốc, lấy cương làm hình, lấy thanh làm kỳ, lấy trọc làm tiện. Càn là dương, Khôn là âm vậy. Âm dương giao nhau thì thành đạo người. Dương cương mà âm nhu, tính tình đắc Càn đạo thì là Nam, tính tình đắc Khôn đạo, thì là nữ, cho nên Nam cương mà Nữ nhu. Dương có thể dương, âm có thể âm, mà Nữ mệnh quý ở âm tĩnh, tối kỵ dương cương, quý ở thanh mà tiện ở trọc vậy.

Tam kỳ đắc vị, lương nhân vạn lý phong hầu.
Tam Kỳ là Tài Quan Ấn, không phải là Ất Bính Đinh vậy. Nữ mệnh lấy quan tinh làm phu, như Giáp thấy Tân là Quan, tức là phu vậy. Tân kim trường sinh ở Tý, vượng ở đất Thân Dậu, lấy Kỷ thổ là Tài, được đất Thìn Tuất Sửu Mùi, lấy Quý thủy là Ấn, được phương Hợi Tý Sửu đều là được địa vị, chủ phu có quý hiển, do đó viết Vạn lý phong hầu ( ngàn dặm được phong quyền quý).

Nhị đức quy viên, quý tử cửu thu bộ nguyệt.
Nhị Đức là Thiên Nguyệt Nhị Đức vậy. Thiên Đức quý nhân, gồm có: một là Đinh, hai Khôn, ba Nhâm, bốn Tân, năm Càn, sáu Giáp, bảy Quý, tám Dần, chín Bính, mười Ất, Tý Tốn, Sửu Canh vậy. Đến Nguyệt Đức quý nhân, như: tháng Dần Ngọ Tuất ở Bính, tháng Thân Tý Thìn ở Nhâm, tháng Tị Dậu Sửu ở Canh, tháng Hợi Mão Mùi ở Giáp vậy. Nữ mệnh nếu gặp, đương chủ cả đời đăng khoa.

Nhất quan nhất quý, ô vân lưỡng tấn ủng kim quan.
Nữ mệnh chỉ lấy một vị Quan tinh, không có Quan lấy một vị Thất Sát. Thất Sát là Thiên Quan vậy, quý nhân chỉ lấy một vị, không được trọng kiến. Trọng kiến tức là hai phu vậy. Cũng cần phải thừa vượng, Lộc Mã ám hợp, chủ được quý, người quý hiển không cần phải trọng kiến, nhiều chính là luận quý trọng hợp nhiều.

Thientam
11-04-14, 23:24
Tứ sát tứ không, kiểu nguyệt mãn hoài đề ngọc cân.
Nữ mệnh kỵ Sát nhiều hợp với tứ trụ Không vong, chủ khắc phu thương tử, trùng nhiều là tái giá, còn hơn chủ cô đơn, cho nên nói là Ngọc cân. Ngọc cân là nước mắt vậy. Tháng mùa Đông thiên về cực hàn, khóc lóc nhiều mà thành ưu sầu, băng gia như tình trạng nước mắt, cho nên gọi là Ngọc cân.

Quan hành quan vận, kính phá sai phân.
Nữ nhân trong mệnh chỉ lấy một vị Chính Quan là chồng, lại hành đến vận Quan tinh thì lại gặp một phu tinh vậy. Chẳng phải là hai phu mà tranh một thê sao? Nhất định là chủ việc phân ly. Như Giáp lấy Tân kim làm Quan, thì là một phu, nếu lại gặp vận Tân, đến đất là Dậu, lý lẽ là chủ khắc phu mà tái giá. Cho nên nói là Cái gương soi phá vỡ bổn phận làm Trâm cài tóc vậy, tức gọi là kính phá.
Kính phá ( cái gương soi bị phá vỡ) ở trên là nói về đạo đức, là do câu chuyện ngày xưa kể rằng công chúa đang vui mừng nhưng do Quốc loạn phân ly, phân tích cái gương soi nói chung tất cả còn là một nửa cứng nhắc, ngày xưa sợ tình duyên chưa đoạn tuyệt lại tiếp tục mưu cầu gặp gỡ. Nhạc xương công chủ là công chúa vui mừng , quả cảm ở nước Việt xưa nay công bố chỗ đắc ý, nói đến đức độ là quy ước lấy kính làm hàng hóa, công chúa khi được kính khóc lóc thảm thiết, vua nước Việt nghe thấy mà biết bèn triệu người về hoàn lại cho vợ. Phá kính này là chuyện xưa vậy.

Tài nhập tài hương, phu vinh tử quý.
Tài là gốc của mệnh vậy. Nam mệnh lấy Tài là vợ, cho nên gọi là Thê tài. Nữ mệnh lấy Tài mà phụng dưỡng chồng thì chồng quang vinh. Phàm mệnh Nữ nhân có Tài đắc địa, lại hành Tài vận, mà Tài càng thịnh, thì định chủ gia đình chồng phú quý, cả đời cũng quý.

Y cẩm tàng trân, quan tinh hữu khí.
Quan tinh đối với Nữ nhân là phu tinh vậy. Ngũ hành trung đắc sinh vượng không có xung thì chủ chồng cũng vinh quý, cho nên bản thân quần áo gấm vóc mà chứa đầy châu báu.

Thientam
11-04-14, 23:24
Đôi hoàng tích bạch, tài khố vô thương.
Hoàng cùng Bạch chính là kim cùng ngân vậy. Phàm người có Tài hùng hậu thì nhất định có ẩn tàng Tài khố. Lấy Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Khố, vừa tàng chứa kho tài vật. Sợ gặp phải thương hại, bị thương hại thì Tài tán, làm sao lại bảo là giàu có lâu dài ư?

Đại để quan đa bất vinh, tài đa bất phú.
Nữ mệnh Quan nhiều thì nhiều chồng, sao là được vinh ư? Mà như nam giới nhiều người cùng với một nữ hợp lại một nhà, giống như hoa liễu ở phố sao mà được yên ổn mà có vinh? Mà như bị nhục thân vậy. Phàm là Nữ mệnh mà Quan nhiều, chỉ có một Quan là chủ, lấy khứ lưu để quyết định chính nghĩa mà thư thả kết duyên, mình được an nhàn mà không được vinh hoa. Tài nhiều là để phụng dưỡng người khác, bản thân cũng không thể giàu có vậy. Mà Nữ mệnh tùy theo chồng mà có quý hay tiện, giao thân cho người cớ sao lại do bản thân ư?

Dụng chính ấn nhi phùng kiêu, lan giai dạ lãnh.
Chính Ấn là cái sinh ra Ta là Mẹ vậy. Như người là Giáp lấy Quý thủy là Chính Ấn, lại gặp Nhâm thủy là Thiên Ấn. Thiên Ấn, tức là thần mềm mại, thanh thoát vậy. Chim Kiêu ở Đông phương là người nhẫn tâm chính là chim Điểu, trưởng thành thì ăn là Mẫu, cho nên viết chữ Kiêu, Nữ mệnh lấy Chính Ấn làm dụng, lại phùng Kiêu Ấn, không khỏi có họa xâm lăng, chủ người như Hoa Lan về đêm lạnh mà thê lương vậy.

Dụng kiêu thần nhi ngộ ấn, ngọc thụ xuân vinh.
Kiêu thần là thần bất nhân, Chính Ấn là thần từ thiện, tuy là ác nhân được thiện nhân chính là làm ác cũng là phản phúc. Phàm Nữ mệnh lấy Kiêu làm dụng, gặp Chính Ấn thì là có cát trợ, như ngọc thạch đến ở trong vui sướng hĩ.

Kim thanh thủy lãnh, nhật tỏa loan thai.
Kim sinh ở khoảng giữa mùa Đông, thủy lại hàn. Mà kim là Mẫu của thủy, khí kim tiết quá nhiều mà thủy lại hàn lạnh thì là cốt nhục luận vô tình. Nữ mệnh gặp cách này, cho nên viết “Nhật tỏa loan thai”.

Thientam
11-04-14, 23:26
Thổ táo hỏa viêm, dạ hàn khâm trướng.
Thổ sinh tháng mùa Hạ, hỏa thịnh. Mà thổ dựa vào hỏa sinh, hỏa càng thịnh mà thổ cũng càng khô, chính là luận Tử khô, Mẫu thịnh. Nữ mệnh gặp cách này, cũng chủ cô đơn, là mệnh không có chỗ dựa.

Quần âm quần dương, thanh đăng tự thủ.
Ngũ hành bên trong thiên lệch, can chi đều thấy âm, gọi là Quần Âm, đều thấy dương gọi là Quần Dương, bản thân không có tương trợ, lý là âm dương không có phối hợp, nam không có thê mà nữ không có phu, là lý lẽ tự nhiên vậy.

Trọng quan trọng ấn, lục tấn cô miên.
Nữ mệnh chỉ mừng có một Quan một Ấn, thì là một phu. Nếu trọng kiến thì là trọng phu, tất nhiên chủ khắc phu. Ý là dù thiếu niên mà đã cô độc tới già, giả sử không có khắc phu cũng chủ viễn biệt ly cách, thường xuyên chưa được hợp lại vui mừng, bỏ mặc vinh quý cũng chẳng từ gian nan.

Điền viên nghiễm trí, thực thần đắc vị bất phùng quan.
Thực thần, nữ mệnh lấy làm tử. Tử tinh đắc vị, thì có thể lấy dưỡng mẫu. Thực thần chủ về y lộc phong hậu, nữ mệnh sinh Giáp lấy Bính làm Thực, Giáp có thể sinh bính, lấy Bính là tử, tử đã đắc lộc, không thể không dưỡng mẫu vậy. Giáp thấy Tân là Quan, mà Tân cùng Bính hợp, khiến cho tử lưu luyến thê, thì mất địa vị mẫu cho nên nói Bất phùng Quan là vậy.
Túc bạch doanh dư, ấn thụ phùng thì hoàn ngộ sát.
Dụng Ấn, dù có phương Sát hiển lộ, như Nữ mệnh sinh ngày Giáp lấy Quý thủy là Ấn, Canh kim là Sát, Ấn dựa vào Sát sinh, gặp thì vinh hiển. Nam chủ quyền quý, Nữ chủ phúc hậu. Cho nên nói: Túc bạch doanh dư.

Thương quan bất kiến quan tinh, do vi trinh khiết.
Nữ lấy Quan là phu, tối kỵ thương phu. Phàm Nữ nhân sinh ngày Giáp lấy Tân là chính phu, lấy Đinh hỏa là Thương quan, do đó lấy hỏa khắc kim nếu không có Quý thủy để chế thì phu thụ thương. Nhưng dụng Thương quan thì tứ trụ không thấy Quan tinh, không có Quan tinh thì Thương quan không thể đả thương, trái lại là phụ nữ trinh khiết. Mà Thương quan là cái Ta sinh là con cái, chỉ mừng đả thương mất, hơn nữa có Tài trợ giúp thì là phúc vậy.

Thientam
11-04-14, 23:26
Vô thực đa phùng ấn thụ, phản tác hình thương.
Phàm mệnh Nữ nhân lấy Thực thần là tử, như không có Thực thần thì không có Tử tinh. Thật không biết là vô Tử thì không có lấy làm nuôi dưỡng, gặp nhiều Ấn thụ, thì tổn hại Tử. Cho nên nói Phản tác hình thương.

Cùng kiêu kiến thực, tọa sản hoa khô.
Giáp mộc lấy Nhâm thủy là Kiêu, lấy Bính là Thực, do đó là Nhâm khắc Bính, tục nói Kiêu thần là nguyên nhân có thể đoạt Thực. Nữ nhân lấy Thực là tử, cho nên lấy chữ Tọa Sản ví von vậy thôi.

Ác sát hỗn quan, lâm xuân diệp lạc.
Ác Sát, là Thất Sát vậy. Nữ lấy Chính Quan là Chính phu, Thiên Quan là Thiên phu, sao cần phải thấy? Nếu không có Chính Quan, tức là lấy Thất Sát là chính phu. Nếu có Chính phu, tối kỵ thấy Thất Sát. Như người đàn ông có hai người phụ nữ, một thiện một ác, lẫn lộn trong một nhà, chẳng phải trái lại là thương thân ư? Cho nên viết Lâm xuân diệp lạc.

Viễn hợp câu tình, bối phu tầm chủ. Trùng quan phá thực, khí tử tòng nhân.
Nữ mệnh nếu có tam hợp, lại có Dịch Mã giao tình, Đào Hoa lâm thủy, can mang đôi uyên ương, chi gặp Tứ Sát, đều chủ là cùng người tư thông. Có Quan gặp xung, có Thực gặp phá, phu tử đều bị xung phá, sao không tòng theo người khác ư?

Tài suy ấn tuyệt, ấu xuất nương môn.
Mệnh Phụ nữ lấy Tài suy yếu không có lấy để phụng dưỡng chồng, lấy Ấn tuyệt xuất thân là tiện, sao có thể luận là phúc khí ?

Thientam
11-04-14, 23:27
Thân vượng vận cường, tảo hình phu chủ.
Phụ nữ không cần thân vượng, cương kiện, quý ở thân nhược trầm tĩnh. Nếu thân vượng lại vận hành đất thân vượng thì nhất định chủ hình phu.

Ngũ sát trâm hoa, nhật dạ nghênh tân tống khách.
Ngũ Sát, là Hàm Trì, Hồng Diễm, Kiếp Sát, Phá, háo các loại. Lại thấy Đào hoa Sát, gọi là Trâm Hoa. Phàm Nữ mệnh mang theo Vong Kiếp Hàm Trì, nhất định không thể hợp chỗ này, Quý nhân cũng vậy, nhất định chủ bề ngoài tôn trọng, bên trong thì làm nũng dâm dục, tâm hảo tửu sắc, như Canh Thân, Kỷ Sửu, Đinh Hợi, Nhâm Dần vậy.

Tam hình đái quỷ, thủy chung khắc tử thương phu.
Tam Hình là: Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần, Sửu hình Tuất, Tuất hình Mùi, Mùi hình Sửu, Tý hình Mão, Mão hình Tý, Thìn Ngọ Dậu Hợi là tự hình các loại. Như mang tam hình, lại mang thêm Quỷ là mệnh chủ hình phu khắc tử.

Dương phi mạo mỹ, lộc bàng đào hoa.
Đào hoa Sát, cùng tên gọi Hàm Trì Sát, Sát này là chủ người thanh tú mỹ mạo, như người sinh Dần Ngọ Tuất thấy Mão, người sinh Tị Dậu Sửu thấy Ngọ, người sinh Thân Tý Thìn thấy Dậu, người sinh Hợi Mão Mùi thấy Tý vậy. Không biết là năm, tháng mang theo Đào hoa Sát là trong vườn nhiều sắc hoa rực rỡ cùng Quan tinh hợp Lộc chủ là quý, có thể là phụ nữ lương thiện. Nếu thời thượng ( can giờ) mang theo thì gọi là Tường ngoại Đào hoa, người sẽ chịu nhận lấy sự dính líu ngã đổ, trái lại là Hạ tiện. Cho nên, Đào Hoa hội Lộc hợp Quan tinh là lấy Dương Phi mà so sánh.

Tạ nữ tài cao, thân nhâm từ quán.
Mệnh Nữ nhân mang theo Từ Quán, chủ có tài học vấn, ngũ hành vượng xứ, tức là Từ Quán. Hoặc sinh tọa ở bên trên có Từ Quán như người sinh là mộc được Canh Dần là chính.

Hoa cái lâm quan, tình thông tăng đạo.
Sao Hoa Cái biểu hiện giống như bảo vật, sao này chủ cô đơn. Có Quan có Ấn, gặp thì được tôn vinh ngôi cao Hàn Uyển, Hoa Cái phùng Không Vong thích hợp là Tăng đạo. Mệnh Nữ nhân phạm Hoa Cái, thì cùng Tăng đạo đồng lưu, cho nên viết Tình thông Tăng đạo.

Thientam
11-04-14, 23:28
Cô thần tọa ấn, thân tác ni cô.
Cô Thần Quả túc, nam nữ đều kỵ gặp. Nữ nhân gặp cũng chủ là sư ni các loại, nếu không cũng là cô quả, thân thái vượng càng kỵ. Quyết viết: "Dần Mão Thìn sợ gặp Tị Sửu, Tị Ngọ Mùi thì sợ Thân Thìn. Thân Dậu Tuất thì sợ Sửu Mùi, Hợi Tý Sửu sợ gặp Dần Tuất nổi giận".

Bào thai thường đọa, thực vượng thân suy.
Bào thai là tháng thụ thai vậy. Nếu thân suy mà gặp Thực Thần sinh vượng, thì chủ có bệnh sẩy thai. Thực là con vậy, do đó lấy Tử vượng thì Mẫu suy, là lý lẽ tự nhiên vậy.

Loan phong tần phân, quan khinh bỉ trọng.
Như người sinh ngày Giáp lại trọng thấy 1, 2 Giáp, thì đệ muội nhiều quá. Mà chồng chủ không có lực, khiến cho Tỉ kiên tranh đoạt, định đoạt chồng thì tình nghĩa phân ly, gọi là Quan khinh Tỉ trọng.

Tả muội cương cường, nãi tác điền phòng chi phụ.
Tả muội là Giáp thấy Ất, Ất thấy Giáp các loại. Tứ trụ trọng kiến, nhập thừa vượng tướng, chủ nữ không được động phòng hoa chúc để vui vẽ, đương nhiên là làm vợ kế tiếp nối. Hoặc là mệnh làm vợ lẽ hai lần kết hôn vậy.

Tài quan tử tuyệt, đương chiêu quá kế chi nhi.
Tài dùng để dưỡng mệnh, dựa vào chồng mà chung thân, gặp hai vị trí tử tuyệt, thì không thể kéo dài. Mà Quan lâm tử tuyệt, thì không thể sinh con, tất nhiên nhận con của người khác để có con nối dõi vậy. Nếu như không có thừa kế thì tuyệt tự mà không có nối dõi. Như ngày sinh Giáp lấy Tân là Quan, lấy Kỷ là Tài, Tân tử ở Tị, Kỷ tuyệt ở Tý vậy. Còn lại mà suy ra .

Quan lâm tài địa tất vinh phu, thân nhập bại hương tu khắc tử.
Quan với Nữ nhân là Phu tinh vậy. Quan hành đến Tài hương, Tài là lộc vậy, Quan gặp lộc, sao lại không có vinh hiển ư? Tài đối với nam là vợ, thê tức là Tài vậy. Nữ nhân lấy để phụng dưỡng chồng, tài vượng thì chồng cũng thịnh. Cho nên lấy vinh phu làm ví dụ.
Ví như ngũ hành đến đất bại tuyệt, chủ khắc tử mà cô đơn, mà Giáp mộc sinh ở Hợi, mà Bại ở Tý, Tý là Giáp ở ngôi Mộc dục, như người mới sinh ở thủy mà Dục, cho nên là Hiểm địa, vốn là nghĩa Khắc Tử vậy.

Thientam
11-04-14, 23:28
Sát kiêu phá lộc liên căn, đọa băng cơ vu thủy hỏa.
Như ngày sinh Giáp lấy Canh là Sát, lấy Nhâm là Kiêu, mà Giáp tới lộc bị Sát Kiêu tới phá thì thân bị hại, chủ có nạn thủy hỏa.

Tỉ kiếp tao hình tang cục, yểm ngọc cốt vu trần sa.
Tỉ Kiếp là huynh đệ tỉ muội các loại. Ở trong mệnh người thì chủ có tranh chấp, như lại gặp Hình là họa không phải nhẹ, chính gọi là Kiếp Tài, Dương Nhận vậy. Phụ nữ gặp như thế thì rất đố kỵ, dễ bị hại, giống như trong gia đình anh em nhiều, có tài thì tranh, không có tài thì mắc họa, cộng thêm hình sát thì mạng tất vong.

Giao trì phùng dịch mã, mẫu thị hoang lương.
Nữ mệnh quý ở điềm tĩnh, tối kỵ Dịch Mã. 《 Cách giải 》nói: Mã vốn là gốc để phù trợ thân, Mã tức là Tài vậy. Lộc là gốc dưỡng mệnh, Lộc tức là Quan vậy. Lý lẽ đơn giản là Tài Quan giao hỗ cùng thấy vậy. Mệnh Nam thì mừng gặp, Nữ nhân lấy Tài phụng dưỡng chồng, không được tiền của gia đình vợ để phụng dưỡng chồng vậy, sao làm tổn hại mẹ vợ tới tiền của? Cho nên viết Mẫu thị hoang lương.

Soa thác đối cô thần, phu gia linh lạc.
Dương Soa, Âm Thác, chỉ có 12 ngày là: Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Dương nhật là Dương soa ( dương lệch), Âm nhật là Âm thác ( âm hỗn tạp), phái nữ mà gặpthì bố mẹ chồng ít hợp, không có chị em dâu. Tháng, ngày, giờ lưỡng trọng, hoặc tam trọng nếu phạm thì rất ứng nghiệm, chỉ riêng ngày phạm thì quan trọng nhất. Phụ nữ phạm thì chủ gia đình chồng suy tàn.

Ngũ mã lục tài, cùng bại bỉ kiên chi địa.
Mã tức là Tài vậy. Người sinh Giáp Tý lấy Kỷ là Tài, từ Giáp tới Kỷ là sáu vị trí, là Mẫu của Tài, nhưng mà Tỉ kiên huynh đệ nhiều thì Kiếp tài mà phân chia, do đó viết Cùng bại, nữ nhân không có tài để phụng dưỡng chồng cũng là mệnh nghèo vậy.

Bát Quan thất sát, phân ly hình hại chi hương.
Người sinh Giáp Tý lấy Canh Ngọ là Sát, Tân Mùi là Quan. Từ Giáp Tý tới Canh Ngọ là Thất Sát, tới Tân Mùi là Bát Quan. Thất Sát là Thiên phu, Bát Quan là Chính phu, mà gặp tam hình, lục hại, hoặc là chồng chết hoặc là xa chồng, việc này xưng hô là vậy.

Hình không quan sát, kỷ lâm giá nhi bãi nùng trang.
Đã lấy Quan Sát là phu tinh, cần phải vượng tướng, không thụ khắc chế, chính là địa vị chồng quý thì vợ cũng vinh. Nếu mà Quan tinh lạc Không vong, Sát tinh bị hình, cả hai đều không có lực, đã chịu sự chế phục của kẻ hung ác thì bản thân có an phận mà hưởng phúc chăng? Gọi là Lâm giá nhi bãi nùng trang ( trước khi lấy chồng mà đình lại đồ nữ trang) là vậy.

Thientam
11-04-14, 23:31
Trùng khắc ấn tài, túng đắc gia nan thành hậu phúc.
Tài là để dưỡng mệnh, Ấn là để sinh thân, cả hai là để lấy phúc, nếu như Lệnh tháng xung khắc không thể thấy dụng, do đó không thể lấy là phúc. Cho dù thành gia đình cũng không thể an hưởng quang vinh. Mệnh Nữ nhân lấy tài để phụng dưỡng chồng, đã bị xung khắc, khó có thể an ổn mà hưởng phúc được.

Bất nhược tàng tài bất lộ, minh sát vô thương.
Trong Mệnh có tài, quý ở tàng mà không lộ, lộ thì mọi người thấy mà đoạt, tàng thì mới được yên ổn, cuối cùng mà phong phú. Sát lộ có bị thương không? Thư nói: “Tài tàng thì phong phú, Quan lộ thì thanh cao”, vì thế mà nói vậy.

Sát trọng ấn hành tài, đa tài ngộ ấn.
Ấn cùng Tài vốn tương khắc. Khắc như giả sử Giáp lấy Quý là Ấn, lấy Kỷ là Tài, Giáp lấy Kỷ làm vợ, mà Tài nhiều cũng là vui. Nhưng mà sợ có Ấn, thì Tài phá, hành trọng Ấn thì Tài hơi thuyên giảm, Tài nhiều gặp Ấn thì gọi là Tham Tài phôi Ấn, nếu có Kiếp Tài chính là thuyên giảm.

Tứ bại phi gia nhân chi hữu hạnh, tứ trùng khởi lương phụ nhi vô hiềm.
( Tứ bại thì gia đình không có hạnh phúc, tứ xung sao phụ nữ lương thiện nào mà không sợ). Việc này đối với Nữ nhân đều là sở kỵ vậy.
Ghi chú: Xung: (thời điểm mà một hành tinh nào đó trong hệ mặt trời, trừ sao Thuỷ và sao Kim, vận hành đến vị trí nằm trên cùng một đường thẳng với trái đất và mặt trời, và trái đất nằm trong khoảng giữa mặt trời với hành tinh ấy); Vọt: Tục dùng như chữ xung 衝. Như nhất phi xung thiên 一飛冲天 bay một cái vọt tận trời. Như Tí Ngọ tương xung 子午相冲 Tí Ngọ xung nhau, nghĩa là phương vị cùng đối thẳng với nhau; Tứ Bại: Tý Ngọ Mão Dậu, là vị trí Mộc dục trong vòng Trường sinh.

Thủy tụ vượng hương, hoa nhai chi nữ.
Tính Thủy đã đi xuống mà không thể phản lại vậy. Lại đến đất vượng, mà có thế lực cuồn cuộn như đại dương mênh mông, cho nên tính tình Nữ nhân giống như vậy là tại sao? Nói là tòng theo chồng mà bản thân không thể tòng mà tính chất phụ nữ nếu thủy mà mềm mại thì là thanh trong, bản tính là như vậy; nếu cùng kim hội hợp thì muốn tìm theo dục vọng, giống như là loài hoa ở ngoài đường phố chợ vậy.

Thientam
11-04-14, 23:31
Kim thành tú lệ, đào động chi tiên.
Kim là chất cực đẹp, do đó lấy phụ nữ làm ví dụ. Nữ mệnh kim sinh được ở Tây phương là tú khí, cộng thêm hỏa nhu mì để thành chất, đều không có khuyết điểm làm bẩn, sao không phải là thần tiên?

Tứ sinh trì tứ mã, bối tỉnh ly hương.
Dần Thân Tị Hợi vốn là Tứ Sinh trong cục vậy. Lại là đất của Mã chạy nhanh, mệnh nữ nhân tối kỵ Dịch Mã, nếu mang theo thì chủ có đi xa mà xuất giá ly hương.

Tam hợp đái tam hình, thương phu bại nghiệp.
Phụ nữ tối kỵ có hợp, nếu cùng Quan tinh hợp chính là Chính phu tương hợp là tốt. Lại nếu có nhị tam hợp, thì là đố hợp, mà là mọi người hướng về vợ, lại mang theo tam hình, thì cốt nhục hại nhau, đều là thương tổn lục thân, cho nên viết Thương phu bại nghiệp, là lý lẽ tất nhiên.

Ám sát phùng hình, cảo châm bất thiện.
Sát cũng là chồng vậy, mà có ám hình thương, chủ người chồng bất thiện, mà là ác nhân.

Minh quan khóa mã, phu chủ tăng vinh.
Quan tinh hỉ lộ, lộ gọi là Minh Quan, lại gặp Lộc Mã, chủ chồng làm quan danh tiếng.

Hoàng kim mãn doanh, nhất tài đắc sở.
Như người sinh Giáp mộc, dụng Kỷ thổ là Tài. Lại được đất Thìn Tuất Sửu Mùi chính là Tài tinh đắc địa vậy. Phụ nữ chủ có phú quý, là phụ giúp chồng mà lợi cho con vậy.

Hồng nhan thất phối, lưỡng quý vô gia.
Quý nhân là Thiên Ất quý nhân vậy, phàm Nữ mệnh không nên thấy nhiều. Kinh nói: Nhiều Quý mà hợp nhiều, định là Sư Ni , kỷ nữ, nô tỳ. Phàm có một Quan cũng là một quý, nếu trọng kiến thì chủ khắc phu thì như người không có gia đình, gọi là không đắc địa vậy, do đó lấy chủ về thiếu niên mà mất kết duyên vậy.

Thientam
11-04-14, 23:32
Tiên bỉ hậu tài, tự bần chí phú.
Trong Tứ trụ, trước có Tỉ kiên, sau lại hành Tài vận, gọi là Tiên bỉ Hậu tài. Nếu gốc tứ trụ có Tài có Tỉ, không là tiên Tỉ mà hậu Tài, chính là gốc Tài bị Kiếp đoạt thì không có tốt vậy. Việc này lấy Hành Vận phùng Tài, vốn là phương đoạn tuyệt.

Trùng quan hợp thực, kháo tử hình phu.
Quan với Nữ nhân là chồng vậy, Thực với Nữ nhân là con. Quan bị xung, chủ chồng không có lực, Thực thần mang hợp là con được thành công, do đó dựa vào con mà sống.

Tử tuyệt bào thai, hoa khô tịch tịch.
Bào thai là tháng thụ khí vậy. Như gặp tử tuyệt, cả đời vắng lặng, đến già mà cô khổ vậy.

Trường sinh căn bản, qua điệt miên miên.
Ngũ hành được vị trí Trường sinh, Nữ nhân nhiều tuấn nhã, mà có Tử tôn bền lâu, gọi là Qua điệt miên miên ( ngọn quả dưa liên tục phát triển). Căn bản là Mộc sinh ở Hợi, Hỏa sinh ở Dần, Kim sinh ở Tị, Thủy Thổ sinh ở Thân, do đó viết là Căn bản vậy.

Hợp quý hợp tài, châu doanh kim ốc.
Hợp Quý là Quan tinh Phu tinh được hợp vậy. Chỉ có hợp kỳ một Quan là quý, không phải là hợp quý nhân vậy. Hợp Tài là Tài thần vậy. Nữ nhân lấy Tài phụng dưỡng chồng, giới Nam lấy Tài làm vợ. Do đó mừng hợp, chủ có châu báu đầy đủ, vàng bạc đầy nhà.

Phá tài phá thực, khâm lãnh lan phòng.
Nữ mệnh tối hỉ là Tài cùng Thực mà lấy, Tài để nuôi dưỡng chồng, Thực để dưỡng già, giả sử bị phá thì sao gọi là sinh? Gặp cách này thì cam chịu thê lương lạnh lẽo, do đó viết Khâm lãnh lan phòng (chăn lạnh cả phòng).

Lữ hậu danh trì thiên hạ, chích duyến âm tịnh dương cương.
Mệnh Nữ nhân lấy Thuần âm là nhu thì là quý phúc, nếu bao gồm cả dương cương thì chính là nắm quyền Đoạt Phu, nhiều tài năng quá mức, không khỏi có hình phạt âm tà. Cho nên lấy Lữ Hậu làm ví dụ.

Thientam
11-04-14, 23:33
Lục châu thân đọa lâu tiền, cái thị kiêu trùng sát vị.
Mệnh có dụng Kiêu là có nhiều điều bất nhân, phụ nữ không nên có, Sát với Nữ nhân cũng là kỵ. Huống chi lại gặp Kiêu mà xung, là mệnh châu báu xanh biếc, khó có. Lấy ví dụ trên mà nói, học giả cần chu đáo kỹ càng mà nói.

Thu thủy thông nguyên, dịch mâu lập tiết.
Lời nói này là Nhâm Quý sinh ở tháng mùa Thu lại gồm cả gốc Hợi Tý thủy. Huống chi Thu kim vượng mà lại sinh thủy, thủy tính trong, kim tính cương. Lại lấy con mắt để ví von là Thu thủy, cho nên nói: Dịch mâu ( loại bỏ con mắt), cần nắm vững có trình tự.

Đông kim tọa cục, đoạn tí lưu phương.
Kim sinh ở tháng mùa Đông, lại được Tị Dậu Sửu cục, là loại tòng kim. Nói về kim có tính chất chủ về Nghĩa, lại có tính cương quyết, quả cảm, dứt khoát. Nam tử thì có tính tình uy vũ, quyền lực; còn Nữ nhân có tính tình kiên trinh, tiết hạnh. Nói là Đông Kim thì là Kim bạch Thủy thanh, là thủy lạnh kim hàn, do đó nói: Đoạn tí lưu phương ( đoạn tuyệt dòng chảy), là lý lẽ tự nhiên vậy.

Tả muội đồng cung, vị thích nhi tiên hữu hận.
Tả muội là Tỉ Kiếp vậy. Như sinh ngày Giáp, trọng kiến Giáp Ất các loại. Như tháng ngày là Giáp Dần, Ất Mão, gọi là đồng cung. Ý là sợ có sự tranh nhau, đố kỵ, do đó gọi là Thích nhi tiên hữu hận.

Mệnh tài hữu khí, phối phu đáo lão vô ưu.
Mệnh, là bản mệnh. Tài là tài bạch. Cả hai có khí sinh vượng, có thể lấy vinh thân, do đó để trợ giúp chồng, chẳng phải là Đáo lão nhi vô ưu vậy.

Vốn là lấy Vinh Khô Quý Tiện, để tạo ra nguồn gốc, muốn theo đuổi tham gia vào học vấn hiểu biết phong phú , lĩnh thụ chân truyền. Nếu nói về ngộ lý sai giờ, dù có là bậc tiên hiền cũng không thể biết vậy.

Thientam
11-04-14, 23:33
Định chân thiên

Phu sinh nhật vi chủ giả, hành quân chi lệnh, pháp vận tứ thời, âm dương cương nhu chi tình, nội ngoại phủ thái chi đạo.
Lấy ngày sinh làm chủ, lấy Nhật can là chủ. Ví như người bề tôi vậy, Hành Quân chi lệnh tức là chủ hành theo Nguyệt lệnh, từ đề cương mà khởi vận, nói là vua tức là năm tuổi bản mệnh vậy. Như bản mệnh là Giáp Tý, năm tức là Tuế Quân. Sinh Chính nguyệt, Nguyệt lệnh thấy Bính Dần, Nam mệnh thì thuận vận hành đến Đinh Mão, Mậu Thìn, cho nên nói lấy Ngày làm chủ, lấy ngày là như người bề tôi, chủ là Tuế quân hành đến Nguyệt lệnh, là vận mệnh vậy.
Pháp vận Tứ thời là lý lẽ của phương pháp này.
Vận là hành vận, Tứ thời là Xuân Hạ Thu Đông. Lý lẽ Tử Bình như là vận hành Dần Mão Thìn thì thuộc mùa Xuân, hành Tị Ngọ Mùi thì thuộc mùa Hạ các loại vậy. Âm dương cương nhu chi tình như là Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là dương, Ất Đinh Kỷ Tân Quý là âm, tính tình của dương thì cương, tính tình của âm là nhu vậy. Nội ngoại phủ thái chi đạo là Thập nhị Địa Chi bên trong tàng chứa Nhân nguyên vốn là nội, thập can lộ xuất ra ngoài vốn là ngoại. Không có bế tắc. Thái là thông. Nếu trong bát tự, thiên can âm dương, cương nhu phối hợp có tình, địa chi đề cương tàng chứa Nhân nguyên dụng thần, hoặc Tài hoặc Quan hoặc Ấn, hành vận sinh vượng thai dưỡng thì cát mà hướng Thái, hành vận tử mộ tuyệt thì hung mà hướng Phủ.

Tiến thối tương khuynh.
Phú nói: Tương lai là tiến, thành công là thoái, cái Xuân mộc, Hạ hỏa, Thu kim, Đông thủy, cùng nói thổ là tháng Tứ Quý, là kỳ Tiến khí vậy. Hoặc Tài Quan là dụng, là sinh tốt. Nếu Xuân thủy, thổ, Hạ kim, Thu mộc, Đông hỏa, là kỳ khí hưu tù, gọi là Thoái khí . Hoặc dụng là Tài Quan, gọi là Thiện. Lại có hành vận dụng thần gặp vượng tướng thì cát; hành tử tuyệt hưu tù thì hung. Cái này Tiến thì cái kia Thoái, cái kia Tiến thì cái này Thoái, cái này Nhập thì cái kia Xuất, cái kia Nhập thì cái này Xuất, xua đuổi hoặc là nghiêng ngã cùng hỗ tương nhau như thế.

Động tĩnh tương phạt.
Bát tự nhật can Giáp, có chữ Tân là Quan, lại lộ chữ Canh là Sát, thì gọi là Động. Động, là náo động vậy, tức là Canh gặp Bính thì ý là gây hỗn loạn. Nếu có vật để chế kỳ Sát, hoặc hợp kỳ Sát, mà không có chữ Đinh để thương kỳ Quan, gọi là Tĩnh. Tĩnh là an tĩnh vậy. Địa chi có xung hình phá hại, cũng gọi là động, nếu không là tĩnh vậy. Hành vận cũng có sinh khắc chế hóa, muốn hướng về hoặc muốn quay lưng, vốn gọi là Bát tự Động Tĩnh tương phạt . Thuyết xưa nói Can là Trời, có thể động mà không thể tĩnh. Chi là Đất, có thể tĩnh mà không thể động. Giáp chính là lấy Thiên can, Tý chính là lấy Địa chi, cuối cùng là ở Hợi. Giáp truyền lại cho Tý chảy quanh không ngừng theo Thập nhị Chi, một động một tĩnh, một âm một dương, mà hỗ tương thay thế để dùng.

Thientam
11-04-14, 23:35
Thủ cố hưởng xuất nhập chi hoãn cấp.
Cố, là không thông, là bế tắc; Hanh, là thông đạt.
Bát tự Nhật chủ quá nhược, tứ trụ Tài Quan Thất Sát thừa vượng, hoặc Ấn thụ bị thương Tài phá, loại này chính là mệnh không thông, bế tắc. Nhật chủ kiện vượng, mà gặp Tài Quan Ấn thụ, không có một chút thương khắc, hoặc Sát có chế, loại này chính là mệnh thông đạt.

Xuất là thoát . Nhập là đến.
Vận thuận hành như xuất Tuất nhập Hợi, nghịch hành như xuất Hợi nhập Tuất các loại vậy. Hoặc có gặp vận cần phải hướng về, hướng về ở thời trẻ mà đạt tới nhanh chóng; cũng có hoặc gặp vận cần phải hướng về ở lúc tuổi già mà đạt tới kéo dài, đến nỗi vận cố định không thông, cũng có lúc sớm muộn không đồng nhất, học giả cần ghi nhớ mà áp dụng.

Cầu tể phục tán liễm chi cự vi.
Tể, là công danh thành đạt .
Phục, là công danh nhiều lần không thành.
Tán, là tài bị phá.
Liễm, là tài được tích lũy.
Công danh thành hay không, tài bạch có bị phá hoặc tích lũy được, dù có nhiều ít lớn nhỏ đều không có đồng nhất, chủ đều do mệnh vận. Nếu gốc bát tự có Quan, hành Quan vận thì phát Quan. Gốc có Tài, hành Tài vận thì phát Tài, gốc có tai họa, hành tai họa vận thì phát tai họa. Học giả cần tìm hiểu sưu tầm kỹ càng. Tuy nhiên cũng cần có kiến thức am hiểu địa phương, sông nước phong thủy, mà nếu người sinh được ổn định, phương được lớn nhỏ, cao thấp mà lý luận.
Cho nên nói: Sinh ở Giang Nam thì làm cây Quất, sinh ở Giang Bắc thì làm cây Tranh gai. Vốn chính là chỗ này vậy.

Chú thích viết: Phép có ba nội dung chính, lấy Can là trời, lấy Chi là đất. Bên trong tàng chứa là Nhân nguyên, phân ra tứ trụ lấy năm làm gốc, lấy tháng làm mầm, lấy ngày làm hoa, lấy giờ làm quả. Lại chú thích: Trong tứ trụ lấy năm là Tổ thượng, thì biết mấy đời tổ tiên lý lẽ thịnh suy; lấy tháng là phụ mẫu, thì biết người thân có che chở, danh lợi có hay không …; mà nói là chính mình cần rèn luyện phẩm chất, suy ra kỳ liên quan, sưu tầm sử dụng bát tự, là gốc nội ngoại sinh khắc áp dụng hay bỏ đi. Can nhược thì yêu cầu dựa vào khí vượng, là phương pháp lấy để bổ túc cái chưa đủ.
Lấy năm làm gốc, lấy tháng làm mầm, lấy ngày làm hoa, lấy giờ làm quả, xem trong năm tháng nếu có Tài Quan Ấn thụ, không có một chút khắc phá, vốn là gốc mầm đầu tiên có khí vậy; Mà chỗ sinh ngày giờ lại tương hợp được thích hợp thì đài hoa mở mà quả kết hạt vậy.
Kinh nói: "Căn tại miêu tiên, thực tòng hoa hậu" là vậy.

Lấy năm là Tổ thượng, là nền móng điền trạch, là cung nối dõi phân phối làm quan. Cái Nhận là mạnh mẽ, Kiếp Sát đều ở trụ năm, cơ nghiệp tổ tiên nhất định là Tiện. Nếu năm tháng ngày hợp là phú quý, hoặc gặp Lộc Mã Ấn thụ mà không có khắc phá hình xung, thì nền móng vẽ vang mấy đời không suy vậy, trái lại là không phải.

Lấy tháng sinh là cung phụ mẫu, nếu bên trong tháng sinh có Tài Quan tinh, vượng tướng không có xung phá, lại có nhật can ở đất sinh vượng là người nhất định thừa kế phúc ấm của phụ mẫu, ở đất tử tuyệt là người dú có thừa kế phúc ấm phụ mẫu cuối cùng sự che chỡ thân cũng không được dài lâu vậy.

Lấy ngày là bản thân , vốn là thiên nguyên của ngày sinh cũng chính là bản thân vậy. Nhất định cần phải biết suy ra, Thiên nguyên ngày sinh đến cung nào để chia mà tìm dụng thần bát tự, can thượng thấu lộ bên ngoài có các loại Quan Sát Ấn, bên trong sở tàng có chữ các chữ Quan Sát Ấn, hoặc khứ Quan lưu Sát, hoặc khứ Sát lưu Quan, Nhật can cũng không làm nên sinh khắc lấy hay bỏ đối với nguyên gốc. Nói về Nhật can quý ở vượng, nếu Nhật can nhược thì yêu cầu sự giúp đở ở Ấn Nhận, để phù trợ cho nhược, hoặc vận hành đất thân vượng cũng tốt. Nếu có dư thừa thì muốn mưu cầu ở Quan Sát để chế cái cường, hoặc vận hành đất Tài Quan cũng tốt.

Thientam
11-04-14, 23:36
Can đồng dĩ vi huynh đệ, như ất dĩ giáp vi huynh, kỵ canh trọng dã. Giáp dĩ ất vi đệ, úy tân trọng dã.

Tân nhiều thì làm tổn thương Ất mộc, Canh nhiều thì làm tổn thương Giáp mộc, như thế thì huynh đệ có khắc. Như sinh ngày lấy Ất làm đệ, trong trụ có chữ Tân nhiều khắc Ất mộc, không được lực của anh chị em vậy. Người sinh ngày Ất lấy Giáp là anh, nếu trong tứ trụ có Canh kim khắc nặng Giáp mộc, thì cả đời không được lực của anh em vậy, phàm xem anh em có hay không thì lấy theo cách này suy ra.

Can khắc dĩ vi thê tài, tài đa kiền vượng, tắc đa xưng ý nhược kiền suy tắc tài phản họa hĩ.

Tài nhiều can vượng là năng lực có thể đảm nhận Tài thì là phúc. Can suy nhược thì năng lực không thể đảm nhận thì Tài trái lại là họa. Phú nói: "Tài đa thân nhược, chính vi phú thất bần nhân." Vốn là như vậy.
Can cùng Chi giống nhau là tổn tài thương thê. Can cùng Chi giống nhau là Giáp Dần, Ất Mão các loại. Lại viết: Nếu mệnh có Địa chi đồng cục thì tổn Tài thương Thê. Lại Nguyệt lệnh khí vượng, năm, giờ không thấy Tài Quan, lại không có cách cục, nghèo đến tận xương cốt.
Nam lấy khắc can làm con cháu, Nữ lấy can sinh làm con, sinh tồn hay mất đều như thế. Lấy giờ làm phân dã ( giới hạn phân chia), suy ra đảm nhận phân chia thành bần, tiện, phú, quý vậy.

Như ngày sinh Giáp Ất lấy Canh Tân làm Tử tức, Nữ mệnh sinh ngày Giáp Ất lấy Bính Đinh làm Tử tức, lại xem giờ sinh ở đâu mà làm giới hạn phân ra khinh trọng, sinh vượng, định ra nhiều hay ít. Nếu tứ trụ có khắc sao Tử tức, có thể nói là không con.
Như sinh ngày lục Canh, giờ Ngọ, chính là đa số có con trai nối dõi. Xưng là Canh lấy Ất là Tài, Ất mộc khứ sinh hỏa. Hỏa khắc Canh kim, là sao con cái, giờ Ngọ chính là hỏa mà phân ra, Đinh hỏa kiến đất Lộc, nên có con nhiều, sinh hiển quý mệnh. Nếu sinh ở giờ Tuất Hợi Tý thì là kim thủy phân ra, gặp đất hỏa tuyệt thì con cái ít, nên sinh con ra là trẻ mồ côi, bần tiện, nếu không cũng là Tăng đạo, hoặc mệnh làm con nuôi.
Nữ lấy can sinh cũng vậy. Luận Tử tức nhiều hay ít thì luận kỹ càng ở bên trong giờ sinh phải hết sức cẩn thận. Xem giờ sinh ở ngày phân cung ( tàng trong Chi giờ), nếu ở đất Trường sinh, Mộc dục, Quan đái, Lâm quan, Đế vượng, định là nhiều con, nên sinh ra con xinh đẹp, phú quý; nếu lạc ở đất suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt là không có khí thì bào thai xung hình, định là ít con, nên sinh con ra là trẻ mồ côi, nghèo nàn.

Thientam
11-04-14, 23:37
《 Lý ngu ca 》nói: "Ngũ hành chân giả thiểu nhân tri, tri thì tu thị tiết thiên ky." ( Ngũ hành thực hư ít người biết, biết thời thì cần phải hiểu chương Thiên Ky) là vậy, tục lấy Giáp Tý, Ất Sửu là Hải Trung Kim, tức là thuyết xưa kia, chứ không biết luận là Kim ở trong biển.

《 Lý ngu ca 》nói: Ngũ hành hư thực thì ít người biết, biết thời thì cần phải hiểu chương Thiên Ky. Ngũ hành chân giả vốn là nạp âm vậy.

Chính là Thiên Địa Đại diễn số vậy, trước là công bố triển khai ở địa có 49 số là to lớn, sau là lấy Giáp Kỷ Tý Ngọ là 9, Ất Canh Sửu là 8, Bính Tân Dần Thân là 7, Đinh Nhâm Mão Dậu là 6, Mậu Quý Thìn Tuất là 5, Kỷ Hợi là 4 các số không kể ra loại trừ giảm bớt không cần, lại ghi chú con số không tính vào Ngũ hành. Ngoài thủy là 1, hỏa là 2, mộc là 3, kim là 4, thổ là 5, lấy dụng tương sinh đó là phép nạp âm vậy.

Tương sinh là: Dư 1 thì sinh mộc, dư 2 sinh thổ, dư 3 sinh hỏa, dư 4 sinh thủy, dư 5 sinh kim, ví như 4 chữ Giáp Tý, Ất Sửu, can chi tổng cộng được là số 34, ngoại trừ còn số 15 ( lấy 49-34=15), bỏ 10 còn 5, số dư là 5 thuộc thổ, thổ có thể sinh kim, vốn là Giáp Tý, Ất Sửu là kim vậy; lại như 4 chữ Bính Dần, Đinh Mão, can chi tổng cộng được là số 26, ngoại trừ còn số 23 ( lấy 49-26=23), bỏ số 20 còn dư 3 thuộc mộc, mộc có thể sinh hỏa, Bính Dần, Đinh Mão vốn là hỏa vậy. Các loại còn lại đều giống như vậy. Sao lại có thuyết là Kim ở trong biển, hỏa ở trong lò, phương pháp thế gian có không ra gì, không gặp Minh Sư nghe theo con đường tin ở vĩa hè, bỏ qua cách luận xa xưa, mê hoặc làm hại người đời sau, làm sao có thể là lý lẽ phù hợp. Cho nên đem Giáp Tý, Ất Sửu là Kim làm ví dụ, Tý Sửu bên Bắc phương, đất của Khảm thủy là Hải Trung Kim. Bính Dần, Đinh Mão là hỏa, ví dụ Dần Mão là bên Đông phương là đất sinh hỏa, như thuyết Lô trung hỏa. Xưa kia Từ Lâu Cảnh tiên sinh hợp lại Kim ở Hải trung, Hỏa ở lô trung. Phương pháp Tử bình không dùng Thai nguyên, Tiểu vận nạp âm, chuyên lấy ngày sinh Thiên nguyên làm chủ, phối hợp can chi Bát tự, hợp lại trong Chi có tàng chứa Nhân nguyên, hoặc đang sinh là Tài là Quan, là họa là phúc. Nghiên cứu mệnh người theo cách này, quý, tiện, được, mất, vinh, khô, hiền, ngu đều có thể biết vậy.
Hoặc lấy năm là chủ, thì cũng biết muôn vạn triệu người phú quý đều giống nhau. Lấy năm sinh là Giáp Tý, liền làm giới luật kỵ ngày bản mệnh.
Thế gian nói Tam mệnh đều lấy theo phép cổ xưa, phần đa đều lấy năm làm chủ, thì không hiểu là hàng vạn triệu người dùng Thai Nguyên, Tiểu vận nạp âm để luận, như nước chảy tràn ra khắp nơi mà không có trở về, đều có giống nhau về phú quý là sai lầm.
Do đó, phương pháp của Tử Bình chuyên lấy ngày sinh Thiên nguyên làm chủ, thần ở bên dưới Nhật chủ là cung vợ, năm sinh làm nền móng của bản mệnh lại là Tổ thượng, là cung Điền trạch.
Như sinh Giáp Tý, là tôn thần của Thái tuế bản mệnh, kỵ can ngày sinh nhật cùng Thái tuế xung đều nói là chiến đấu khắc hại, gọi là Bản Chủ bất hòa. Thì con người gặp xảy ra không được nhờ vào tổ nghiệp, điền trạch, bị cách ly khỏi họ hàng thân tộc, ứng với gian nan không có chỗ dựa. Nếu trong tháng giờ sinh cùng can chi có hội hợp nhập cục, hoặc gặp Tài Quan quý khí, thì cả đời được nhờ vào tổ tông, điền trạch, sinh kỳ phong hậu, thanh danh đều tốt vậy.

Thientam
11-04-14, 23:37
Dĩ nguyệt vi huynh đệ, như hỏa mệnh sinh dậu tuất hợi tý nguyệt, ngôn huynh đệ bất đắc lực chi đoạn.

Tháng là cung huynh đệ, như nam lấy Tỉ hòa đồng can, là sao Huynh đệ, ví như người có ngày sinh là lục Bính, lấy Đinh hỏa là em trai, em gái; người sinh ngày lục Đinh, lấy Bính hỏa là anh trai, chị gái, nếu lâm tháng Dậu Tuất Hợi Tý, nói là anh em không đắc lực. Nói tháng Dậu thì hỏa Tử, tháng Tuất thì hỏa Mộ, tháng Hợi thì hỏa Tuyệt khí, tháng Tý thì hỏa về Thai, cho nên nói là anh em không đắc lực mà cắt đứt. Còn lại cứ suy ra, không nên sơ hở khi luận.

Hoặc nhật vi thê, như tại không hình khắc sát chi địa, ngôn khắc thê thiếp chi đoạn.

Luận thê thiếp, lấy chi ngày sinh là sao Thê thiếp. Vật ở trên không có khắc, nếu ở đất Không vong, hình khắc hại, thì khắc thê thiếp, nếu không trùng hôn thì cũng cưới vợ tiếp tục.

Hoặc thời vi tử tức, lâm tử tuyệt chi hương, ngôn tử thiểu chi đoạn.
Luận con cái (Tử tức) nhiều hay ít, đương nhiên lấy giờ sinh làm cung Tử tức. Nam lấy khắc can làm sao Tử tức, Nữ lấy can sinh làm sao Tử tức. Nếu lâm đất Tử Mộ Thai Tuyệt Suy Bệnh, thì Tử tức rất ít.

Như Nam mệnh sinh ngày lục Ất, giờ Thân, đương nhiên có Tử tức nhiều. Ất mộc lấy Canh kim là Tử tức. Giờ Thân chính là phân dã của Kim, Canh kim kiến đất Lộc, cho nên nói con nhiều vậy, nếu sinh giờ Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ, là đoán Tử tức rất ít, nói là ở Mộ Tử Tuyệt Thai là đất khắc hại, thụ chế. Hoặc trong tứ trụ có Hình Phá khắc hại tổn hại Tử, ở trụ giờ thì nhất định khi tuổi về già thiếu con cháu nối dõi, nếu không muộn. Dù có cũng cần Tăng đạo nhận làm con nuôi, bần tiện, chết yểu, con nuôi ngoài thế hệ của tổ tiên vậy.
Luận mệnh đều không thuộc mình làm nên, thực chất tạo hóa là chỗ âm dương đạt đến. Thuật sĩ đời sau, không biết lý lẽ này mà lạm quyền làm hỗn loạn ở kẻ phàm tục, cho nên không thể nói truyền lại, đảm nhận nghiên cứu thâm thúy tinh vi là tốt vậy.

Trước có luận năm sinh là tổ thượng, phụ mẫu, là cung mấy đời tổ tiên thịnh suy, tránh kỵ trong tứ trụ có hình xung phá hại. Thương hại ở năm sinh, ứng với chủ tổ tiên lụn bại, nền móng tuy có mà sự che chỡ bản thân không có nơi nương tựa vậy.
Lấy tháng sinh là cung huynh đệ, nếu có Tỉ hòa là sao anh em vậy. Nếu lâm tháng Tử Tuyệt Mộ Thai, nói anh em không đắc lực vậy.
Lấy chi ngày là cung thê thiếp, nếu lâm vào đất Không Vong, hình khắc hại thì nói là khắc thê thiếp vậy.
Lấy giờ là sao Tử tức, Tử tinh nếu lâm vào đất Tuyệt Tử Mộ thì nói là Tử tức thiếu mà đoạn tuyệt.

Thientam
11-04-14, 23:38
Quyển 6

Nhất Hành Thiện sư thiên nguyên phú


Tam Tài ký định, ngũ khí hỗn đồng. Phân chi thuận nghịch, hiền giả giai thông.

Tam Tài chính là thiên can, địa chi, nhân nguyên, phân ra ba. Ngũ khí tức là khí kim mộc thủy hỏa thổ, cùng nhau hòa chung ở bên trong, nên lấy phân ra dương thuận âm nghịch, sau đó có thể lấy để luận mệnh.

Giáp đắc quý nhi tư vinh, y thực tự nhiên phong túc.

Giáp là dương mộc không có căn, nếu không có thủy thì khô mục, không có thể lấy để khắc tạc vậy. Quý thủy là âm thủy vậy, giống như mạch nước ở trong đá, không có phù phiếm không có trôi nổi. Giáp mộc dựa vào đó để sinh thân, thì phương được tươi tốt hưng thịnh mà có thể lấy để sinh tồn. Quý là mẫu của Giáp, mẫu tử cùng giúp đỡ lẫn nhau, thì cơm áo đương nhiên phong phú. Mà Giáp sinh ở mùa xuân, đương nhiên thừa vượng, sinh ở mùa đông thì Quý vượng, Quý có thể sinh cho, cho nên nói là phúc.

Thientam
11-04-14, 23:39
Ất bạn nhâm nhi hoạch phúc, thiên tứ lộc vị cao sùng.

Ất mộc là âm mộc, là vật có gốc, như gốc uốn khúc lại chưa có hình tượng duỗi ra. Cho đến phát sinh thành rừng cây, dựa vào Nhâm thủy để dưỡng. Nhâm thủy là dương thủy, nếu nước sông lớn không có thể làm tổn hại gốc rễ của cây, tuy rằng chỉ vì chìm ngập, không có thể trôi nổi di chuyển, cũng giống như cây cối được mưa ban cho ân huệ, cho nên nói Thiên tứ lộc vị cao sùng ( trời ban thưởng cho lộc vị cao lớn) , lý lẽ là đương nhiên vậy.

Bính ất hữu hội, bình sinh phúc thọ siêu quần, xuất thế thâm mậu tài cử.

Bính là dương hỏa, Ất là âm mộc vậy. Âm mộc sinh dương hỏa, chỗ này mang ý nghĩa là tương sinh. Mà Ất là mẫu của Bính, Bính là tượng Thái Dương. Ở trên trời là mặt trời, ở đạo làm người là vua, là cha, là chồng, chủ cương nghị không khuất phục, đích thân có phép luật, lại được Ất mộc sinh vốn là cùng nhau hội tụ, đạt được ánh sáng chói lọi, cho nên được tượng Siêu quần (vượt trội hơn người), mà an ổn sống thọ.

Thientam
11-04-14, 23:39
Mậu ấn đinh hề, tự hổ cư sơn cốc chi uy.

Mậu là dương thổ, dựa vào Đinh hỏa sinh cho, Đinh tức là mẫu của Mậu. Mẫu là Ấn thụ, mà thổ không có chính vị, ký sinh ở hỏa, thừa vượng ở tứ quý, là phương Thìn Tuất Sửu Mùi. Cho nên lấy thổ là sơn cốc, nếu Hổ ở tại sơn cốc, tự nhiên có uy, lấy mệnh lý luận cũng có phần phúc vậy.

Kỷ giao bính hề, tượng long đắc phong vân chi thế.

Dương hỏa sinh âm thổ, ý nghĩa là dương sinh âm, giống như tượng cha sinh ra con gái, Bính là cha của Kỷ vậy. Lời nói này như con người được phúc ấm của cha mẹ, như rồng được thế lực của gió mây, thoải mái mà đảm nhận vậy, chẳng phải không là phú quý ư?

Canh phùng kỷ sửu, quan lộc hữu dư

Canh kim lấy Kỷ là mẫu, lời ấy là người sinh kim, nếu gặp hỏa địa, thì thân bị bại, cần phải có thổ để sinh cho thì thành phúc hĩ. Nếu đến vận thổ cũng được. Nếu thổ quá nhiều thì chất kim bị chôn vùi cũng không có phúc hĩ. Chỉ lấy trung hòa là thượng sách.

Thientam
11-04-14, 23:40
Tân đáo mậu hương, y thực tự túc.

Tân kim gặp đất Mậu thổ, vốn được phụ mẫu trợ giúp, chẳng phải là được chỗ sao? Mà kim dựa vào thổ sinh, thổ thịnh thì kim bị chôn vùi, như ngày Tân mà tứ trụ có thổ, lại không cần hành đến thổ vận, nếu gốc không có Ấn thụ, bỗng nhiên gặp Ấn hương, như gặp phụ mẫu, thì có chi bằng mà vui mừng vậy.

Nhâm tân đắc hội, phúc thọ vô cương.

Nhâm thủy dựa vào Tân kim là mẫu, ý nghĩa là được sinh sinh không dứt, như Nhâm thủy sinh ở mùa Hạ, thì không có căn vậy. Như gặp phương Tân vận, gọi là phúc thọ vô cương.

Quý canh tương phùng, thiên nhiêu phó mã.

Quý thủy lấy Canh kim là mẫu, như lấy Quý nhật can, tứ trụ có Canh kim là Ấn, như không có Bính tổn thương thì chủ là người giàu có phong phú. Trong trụ không có Canh Ấn, hoặc đến vận phương có Ấn thụ cũng có thể lấy vinh vậy.

Thientam
11-04-14, 23:40
Thanh cao phù ấn, tu tri quan miện dĩ thừa hiên.

Phù Ấn, là sao Quan Ấn vậy. Các ngôi sao này là Đường Phù, Quốc Ấn. Nhân mệnh gặp thì có mũ mão xe cộ là quý mệnh, không là quân vương thì cũng là vương hậu cao quý vậy. sao Đường Phù, Quốc Ấn duy chỉ có Trương Quả lão thông huyền tiên sinh mệnh lý, chuyên dụng hai sao này để lấy cao quý.

Trùng phá lộc tinh, ứng hiển uy quyền nhi giải thụ.

Lộc tinh là Quan tinh vậy. Tử bình nói: Dụng Quan thì không thể xung, dụng lộc thì không có thể phá. Phá và xung, cả hai đều là tổn hại. Tuy có uy quyền, gặp thì phòng ngừa thoái lui địa vị vậy.

Dương mộc giáp phùng canh bại, chi kiền bất đắc vô thương.

Giáp mộc là dương mộc vậy. Nếu sinh không gặp mùa xuân, gặp Canh kim thì gọt, vót, thân thể không khỏi bị tổn thương vậy. Bóc gọt thái quá, thì mộc phải bị thương. Lấy nhân mệnh làm ví dụ thì chủ gân cốt có bệnh đau nhức, sao có thể lấy được phúc ư? Nếu hành hỏa vận, đất chế Canh kim thì có thể lấy phúc vậy.

Âm mộc ất ngộ tân kim, hành diệp tự nhiên hữu tổn.

Lời nói này là nói âm khắc âm, Ất là âm mộc, ẩn tàng ở dưới đất, Tân kim cũng ẩn tàng ở dưới đất, nói là âm khắc âm. Nếu mộc chủ có khí, thì không sợ vậy.

Viêm viêm bính hỏa, ngộ nhâm nhi hách hách vô quang.

Bính hỏa là dương hỏa vậy, lấy tượng là mặt trời, tượng treo ở trên trời, rõ ràng đốt cháy mà lộ ra thành ánh sáng. Nhâm thủy là dương thủy, là sông biển, im lặng ở bên dưới, sao mà có thể khắc Bính vậy? Nhưng ở vận hành cùng nhau hội tụ nơi khắc mà có giúp đỡ lẫn nhau vậy, hoặc thủy đến đất hỏa, hỏa đến đất thủy, là quản thúc lẫn nhau, vốn là lý lẽ ở chỗ này.

Thước thước âm đinh, phùng quý nhi minh huy tự ám.

Âm hỏa gặp âm thủy, vốn nói là tương khắc. Mà Đinh hỏa là sao sáng, tượng treo ở trên trời, Quý thủy ở đất là nước suối, sao có thể khắc Đinh ở trên trời cao? Lấy lý luận mà nói thì Đinh hành đến đất Quý, Quý gặp Đinh vận, cả hai đều cùng nhau hội hợp, thì là tương khắc, lý là đương nhiên.

Thientam
11-04-14, 23:41
Mậu thủ giáp vị, duy lại canh phương năng cát.

Mậu thổ vốn là do mộc khắc, là dương khắc dương vậy. Dương thổ là thổ đầu tường, làm bờ đê để phòng, gặp dương mộc mà khắc thì có tai nạn là vỡ đê. Cần được Canh kim khắc Giáp mộc, để cứu nguy vậy, về sau có thể đạt thành tốt.

Kỷ tọa ất hương, tri thị kiền đầu hữu quỷ.

Chỗ này là nói can âm khắc can âm, gọi là Quỷ vậy. Như nhật chủ là Kỷ thổ, sinh ở Mão vị, chính là tọa ở dưới Quỷ. Lại hành đến Dần Mão vận, lại vừa gặp Giáp Ất, chính là đất tương khắc, thân vượng thì gặp Quan mà thành phúc, thân nhược thì gặp Quỷ mà thành họa.

Canh phùng bính chiến, thế tự khuynh nguy. Tân bị đinh xâm, khắc phạt thành hại.

Chỗ này là nói Canh Tân kim, bị Bính Đinh hỏa khắc mà tổn hại, chủ là người không thể có phúc. Cần được Nhâm Quý thủy, để chế Bính Đinh hỏa, cứa kỳ quân bình, mà có thể thành phú quý vậy.

Thientam
11-04-14, 23:42
Nhâm ưu mậu chí, kiển sáp nan thông. Quý phạ kỷ lâm, truân hối kinh hoàng.

Nhâm Quý thủy, tính thích nhuận hạ, lại gặp Mậu Kỷ thổ đề thành đình trệ thì trở thành không thông, chủ là người không thể lấy được phúc. Thổ như quá nhiều thì là bần tiện vậy. Thủy như quá nhiều thì là lạm dụng dâm loạn bôn tẩu khắp nơi vậy. Chỉ cần có quân bình, cho nên nói: Thổ dừng thủy chảy thì đủ phúc thọ.

Kiền quỷ đái lộc vượng, phù trì canh phá.
Thân suy mà can đầu gặp khắc, nói là mang quỷ. Nếu gặp lộc vượng, thì có thể được phù trì. Lại có phá bại, thì phúc ít. Là họa càng nhiều, chủ người hoặc phú hoặc bần, là mệnh tiến thóai không có bình thường vậy.

Chi thần vô cát thần, họa giai nan miễn.

Chi thần là trong địa chi tàng chưa các thần, cũng cần có cát thần tương trợ, có thể lấy thành phúc vậy. Như có thần tương khắc, gặp họa hoạn thì khó có thể miễn hĩ. Như Giáp mộc sinh ở tháng Tý, cung Tý lấy Quý thủy là Ấn, sao không là đẹp ư? Chỗ này mệnh nếu trong năm tháng giờ có Kỷ, thổ vượng thì khắc Quý thủy, nói là cát thần chịu tổn hại. Quả nhiên từ chỗ này mà suy ra thì không có không ứng nghiệm vậy.

Thientam
11-04-14, 23:42
Tôn đường phúc thọ sùng cao, giai ngôn giáp đáo bính hương.

Giáp đến đất Bính là đất Thực thần. Giáp có thể sinh Bính, Bính là con của giáp vậy, tên gọi là Thực thần. Giáp còn là lộc của Thực Bính, như con dưỡng cha, sao không là phúc thọ tôn vinh!

Triêu tỉnh quyền quý ưu thăng, cái vi ất cư đinh xá.

Ất mộc có thể sinh Đinh hỏa, cũng như cha cho con ăn để dưỡng, đều là cát vậy.

Quan mộc tịnh điệp, bính thực mậu nhi thành công.

Chỗ này nói Bính hỏa có Thực là dưỡng Mậu thổ vậy.

Cốc mạch doanh thương, đinh đạm kỷ nhi hữu vượng.

Chỗ này là nói Đinh hỏa là lộc Thực của Kỷ thổ vậy.

Yếu đắc phong túc, vô quá mậu đắc phùng canh.

Chỗ này là nói Mậu thổ là lộc Thực của Canh kim vậy.

Dục vấn cao thiên, toàn lại kỷ gia tân địa.

Chỗ này là nói Kỷ thổ là lộc Thực của Tân kim vậy.

Thientam
11-04-14, 23:43
Mãn đường kim ngọc, canh lộc hữu nhâm. Nghiễm trí điền viên, tân năng thực quý.

Chỗ này là nói Canh kim là lộc Thực Nhâm thủy, Tân kim là lộc của Thực Quý thủy, đều nói là con dưỡng cha vậy.

Nhâm thực giáp nhi hữu vượng, chúng phúc như ma. Quý hướng ất nhi sinh thành, nhập thực liệt đỉnh.

Chỗ này là nói Nhâm thủy là lộc của Thực Giáp mộc, Quý thủy là lộc Thực Ất mộc, đều là thập can lộc sinh thành.

Ngũ hành hưu phế, đắc cứu trợ dĩ tai khinh.

Tứ trụ kim mộc thủy hỏa thổ, gặp đất hưu tù tử tuyệt, trong trụ có một ở phương trường sinh, đế vượng thì có phần tương trợ, tuy có tai nạn cũng nhẹ hĩ.

Thientam
11-04-14, 23:43
Tứ trụ quan ấn, vô tổn phôi nhi lộc trọng.

Tứ trụ can đầu có Quan tinh, Ấn tinh, không xung không phá, chủ nhân cả đời lộc trọng. Nhưng sợ gặp vận khắc hại, phạm tiểu vận lưu niên xung phá, chỉ bất lợi một năm, không là lâu dài hĩ.

Giáp phùng đinh nhi thành diễm, tư tài luy tuế đa khuy. Ất ngộ bính nhi hóa hôi, kim ngọc tự tiêu nan tụ.

Chỗ này là nói Giáp mộc sinh Đinh hỏa, Ất mộc sinh Bính hỏa, luận là Thương quan cướp khí. Thương quan là cái ta sinh ra là con vậy, là người kiêu ngạo, không tuân thủ quy củ, có thể làm tiêu hao tài vật của phụ mẫu, là người không như bản thân, hỉ tài thì vinh, không tài thì bần.

Thiên nguyên chính bại, bính kiến kỷ nhi thương tàn. Kiền lộc toàn khinh, đinh trị mậu nhi suy nhược.

Chỗ này là nói hỏa thổ Thương Quan là hại, lý lẽ trên dưới cùng nhau là có tổn hại.

Mậu nhược phùng tân, tu trượng cát sát dĩ phù trì. Kỷ nghi thâu canh, thực lại ngũ hành chi cứu trợ.

Chỗ này là nói thổ kim Thương quan, rất tốt gọi là Tài Quan Ấn vậy, duy chỉ kỵ Quan mà hỉ Tài vậy.

Thientam
11-04-14, 23:44
Canh thân kiến quý, đãng tán tư kim.

Chỗ này là nói Canh kim sinh Quý thủy, thì có họa vụn vặt, cần được thổ để dừng, phương là phát phúc, không có thổ dừng thì là phân tán khắp nơi. Chủ nhân là phóng đãng, dâm dục bại gia.

Tân lộc ngộ nhâm, tiêu dong phúc lộc.

Tân kim sinh Nhâm thủy là Thương quan, nói là kim thủy Thương quan. Chủ người thanh tú thích ca nhạc, rất thông minh, dâm dật vô độ, gặp thổ dừng thì phúc. Không có thổ dừng, cuối cùng là hạ cách vậy.

Niên thiểu phùng tai, nhâm thương ất vận.

Chỗ này nói Nhâm thủy sinh Ất mộc là Thương quan, lại tiếp hành vận Thương quan thì chủ gặp tai nạn.

Tổ tài tùy phế, quý bị giáp xâm.

Chỗ này nói Quý thủy sinh Giáp mộc là Thương quan, trong trụ có chế thì cát, không có chế thì hung.

Thientam
11-04-14, 23:46
Y thực nan cầu, ấu tuế thường phùng ngũ quỷ.

Nói đến nhật can nhược, thấy Sát tức là Quỷ, gọi là âm quỷ hại thân, âm thầm không ngờ nếu thân vượng, hóa quỷ thành quan, thì có thể sinh thân thành phúc. Mà Ngũ Quỷ Âm Sát cũng hại người không nhỏ.

Độn muộn hưu tù, trường niên nguyên trị tam hình.

Chỗ này nói lý lẽ về hình bại.

Họa bản nan miễn, lộc bản phùng suy. Nhược ngộ bại thần, tư sinh hưu cữu.

Quan là gốc của lộc, có Quan mà không có lộc, thì là giả quan, tuy vinh mà không quý. Có lộc mà không có Quan, thì không có chỗ. Quan lộc nếu hành đến đất suy tuyệt, khó tránh không bị tai họa. Bại thần là thần phá bại, bên trong mệnh mà gặp thì chủ cả đời gặp điều hung không có lợi.

Thientam
11-04-14, 23:47
Y thực nan cầu, ấu tuế thường phùng ngũ quỷ.

Nói đến nhật can nhược, thấy Sát tức là Quỷ, gọi là âm quỷ hại thân, âm thầm không ngờ nếu thân vượng, hóa quỷ thành quan, thì có thể sinh thân thành phúc. Mà Ngũ Quỷ Âm Sát cũng hại người không nhỏ.

Độn muộn hưu tù, trường niên nguyên trị tam hình.

Chỗ này nói lý lẽ về hình bại.

Họa bản nan miễn, lộc bản phùng suy. Nhược ngộ bại thần, tư sinh hưu cữu.

Quan là gốc của lộc, có Quan mà không có lộc, thì là giả quan, tuy vinh mà không quý. Có lộc mà không có Quan, thì không có chỗ. Quan lộc nếu hành đến đất suy tuyệt, khó tránh không bị tai họa. Bại thần là thần phá bại, bên trong mệnh mà gặp thì chủ cả đời gặp điều hung không có lợi.

Huống hồ giáp tăng ất hướng, phùng chi tự kỷ đa tai. Ất bị giáp lâm, phản dữ tha nhân vi trợ.

Giáp Ất là Tỉ kiên, là anh em trai gái. Giống như người có anh em nhiều, có gia sản thì tranh mà phân đoạt, không có gia tài thì khởi họa đoan, anh em không giúp nhau. Có thân nhược thì hỉ có anh em tương trợ, nhưng mà Ất thấy Giáp là anh, là kiếp tài, ở trên đến dưới gặp họa, gặp tài mà cướp vậy.

Thientam
11-04-14, 23:48
Nhâm hành quý ách, bính tối thâu đinh. Tân kỵ canh phương, đinh hiềm ám bính.

Chỗ này nói đều là Tỉ kiên động tài là họa vậy.

Mậu đồng kỷ hề, đa sinh tỳ vị chi tật.

Mậu Kỷ thổ, ở thân thể là tỳ vị, nếu như gặp mộc khắc, hình thương tỳ thổ vậy, cho nên có bệnh ở tỳ vị.

Mậu đồng kỷ hề, phản hữu bôn ba chi sự.

Kỷ là em, Mậu là anh, mỗi người đều tự lập, thì không có tổn thương hòa khí, nếu như anh em cùng chỗ thì có biến động tạo thành vách ngăn ở bên trong, trái lại là chủ bôn ba, lao khổ, sao mà yên ổn được để vui vậy?

Nhu năng chế cương, đa nhân tân dữ canh kỳ. Thái trọng chi dư, nãi thị tân cư canh địa.

Chỗ này nói Canh Tân kim chi cương nhu vậy. Canh cương mà Tân nhu, Canh là khí kiếm phong, cho nên nói cương có thể giết hại vạn vật, Tân là chất làm trâm cài tóc, cho nên nói nhu có thể là cảnh đẹp. Nếu Tân thấy Canh, lại thành nặng vậy.

Thientam
11-04-14, 23:48
Quý trung ẩn bính, nhâm ngọ ngộ chi đa thương.

Quý lấy Bính là Tài, chỗ dụng là Nhâm, nếu gặp Nhâm Ngọ, lại tổn thương Bính, Nhâm là anh quý trọng, mà Kiếp Bính Tài, cho nên nói nhiều tổn thương, trong Ngọ cũng có Bính, huống chi ở trên Ngọ là Nhâm thì cũng là Bính Tài, Nhâm lại gây tổn thương Bính trong Ngọ là vậy.

Nhâm nội tàng đinh, quý thủy phiên nhiên tự bại.

Nhâm cùng Đinh đúng là có nghĩa vợ chồng, lại gặp Quý thủy khắc Đinh, chính là em cướp đoạt vợ, thì là thương bại vậy, trái lại là đại họa.

Dương giả nhược vi ám tổn, bình sinh vi ác khinh sinh.

Dương là cương vậy, có quả cảm có thể cương nghĩa. Như gặp ám tổn, nên không có ý tiến thủ vậy.

Âm vị tức viết bại thần, xử thế ưu tiện ức tắc.

Dương cũng nhu vậy, tính chất hợp nữ nhân. Như nam mệnh thuần âm, cũng thiếu cương trợ giúp, ở xử thế cũng bị ức chế thì ý chí cũng bị bế tắc. Như được ngũ dương tụ cục, có thể nói là phú quý vậy.

Thientam
11-04-14, 23:49
Giáp kiến tân nhi hóa quan, cương nhu tương tể.

Giáp lấy Tân mà thành Quan, Giáp cương mà Tân nhu, cho nên có thể giúp đỡ lẫn nhau mà không tương khắc vậy.

Ất kiến canh nhi vi phúc, huynh đệ đồng hương.

Ất cùng Canh hợp, lý là vợ chồng. Canh kim có thể khắc Ất mộc, là chính Quan mà thành có phúc vậy. Do anh em đồng hương, mà hòa vậy.

Thủy hỏa ký tể, khước ngôn bính đối quý hương.

Quý thủy khắc Bính hỏa, Bính là Thái Dương ở trời, Quý thủy ở nơi đất cư ở Khảm, trên dưới cách xa nhau, sao có thể tương khắc? Mà Tý Ngọ đối nhau, chính là được tượng Ký Tế, cuối cùng là điềm tốt.

Thientam
11-04-14, 23:49
Ý khí tương thừa, nãi thị đinh quy nhâm xá.

Đinh cùng Nhâm vốn là tương hợp, dương thủy không thể khắc âm hỏa vậy, cho nên có thể ở chung một nhà, tương đầu mà vui.

Mậu lâm ất vị, thổ đắc mộc nhi sinh thành.

Mộc dựa vào thổ để bồi dưỡng, thổ dựa vào mộc để tiết khí, cả hai được mà sinh thành, tuy nói là khắc nhưng cũng tương hại.

Kỷ hướng giáp hương, âm ngộ dương nhi khả quý.

Kỷ cùng Giáp, vốn lấy nghĩa âm dương tương phối, lấy thành đạo vợ chồng. Cho nên nói Giáp cùng Kỷ hợp, Giáp lấy Kỷ là Tài, lấy Tài là vợ mà hưởng, được yên ổn sao không lại không quý ư?

Bạch hổ thông đạo, canh gia đinh lâm. Thái âm đắc lộ, tân quy bính xá.

Canh Tân kim là Bạch Hổ, lại thêm Đinh hỏa khắc Canh kim, được phối đạo âm dương, lấy nhu mà giúp cương, không có tương hại vậy. Tân là Thái Ấm, gặp Bính mà hợp và quy tụ, vốn là chính nghĩa.

Thientam
11-04-14, 23:50
Nhâm liên kỷ hề, viễn phiếm hồng ba.

Nhâm là thủy ở sông biển lớn, Kỷ là thổ đồng bằng. Nhâm thủy đến ở bên trên âm thổ, thì thành sóng to ngập lụt, khôg có lấy dừng, cần được dương thổ lấy dừng lại, thì lưu thông toại nguyện vậy.

Quý hỉ mậu hề, rừng lan phiêu miểu.

Quý cùng Mậu hợp, được kỳ chính nghĩa. Mà Quý là âm thủy, được hợp dương thổ, vốn là không có sóng to trôi nổi, cho nên nói Quý hỉ Mậu hề, ….

Dương ngộ âm nhi hóa hợp, âm đắc dương nhi thành khí.

Chỗ này nói Tòng Hóa, ý nghĩa là âm dương tương đắc vậy.

Hựu hữu giáp kỷ tương phùng, hóa thổ vi phúc, tắc phu phụ hà xương.

Giáp Kỷ lấy thành hợp hĩ, Giáp thuộc mộc, Kỷ thuộc thổ, Giáp lấy tòng Kỷ, lấy hóa thổ thành Tài. Giống như người lấy bản thân để tòng theo thê tài, có thể lấy thành phúc, được đủ đạo vợ chồng, có thể được Thân Tý Thìn.

Thientam
11-04-14, 23:50
Ất canh hòa hợp, thành kim đắc vị, tắc đông tây loại hóa.

Ất Canh hóa kim, cần ở Tị Dậu Sửu trong tháng 11 vậy.

Bính tân hóa thủy, trí hiển tắc tất chủ văn chương.

Bính cùng Tân hợp, nghĩa là tòng kim, kim thì sinh thủy, Tân cũg hóa thành thủy hĩ. Gọi là kim thủy tương sinh, trở lại bản chất hĩ.

Đinh nhâm vi mộc, thông minh tắc cận thiện đa nhân.

Nhâm thủy sinh mộc, thì hóa Tòng Nhi, phương pháp lấy khoảng tháng 1, tháng 2 có thể hóa. Mộc là chủ Nhân, cho nên người tốt.

Mậu quý đắc hóa, lộc vị sùng cao. Nhị giả tương phùng, tam tài khả lập.

Mậu thổ dựa vào hỏa sinh, tòng hỏa mà hóa, trở về bản chất, chỗ này đều là sinh sinh không dứt, nghĩa là biến hóa vô cùng.

Thientam
11-04-14, 23:51
Âm ngộ dương nhi hóa quan, đáo vượng phương quan sùng vị hiển.

Một âm một dương mà phối thành, là có hóa đạo, hóa được chân, thì là luận quý.

Dương đắc âm nhi thành phối, lâm hữu khí tài vượng thê hiền.

Dương, là nam. Âm là nữ vậy. Cho nên lấy âm dương tương hợp, là thành vợ chồng, nếu có sinh khí, chủ tài vượng mà vợ hiền, như gặp hưu tù tử tuyệt, chủ tán tài mà làm tổn thương vợ.

Thị dĩ bình sinh bất túc, giáp vi nhâm thương. Xử thế đa truân, ất nhân quý khắc.

Giáp mộc dựa vào Nhâm để sinh, mà Nhâm là dương thủy, cho nên có tính trôi nổi, Giáp mộc không có căn, sợ có tính phiêu lưu mà tổn thất, cho nên nói Bính sinh bất túc (cả đời không đủ). Ất là âm mộc, Quý là âm thủy, nhưng mà lấy để sinh cho gốc rễ, sao thành rừng lớn tươi tốt, cho nên nói là Xử thế đa truân. ( đối xử gặp nhiều khó khăn).

Dương tự bại hề, bính vi giáp thương. Âm bất minh hề, đinh duyến ất chế.

Bính hỏa dựa vào Giáp mộc sinh để thành ánh sáng chói lòa. Ở trên Giáp chịu áp chế bởi Canh, thì không thể sinh mộc cho hỏa. Mà Đinh dựa vào Ất sinh, bởi vì Ất thụ chế không thể trợ giúp lực cho Đinh vậy.

Thượng chi lăng hạ hề, mậu tao bính thực, ti khủng khi tôn hề, kỷ thương đinh viêm.

Chỗ này là nói lý lẽ về Đảo Thực vậy.

Dương canh liệu lệ hề, mậu thổ hối chi. Tân lộc ti bạc hề, kỷ âm phá chi.

Chỗ này nói Canh chất Tân, bởi vì Mậu Kỷ nhiều mà che đậy cái đẹp, không thể hiển đạt vậy.

Thientam
11-04-14, 23:52
Thất chi vu trí, giai nhân canh họa vu nhâm. Tang chi vu quyền. Mỗi ngộ tân thương vu quý.

Chỗ này nói Nhâm Quý thủy, lại là do chỗ Canh Tân quấy nhiễu. Giống như co người mà có nhiều mẹ, không phải chỉ có một con, trái lại thành hại. Cho nên có trí có quyền, đều đánh mất không còn nữa vậy, không được chân chính.

Giáp ất thường hân mậu kỷ, nãi vi thân nội chi tài, bính đinh vưu hỉ canh tân, thực thị sinh thành chi phúc.

Giáp Ất lấy Mậu Kỷ là Tài. Bính Đinh lấy Canh Tân là Tài, là sinh thành chính lý, cho nên an hưởng.

Câu trần đắc vị, mậu quy nhâm hương. Âm thổ phùng tài, kỷ gia quý vị.

Câu Trần, là Mậu Kỷ thổ vậy, lấy Thìn Tuất Sửu Mùi mà đắc địa. Âm thổ, là Kỷ thổ. Quý, là âm thủy. Kỷ lấy Quý là Tài vậy.

Canh tân dần mão tự nhiên nhi phúc thọ.

Dần Mão là đất mộc vượng, Canh Tân lấy Giáp Ất mộc là Tài, được lấy phúc thọ là đương nhiên vậy.
Nhâm quý bính đinh hỉ nhạc dĩ vô ngu.

Nhâm Quý thủy lấy Bính Đinh hỏa là Tài, cũng đương nhiên được dùng, sao nói không có lo sợ ngu si ?

Đương tri ngã hại bỉ cát, bỉ hại ngã hung. Dĩ trực nhi ngôn chi, tiêu tường vi khả hĩ.

Nên biết ta hại người tốt, người hại lại thì ta gặp hung. Lấy chính nghĩa mà nói, thì có thể tiêu tan vậy.

Duytan168009
20-08-17, 21:17
cảm ơn bác không biết hết chưa mà không thấy bác post tiếp