PDA

View Full Version : Khán Mệnh khẩu quyết



Hùng804
03-07-16, 13:20
Khán Mệnh khẩu quyết

T/g: Thương Nhiên Đông Trạch, La Vân Phi Long.
Thương sơn mệnh lý _ Manh phái truyền thừa

Nguyên tác: 《 Tam Mệnh thông hội 》 quyển 10.

Người dịch: Hùng804

《 Khán Mệnh khẩu quyết 》

Thông thường xem mệnh, trước tiên xem chi tháng có hay không có Tài Quan, mới xem những cái khác. Nguyệt lệnh là mệnh vậy, chi thần thủ tháng, thiên can thủ năm, thiên can thủ ngày, thiên can thủ lưu niên Thái tuế, chi thần thủ đại vận. Năm là gốc, ngày là chủ. Như tháng có Chính Quan cùng Thiên Quan, mà giờ lại nhập cách khác, chỉ thủ lấy ở trong tháng, không có dùng cách khác. Như nguyệt lệnh hoàn toàn không có để dụng, mới xem cách khác.
《 Cổ ca 》nói:
"Tam cung mang cách hỗn khó tường,
Không hiểu dựa ai là quý phương.
Mặc cho tam cung đều mang cách,
Trừ phi chỉ được dụng đề cương" .
Nguyệt lệnh dụng địa chi, giả như Quan tinh, can chi trên dưới cần phải thấu ra là đẹp, nếu can thấu xuất, mà ở trong chi không thấu, chủ thông tú. Kỵ năm và giờ 【 Thương chú: "Đến" thêm】 xung, chi tháng, chi ngày tự xung thì không ngại. Đại vận cùng Tuế quân đến xung chi tháng là họa.
+ Phàm Chính Quan có một vị, là quân tử, quý nhân, đôn hậu thuần túy, cương trực liêm chính công minh, năm giờ có Ấn càng đẹp, nhiều thì lại chủ thành bại; tứ vị thuần Quan, làm quan hư danh.
+ Phàm Thất Sát có một vị, thông minh lanh lợi; hai vị, ba vị, trước thanh sau trọc. Tứ trụ thuần Sát có chế, quý; không chế, bần.
+ Phàm Tài tinh có một vị, cần phải đắc thời, thành nhà phú quý, là người rất nóng tính; có hai vị, tính khí giảm nửa; có ba vị bốn vị, háo khí thân suy. Nếu thân quá vượng, thì có thể vững vàng; nhược thì lao khổ gian truân.
+ Phàm Ấn tinh, bất luận là một vị, hai vị, bốn vị đếu tốt; trong cách không nên thấy Tài phá Ấn.
Đại phàm hành vận tốt, nhật can làm tổn thương lưu niên Tuế quân, can đầu họa khinh; hành vận không tốt, nhật can tổn thương. 【Thương chú: Thêm "Lưu niên" 】 Tuế quân, can đầu họa nặng; nếu 【Thương chú: Thêm "Vận" 】đã phát qua thì chết. Thìn Tuất Sửu Mùi, đều có ba phần dư khí. Ví dụ như hành vận Ngọ đến Mùi có ba phần hỏa khí; hành Tý đến Sửu có ba phần thủy khí, không thể hoàn toàn lấy thổ luận. Phàm Dương Nhận cách, tuế vận rất sợ xung hợp. Can Thái tuế hợp can ngày giờ, gọi là Hối Khí sát; can chi ngày giờ cùng can chi lưu niên giống nhau, gọi là Chuyển Chỉ sát 【 Thương chú: Phản ngâm, phục ngâm 】. Như loại ngày Canh Thân thấy Thái tuế là Canh Thân hoặc là Canh Dần, nhẹ thì di dời đi xa, nặng thì phá hủy nhà cửa hoặc là phá tài. Phàm năm, tháng, ngày có cát thần, cần giờ dẫn quy về đất sinh vượng; có hung thần, cần giờ dẫn quy về đất chế phục. Nếu trụ giờ mang cát thần hoặc hung thần, cũng cần trụ năm, tháng, ngày cát là sinh, hung là khắc chế. Trụ tháng có dụng thần, được trợ giúp của ông bà tổ tông; trụ giờ có dụng thần, được sự giúp đỡ của con cháu, trái lại thì không.

Hùng804
03-07-16, 13:21
Phàm xem mệnh, lấy nhật can dụng làm Thiên nguyên, bởi vì can là lộc; chi ngày, chi tháng dụng làm Địa nguyên, bởi vì chi là mệnh. Ví dụ như ngày Nhâm Quý, tháng Kỷ Mùi, là can chi thấu ra Tài Quan vậy. Tài Quan luận vốn có vốn không, địa chi vốn có Tài Quan, thiên can không lộ ra là không hỏi; nếu địa chi không có Tài Quan, nhưng mà thiên can thấu ra, tuy hành vận tốt, cũng không làm được việc. Xem Lưu niên Tuế quân, chỉ dụng Thiên nguyên 【 Thương chú: Thần Sát lại trọng ở địa chi 】. Như hành vận dù trọng địa chi, cũng phải xem thiên can vận. Trong trụ nhân mệnh có thể có Quan tinh, có thể có Thiên Quan, có chế phục thái quá, mà can vận thấy Quan Sát, có thể phát; chi vận không có Tài, mà can vận là Tài, cũng có thể là phúc vận; chi không có Sát mà can vận là Sát, cũng có thể thành họa. Nhân mệnh đã lấy tháng sinh là gốc vận, rất sợ đại vận cùng Tuế quân đến xung là thành tai họa. ấy lúc sinh Quan tinh 【 Thương chú: Quan, tất nhiên là dụng thần, thấy hay không thấy đều là quý khí, thấy thì sợ xung, không thấy thì sợ ám xung là xung phá, xung nhiều trái lại là xung khởi vậy 】 là Lộc nguyên, rất sợ xung phá. Như người sinh ngày Đinh, lấy Nhâm là Quan, mà sinh tháng Hợi, trong Hợi có Nhâm, là lộc của Đinh, nếu năm và giờ có chữ Tị thì xung phá Lộc nguyên 【 Thương chú: Chết yểu, chết trẻ, chết hung, chết đột ngột, hình quan, chết không yên lành; chỗ nói nguyệt lệnh Quan tinh không thể xung, xung phá Quan tinh hết phú quý, dẫu cho trước mắt đầy vinh hoa, không cẩn thận là rơi vào cạm bẩy vậy 】. Lấy lúc sinh Tài tinh là Mã nguyên, rất sợ cướp đoạt, như người sinh ngày Canh, lấy Giáp Ất mộc là Tài mà sinh tháng Dần Mão, trong Dần có Giáp mộc là Thiên Tài, trong Mão có Ất mộc là Chính Tài, nếu ở trụ năm giờ có chữ Tân, lại có họa tranh đoạt. Tuế vận cũng đồng luận như vậy. Phàm ở trên can năm có Quan tinh, phúc khí rất dày; có Thất Sát, cuối cùng không thể loại trừ, Quan tinh là Lộc, Tài tinh là Mã, hành Quan tinh thì phát Quan, hành Tài tinh là phát tài, cả hai không thể thiếu một, đều có chỗ sử dụng. Trên năm tháng có Tài Quan, tất sinh trong nhà phú quý, có căn cơ tổ phụ, thiếu niên liền hành vận Quan lộc, đa số là lúc trẻ đã nhậm chức, sớm phát công danh; năm tháng không có Tài Quan, ngày giờ có, thì bản thân tự thành lập. Nhân mệnh lấy Tài Quan làm gốc, trong trụ nếu được một, cũng có thể phát phúc; nếu tứ trụ vốn không có Quan tinh, không nhập cách khác, can chi năm, tháng, ngày, giờ có nhiều Tài, lại hành vận Tài vượng, cũng có thể thành tựu công danh, vì Tài vượng tự có thể sinh Quan, cần thân vượng mới được. Năm tháng không có Tài Quan, lúc trẻ lại hành vận không tốt, đa số là xuất thân thấp hèn, phá tổ hại cha. Không có phúc. Phàm mệnh, có Quan Sát hỗn tạp, Thương quan hợp thần nặng, đàn ông nếu phạm, thì đam mê tửu sắc; đàn bà nếu gặp, khó mà lấy chồng.

Hùng804
03-07-16, 13:22
Phàm xem mệnh, chuyên lấy nhật can làm chủ, thủ vật chỗ dụng ở đề cương làm mệnh. Thí dụ như nguyệt lệnh lấy kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là dụng, nhưng có một mấu chốt, là lần lượt thủ lấy tiết khí, khinh trọng, thiển thâm, thành cục phá xung, lại thêm nghiên cứu kĩ càng, viết Quan, viết Ấn, viết Tài, viết Sát, viết Thực thần, viết Thương quan, lấy thông tin từ 6 phép này mà dùng. Phùng Quan xem Tài, phùng Sát xem Ấn, phùng Ấn xem Quan, lấy bốn vị này không thiên vị, sinh khắc chế hóa là trên hết; gặp phá hại hưu tù là thấp hèn; vận có sinh có khử là phúc, có trợ có cướp là họa. Cũng có sử dụng chi năm, ngày, giờ hợp thành cách cục, nhưng đều lấy nguyệt lệnh là dụng. 【 Thương chú: Bất luận Quan tinh rơi vào ở đâu, đều phải dẫn đến hai cung tháng giờ, xem được mất mà định quý tiện, dẫu hai vị trí tháng và giờ lập thành cách khác, cũng phải nhìn Quan tinh thuận hay nghịch, mà luận cách cục thành bại, cách cục chân mà Quan tinh thuận, là Quan đến giúp cách, cách cục nếu như thuận Quan tinh, cũng là Quan đến phụ giúp cách, nếu cách cục ở tháng mà giờ dẫn Quan tinh vượng thì cách cục chỗ dụng là Quan, nếu cách cục chân mà nếu như nghịch Quan tinh, tuy thành nhân thành sự cuối cùng cũng là chỗ hại Quan gia, nếu cách cục hư mà vô lực, nó phản nghịch chỗ có lợi cho quan, thì trời cũng sai khiến sớm không đợi thành người, Quan là cách cục của vũ trụ, dụng thần của trời đất, tất nhiên là pháp luật, phàm còn người có cách, cũng không thể làm trái Quan tinh, chính chỗ gọi là Bối Lộc, Quan lại không thể phá Tài, không có Quan cũng không thể phá Tài tinh, huống chi hai cách Tài Quan không nói cũng tự hiểu rõ vậy】, nếu như tháng dụng kim chỉ dụng kim, dụng hỏa chỉ dụng hỏa, bên trong 18 cách thủ lấy 6 cách làm trọng, dụng tương sinh định cách hợp cục, lại dụng bên dưới năm, ngày, giờ để suy khinh trọng thiển thâm. Như phùng Quan dụng Ấn không sợ Sát, là Sát Ấn cục, thân Ấn cục, vẫn thủ lấy ở trên cục; Sát gặp Ấn, nhưng ở mệnh có Quan Sát, hành đất Quan Sát, cũng lấy quý luận. Nguyệt lệnh thông Quan tinh, trong trụ gặp Tài, Tài vượng sinh Quan, là phú quý. Trong trụ thấy Tài, nếu nhập vận Tài vượng, là phát phúc. Nhưng nếu thấy có một Sát, thì lấy Sát làm trọng, không thể dụng Tài【 Thương chú: Bất luận là cách cục nào, nếu thấy chữ Sát xuất hiện, thì phải xem Sát thuận hay nghịch, nếu Tài cách gặp Sát, biết Sát có thể hóa Tài, còn Tài có thể sinh Sát, cho nên mà không thể chỉ lấy Tài tinh cách luận, tức là không chỉ có thể lấy phú luận, hoặc quý hoặc tiện cần xem Sát khinh hay trọng, nếu Sát thiển mà Tài là dụng, nhật can vượng chính là nhật can được Tài Quan, nếu Sát tụ trình hung, nhật can nhược, chính là Quỷ khiến hao Tài tinh để làm tổn thương thân, bản thân là bần tiện không nghi ngờ, không thể không biết vậy 】; nếu hành vận Tài vượng, chính là Tài sinh Sát đảng, lấy bần tiện mà nói. Phàm cách lấy Sát làm trọng.

Hùng804
03-07-16, 13:22
Phàm mệnh, trước tiên xem can thần có hay không có khắc chế, chi thần có hay không có hình xung, nạp âm can chi có hay không có chiến đấu hàng phục. Như Giáp lấy Dần là lộc, mà ở trên Dần có can nào? Giáp lấy Tân là Quan, mà Tân được chi nào? Can không thể xâm phạm chi vì can là thiên là cao, chi không phạm can, vì chi là địa là thấp; ngũ hành không cướp nhau, thì là người thuận; tứ mạnh không hại nhau, tthì là Mã có thể chạy. Nếu can xâm phạm chi, ngũ hành cướp nhau, lạ nên phân biệt chủ bản, có khí hay vô khí, hữu dụng hay vô dụng, có cứu hay không có cứu, thành cách không thành cách, vì can chi đan xen phức tạp, ngũ hành biến hóa, tạo hóa ở trong đó vậy. Lý Thuần Phong nói: Ngũ hành sinh vượng, xem phúc khí đến; ngũ hành tử tuyệt, có cứu trợ ở cát thần. Nếu ngũ hành đắc địa, nạp âm tương sinh, cát thần không có trợ, cũng vinh; ngũ hành vô khí, nạp âm làm trở ngại, dẫu có cát thần, vô dụng.
Phàm mệnh, thiên nguyên hỉ địa nguyên có lộc, như Giáp Kỷ hỉ tứ quý, Ất Canh hỉ Thân Dậu, Bính Tân hỉ Hợi Tý, Đinh Nhâm hỉ Dần Mão, Mậu Quý hỉ Tị Ngọ. Địa nguyên hỉ thiên nguyên có hợp, như Tý Sửu hỉ Mậu, Dần hỉ Kỷ, Mão Thìn hỉ Canh, Tị hỉ Tân Quý, Ngọ Mùi hỉ Giáp Nhâm, Thân hỉ Ất, Dậu Tuất hỉ Bính, Hợi hỉ Đinh. Thiên nguyên, địa nguyên đều có, phúc khí tối cao cả đời, đều không có danh lợi, bất thành. Phá thiên nguyên, trước 39 tuổi danh lợi khó phát; phá địa nguyên, 40 tuổi phúc kém hơn trước. Nếu thiên nguyên tú khí tọa lộc, ví dụ như Quý được Tý, Giáp được Dần, không quý cũng phú. Địa nguyên kỵ thiên nguyên tương khắc, như Tý Sửu sợ Kỷ, Dần sợ Canh, Mão Thìn sợ Tân, Tị sợ Giáp Nhâm, Ngọ Mùi sợ Ất Quý, Thân sợ Bính, Dậu Tuất sợ Đinh, Hợi sợ Mậu, lại xem hỉ kỵ như thế nào, không thể cố chấp mà định.
Phàm mệnh, thủ can chi cùng nạp âm đồng loại, như Nhâm Tý, Nhâm Ngọ là chân mộc, Kỷ Dậu, Kỷ Mão là chân thổ, Bính Tý, Bính Ngọ là chân thủy, Mậu Tý, Mậu Ngọ là chân hỏa, Ất Sửu, Ất Mùi, Canh Thìn, Canh Tuất là chân kim, như ngày Ất Dậu, giờ Canh Thìn là tinh kim, ngày Đinh Tị, giờ Bính Ngọ là tinh hỏa, ngày Quý Hợi, giờ Nhâm Tý là tinh thủy, ngày Kỷ Sửu, giờ Mậu Thìn là tinh thổ, ngày Giáp Dần giờ Đinh Mão là tinh mộc, gặp như ở trên, đều chủ phú quý. Nếu mệnh hỏa ngày Bính giờ Tân, ngày Tân giờ Bính, mệnh mộc ngày Giáp giờ Kỷ, ngày Kỷ giờ Giáp, mệnh thổ ngày Mậu giờ Quý, ngày Quý giờ Mậu, mệnh thủy ngày Nhâm giờ Đinh, ngày Đinh giờ Nhâm, mệnh kim ngày Canh giờ Ất, ngày Ất giờ Canh, tuy là ngũ hành chân quý, phạm nặng là giảm phúc.
Phàm mệnh thủ chân khí ngũ hành trao đổi lẫn nhau. Như Tân Hợi, mệnh kim được Đinh Tị thổ, qua lại có Đinh Nhâm hợp là chân mộc, qua lại có Bính Tân hợp là chân thủy; người Đinh Tị mệnh thổ được Quý Hợi thủy, qua lại có Mậu Quý hợp là chân hỏa, qua lại có Đinh Nhâm hợp là chân mộc; như Mậu Tuất, Quý Hợi, Đinh Tị, Tân Hợi, chân khí hoàn toàn giao hỗ chính là mệnh Tể tướng vậy. Mậu Ngọ hỏa được Nhâm Tý mộc, ở trong có Đinh Nhâm là chân mộc, Mậu Quý là chân hỏa; Bính Thân hỏa được Ất Dậu thủy, ở trong có Bính Tân là chân thủy, Ất Canh là chân kim; Canh Dần mộc được Kỷ Mão thổ, ở trong có Giáp Kỷ là chân thổ, Ất Canh là chân kim, như Canh Dần, Kỷ Mão, Canh Dần, Kỷ Mão hoàn toàn giao hỗ nhau qua lại, chính là mệnh lưỡng phủ vậy. 【 Thương chú: Phàm xem mệnh, trước tiên xem nạp âm thành bại, chính là mệnh vậy; lại xem thiên can là Lộc, chính là quý khí; cuối cùng xem địa chi được hay mất, chính là Mã, chủ tài phú. Chỗ này xưng gọi là Tam Mệnh. 】

Hùng804
03-07-16, 13:23
Phàm xem mệnh trước tiên luận hóa khí. Khảo sát《 Ngũ Vận thiên 》, lấy Giáp Bính Mậu Canh Nhâm hợp ngũ can âm gọi là thái quá, Ất Đinh Kỷ Tân Quý hợp ngũ can dương gọi là bất cập. Giữa thái quá và bất cập, có quyền tồn tại ở đây. Khảo sát《 Thiên Nguyên biến hóa thư 》, lại phân ra ngày đêm. Như sinh ngày Lục Giáp, mộc sinh ban đêm hóa thổ, cho nên người Lục Mậu được Giáp, thủ sinh ban ngày là Quỷ, sinh ban đêm dụng là Quan; người sinh ngày Lục Ất dụng kim, sinh ban đêm dụng mộc, cho nên người Lục Kỷ thấy, sinh ban ngày là Quan, sinh ban đêm là Quỷ. Chỉ có Lục Kỷ, Lục Canh không thay đổi. Là lấy ngũ can dương sinh ban ngày làm bản thể, sinh ban đêm lấy hóa xem; ngũ can âm sinh ban đêm làm bản thể, sinh ban ngày lấy hóa xem. 6 kiểu mệnh dương, nam phạm lộc quỷ, đảo thực, phải lấy sinh ban đêm, phản hung lấy cát, gọi Quỷ là Quan, Đảo Thực là hỉ thần, lại lấy sinh ban ngày là thuận; 6 kiểu mệnh âm, nam phạm Lộc Quỷ, Đảo Thực, phải lấy sinh ban ngày, phản hung làm cát. Còn lại cũng giống như trước, lại lấy sinh ban đêm là thuận. Nữ nhân ngược với chỗ này. Chỗ này là khí tượng ngày đêm, là âm dương phối hợp, thể dụng cương nhu vậy.
Phàm mệnh ngũ hành dưới sinh trên gọi là Trợ khí, chủ phúc cả đời tự hưởng thụ; trên sinh dưới gọi là Cướp khí, chủ phúc cả đời cung cấp cho người. Trên khắc dưới gọi là Thuận, chủ có uy thế mà chế người; dưới khắc trên gọi là Nghịch, chủ đa số là bất thuận mà khó phát; tử tuyệt càng khẩn, sinh vượng chậm hơn, nạp âm tứ trụ có nhiều Quỷ, chủ bản đắc khí, danh viết là Quan tinh thừa vượng; nạp âm nhiều Tài, chủ bản vô khí, danh viết là Tài đa hại thân.
Phàm mệnh ngũ hành, quý âm dương ngang nhau. Như loại 2 kim thấy 2 mộc, hoặc 2 hỏa 2 thổ 2 thủy, từng người thành tượng 【 Thương chú: 】 mới cát; nếu thái quá, bất cập, như các loại 3 thủy 1 mộc, 1 thủy 3 mộc, đều không phải là phúc. Giả như mệnh kim, có 3 kim 1 mộc, kim khắc mộc là Tài, 3 kim tranh 1 mộc, là phân chia phúc, đa số chủ tài vật không thành. Nếu 1 kim 3 hỏa, hỏa nhiều kim thiếu, hành hạ thái quá, chủ cả đời không nhàn. Lại như người Giáp, phùng 【 Thương chú: Thai bản đồ thư tập thành, khuyết 】3 Nhâm 3 Kỷ, gọi là Tam thôn tam ngẫu, chủ không cát. Nếu gặp 2 Kỷ, 2 Canh, gọi là Trọng ngẫu trọng thương, là 3 thì càng hung, không bần cũng yểu. Còn lại cứ loại suy.

Hùng804
03-07-16, 13:24
Phàm xem mệnh: Thương quan kiến Quan mà chết sớm, Thất Sát kiến Tài mà yểu vong. Tài phùng Kiếp tất chết, trọng Tài phá Ấn là hung. Thủy thịnh mộc lưu, cuối cùng làm ma ở bên ngoài; Thực thần phùng Kiêu, chết trong lao ngục. Kiếp trọng thấy Tài là chết, Sát vượng quải căn thì ngừng. Vong thần, Thất Sát xung hình, không những lưu đay cũng chết dưới dây thừng; Thương quan, Dương Nhận trùng hợp, tuy toàn thây mà chết đổ máu. Tài tinh kiến Nhận, Tài tán người vong. Sinh vượng tử ở khố mộ, khố mộ tuyệt ở sinh vượng. 【 Thương chú: Cắt mất chữ "Vãn"】có cát vận, không vào hành vận hung, chết kết thúc lúc nào? Có hung vận, chưa đến hành cát vận, phát phúc luận thế nào? 【 Thương chú: Theo nghỉa văn từ trên xuống dưới, đoạn này chủ yếu là nói: "Hiện tại đến vận xấu, tương lai đến vận tốt, nhưng mà vận tốt vẫn chưa đến, cũng không thể nói nó phát phúc; hiện tại đến vận tốt, tương lai đến vận xấu, nhưng mà vận xấu còn chưa đến, cũng không thể nói nó gặp tai ương." Trái lại vẫn có: " Vận tốt vừa thoát mà vận xấu ở tương lai, phải sớm cảnh giác thẩm tra chỗ vận xấu mang đến; vận xấu mà tương lai vận tốt vừa thoát khỏi, phải sớm thẩm tra dự báo trước vận tốt mang đến." Chỗ nói là chim Điểu kêu đau buồn báo hiệu cái chết, nói người sẽ chết cũng quen thuộc. Ở bên ngoài mà muốn trở về quê hương, bức thiết trong lòng; trước khi kinh sợ mà xác thịt người qua đời nhảy lên, tâm thần bất an. Đều sẽ có dấu hiệu thấy rõ ràng vậy. 】 Đang nghiên cứu nguyên do tiến khí thoái khí, càng xét kĩ nghĩa đã phát hay chưa phát, tương lai là tốc tiến, thành công tất là quy tiên. Tuế vận cả đời đều hung, thếu niên chết sớm; cuối đời mệnh tinh đắc địa, lão thọ càng cao. Già sợ sinh vượng, trẻ sợ tử tuyệt; Dương Nhận phùng sinh đa số là ác tử, có căn Sát vượng định chết hung. Xuân vượng nhiều hỏa, thích hợp khố tây bắc là ngày về; hạ suy kim vượng, lợi đông nam đất quỷ thọ địa. Tứ Nhận tinh trọng, chết ở dưới Chính Tài; một Quan quý thiển, chết ở trong đất Dương Nhận. Tứ trụ đều tổn thương người tự chết, Kim thần nhập đất thủy là họa. Dương Nhận Đảo qua, làm quỷ không đầu; Sát tinh điệp Nhận, đường bán thân. Chế phục trung hòa, Sát cực hoàn toàn là khí tử; sinh phù thái quá, Ấn càng vượng mà thân chết. Thương quan nhập mộ là chết, rất cần xem lúc cục về già. Dương sinh mà âm tử, âm tử mà dương sinh. Sát phùng tam hợp thái quá, tất bên trong ngũ hành thiên lệch. Nên tử tế suy xét cho kĩ càng.
Phàm xem mệnh ngũ hành thái quá, bất cập, là nguyên do không có phúc, trung gian cũng khác nhau rất bé. Như thủy thổ không ngại tử tuyệt, lấy giữa trời đất đều có đầy thủy thổ, không phân ra bốn mùa, sao có lý tử tuyệt? Nhưng biện luận khinh trọng, như chỉ có một chút thủy chứa ở trong nhiều thổ thì khô cạn, một chút thổ chứa bên trong nhiều thủy thì thổ bị tan rã, đang luận nhiều ít, phân ra khinh trọng vậy. Kim không có thổ thì không sinh, mộc không có thủy thì không sinh trưởng, cho nên kim mộc muốn kỳ sinh vượng, sợ thấy tử tuyệt, như kim tử thì chìm, mộc tử thì thành tro, cùng thủy thổ là khác nhau. Hỏa tàng ở mộc, ngũ ở thổ, cho nên không muốn vượng, vượng thì đốt; cũng không muốn tử, tử thì diệt, duy chỉ được bình yên là tốt. Ngũ hành đều dựa vào thủy thổ, phàm mệnh mộc kim hỏa, mới là trọng yếu vậy.

Hùng804
03-07-16, 13:24
Phàm thủ tượng ngũ hành, bản tượng thủ bản tượng, như Giáp Ất Bính Đinh là tượng mộc hỏa. Hóa tượng thủ hóa tượng, như Mậu Quý Đinh Nhâm, cũng là loại tượng mộc hỏa. Tượng kim thủy không thể thấy thổ, gọi là thổ tạp thủy hỗn, kim tự không thanh, tuế vận gặp thổ cũng trì trệ, duy chỉ có kim thủy không tạp, sinh ở mùa thu là rất quý. Như mệnh Minh Thần Tông: Quý Hợi, Tân Dậu, Quý Hợi, Tân Dậu, can chi đều là kim thủy không tạp, thủy sinh tháng kim, kim trợ giúp thủy thanh, thành tượng 2 thủy 2 kim, chỗ gọi là kim bạch thủy thanh, không có hỗn tạp, lại hợp hai can không tạp, cho nên địa vị là Thiên Tử. Như Quý Dậu, Quý Hợi, Canh Tý, Tân Tị, kim sinh tháng thủy, kim lại bị tiết khí, chìm ở trong Hợi Tý, cho nên khó tránh ở thủy ách. Tượng kim thổ không thể thấy mộc, không có mộc khắc thổ, thì thổ không thể sinh kim, là không thành tượng vậy. Tích thổ thành kim, thổ đa kim thiếu, là đầy phúc dày, kim trọng thổ khinh, phúc xuất khó khăn. Tượng kim hỏa không thể thấy thủy, thấy thủy thì hỏa tắt, kim chìm không thể thành khí. Kim trọng hỏa khinh, phát chậm lại thọ; kim khinh hỏa trọng, phát sớm thoái nhanh, hoặc chủ tổn thọ. Tượng kim mộc không nên thấy hỏa sinh, mộc sợ kim thấy hỏa thành tú, tử mộc được kim mới thành tạo hóa; kim trọng mộc khinh, khiến người bệnh xương cốt; mộc trọng kim khinh, chủ tổn tiền tài hoặc bệnh phổi công nhau, duy chỉ có kim mộc thích hợp là cát. Tượng thủy mộc tú nhi thanh cao, không thể thấy Mão Tị, gặp thủy là tử tuyệt; tượng mộc hỏa tú mà phong phú, không thể thấy kim, là mộc bị khắc, lưu niên nếu gặp, đều là tai họa. Tượng thủy hỏa thành ký tế là rất tốt, hoặc là vị tế cũng được, không thể thấy thổ, hỏa đa tính táo, thủy đa mắt tật, hỏa sợ tử, thủy sợ mộc, nhập 【 Thương chú: Thêm theo ý bài văn 】 Dậu hỏa tử thủy rửa, chủ gian nan mà chết. Tuế vận cũng vậy. Tượng này kỵ ngày giờ. Tượng thủy thổ không thể thấy hỏa, thổ trọng thủy khinh, tú mà không thực; thủy trọng thổ khinh, lại có khoa danh. Tượng hỏa thổ không thể thấy thủy, hỏa hư thổ tụ không thành vật, nếu cùng thủy lưu, chủ không có chảy. Như Mậu Tý, Mậu Ngọ, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi; Đinh Tị, Đinh Hợi, Bính Thìn, Bính Tuất, Bính Đinh cùng Mậu Kỷ kẹp nhau, chính là hỏa hư thổ tụ. Lý Cửu Vạn lấy Mậu Tý, Kỷ Sửu, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Bính Thìn, Đinh Tị, Bính Tuất, Đinh Hợi, đều là tượng hỏa thổ hỗn tạp, không thể lấy liên châu là quý. Thời thượng phùng Nhâm Quý thủy, là thổ trệ hỏa diệt, cả đời trục trặc bạc bẽo. Lại nói: Hỏa hỏa kiến thổ là ám, thổ thổ kiến hỏa là hư, thổ khinh hỏa trọng là táo, là ngày Kỷ Mão thấy giờ Bính Dần vẫy; hỏa khinh thổ trọng bất minh, là ngày Đinh Dậu thấy giờ Mậu Thân vậy. Như mệnh Hàn Học sĩ: Mậu Tuất, Đinh Tị, Mậu Tuất, Đinh Tị, thành tượng hỏa thổ, lại là Phượng Hoàng can chi cách, cho nên quý. 《 Kinh 》 nói: Kim thủy nhiều thanh, kim thổ nhiều dày, là lấy tương sinh; kim hỏa nhiều cương, kim mộc nhiều chính, là lấy tương khắc. Hỏa thổ nhiều là độc hại; hỏa mộc nhiều là thông; hỏa thủy nhiều là mê muội; hỏa kim nhiều là mãnh liệt. Mộc hỏa là văn thải, mộc thủy là thanh, mộc kim là phương trực, mộc thổ là độc hại, thủy hỏa là trí tuệ, thủy mộc là nhân trí, thủy kim là tú lệ, thủy thổ là trọng trọc, đều lấy tính tình ngũ hành mà suy.

Hùng804
03-07-16, 13:25
Phàm mệnh sợ đồng loại tương phá, như Kỷ Mùi thấy Giáp Thìn, Giáp Thìn thấy Kỷ Sửu, Kỷ Sửu thấy Giáp Tuất, Giáp Tuất thấy Kỷ Mùi, phàm ở đất tứ xung, nạp âm cùng loại, đếm nghịch lần lượt hai vị, Dần Thân Tị Hợi Tý Ngọ Mão Dậu, cũng thủ lấy chỗ này, chủ cả đời không có đủ, phần đa là không nên thân. 《 Đạo Kinh 》 nói: Tỉnh Lan hỗ phá, có bác sỹ mà không có thuốc, gặp mấy thứ Không vong, tuế vận cũng kỵ. 【 Thương chú: Phá, tứ mạnh tứ trọng tứ quý đều lấy hướng trước là phá hướng sau là thoái, ví dụ như Mão thấy Ngọ là Phá thần, Ngọ thấy Mão là Thoái thần, duy chỉ có tháng có thể phá năm, giờ có thể phá ngày, còn năm có thể thoái tháng, ngày có hể thoái giờ, vận có thể làm thoái mệnh, mệnh không thể làm thoái vận, năm có thể làm bại vận, vận không thể làm bại năm, động có thể phá tĩnh, tĩnh không thể phá động, tĩnh có thể làm bại động, động không thể làm bại tĩnh. Đã có như trong binh pháp, lấy phép đợi địch mệt mỏi rồi đánh, lấy tĩnh chế động là tốt, làm hao thể lực, làm phí tinh thần là bại; trái lại lấy tiến là thủ, lấy động chế tĩnh chính là phá, thời Thục Hán, Chư Cát lấy phép không thành làm thoái quân địch, chỗ này chính là lấy tĩnh ở trong tĩnh, Chu Du dụng khổ nhục kế phá Tào, chính là lấy động ở trong động, được trở thành đạo lý ngũ hành, chính là chỗ người trần thế ít biết vậy. Thoái còn có danh là bại, cho nên tục ngữ một chữ phá bại là xuất phát từ chỗ này, không thể không biết. 】
Phàm mệnh chủ bản gặp tuế vận, không thể gặp tử địa. Như Bính Dần hỏa sợ Ất Mão thủy, Tân Tị kim sợ Đinh Dậu hỏa, Giáp Thân thủy sợ Kỷ Mão thổ, Mậu Thân thổ sợ Nhâm Ngọ mộc, Kỷ Hợi mộc sợ Giáp Tý kim, đồng nghĩa cùng cả đời sợ chết, chủ bản sinh tử, cùng đường thì không kỵ.
Phàm mệnh rất sợ Quỷ khắc, mà Tổ Quỷ là độc nhất. Như loại Bính Tý thủy thấy Canh Tý thổ, Đinh Sửu thủy thấy Tân Sửu thổ. Trong tổ thì đúng vị trí tương khắc, cho nên là tối độc. Có trong mộ Quỷ, như loại Nhâm Thìn thủy thấy Bính Thìn thổ, Bính Thìn thổ thấy Mậu Thìn mộc; có Cách Bích Quỷ ( bên cạnh Quỷ), như loại Canh Tý thổ thấy Quý Sửu mộc; có Không vong Quỷ, như loại Giáp Tuất thấy Giáp Thân Ất Dậu, đều là chủ hại. Ở trong Mộ quỷ nhẹ hơn Tổ Quỷ, Bích Quỷ nhẹ hơn Mộ Quỷ, Không Quỷ nhẹ hơn Bích Quỷ, như loại người mệnh mộc gặp tháng hỏa, ngày giờ là kim, có hỏa khắc kim, kim không tổn thương được mộc, là Ngự Quỷ vậy, là Quỷ không có hại. Như người mệnh thủy, tứ trụ có hỏa thổ, thổ khắc thủy, hỏa lại snh thổ, là Trợ Quỷ vậy, thì Quỷ càng hung. Can chi thông dụng đứng đầu là nạp âm, Ngự Quỷ thì lập thân ở gian nan, Trợ Quỷ thì cốt nhục phần đa sinh ở đánh phá. Nếu ở trong quỷ có quỷ, gọi là Quỷ gọi. Như loại người mệnh thổ sinh tháng mộc, ngày giờ là kim, lấy mộc khắc thổ, kim khắc mộc, căn cơ suy nhược là hung, chủ bản cường kiện thì không kỵ. Như một mệnh: Kỷ Mùi, Ất Hợi, Bính Dần, Tân Mão, phùng sinh tam hợp, lại gặp Dần Mão là Kỷ nhập đất Quan, Bính và Tân hợp, đại quý; làm sao Kỷ âm thổ phùng Ất mộc là thành Quỷ, lại gặp Tân là quỷ của Ất mộc, biến Quan Dần Mão thành Quỷ Kỷ thổ, ở vị trí Hợi Mão Mùi tam hợp, là thông Quỷ khắc, là phạm Quỷ gọi vậy, cho nên chủ ác tử. 《 Kinh 》 nói: Ngũ hành thiết kỵ dưới cướp trên, cả đời không đủ chuyện vương vấn với nhau. Lại nói: Quỷ gọi thì phân rõ cách cục hung, lại thêm hình sát họa không ít. Dẫu cho có tiền đồ phú quý, định biết ngày sau chán tuổi tác.

Hùng804
03-07-16, 13:26
Phàm xem mệnh thủ "Thai, Sinh, Vượng, Khố" là Tứ Quý, "Tử, Tuyệt, Bệnh, Bại" là Tứ Kỵ, còn lại 【 Thương chú: Từ Quan đái đến Suy 】là Tứ Bình. Lấy can Thái Tuế làm chủ, phối với ngũ hành, thủ vị trí Tứ Quý, Tứ Bình, Tứ Kỵ mà phân ra quý tiện, gặp Quý nhiều là quý, gặp Tiện nhiều là tiện. Ở trong Tứ Quý lại phân ra Tứ Vượng, Khố là trên hết, Thai là thứ. Nếu nhân mệnh tháng là Thai ngày giờ gặp tam Quý, can đều có phụ trợ hoặc là Chính Lộc, Chính Quan, Chính Ấn, là mệnh Tam Công (ba chức quan cao nhất thời phong kiến gồm: thái sư, thái phó, thái bảo) vậy. Mang Chính Thiên Ất: Như năm sinh Sửu Mùi, tháng ngày giờ gặp loại Giáp Mậu Canh; Mang Bản gia Lộc: Như sinh năm Dần, tháng ngày giờ gặp loại Giáp, gọi là Phúc hội hoặc là Thiên ất quý, hợp cả hai, cũng là mệnh Tam Công vậy. Trên mang Tam Quý, trên dưới hợp hoặc có một Quan, một Ấn cùng một Chính Thiên Ất, hoặc là một vị Bản Gia Lộc, ba hai vị quý nhân hợp, là mệnh Tể phụ vậy. Nếu ở trên ngày giờ gặp 2 Quý mà mang theo từng cái, cũng vậy. Nếu ở trên một vị gặp loại thần Tai Sát, Địa Sát, Vong Kiếp, Dương Nhận, kiêm chủ binh quyền, quý như Tư Mã tiết Việt. Nếu sinh tháng Thai, ở trên tháng cùng ngày giờ gặp Thai khố một quý, lại mang Chính Thiên Ất, trên dưới hợp hoặc có Thiên ất quý hợp Bản gia Lộc Chính Quan, Chính Ấn, Bản gia Lộc nếu có khí, hoặc ở trên Quý nhân cũng mang trước kiện can lộc, cũng là Tể phụ, mệnh hàng Cửu Khanh vậy. Nếu kỵ thần ở tháng, mà ngày gặp quý, hoặc kỵ thần ở ngày, mà giờ gặp quý thì không hại, là rõ ràng là chức người hầu, nếu tháng ngày đều ở quý, mà giờ gặp kỵ thần, chỗ này thường điều động tuyển người vậy. Tứ Kỵ là chủ bần tiện, cũng có khinh trọng Tử Bại, Tuyệt là nặng, Bệnh là nhẹ. Ngũ hành đều có ba vị, như Dần Ngọ Tuất hỏa người Bính Đinh, gặp là quý, cùng với Tứ Quý có ba vị là như nhau. Duy chỉ thiếu khuyết 【 Thương chú: Không khuyết 】 một vị Thai quý, phúc là chủ quý, cũng cùng Tứ Quý giống nhau. Dương lộc quý ở Lâm Quan, Âm lộc quý ở Đế Vượng, nếu Dương lộc gặp vượng, Âm lộc gặp Quan, dù là bản vị, phúc cũng giảm một nửa. Nếu vượng mà không có lộc, như Bính Dần gặp ngày giờ là Mậu Ngọ, càng khắc bản mệnh, lại mang hình sát, chủ dâm đãng ngu tiện. Có gặp một hai vị quý, lại thành hung sát, hình hại phá gặp sâu nặng, cũng chủ không có lộc. Thẩm Chi nói: Ngũ hành lấy sinh vượng là vua, lâm quan là tướng, nếu nạp âm là mộc, tháng ngày giờ gặp hai vị Dần Mão, kim gặp Thân Dậu, thủy gặp Hợi Tý, hỏa gặp Tị Ngọ, thổ gặp Thìn Tuất Sửu Mùi, đều lấy quý luận.

Hùng804
03-07-16, 13:27
Phàm xem mệnh phân ra ngũ hành sinh vượng tử tuyệt, như Giáp Thân, Bính Dần, Kỷ Hợi, Tân Tị, Mậu Thân, đều là ngũ hành tự trường sinh, không luận bốn mùa, lý xa rời được tự sinh, bẩm nhân mệnh, thông minh nhạy cảm; được quý, vào dần dần; được phú, cũng đem vinh về mà được chỗ để sinh vậy. Bính Tý, Mậu Ngọ, Tân Mão, Quý Dậu, Canh Tý, đều là ngũ hành tự vượng, không đợi bốn mùa, mà có thể tự dẫn đến vượng, phúc lực phấn phát, không cùng so sánh được. Quý Mùi, Nhâm Thìn, Bính Thìn, Giáp Tuất, Ất Sửu, đều là ngũ hành tự mộ, là lúc quy căn phục mệnh, phàm chỗ ở khố tất muốn vật tụ thì khố đầy, như Nhâm Thìn thủy, muốn được nhiều thủy đến giao về, sau đó thành vượng, lại có kim tương sinh qua lại, nên được trọng quyền; nhưng nếu thủy chế hỏa, hỏa chế kim, lại lâm Thiên trung 【 Thương chú: tức là Không vong 】, là vì cậy Ấn mà không phát, chủ bần tiện. Ất Mão, Đinh Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Tý, Kỷ Mão 【 Thương chú: Thổ sinh ở Thân 】, chỗ này ngũ hành tự tử vậy, Sinh thì nhọc, Tử thì dừng, lý là tất nhiên, không có đất tử, vật tự không có chỗ về, chỗ nói tự tử chỗ này là lý được chân quy. Phàm mệnh gặp chỗ này, đặc biệt thông minh hơn người, thông minh nhiều là ít phúc, lấy yên tĩnh làm thể, mà có đầy bất lợi; lấy đạm bạc làm chuyện, mà khởi lên bất lợi, duy chỉ có thể học đạo thành tiên, cửa chết mà siêu sinh vậy. Quý Tị, Ất Hợi, Canh Thân, Nhâm Dần, Đinh Tị, chỗ này ngũ hành tự tuyệt vậy, thiên đạo không thể đoạn tuyệt chỗ này, can chi vừa hội đã tuyệt thì tái sinh. Phàm gặp chỗ này, buồn vui bất định, như Quý Tị là thủy tuyệt, được Quý Dậu vượng kim phù trợ. Gọi là Tuyệt thủy phùng sinh, càng là cát khánh. Phàm ở trên mệnh mang tử tuyệt, sinh vượng, khố mộ, không thể liền lấy chỗ mang theo mà nói, phải xem nguyệt lệnh, để biện luận thanh hay trọc. Thanh, gọi là có chế phục, như thủy bệnh thấy thổ là trọc, nhưng không phải là thổ đê đều thì khôn thể ngăn lại, đã dừng lại thì dần dần có thanh vậy; Trọc, gọi là không có chế phục, như thủy nhiều không có thổ thì chảy tràn lan không có nơi quay về, mà thủy cực sinh mộc, cực thì biến, biến thì thông vậy. Bởi vì ngũ hành còn chú trọng ở biến mà không còn là bình thường, quý ẩn mà không quý hiển, tử tuyệt có cứu, thì gọi là Hoàn Hồn, đa số lấy quý luận; sinh vượng có khắc, thì gọi là Tán khí, phản chủ ít phúc. Nếu nói người với ta tương sinh, thuận thì lợi bản, nghịch thì đoạt khí, hai bên tương khắc lẫn nhau, thuận thì thế cường, nghịch thì có tổn hại. 《 Kinh 》 nói: Lấy nhỏ phạm lớn, tự chuốc lấy hại; lấy nhược thắng cường, tự nhặt tai ương. Một thủy khắc 3 hỏa, là lấy nhược thắng cường. Lấy âm thắng dương, dù họa không rõ; lấy dương thắng âm, là hại không sâu. Hai dương đánh nhau, hung họa đến đủ; hai âm đối địch nhau, là chổ bất an. Như Ất Tị hỏa khắc Nhâm Thân kim, là lấy âm thắng dương; Nhâm Thân kim khắc Kỷ Tị mộc, là lấy dương thắng âm, âm dương có tình, cho nên không có hại lớn. Nếu Đinh Mão thấy Quý Dậu, là hai âm đối địch nhau; Mậu Ngọ thấy Giáp Tý, là hai dương đánh nhau. Dương cương Âm nhu mà sau đó tất thắng, cho nên có họa. 《 Thái Ất 》 nói: Thiên địa âm dương cơ biến hóa, chưa từng lấy âm triệu dương, dương triệu âm, thì thiên địa hợp chính, khí ngũ hành hòa hợp; nếu là dương theo ở dương, âm theo ở âm. Thì âm dương lệch ra, động tĩnh mất thứ tự, cho nên hai đường họa phúc vậy. Đại để âm dương lệch ra, tạo hóa không thành ngũ hành, như hỏa nhiều kim ít, tụ tán không được thành hình; hỏa ít kim nhiều, đã không thể trừ khử, lại có họa tiêu diệt, còn lại loại suy.

Hùng804
03-07-16, 13:27
Phàm xem mệnh trước tiên luận thể diện, thế cục, sau đó tham khảo lấy hỉ kỵ, tốt xấu, vượng tướng, hưu tù.
+ Như mệnh kim gặp Canh Tân hoặc Thân Dậu gọi là Thể diện, gặp Tị Dậu Sửu tam hợp gọi là Thế cục, hỉ hỏa chế thổ phù, kỵ kim hàn thủy lạnh, sinh ba tháng mùa thu tháng tứ quý là vượng tướng, xuân hạ là hưu tù. Còn lại mộc hỏa thủy thổ cứ loại suy.
+ Mệnh kim gặp Canh Thân, Tân Dậu gọi là Ngũ Ly sát, nếu sinh mùa thu, phùng độc thủy thì hóa kim, gọi là tạo hóa kim bạch thủy thanh; phùng hỏa thì chế kim cương, gọi là Rèn dụng cụ trở thành bén nhọn; trụ không hỏa không thủy, gọi là Ngoan kim, chủ thời trẻ do bệnh tửu mà vong thân; nếu ngày giờ gặp Mậu Dần, xứ cương phùng sinh, chủ phú mà thọ.
+ Mệnh mộc gặp thổ, thì căn rễ cây dựa vào để vun bồi; gặp thủy thì cành lá dựa vào để tươi tốt; gặp kim, gọt đẽo mà thành vật dùng vậy. Mộc gặp Dần Mão, lại sinh mùa xuân lại đại cát. Nếu tam hợp hội đủ mộc cục, không cần sinh xuân, phần đa chủ nhân thọ. Mộc gặp kim chế, hỏa phục nung kim thì là cương nhu tương chế; nếu hỏa quá nhiều, thì thiêu rụi; kim quá nhiều, là tổn hại; thổ hư, thì không thể vun bồi; thủy phiếm, thì không thể nhuận, kỳ diệu là ở trung hòa.
+ Mệnh thủy lấy Hợi Tý làm gốc, lấy Dần Mão Thìn Tị là tiếp nạp, thiên nguyên từ bắc, đổ nhiều về hướng đông, cho nên mệnh thủy hỉ phùng đông phương, là sóng ngừng sóng bằng; thủy nhờ thổ làm đê điều, nếu sinh Hợi Tý, thổ nhiều thì cát; đã ở đông phương, gặp thổ cũng cát; không nên thổ nhiều, lại có quý nhân, tài lộc, thì quý; nếu ngày giờ gặp Canh Thân, Tân Dậu, thủy kỵ chảy về tây, sợ thọ không cao; sinh ở mùa thu đông, sinh vượng trong thanh, Nhâm Quý lúc này mà gặp giờ Hợi Tý, chủ có văn học; nạp âm lại là thủy, thì thủy thái quá, trụ không có thổ đê điều, là đoán ít con, duy chỉ có nghệ thuật không môn ( ý là đi tu) là cát; lại gặp Cách Giác, chủ định hình khắc. Mùa xuân thiếu nước mà khô cạn, mùa hạ hỗn trọc mà chảy tràn lan, trụ không có thủy trợ thì không quý.
+ Hỏa cư Dần Mão, sinh ở mùa xuân, là mộc tú hỏa minh, vinh hoa phú quý; sinh ở mùa hạ, là quá viêm nóng, trong trụ không có thủy, định là yểu, có thủy thì sớm quý; sinh ở mùa thu, hỏa tử kim thành, giấu ánh sáng chiếu ở bên trong, ngày giờ là nhỏ, phùng khí vượng la cát. Bởi vì thủy hỏa không sợ tử tuyệt, chỉ cần điềm đạm là phúc; sinh ở mùa đông, trong trụ lại gặp hỏa trợ, thì dần xua tan sương tuyết, núi sông ấm áp. Cổ nhân nói: Mùa đông đáng yêu, mùa hạ đáng sợ, là chỗ này vậy. Thổ gặp đủ ở bốn mùa. Là Thượng quý. Như nạp âm hoàn toàn là thổ, trong trụ lại gặp chữ Dần gọi là Cấn sơn, cũng quý. Thổ có thể tải dày nặng, sinh sôi vạn vật, kim mộc thủy hỏa đều không thể thiếu, cho nên chỗ này đều có hàm chứa đủ tứ hành vậy.

Hùng804
03-07-16, 13:28
Nói luận dụng ngũ hành, nhiều thì thái quá, thiếu thì bất cập, khí, số thì có dư, không đủ, đều có thể dẫn đến hung; lên xuống đều thuộc ở trong đó, sau đó là phúc. Thành công thích hợp với thoái tàng, tương lai là quý ở chấn vinh. Ngũ hành bẩm vượng, gọi là Thành công; vượng rồi thì có thể ngừng, gọi là Thoái thối tàng; ngũ hành ở đất Quan đái Thai Dưỡng, là khí suy mà chưa đầy, gọi là Tương lai. Cho nên muốn Mẫu Tử tương sinh, đạo lấy kỳ ích khí là có vinh tiến chấn phát. Như mộc không phải thời kỳ, suy thì cành thằng, tử thì khô héo. Kim vượng thái quá thì tác động nhiều hung. Viêm viêm là quý ở dập tắt, không tắt thì có họa thiêu đốt; chảy cuồn cuộn thì quý ở dừng lại, không dừng thì có họa tự chìm. Hỏa hành đất nam mà hóa nhiệt, nóng thịnh thì đốt thiêu, mãnh liệt mà hại vật, đến Dậu Hợi là âm, sau khó thu lại mà có thể làm ấm áp vạn vật. Thủy hành đất bắc mà hóa hàn, thịnh thì rét đậm mà sát vật, đến Mão Tị thì dương mà có lợi ích, sau đó là sinh sôi vạn vật.
Lại có sinh mà không sinh, vượng mà không vượng, chỗ này chính là hung trước cát vậy; có tử mà không tử, tuyệt mà không tuyệt, chỗ này chính là cát trước hung vậy. Như thủy thấy Mậu Thân thổ, chỗ này gọi là sinh mà không sinh; thấy Canh Tý thổ, là vượng mà không vượng, gặp chỗ này là nhiều thành mà lại bại, bởi vì vui mà lại buồn. Như thủy thấy Quý Mão kim, chỗ này gọi là tử mà không tử; thấy Tân Tị kim, chỗ này là tuyệt mà không tuyệt. Khí ngũ hành hết mà được đức của phụ mẫu, để sinh ích lợi, thì gọi là Khí phục sinh, gặp là trong nguy mà có phúc, cùng mà lại thông, cong mà được duỗi ra vậy; sinh vượng quá lớn thì trong phúc có ẩn tàng họa, tử tuyệt thái quá, thì phúc không thể ký thác. Nếu nói tử tuyệt phùng sinh, tai ương có thể biến thành né tránh, trước là hỏa thổ, sau là kim thủy. Hỏa tuyệt gặp thổ gọi là Duệ (Hỏa lấy thổ làm con, hỏa tuyệt ở Hợi mà thấy là Đinh Hợi vậy); thổ tuyệt gặp kim tử mà không mất, gọi là Quy Hồn 【 Thương chú: Thọ, thổ tuyệt ở Tị, là gặp Tân Tị kim vậy, kịch bản đồ thư tập thành 】(thổ tuyệt ở Tị mà gặp Đinh Tị là thổ vậy); kim tuyệt gặp thủy gọi là Kế Thể (Kim tuyệt ở Dần, là được Nhâm Dần kim vậy); thủy tuyệt được mộc, gọi là Hồn phục thiên du (Thủy tuyệt ở Tị, được Kỷ Tị là mộc vậy); mộc tuyệt gặp hỏa, hỏa ra thì mộc thành tro bụi, tan thành mây khói, cho nên chỉ là hung, Xà Mã nhát gan, ở chỗ này đủ chứng minh (mộc tuyệt ở Thân, được Bính Thân là hỏa vậy). Xà Mã ở vị trí Tị Ngọ, mộc đi qua Tị Ngọ mà tử, mộc ở tạng thuộc gan, ở phủ thuộc mật, triệu chứng mộc tử là hung vậy. Kinh nói: Bản thân thổ gặp hỏa sinh mà mệnh dần dần có lợi; thủy được năm kim là chảy dài; kim nhiều cần hỏa, hoặc là tòng cách mà thành danh; mộc trọng được kim nhu, mà nhận dùng khúc trực; thủy chảy không dừng, cần thổ để cầm giữ; hỏa thịnh không có nơi nương tựa, duy chỉ có thủy để cứu giúp. Ngũ hành dụng được thích hợp, tuy là tương khắc mà thành phúc; nếu dụng không thích hợp, tuy tương sinh mà thành tai họa.

Hùng804
03-07-16, 13:29
Phàm ngũ hành quá nhiều 【 Thương chú: Là thái quá 】 mà nghịch nhau, như Lộc nhiều thì bần, Mã nhiều thì bệnh, Ấn nhiều thì cô, Khố nhiều thì đóng, sinh vượng nhiều thì không có chỗ quay về, tử tuyệt nhiều thì không có khích lệ. Ngũ hành không thể quá tổn thương nhau, không thể quá thuần túy. Quý nhân Mã nhiều, là thăng đạt; thường nhân mà Mã nhiều, bôn ba; Phá phải thương họa, Không phải không tận; chỗ yêu thích không thể hủy, chỗ sợ không thể vượng; trước sợ sau yêu là phúc, trước yêu sau sợ là họa; hợp nhiều không phát mà xinh đẹp, Học Đường nhiều thì không thành; Quý nhân nhiều thì khiếp nhược 【 Thương chú: Là hèn nhát 】mà không có ý chí, Lộc Mã quá lộ thì không thể lấy quý nhân luận; Quý nhân đầu đuôi đều có, không thể lấy thường nhân luận; tứ trụ đều là dương, khẩu ác tâm thiện; tứ trụ đều là âm, ngu ngoan sâu độc, củng yêu củng mã, củng lộc, củng quý, củng phúc thần, không nên có củng hình, củng họa, củng tuế, củng thời, âm dương quý ở cân bằng, bệnh thương phải có khắc chế.
Phàm mệnh Bính Tân Nhâm Quý thấy Mậu Tuất, thì Mậu thổ nắm đường, Nhận Thương toản chiết. Nhâm Tý, Bính Ngọ, Bính Ngọ, Nhâm Tý, là sao thủy mộc, âm dương thuần túy, vị trí còn lại không có trợ giúp, cũng hết sức xem trọng; hơn nữa khí tú quý tú thì không ai sánh bằng, không có đố kỵ, có đại đức bao dung, chính là trượng phu vậy. Mão Dậu, chỗ mặt trời xuất nhập; Tý Ngọ, cung âm dương mới phân chia, nếu gặp, khiến người qua lại bất định, tuế vận cũng vậy. Tị Hợi là đất lưỡng cực, mà trời xoay vần; Dần Thân là phương tam đình, truyền gửi qua lại, như mệnh gặp, phần đa là không chấp nhất. Sửu Mùi chậm chạp, Thìn Tuất cấp tốc, gặp thì khiến cho người cố chấp, tính không thông biến. Thìn Tuất có khí, lại có kiến lập đại sự. Người Bính Tý tứ trụ có Nhâm Dần, là Nhâm vào nhà Bính thì phá, không tốt, Canh Tý thấy Canh Ngọ, gọi là Ngũ Quỷ lâm môn; Mậu Dần thấy Giáp Dần, Giáp khắc Mậu, Giáp Dần theo thế khắc Mậu Dần, là do can chi nạp âm trên dưới bất hòa. Ngoại trừ có Phúc thần, mới là phúc lực. Quý Dậu thấy Mậu Dần, Mậu thổ khắc Quý thủy, lại là khí kim hướng về đất tuyệt, gặp chỗ ở của Kiếp Sát Nguyên Thần. Ngoại trừ ở trong gặp nguyệt lệnh tú khí, mới có thể dụng, cũng lâu mà không tốt. Canh Ngọ, Đinh Dậu là hỗ vượng hỗ phá, là vượng gặp phá vậy, không thể đủ làm phúc lực. Kỷ Mùi, Tân Dậu mặc dù được Thực, nhưng quy về tử địa, cuối cùng là không tốt. Ất Sửu, Ất Mùi, Canh Thìn, Canh Tuất thấy Mậu Dần, rất tốt, vận cũng vậy, 《Kinh 》 nói: Như gặp Canh 【 Thương chú: Canh là cương, Kịch bản đồ thư tập thành 】 kim cứu Mậu Dần, muốn tuyệt mà không tuyệt trở thành phúc lực. Ất Mão thấy Mậu Dần, Mậu Dần thấy Ất Mão, là mệnh rất tốt. 《 Đơn Dương thư 》 nói: Tam Kỳ cứu tế, trên có hư thanh; ở trong tử tuyệt, lại tồn tại sinh vượng. Bởi do tam hợp, Tam Kỳ, không hợp tháng sinh là không quý, như Giáp Mậu Canh, có giờ Tý Ngọ mới quý; Ất Bính Đinh, có giờ Dần Mão mới quý. 《 Thiên Nguyên biến hóa thư 》 nói: Ất Bính Đinh đúng thích Dậu Hợi, lại xem nạp âm có hay không có can thiệp. Lại nói: Phàm Tam Kỳ, Tam Hợp, mang tú khí ở trong nguyệt lệnh, là nhập quý cách, cũng không tránh khỏi làm thiếp, làm rể, làm con nuôi. Lại nói: Phàm mệnh thấy Tam Hợp, Tam Kỳ, mà năm mệnh không mang, sinh ở mùa Tứ Mạnh, mà gặp tháng ngày giờ là Tứ Trọng, Tứ Quý, tứ trọng, tứ quý cũng đồng luận, cùng tháng ngày có Thai hỗ hoán nhau, can hợp hoặc lục hợp mà bản mệnh không mang, đều có danh là Điệu Thái tuế, phần đa chủ ly tổ cô lập, là người không đắc lực, thiếu cứu trợ, nhưng thích hợp ở nghĩa, giả hợp mà lập vậy, quý mệnh thì phần đa dựa vào mà thăng tiến. Phàm tứ trụ mang Tam Kỳ, Tam Hợp, bản thân nếu không phải là làm con nuôi, làm thiếp, tương lai con cháu tất có làm con nuôi, làm thiếp, là Tử theo Mẫu. Cổ thớ nói: Tam hợp và Tam Kỳ, thanh tú lại phì nhiêu, không làm là con nuôi, thì là con theo mẹ. 【 Thương chú: Hợp hội Tam Kỳ không bình thường, mang phá hình xung xem con nuôi; quy sinh phục tử phân thành bại, tử tuyệt vô dụng không bình yên. 】

Hùng804
03-07-16, 13:29
Phàm mệnh trước 5 thần gọi là Trạch xá ( nhà cửa), nếu gặp hữu khí cùng cát thần lâm, chủ có nhà cửa tốt, quý tộc to lớn, con cháu hiển đạt. Ví dụ như người Giáp Thân, trạch xá ở Sửu, sinh tháng 12, gặp Thiên Ất ngụ là cát. Nếu ở chỗ vô khí, cùng có hung thần lâm, chủ nhà cửa hư hao, phá hư không còn, không giữ tổ nghiệp. Giả như người Canh Ngọ, trạch xá ở Hợi, thuộc tuần Giáp Tý, Hợi lạc Không Vong, lại gặp Kiếp Sát lâm là hung. Còn lại theo chỗ này mà suy. Mệnh ở sau một thần gọi là Phá Trạch Sát, nếu ở trong Phá Trạch Sát, chủ không có sản nghiệp tổ tiên để lại, hoặc làm khách tha hương, lại xem nạp âm Trạch, cùng nạp âm bản mệnh tương sinh là cát, trạch khắc thân được nhà cửa tốt, thân khắc trạch tất phá tán. Giả sử như người Giáp Tý kim, lấy Kỷ Tị mộc làm nhà cửa, sinh ở tháng 2. Tuy thuộc trạch vượng, có hợp nhà cửa tốt, lấy thân khắc trạch, sau phải phá tan nhà cửa. Mậu Ngọ hỏa lấy Quý Hợi thủy làm nhà cửa, sinh tháng 9, trạch ở Quan đái; sinh tháng 10, Trạch kiến 【Thương chú: Đã từng lấy Viên Thiên Cương Diễn cầm tướng pháp dùng phép "Tướng, Lộc, Kiến, Vượng" luận Trạch mệnh con người vốn là xuất phát từ chỗ này】; sinh tháng 11, là Trạch vượng, lại gặp Trạch sinh khắc thân, tất được nhà cửa tốt. Nếu Trạch khắc vượng gặp sinh, có Quan là cát, không có Quan là hung. Phàm Lộc mệnh tuy có hưu vượng, luận thêm Trạch, để biện luận cát hung. Thẩm Chi nói: Trạch sợ phạm phá, như người Giáp Tý lấy Kỷ Tị là Trạch, như phạm Hợi Tý, là Trạch bị phá, nguyên mệnh thấp hèn, Thái tuế xung năm cũng là phá, cần phải chính xác mới có thể đoán, như người Bính Tý gặp Tân Tị kim là trạch, gặp loại lưu niên Ất Hợi là đúng. Mệnh tốt, cũng thêm động tác phát động mới ứng.
Phàm mệnh sau 5 thần gọi là Điền viên, nếu cư ở đất hữu khí, lại lâm Phúc thần, chủ đầy điền viên vậy, kho tàng phong phú. Giả như người Giáp Tý, điền viên ở Mùi, sinh tháng 6, thổ nhận vượng khí, lại gặp Thiên Ất quý nhân là cát. Nếu gặp đất vô khí, lại lâm hung thần, chủ tích tụ ít điền viên, kho tàng là hư không. Giả như mệnh Mậu Tý, điền viên ở Quý Mùi, sinh tháng 6 trong tuần Giáp Thân, Mùi lạc Không Vong, còn lại theo ví dụ này mà suy đoán.

Hùng804
03-07-16, 13:30
《 Quỷ Cốc di văn 》nói: Mã không có Hại 【 Thương chú: Là gặp hình phá 】, Lộc không có Quỷ (là Quỷ khắc), Thực không có Vong 【 Thương chú: là Không vong 】, Chi hợp không có Nguyên 【 Thương chú: là Nguyên thần 】, ở chỗ hợp không có Ách 【 Thương chú: Là Lục Ách 】, Vượng không có Tang 【 Thương chú: Tang Môn 】, Suy không có Điếu 【 Thương chú: là Điếu Khách 】, Thê không có Nhận 【 Thương chú: Là Dương Nhận 】, Tài không có Phi 【 Thương chú: là Phi Liêm 】, Mạnh không có Cô 【 thương chú: là Cô thần 】, Quý không có Quả 【 Thương chú: là Quả tú 】, thể trọng cần Quỷ, Lộc trọng cần Quan, phu cần thiển【 Thương chú: [Thiển] là rất ít 】, Thê cần bội, cát cần hiện rõ, hung cần giấu chìm, can chi bất hòa là bế tắc, vợ chồng thất thời là hung 【 Thương chú: Thân vượng thê suy, uyên ương mất hợp mà cô độc; thê đa thân tuyệt, người đẹp thay đổi mà gấp bội 】. Tứ vị chủ bản, Lộc Mã qua lại, cần phân thấy phá, Thiên Ất phù trì, là xung lấy Đức. Lại biện tôn ti, có căn mà không có thực mầm, bần mà vẫn còn có ăn; bản khí tuyệt mà nhiều hoa, dẫu có con mà mùi vị kém cỏi. Đến như quý thần đương vị, chư sát phục tàng, tam nguyên vượng tướng, chuyên khởi Thần Sát? Trong mệnh dụng Sát, lấy ngũ hành làm gốc, như ngũ hành đắc địa, không có quý sát mà cũng quý, tuy có ác sát, việc cũng vô hại; nếu ngũ hành không đắc địa, dẫu có cát sát, phát cũng không lâu dài, như hoa ở trong mùa đông mà thôi.

Hùng804
03-07-16, 13:31
Nạp âm, là số biến đổi của trời đất vậy. Dịch Mã, Học Đường, cư ở trường sinh, tài năng quan chức ở xứ vượng tướng, văn chương phú quý ở đất Ấn khố. Như phùng suy bại, thì giảm 1/3; lại gặp tử tuyệt thì mất 1/2. Thiết kỵ Không vong, xung khắc, không hợp ở hình hại chiếm đoạt. Cho nên cùng nhau phối hợp 【 Thương chú: Số thuận là trên hết, số tạp là thứ yếu】, thì trời đất hưng khởi, nền tảng cường tráng; đồng loại tổn thương nhau (như loại Đinh Mùi hình Đinh Sửu), thì thần khí tán, lý là không có hợp lại. Quản Lộ viết: Ngũ hành hỗ vượng, tuy xung khí hoàn; ngũ hành tương khắc, tuy hợp khí tán, là nói chỗ này vậy. Hoặc hỏi: Người sinh có trước sau, công danh phú quý, một khi có quật khởi, đột nhiên chợt hưng khởi; trước sau có cướp đoạt, mà giữa đường phấn phát; có nửa đời không thuận lợi, mà thành tựu lúc về già, nguyên do là sao vậy? Trả lời: Chẳng qua là mệnh vậy. Trước sau phú quý, chính là ở trong trụ thân chủ chuyên vượng, chỗ dụng cát thần, hoặc Quan Ấn, Tài Thực, mỗi cái đều có mang lộc đắc lệnh, không thiên không đảng, không có hình xung khắc hại, đi ra hành vận, từng bước đều cát, cho nên có thể thành tài, có thể quang vinh phấn chấn, kế 【 Thương chú: Là kế thừa 】cơ nghiệp tiền nhân, lúc lập công danh, không gây chuyện gièm pha, không dẫn đến tổn thương, trước sau giữ gìn, nguyên nhân là vận mệnh sinh vượng, thể dụng đều được vậy. Một khi quật khởi, chợt bỗng nhiên hưng thịnh, trong trụ chỗ dụng hệ thống quý thần, tất đều đắc vị thừa vượng, lại còn hợp cách, làm sao nhật chủ vô lực, không thể nhận lấy phúc, cho nên lao đao khốn đốn trở ngạin; nếu gặp vận tốt sinh phù, nhật can được cường kiện, dụng thần nguyên mệnh, mới là chỗ ta sử dụng, vì chỗ của ta cưỡi, hổ gầm gió sinh, đại phát phú quý, là khí thiên cùng ngồi, suy mà gặp vượng, cho nên đón cát mà phát, trước sau khác hẳn. Cũng có nhật chủ cường vượng, ngũ hành sát thuần không tạp, làm sao mà nền tảng vốn không có chế phục, phú quý không thành, chỉ đợi đến vận, chế phục Sát thần, hóa thành quyền bính, công danh hiển đạt, xuất loại siêu quần, chế thần lực vượng, phát phúc phi thường, cho nên chợt phát hưng thịnh, từ bần tiện mà đến cực phẩm, hoàn toàn là do hành vận đắc địa, mới thấy phát hưng; như vận không đến, tức là thường nhân mà thôi. Trước sau phấn phát, mà giữa đường bị cướp khắc, là trong trụ nhật chủ kiện vượng, dụng thần cũng vượng, lực đều ngang nhau, là con nhà lầu son quyền quý, thành lập cực kỳ to lớn, phải được quang vinh, nếu đại vận đến gia tăng, nguyên mệnh thấy Tài mà đoạt, vì quan mà tổn thương, lâm Ấn mà bị phá, đến Thực mà gặp Kiêu, cảnh ngộ vận này họa không thể nói hết, cho nên năm thịnh thấy sụp đổ mà không có phát; nếu như ác vận vừa đi, lại gặp vận tốt phù trì, khiến cho dụng thần hoàn toàn đổi mới, thí dụ như mầm khô gặp mưa, bỗng nhiên mà hưng thịnh, như lông hồng gặp gió, bồng bềnh mà nâng, không thể điều khiển vậy. Nếu nửa đời ị trở ngại, về già thành tựu, là tứ trụ thân cường, Dương Nhận Tỉ kiên đều vừa tranh vượng, duy chỉ có loại vật Tài Quan, Sát thần đẳng, hư phù thiếu khinh, vô lực mà thành công danh, đi ra hành vận, lại không nhận được đất phúc, cho nên cả đời cơ hàn, lao khổ khó kham, thẳng đến lúc về già, bỗng gặp vận tốt, bổ khởi các vật Tài Quan, Sát thần, là Giả Sát vi quyền, chế phục Dương Nhận, hoặc được quyền quý mà hiển dương, hoặc khởi sinh tài mà phát phúc, theo lúc ngũ hành thanh trọc, chớ lấy chỗ gặp vận. Tôi nói, cùng thông là có mệnh, phú quý ở trời, Khổng Tử đã có nói vậy, sao trí lực chỗ con người làm sao có thể di dịch chứ!

Hùng804
03-07-16, 13:31
Hoặc hỏi: Hưng vong, sinh tử.
Đáp viết: Phàm ở trong nhân mệnh có Sát là dụng, Sát thần không có chế thì thành người bạch ốc cùng đồ. Hoặc nói lấy kẻ giàu có siêu hạng, phải gặp vận chế phục, giả Sát mà hưng, nhất thiết không thể thoát khỏi chế phục. Vận vừa nhập Tài hương, Tài có thể cùng đảng Sát, lại gặp lưu niên, Tài trợ Sát vượng, hợp lực thành tai ương, thân chủ cô hàn khắc hại, nhẹ thì khuynh gia bại sản, nặng thì hình khí mất thân. Sát thần cùng hợp, hung ác đáng sợ như vậy. Dương Nhận cũng đồng luận. Lại có ở trong trụ nguyệt lệnh là chính khí Quan tinh, là cả đời phú quý, duy chỉ phùng Tài Ấn thì lợi Quan tinh, hỉ Tài vượng để sinh, Ấn vượng để hộ, cho nên khiến cho người có thể hành nhân bố đức, trợ quốc bang dân, quyền trọng tước cao; sau khi Sát thần đắc vị, tuế sát cùng đến, Quan hóa thành Quỷ, tất là tang thân vậy. Không hành đến Sát vận, hoặc hành vận Thương quan, lại không có Ấn thụ chế, Thương quan đắc địa, quý lộc đều bị thương, tang thê khắc tử, mất chức sinh tai; lại gặp lưu niên cùng bè đảng với nó, tất là thân vong thảm ác. Như có minh thức cao kiến, biết cơ tiến thoái tồn vong mà bảo về lấy thân, không gặp cảnh hung, thì cuối cùng bản thân cũng bị ác tật mà chết. Lại có ở trong trụ chỗ chuyên dụng thần không có khí Quan Sát, duy chỉ có Thiên Chính Tài vượng, Tài thần nắm đường, ẩn ẩn hưng long, tích tài tụ phú, nhưng thiếu quý mà thôi. Lại xem hành vận như thế nào? Như gặp đất Quan Lộc vượng, là phú quý song toàn; nhất thiết có bất hạnh, Tài thần thoát khỏi cục, Dương Nhận tương phùng, lại gặp lưu niên xung hợp Dương Nhận, tài thần tổn thương hết, nguyên mệnh suy tuyệt, Dương Nhận sinh tai, tất là bại vong vậy.
Sinh tử thì lấy cách cục luận, như Ấn thụ thấy Tài, hành Tài vận, lại kiêm tử tuyệt, tất nhập hoàng tuyền, trụ có Tỉ kiên, chỗ này có giải. Chính Quan kiến Sát cùng Thương quan, hình xung, phá hại, tuế vận cùng đến, tất chết. Chính Tài, Thiên Tài thấy Tỉ kiên phân đoạt, Dương Nhận, Kiếp tài, tuế vận xung hợp, tất chết. Thương quan cách, Tài vượng thân nhược, thấy nhiều Quan Sát, hỗn tạp xung Nhận, tuế vận lại thấy, tất chết; có chế thì thương tàn. Củng Lộc, Củng Quý, Điền Thực, lại thấy Quan Sát, Kiếp Vong, xung Nhận, tuế vận cùng thấy, tức chết. Nhật Lộc quy thời, hình xung phá hại, thấy Thất Sát, Quan tinh, Không vong, xung Nhận, tất chết. Sát Quan đại kỵ tuế vận cùng hợp, tất chết. Còn lại nhiều cách, hợp kỵ Sát cùng điền thực, tuế vận cùng đến, tất chết. Hội nhiều hung thần, Ác Sát, Câu Giảo, Nguyên Thần, Vong thần, Kiếp sát, Điếu khách, cung hung sát Mộ Bệnh, Tử, là cửu tử nhất sinh. Tài Quan quá nhiều, thân nhược; vốn phạm Thất Sát, thân khinh. Như nhật can Bính Đinh, năm, tháng, giờ là Canh Tân thêm vận Dậu, hoặc năm Canh Tân, tất chết; nhật can Giáp Ất, tháng Canh Tân, giờ Giáp tạp. Niên vận thấy Canh Tân, tất chết. Nếu như có cứu, thì cát; không có cứu, định hung. Ngũ hành Thần Sát, kim nhiều, chết yểu; thủy thịnh, phiêu lưu; mộc vượng thì yểu; thổ nhiều, ngu ngốc; hỏa nhiều, ngu đần; thái quá, bất cập, đều lấy chỗ này mà luận. Một là không thể cố chấp, hai là cần có dũng khí, cầu sinh tử, định quyết không sai. Đến như ngũ hành sinh tử, như sinh ngày Nhâm ở tháng 2, hành Thân vận, tức chết; sinh ở tháng 7, hành Mão vận, tức chết. Là gặp sinh sợ tử, đã tử sợ sinh, tạo hóa cùng nhân sự là một vậy, cần hợp lại mà xem.
【 Thương chú: Phàm mệnh, cát hung họa phúc, vốn là không có thoát ra khỏi phạm vi tam mệnh; phàm nói cách cục thành bại, đều không thoát ra khỏi can chi tam mệnh vậy; người ngày nay sử dụng nhật can toán mệnh, đa số là không thành; mà muốn biết được sự tinh diệu ở trong đó, mỗi lần dụng như thần là hiếm thấy; tôi đã từng nhìn một góc mệnh lý, mà không thể được thần thông, nguyên là quá ít kinh nghiệm, không thể được tinh lực vậy. Nguyện cùng cố gắng cùng với nhiều người yêu thích . 】
Cửu cung môn Thương Sơn phái. La Vân Phi Long. Thương Nhiên, giữa mùa đông năm Canh Dần, ở đảo Tần Hoàng.

***********************
Thương nhiên đông trạch. Cửu cung manh phái. Bát tự mệnh lý. Tứ trụ dự trắc.
http://blog. sina. com. cn/s/blog_59db61280101bzvf. html

vunamminh
23-08-16, 23:06
xin chào các bạn!mình đang tìm tài liệu nguyên lưu bảo điển.vậy bạn nào có xin chia sẻ với .vuvannghia1983@gmail.com .xin chân thành cảm ơn.thân ái!

bachkim
26-08-16, 23:38
Mệnh có Canh Dần và Kỷ Mão gọi là mệnh lưỡng phủ; Tôi xin hỏi mệnh lưỡng phủ nghĩa là gì, xin cảm ơn.