Kinh doanh và Thuật phong thủy
Mời các bạn dùng café sáng:
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024314.jpgThuật phong thủy trong tiếng Anh gọi là The Science of Winds and Waters được sáng tạo bởi người Trung Hoa cổ, và cho đến ngày nay vẫn được áp dụng rất rộng rãi trong kiến trúc. Không chỉ ở Trung Quốc, Hồng Kông hay Việt Nam, thuật phong thủy còn rất được kính nể bởi người phương Tây. Trong cuộc sống và công việc kinh doanh, nếu bạn để ý một chút đến Thuật phong thủy, mọi chuyện sẽ diễn ra suôn sẻ và tốt đẹp hơn rất nhiều. Hãy dành một chút thời gian để tìm hiểu.
Bạn muốn kinh doanh của mình phát đạt hơn? Bạn cũng muốn một môi trường làm việc hài hoà giúp khích lệ và trợ giúp cả bạn lẫn những người bạn làm việc cùng? Thế còn việc sở hữu những kỹ năng suy nghĩ sáng tạo và hiệu suất hơn?
Nếu câu trả lời của bạn là “Có” đối với một trong các câu hỏi trên, bạn có thể nên quan tâm tới việc sử dụng Thuật phong thuỷ, một nghệ thuật sắp đặt của người Trung Hoa cổ. Rất nhiều công ty Trung Quốc ngày nay đã áp dụng thuật phong thuỷ và tận hưởng nhiều lợi ích từ đây. Rõ ràng nhất đó là tạo ra được một môi trường làm việc yên bình, thành công và sinh lời.
Thật tuyệt vời khi bước vào cuộc hành trình tới thế giới diệu kỳ của "gió và nước." Chúng ta sẽ có thể biết cách sử dụng dòng chảy năng lượng gọi là "chi" để cải thiện bản thân và hoạt động kinh doanh.
Phong thuỷ là một triết lý đã chứng minh ích lợi trong hơn ba nghìn năm qua. Hãy sắp xếp lại bàn làm việc và tâm trí của bạn. Hãy để chân lý mênh mông của Thuật phong thuỷ mang lại sự cân bằng tốt đẹp cho cuộc sống công việc.
Thuật phong thuỷ
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024311.gifPhong thuỷ là nghệ thuật sắp đặt vật thể của người Trung Hoa cổ nhằm đem lại những ảnh hưởng có lợi hay bất lợi. Sự sắp đặt này được dựa trên dòng chảy năng lượng “chi” theo cấu trúc âm và dương.
Về ngữ nghĩa, theo tiếng Trung Quốc, “phong” và “thuỷ” là “gió” và “nước.” Nhờ “gió” và “nước” mà các dòng năng lượng chảy qua tự nhiên và vạn vật. Dòng chảy năng lượng này không nên gặp trở ngại và cần có sự cân bằng để loại bỏ mọi sự bất thường.
Âm và Dương là biểu tượng và niềm tin vào tự nhiên, vào sự hiện hữu của một thế giới vạn vật hài hoà. Không có gì hoàn toàn là dương hay âm; trong một vật thể luôn có ít nhất một phần nào đó của âm hay dương. Âm là mặt đen, biểu lộ sự yếu đuối, bị động, đen tối, lạnh lẽo, mùa đông và phụ nữ. Còn dương là mặt sáng, biểu lộ sự mạnh mẽ, chủ động, sáng sủa, ấm áp, mùa hè và nam giới. Thuật phong thuỷ được dựa trên học thuyết âm dương này.
Bát quái
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024312.gifĐây là một trong những công cụ hiệu quả nhất trong thuật phong thuỷ để tạo ra những thay đổi tích cực. Bát quái là một biểu đồ tám cạnh thể hiện 8 điểm của la bàn.
Mỗi hướng của la bàn tập trung vào một khía cạnh khác biệt của cuộc sống, chẳng hạn hướng Đông Nam ảnh hưởng tới sức khoẻ và giàu có. Sử dụng kiến thức này có thể giúp bạn đạt được các mục tiêu trong tất cả các khía cạnh cuộc sống.
Áp dụng trong kinh doanh
Thuật phong thủy đã và đang được áp dụng rộng rãi hơn trong thế giới kinh doanh. Cách đây không lâu, khách sạn MGM nổi tiếng tại Las Vegas, Mỹ theo thuật phong thuỷ đã cho xây dựng hai con sư tử bằng đá khổng lồ để tránh kinh doanh thua lỗ. Các công ty đang ngày một quan tâm nhiều hơn tới thuật phong thuỷ và những ứng dụng của nó trong kinh doanh.
Bố trí, sắp đặt lại bàn làm việc và không gian làm việc
Theo thuật phong thuỷ, hiệu quả công việc và sự giàu có trong kinh doanh có thể được nâng cao bằng việc sắp xếp lại và thiết lập trật tự trên bàn làm việc của bạn. Những dòng năng lượng mạnh mẽ không thể tuôn chảy đều nếu có sự bừa bộn trên bàn làm việc cản trở hướng đi và làm tắc nghẽn chúng.
Hãy loại bỏ mọi thứ khỏi bàn làm việc của bạn và dọn sạch mọi sự bừa bộn xung quanh đó. Bạn chỉ đặt trở lại những vật dụng nào được sử dụng hàng ngày và giấy tờ trên bàn làm việc phải gọn gàng và được giới hạn trong những công việc cần thiết. Những vật dụng và giấy tờ khác nên được đặt ở đâu đó, trong ngăn bàn, ngăn kéo tủ, giá tài liệu,....
Giờ đây bàn làm việc của bạn đã gọn gàng, hãy đặt thêm vào đó vật gì đấy đáng yêu, tích cực và giúp thăng tiến sự nghiệp. Bạn nên sử dụng bát quái để hướng dẫn cách bày trí, chẳng hạn để gia tăng sự giàu có cho kinh doanh, hãy đặt tượng giả cổ màu đỏ hay màu tía vào góc đông nam của bàn.
Phía tây của bàn tượng trưng cho sức khoẻ, sự phát triển cá nhân và gia đình. Tại đó nên được đặt đồ gỗ có màu xanh lá cây. Một chiếc cây nhỏ cũng khá thích hợp cho khu vực này hay một bức hình gia đình trong khung bằng gỗ.
Định vị bàn làm việc của bạn trong phòng hay trong văn phòng
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024704.jpgTrong thuật phong thuỷ, ví trí bàn làm việc có ảnh hưởng lớn tới hạnh phúc, thành công và sự thịnh vượng của bạn trong cuộc sống kinh doanh. Vị trí tốt nhất của bàn làm việc nên ở nơi có thể nhìn ra toàn bộ gian phòng và sau lưng là tường.
Bạn cũng nên có tầm nhìn ra cả cửa số và cửa ra vào, nhưng đừng bao giờ hướng thẳng tới cửa ra vào. Đường ra vào cửa hay cửa sổ không nên hướng trực tiếp tới lưng bạn bởi nếu thế sẽ đem lại nhiều điều xấu.
Hoa và cây cảnh
Hoa và cây cảnh sẽ mang lại nhiều nhân tố tích cực cho môi trường làm việc. Bên cạnh vẻ đẹp tự nhiên, nó còn cải thiện chất lượng không khí, hoà đồng chúng ta với thế giới tự nhiên bên ngoài và màu sắc xanh tươi sẽ khích lệ những phát triển kinh doanh và cá nhân.
Song bạn cần tránh cây xương rồng hay các loài cây có lá sắc cạnh bởi điều đó có thể dẫn tới các điều xấu. Để đem lại những điều tốt đẹp, hoa và cây cảnh cần tươi và sum suê. Nếu cây cảnh chết, hãy bỏ nó ngay và thay thế bằng một cây khác. Cũng rất tốt nếu dùng cây cảnh bằng nhựa hay bằng lụa nhưng bạn cần giữ chúng không bị bám bụi.
Nước
Nước là biểu tượng mạnh mẽ nhất trong thuật phong thuỷ. Dòng chảy năng lượng của nó rất có lợi cho sức khoẻ và sự thịnh vượng của bạn nhưng cần quan tâm kỹ lượng để giữ cho nước luôn mới và sạch.
Các đài phun nước hay tháp nước là rất tuyệt vời nhưng cần chắc chắn rằng dòng chảy của nước không bị cản trở, tù đọng hay quá nhanh. Những tháp nước nhỏ được thiết kế đặt trên bàn cũng là một lựa chọn tốt nếu không gian bị giới hạn.
Một lựa chọn khác đó là bể cá cảnh hay bể thuỷ sinh. Bạn nên nuôi cá vàng bởi vì vàng là một biểu tượng của người Trung Quốc cho tiền bạc và có qua đó có tác dụng thu hút tiền bạc.
Một cách tuyệt vời nữa để đưa nước vào kinh doanh đó là sử dụng bất cứ vật dụng nào minh hoạ cho nước.
Văn phòng tại nhà
Thuật phong thuỷ cũng coi trọng sự thiết yếu phải giữ cho cuộc sống cá nhân và công việc tách biệt nhau khi bạn có văn phòng làm việc tại nhà. Một lối vào riêng biệt từ bên ngoài cho văn phòng tại nhà của bạn là một lựa chọn. Nếu không thể, bạn nên bố trí căn phòng ở gần cửa trước hay cửa sau của căn nhà. Khi phòng làm việc tại nhà là một phần của căn phòng lớn hơn, hãy chắc chắn bạn ngăn tách nó bằng một vách ngăn hay những cây cảnh lớn. Một khu vực được trải thảm cũng thích hợp để làm nột bật nơi làm việc.
Trần nhà trong nơi làm việc của bạn như thế nào? Một trần nhà phẳng sẽ đảm bảo các dòng chảy năng lượng tốt nhất; còn bằng không bạn nên treo chiếc chuông gió để loại bỏ những điều xấu.
Bạn còn có thể đẩy mạnh dòng chảy năng lượng cá nhân và những điềm tốt trong tương lai bằng việc ăn mặc hợp lý và chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh và hình thức của bạn. Đừng làm việc tại nhà khi còn đang mặc bộ đồ ngủ pyjamas.
Chắc phải mất hàng năm để hiểu đầy đủ và sâu rộng về thuật Phong thuỷ. Bạn nên tới các cửa hàng sách hay thư viện để tìm hiểu thêm về bí quyết thành công từ hàng nghìn năm trước đây này. Cho dù bạn là một nhân viên hay nhà quản lý, có rất nhiều yếu tố tuyệt vời bạn có thể ứng dụng từ Phong thuỷ vào môi trường làm việc, công việc và sự nghiệp của mình một cách có lợi nhất.
Theo Business Portal
Truyện ngắn của Bạch Lê Quang
Bạch Lê Quang là một nhà văn có lối hành văn bình dị, hấp dẫn người đọc ở từng câu văn, Các truyện ngắn của anh thường phản ảnh lối sống, cách nghĩ của người bình dân. Đọc truyện của Bạch Lê Quang để thấy rõ hơn về thôn quê Việt Nam ngày nay,...Và hơn thế nữa trong truyện của anh còn chứa đựng một triết lý sống.
NGỌC PHẬT
Người đàn bà bỏ ông mà đi. Tất cả lặng lẽ và bất ngờ như một cơn mưa. Ông ngồi thu mình trong góc tối. Đại sảnh mênh mông. Và đầy những cổ vật. Nơi góc tường là một chiếc lọ hoa gốm men thế kỷ XV với dòng thủ bút của chính người tạo ra nó: Thái Hòa bát niên, tượng nhân Nam Sách Châu Trì Bùi Thị Rí bút. Dòng chữ được hiểu: Niên hiệu Thái Hoà thứ 8 – triều Lê Nhân Tông – người thợ họ Bùi ở Châu Nam Sách vẽ chơi. Vì dòng chữ ấy, ông đã bỏ gần sáu năm mới mang về được. Bên phải, trước bức rèm màu đỏ thẫm là cái lư hương của Đặng Huyền Thông, người thợ gốm tài hoa thế kỷ XVI.
Bây giờ, tất cả đã im lặng. Một thứ im lặng cay đắng. Ông thẩn thờ nhìn quanh. Đôi mắt ông chạm vào bình rượu độc ẩm của Cao Bá Quát. Về Bắc Ninh, ngẫu nhiên, ông gặp nó. Khi chủ cũ kể về lai lịch chiếc bình, ông đã lịm người trước một cổ vật đang lắt lay giữa cát bụi lầm than. Kể rằng khi thất bại, tự tay Cao đã mài mực thơm trên độc ẩm: Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cỗ sầu – Với người, ta tiêu tán nỗi buồn ngàn năm.
Và cuối cùng, trên kệ, một khoảng trống….
1.
Về vùng Cổ Nhuế - Bồng Thi không ai không biết tiếng ông Lã Vọng. Ông chơi cổ vật từ thời trẻ. Uống rượu với bạn bè, cao hứng, ông thường khật khưởng: Đời tôi có hai điều. Đam mê nhất cũng là khốn khổ nhất. Đó là phụ nữ và đồ cổ.
Đồ cổ đối với ông là nghiệp. Hai mươi mốt tuổi ông thừa hưởng gia sản họ Lã với những cổ vật mà cha ông đã bỏ ra cả một đời. Máu huyết người cha đã lan sang ông. Cha ông bảo: Để sở hữu cổ vật quyết không vì tiền. Lăn lóc với nghiệp, nghiệm ra càng đúng. Ông nhớ ngọc phật hài nhi đem từ núi Cấm chùa Trúc. Thủ tự là người làng bảo: Ông Lã có được cặp ngọc Phật ấy mới là già nghề. Ông đến chùa, lòng xốn xang khó tả. Sư trụ trì nhã và tịch mịch như khung cảnh nơi đây.
Vãn cảnh, đàm đạo, khói hương ngót nghét gần một năm. Một sáng thu chớm, ông khẽ khàng: Cảnh nơi đây siêu phàm thoát tục. Hoàng phi, trướng, liễn, tượng nhiều vô kể, nhưng lòng vẫn chưa thỏa. Sư nhìn sâu vào đôi mắt khách, thông lệ và thâu suốt: Có phải thí chủ muốn có ngọc Phật hài nhi. Ông Lã sững người: Hóa ra lâu nay thầy đã biết. Sư cười vang, độ lượng trước đam mê của nghiệp, rồi ôn tồn: Quả thật ở chùa Trúc có đến mười lăm hoành phi, trướng liễn. Hai mươi bảy tượng phật nhưng tất cả đều giả. Chiến tranh, tang điền dâu bể, cái thật đã mất sạch. Thợ trước thành tâm cúng phật, mang cả hồn vào công quả, biến đất đá vô tri thành thần thái. Thợ nay vô tâm, giả vẫn giả. Thú thật, đem cái giả mê hoặc lòng người, lòng cảm thấy bất an. Chùa Trúc nay là thật, họa hoằn, chỉ có ngọc Phật.
Nghe sư thổ lộ, ông Lã áy náy không yên. Ông biết đây là cuộc chơi khổ ải. Lòng bất định, ông yên lặng nghe tiếp lời sư: Ngọc Phật kỳ thật, nguyên thủy không phải là chủ sở hữu của chùa Trúc. Cách đây mười năm, một ngày lạnh, một phụ nữ vãn chùa. Suốt một sáng chiêm quan cảnh vật, quá trưa, phát khởi tâm nguyện, cúng chùa đôi ngọc Phật và có ý gửi người con trai lên mười nương náu cửa thiền. Sư trụ trì trước, tâm Phật mênh mông, người thì nhận, của quyết từ. Người phụ nữ khẩn khoản mãi. Biết không thể chối, sư nhận nhưng chỉ nhận một pho. Pho kia quyết gửi lại…
Nghe việc, ông Lã lại như lửa đốt. Xưa, kiến giải về ngọc Phật, bố ông bảo: Ngọc Phật thiếu tâm không bao giờ giữ được. Giá trị ngọc Phật bao giờ cũng thành đôi. Thiếu một, ngọc Phật sẽ bớt sáng, bớt trong. Tuy vậy, trong nghề, ai cũng biết, vật càng khó kiếm càng thú. Ông nhã nhặn muốn nhìn ngọc Phật.
Sư trụ trì thấu hiểu tâm trạng ông Lã. Sư nhìn xa xăm, chậm rãi: vật quí sinh tâm loạn. Nhà chùa không nên lưu giữ. Vả lại. nó là căn nguyên của tâm nguyện bất thành, lở dở. Người phụ nữa sau khi trao ngọc Phật, giữ chiếc còn lại và đi biền biệt. Ba năm sau chùa Trúc cũng không giữ nổi đạo hữu mà người đàn bà đã ký thác. Cậu bỏ đi vì cho rằng đời còn nhiều việc phải làm. Từ đó sư trước của chùa Trúc áy náy không yên. Vật còn mà người không còn, ngộ nhỡ người đàn bà trở về… Một đời chân tu tưởng tục lụy là mây bay gió thoảng, ai ngờ, ngọc Phật chứa tai ương, lòng áy náy đến khi viên tịch.
Sư không nói tiếp, thở dài, ngưng đọng. Ông Lã nghe cả tiếng chổi xạc xào ở sân trước. Lòng ông khấp khởi. Câu chuyện ngọc Phật đã mở cho ông một chút hanh thông cuối hầm. Vật quí sinh loạn. Trong nghề này, người chơi sẽ đạt được ý nguyện khi gặp kẻ sở hữu vật cổ, một là hạng tầm thường có mắt như mù, không phân biệt được vàng thau. Hai là, bậc cao nhân đắc đạo. Trong sâu thẳm ông tin ông sở hữu được ngọc Phật chùa Trúc dù hành trình để có được pho còn lại thật mù mịt. Mịt mù như hạnh phúc…
2.
Ông Lã có được ngọc Phật. Công quả đền đáp của ông với chùa Trúc là một căn phòng bằng gỗ quí để lưu giữ kinh kệ, sách vở trong chùa. Sư chùa Trúc đã mãn nguyện vì đã trao được vật quí cho người biết giữ, lại thỏa mãn ý xây thư phòng, mở mang chùa, chính trang tâm thức đệ tử. Ông Lã mở tiệc thiết đãi bạn bề bởi cái duyên có ngọc Phật. Rượu vào ông hứng chí: Kiếm cổ vật chẳng khác nào kiếm tình yêu.
Đó là rượu nói chứ thật ra có những đêm ông Lã chạnh lòng lắm. Trong gian nhà mênh mông, ông sống như chiếc bóng với cô gái út là sinh viên năm thứ ba. Cô có một thế giới khác, biệt lập với đại sảnh, chứa toàn những cổ vật câm nín. Và với cô là vô cảm. Và với cô có khi là tai ương.
Mẹ cô trước kia là người đàn bà lặng lẽ. Mấy chục năm bà sống trong tâm thức ngậm ngùi, rằng bà là một cổ vật trong hàng trăm cổ vật của ông Lã. Lúc cô đơn nhất, bà thường kể với con gái về những giấc mơ . Trong những giấc mơ đó, bao giờ bà cũng biến thành một bức tượng gỗ bằng trầm hương. Những màng nhện, bụi bặm bà không sao gỡ được.
Giữa đại sảnh, bà hoảng hốt gọi tên ông. Và bao giờ vẫn thế, ông xuất hiện với cái chổi lông gà màu đỏ thẫm. Lặng lẽ như một vị tu sĩ, ông chậm rãi phất những nhát chổi như kiếm sắc lên pho tượng.
Mười tám tuổi, An đã đủ lớn để hiểu những giấc mơ của mẹ. Cô cũng hiểu vì sao, trong những lúc kích động hiếm thấy nhất, mẹ cô lại bẻ gãy tất cả những chiếc chổi lông gà màu đỏ thẫm. Cũng bắt đầu hiểu, vì sao mẹ cô ngã bệnh.
Đó là một buổi chiều mà khu vườn nhà cô ngập tràn hương hoàng lan. Thuở bé, trong khu vườn, An rất thích ngồi dưới chân bức tượng đá Ngũ Hành Sơn bố cô cất công mang về. Ông đặt tượng dưới gốc hoàng lan trót trét hai mươi tuổi. Bức tượng là một phụ nữ với đôi bàn tay hờ hững. Nắng qua vườn in những đốm sánh hiếm hoi lọt qua kẻ đá dày, đậu trên vai, trên tóc người con gái. Thỉnh thoảng, một vài cánh hoa rơi, ngẫu nhĩ, trên tay hờ. Và An đã nhặt tất cả những cánh hoa đó bỏ vào trong cái hộp con mẹ đã tặng cô ngày sinh nhật. Đôi khi An nhìn lại những cánh hoàng lan khô. Hoàng lan thơ ấu, hoàng lan của một buổi chiều tháng chạp. Chiều ấy, mẹ cô vô tình đánh vỡ chiếc bình gốm sứ hoa tiên đời Tống. An nghe nói để có được chiếc bình, bố cô đã mất gần ba năm. Với bạn bè ông thường bảo: Chiếc bình quí ở chỗ nó gần như duy nhất. Nghệ nhân Kỹ Hà đời Tống làm hai chiếc. Một chiếc đã bị người Kim cướp trong chiến tranh. Và biệt tích. Cô không thấu hiểu cổ vật, nhưng đêm ấy, bố lặng lẽ như một chiếc bóng. Thật khuya, ông lang thang giữa đại sảnh với chiếc chổi lông gà màu đỏ thẫm. Vật thể trong những giấc mơ thường xuyên của mẹ.
Mẹ cô mất sau đó một tuần. Trên tay bà, lúc đó nắm chặt một nắm lông gà tơi tả.
Truyện ngắn của BẠCH LÊ QUANG
THÕNG TAY VÀO CHỢ
1. Cùng đường, Đoàn quyết định về quê bán đất. Thật ra đối với hắn, đây là nước cờ cuối cùng trong canh bạc áo cơm. Đúng hơn là cờ tàn. Dẫu sao, thề với nhật nguyệt hai vai, hắn không muốn. Nhất thời lao đao, đây chỉ là một hạ sách buồn.
Thuở bỏ làng đi, hắn nhớ như in đó là một buổi chiều mưa lạnh. Lúc ấy hắn đã tự nói với mình như trối: “Không khá lên, quyết không về”. Ban đầu hắn chưa đủ chín, chưa té ngã để nghĩ rằng mưu sinh đôi khi còn dữ và lăn lóc hơn cả chiến tranh. Cơm áo nhiều lúc là rắn rết.
Phố thị là đất hứa nhưng cũng là đất hiểm. Mật nhiều mà ruồi cũng không ít. Buổi ấy hắn phất nhanh như diều gặp nồm nam. Của đáng tội, kẻ giàu nước nổi lúc này nhiều lắm. Mà loại này lên xuống thất thường như thời tiết. Bởi, luật đời, cái gì dễ đến cũng dễ đi. Hắn trắng tay ở cuộc chơi mà hắn đã táo tợn dốc hết vốn liếng.
Nhớ một lần rượu lúc xênh xang cơm áo, bạn hắn, kẻ đã năm bảy bận xuống ruộng lên bờ, nhìn hắn cười gật gù, hát nửa đùa nửa thật: “Rừng ơi, hãy giữ cho bền nhé...”. Trong cơn đắc ý lúc thênh thang, hắn nhếch mép họa lại như thách thức: “Đường trần còn mưa bay gió cuốn, còn nhiều em ơi...”.
Thế rồi gió cuốn mưa bay thật. Hắn bể lớn trận dốc túi để bây giờ phải tính nước cờ tàn. Ừ, trong bất cứ hoàn cảnh nào không thể nghĩ khác hơn: khi người ta đã tính đến việc về quê bán đất, đó cũng là lúc người ta đã không cùng đường thì cũng quẩn chí.
Nhớ lại mấy năm trước hắn thở dài. Buổi đó hắn về quê như cụ Thượng về làng, như bọn đã đời phố thị, chán phố về chơi quê. Xóm dưới ngõ trên nhìn hắn mà cám cảnh nước mặn đồng chua, cua chợ rạm đồng, ao ước một cuộc đổi đời ngẫu nhĩ. Hắn điệu đàng thói phố thị nghêng ngang, đòi uống rượu làng Cói đầu vòi với cá ngạnh đồng um măng chua mới nhú. Đòi ngủ phanh ngực nơi bờ đê vẫn gió. Đòi nghe bằng được tiếng cu gù trong trưa nồm vắng buổi rượu tàn. Đòi. Uống. Và khóc. Ngô nghê như con trẻ khát bầu sữa mẹ...
Ai đời thế mà giờ đây, nhanh như mưa nắng, hắn buộc phải về như lúc đi. Chỉ có khác là phải về, bán quê.
Buổi đi, mẹ hắn dầu dầu: “Đất này của mi. Còn sống còn giữ. Chán phố thì về”.
Phố chưa chán, mẹ mất. Đất hoang, nhà vắng. Hắn về lập bàn thờ mẹ cạnh bàn thờ bố. Lần khân mãi bởi bỏ đi không đành. Cuối cùng, việc cũng tạm ổn. Số là hắn có ông chú họa sĩ. Tính chú cà tàng như xe đạp thời bao cấp. Ông chuyên vẽ tranh thiền và ảnh Đạt Ma. Thằng con cả của chú bảo: “Nhà phố không dung nổi ông già. Ông từng xới bao lơn trồng rau. Nhất nhất ông muốn về quê”. Nói chuyện với hắn, ông chú uống liền mấy chén rượu quê, cười khểnh khảng: “Ở với chúng nó trên phố, người bó như chết bó chiếu. Mưa không ra hồn, nắng không ra đũa”. Dốc tiếp mấy chén, ông nói hiền: “Về quê, vẽ cho vui”.
Nghe ông chú cà tàng phán, hắn sướng như mở cờ. Hắn bảo: “Hay chú về ở đất cháu. Mất cha còn chú. Mất mẹ bú dì”. Ông chú cười khà, cụng chén thằng cháu đáo để: “Xong. Trời có mắt. Giúp mi mà cũng giúp tau”.
Đoàn uống ực, nhìn chú cười nhăn nhở: “Vậy là một công đôi việc”.
Thỉnh thoảng về Đoàn lại yên tâm đi. Bàn thờ cha mẹ khói nhang nghi ngút. Những vồng khoai lang, lá xanh thì con gái. Buổi mẹ mất hàng chuối tiêu ngả vàng. Xóm giềng bảo: “Cây nuối người”. Không biết điều đó thật không nhưng từ ngày Đoàn có chí, chuối trở xanh, đọt non phong kín. Người chọn đất. Đất lại dung người. Nét bút vẽ tranh của ông chú càng phóng khoáng. Gặp lại Đoàn, ông bảo: “Đạt Ma của tau ở phố như Tạ Tốn ở Băng Hải Đảo trong phim Tàu. Ở đây, Đạt Ma gặp khúc hòa âm điền dã, ngộ đáo để”. Phấn khích, ông nghêu ngao: “Biển dâu sực tỉnh giang hà”.
Ông chú cà tàng càng sướng khi nhiều bức Đạt Ma của ông được khách mua. Bởi đất quê giờ là đất hội đất hè, khách thập phương tứ hướng.
Ông chú vui một, Đoàn vui hai. Cha mẹ hắn và đất chắc cũng thỏa.
Thế mà lúc này... Nước cờ tàn bao giờ cũng là nước cờ độc. Độc lắm. Nhưng làm sao?
2. Ở làng gần tám hôm, thằng đã từng chợ đời lăn lóc như Đoàn vẫn không sao nói được điều ấy với chú. Đoàn vẫn biết chú là người dễ tính. Đi và ở với chú như chim trời. Và đất này là tạm. Nhưng hễ cứ nhìn niềm vui hơn mấy năm về đây của chú, nhìn những bức tranh dung dị, mộc, thô trần gắn chắc trên những cái kèo, cái cột gỗ lim của ngôi nhà cũ, lòng hắn chùng xuống, nao nao niềm nỗi.
Trên đường về, hắn trù định giải quyết nhanh. Đất này xưa khỉ ho cò gáy. Từ khi nghe phong thanh tỉnh dự kiến mở khu chế xuất, giá đất lại tăng lên từng giờ. Vợ chủ tịch xã bén tin, lại xuất thân kẻ chợ, nhanh nhạy gom tiền họ hàng làm đầu nậu mua đất. Mua không cần giấy. Bán kiểu ứng. Gọn và nhanh của bọn biết thời.
Đêm quê, hắn trở mình trên chiếc giường thuở mẹ nằm. Mùi thuốc Cẩm Lệ âm ẩm, nồng, như còn, như mất. Mùa này, phố nóng hầm hập. Ở đây, thật lạnh. Gió từ khu nghĩa địa sát chân đê Mũi Trâu lồng lộng. Cút rượu với ông chú cà tàng chưa tới nên hắn khó ngủ lạ. Ánh sáng của ngọn đèn dầu trên nền vách thỉnh thoảng vẫn chao qua, đảo lại bởi gió. Và cái bóng đậm lui khui suốt đêm của chú Thành. Hồi chiều, trên chiếu rượu, chú Thành bảo hắn: “Mười bức tìm trâu mới xong ba bức. Tau đang sướng. Đêm nay phải thức thôi”.
Hắn hé mắt nhìn bức họa giấy dó được vẽ bằng mực tàu gốc đang dở của chú Thành. Nét họa đậm và mộc như đất quê. Hắn lan man nhớ chuyện chú nói buổi chiều lúc chú đã đời với rượu. Lúc này, chú Thành đã không còn nghĩ hắn là một gã học hành lam nham, một thương hồ lỡ vận. Ông phấn khích chỉ tay lên bức họa, gật gù:
“Mi biết không, đây là bức thứ ba trong mười bức tranh tìm trâu của Thiền tông. Mỗi bức, mi cứ cùng tau cạn một chén, tau diễn giải cho nghe. Bức thứ nhất gọi là tầm ngưu, tức tìm trâu. Trâu làng thiệt đó con. Bức thứ hai là kiến tích. Kiến tích là thấy dấu... Ừ, uống đi... nữa... Bức thứ mười, biết không Đoàn? Là bức nhập thiền thùy thủ. Ừ, nôm na là thõng tay vào chợ. Bức này vẽ một vị đạo sư vào chợ. Chợ đời, chợ người. Vị sư tay chống gậy tre, tay ôm bầu nước. Bầu nước hay bầu rượu? Tau cho là bầu rượu mới phải. Lúc nầy, sư đánh bạn với dân nhậu và phường đồ tể. Bọn thọc huyết heo ý mà. Người hỏi. Sư bảo: “Tụi nó và sư đều là Phật cả mà”. Đã không Đoàn. Uống đi...”.
Nghe chú Thành nói, hắn không hiểu nhiều lắm. Nhưng thích. Hắn lờ mờ nhận ra, hình như tất cả sẽ phải thõng tay vào chợ. Chợ đời. Cái chợ mà lúc cao hứng rượu chú Đoàn đã ngâm. Ừ, như là: “Chợ buồn đi bán những vui. Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em?”.
3. Hắn lao vào làm lại từ đầu với vốn liếng của đất quê, với chí của kẻ từng thua, thua đau. Đất lại dung người như từng dung những nét bút họa của chú Thành. Mạt vận và xênh xang có khi mỏng như lúa quê. Thương hồ lại gặp thời, vung tiền như mưa tháng chạp. Nhưng lần này hắn đã thận trọng hơn. Hắn quyết định lấy vợ. Sinh thời, mẹ hắn bảo: “Căn cơ bổn mạng đàn ông phải do đàn bà nắm. Làm mấy mà thiếu nó coi như múc nước chó uống”.
Vợ Đoàn là người kẻ chợ nhưng hiền và có chữ. Buổi mới quen nàng hỏi quê hương, gốc tích của Đoàn. Đoàn nhớ câu thơ mà chú Thành hay đọc, nói luôn: “Hỏi quê: rằng mộng ban đầu đã xa”.
Mà với hắn quê bây giờ là mộng, là xa thật. Xa đến mất. Mất hẳn rồi. Nhắc quê, hắn lại nhớ chú Thành và mấy ngày ở quê đến lạ lùng. Hắn nhớ, ngày thứ mười một hắn cũng nói được điều khó nói. Đêm ấy làng Cói lại đổ mưa dầm thâu đêm. Mưa quê của người chuẩn bị mất quê như muốn xát ruột. Những chén rượu tìm trâu mấy ngày trước chẳng bõ bèn. Trong mưa hắn vượt hói làng kiệt nước, tìm rượu. Rượu mưa lại là rượu quê của ngày mai biệt xứ nghe như mật đắng.
Trong cơn say hắn chắp vá chuyện cơm áo ngậm ngùi, chuyện mưu sinh đổ vỡ. Và cái ý định buổi cờ tàn. Hắn nhớ, lúc đi chú Thành vẫn cười như lần về. Nhưng mắt buồn. Buồn lắm. Chú cầm tay hắn, khẽ khàng: “Ráng làm ăn. Canh bạc cuối”. Hắn nhắc chú Thành về ba bức tranh tìm trâu vẫn treo trên vách nhà. Hắn ngỡ chú quên. Chú bảo: “Thôi, không cần. Đời người mấy ai vẽ trọn thập mục ngưu đồ. Có khi không trọn mà lại trọn”.
Mắt hắn cay nồng. Dáng chú như ngày về, vẫn liêu xiêu.
Nguồn gốc 7 ngày trong tuần
Tại sao tuần lễ lại có 7 ngày? Vì sao số 7 lại được coi là con số "mầu nhiệm"? Bởi vì nó được xuất phát từ quan niệm của người châu Âu và liên quan đến hiểu biết của các nhà khoa học thời ấy về vũ trụ. Theo họ, trái đất là trung tâm của vũ trụ, có 7 hành tinh quay xung quanh nó là Mặt Trời, Mặt Trăng và các vì sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và ngày ấy con người cũng mới biết đến 7 nguyên tố kim loại là vàng, bạc, đồng, sắt, chì, kẽm và thủy ngân. Họ coi 7 nguyên tố đó tương ứng với 7 hành tinh trong hệ mặt Trời, nên đã lấy mỗi ngày tượng trưng cho một hành tinh mà theo thế giới quan của họ mỗi hành tinh là một vị thần và được đặc trưng bởi nguyên tố kim loại với những tính chất nhất định.
Ngày đầu tiên trong tuần lễ được coi là ngày của vị thần thân thiết nhất, quan trọng nhất là Mặt Trời và ứng với thứ kim loại quý nhất là VÀNG. Đó là ngày Chủ Nhật. Tiếng Anh gọi là Sunday, tiếng Đức là Sonntag có nghĩa là ngày Mặt Trời.
Ngày thứ Hai được giành cho vị thần canh giấc ngủ đêm đêm của con người, đó là Mặt Trăng và tương ứng với nó là nguyên tố kim loại BẠC, thứ kim loại quý thứ hai sau vàng. Tiếng Anh là Monday, tiếng Đức là Montag có nghĩa là ngày Mặt Trăng.
Ngày thứ Ba được ứng với sao Hỏa và nguyên tố tương ứng là SẮT. Bởi sao Hỏa được coi là thần của chiến tranh mà vũ khí, áo giáp đều làm bằng sắt. Ngày nay người Pháp gọi là Mardy, còn người Tây Ban Nha gọi là Martes. Tiếng Anh là Tuesday, đây được coi là ngày của những chiến binh, của nam giới.
Ngày thứ Tư tiếng Anh là Wednesday, tiếng Pháp gọi là Mercredi, tiếng Tây Ban Nha là Mercoles có nghĩa là ngày của sao Thủy. Sao Thủy được coi là vị thần của thương mại. Theo hình dung của người xưa, đây là vị thần thường xuyên phải đi nhiều nên nguyên tố tương ứng là THỦY NGÂN. Thứ kim loại nặng, dễ di động.
Ngày thứ Năm người Pháp gọi là Jeudi, người Tây Ban Nha gọi là Juebes là ngày dành cho chúa tể của các vị thần linh, ứng với đó là sao Mộc và kim loại đi kèm là KẼM. Bởi kẽm có tính chất không gỉ nên nó đặc trưng cho sức mạnh của khôn cùng sao Mộc - vị thần sấm chớp. Có lẽ vì vậy mà ngày thứ Năm người Đức gọi là Donnerstag, nghĩa là ngày sấm chớp. Còn trong tiếng Anh nó là Thursday.
Ngày thứ Sáu người Pháp gọi là Vendredi, người Tây Ban Nha gọi là Biernes có nghĩa là ngày của sao Kim. Hành tinh này được coi là tượng trưng cho nữ thần của tình yêu. Ứng với sao Kim là nguyên tố kim loại ĐỒNG, một kim loại mềm dẻo, phản xạ những tia sáng lấp lánh. Các dân tộc ở Bắc Âu gọi nữ thần tình yêu là Fray, vì thế người Đức gọi thứ Sáu là Freitag và người Anh gọi là Friday. Đây được coi là ngày của nữ giới.
Còn ngày cuối cùng trong tuần được coi là của sao Thổ, vị thần mà theo quan niệm của người xưa là gây ra các nỗi bất hạnh, đau khổ về mặt tinh thần cho con người. Nên ứng với nó là nguyên tố CHÌ, một kim loại độc hại. Trong các ngôn ngữ ở châu Âu hiện nay chỉ còn tiếng Anh giữ nguyên được gốc tên gọi của sao Thổ (Saturn) để chỉ ngày thứ Bảy - Saturday.
Trên đây là khảo cứu nhỏ về nguồn gốc của các ngày trong tuần mà nguyên gốc tên gọi của nó còn giữ được trong ngôn ngữ của một số quốc gia châu Âu giúp chúng ta hiểu thêm về cách đặt tên ngày của người châu Âu cổ.
Sưu tầm, TH8x
Truyện ngắn của BẠCH LÊ QUANG
ĐẤT QUÊ
1. Chiều nổi gió lớn. Trời đùng đục... Những bụi tre oằn mình như tóc rối, đánh rập rờn, tông tốc những xác diều mắc cạn mà tụi trẻ vô tình làm đứt ở chân đê. Bích chạy vội ra ngõ, rướn mắt về phía cổng làng. Bụi mù mịt, đường hun hút, tịnh không bóng người. Lớ ngớ, Bích nghe tiếng mẹ: Quơ nhanh rồi vào. Giông đó!
Bích thở dài đánh thượt trong cổ họng. Khỉ! Người chi mà biền biệt. Không biết người ta mong. Mong lắm...
Người chi đây, trong tiếng thở dài của Bích, là Mung. Làng nón gọi là Mung kẹo kéo. Bích nhớ, khi những cánh đồng bắt đầu trơ cuống rạ, người ra đồng đi chân, đạp lên nghe ram ráp, sởn gai, và khi những đứa trẻ đen nhẻm, quần áo rách bươm, hò la, từ chân đê lao xuống ruộng rạ với trái banh quấn bằng giẻ nùi... đó cũng là lúc Mưng xuất hiện. Chiếc xe đạp tróc sơn màu sắt gỉ lúc đầu gắn chuông. Tiếng leng keng như một khúc đồng dao ngô nghê, mời gọi. Anh Mưng, em thích anh kéo kẹo dài. Anh Mưng, em thích ngắn, mập. Anh Mưng... Đứa trẻ khác, quần xệ tới rốn, nước mũi lòng thòng, cầm khẩu súng nhựa ngắm cẩn thận cái lỗ nhỏ. Nếu đạn lọt vào, Mưng phải trổ tài kéo kẹo thưởng.
Bích nhớ, nhớ lắm. Hường, bạn thân của Bích bảo: Phải lòng nhau rồi, cái chi nhỏ cũng nhớ. Bích thấy đúng, dù đó là lần đầu Mưng xuất hiện ở làng này.
Mùa rạ trơ năm ngoái, Mưng lại về, áo ca-rô kẻ sọc, quần kaki đà. Phía sau xe là chiếc máy hát to đùng. Chú Mân cạnh nhà Bích, gạ mãi, để buổi trưa, Mưng nghỉ nhà chú. Chú mê giọng cô Lệ Thủy dẻo như kẹo kéo, giọng mùi của Minh Vương...
Bích lại thở dài, xếp phẳng phiu những chiếc lá. Mẹ bảo: Mai dậy sớm, ủi đống lá. Trưa, xuôi chợ Gianh, mua thêm. Mùa lễ hội, người ta đặt nhiều. Bích dạ nhỏ, mắt vẫn hướng ra ngõ. Ngõ nắng, buồn như làng nón mùa mưa. Người chi mà... năm ngoái, trong nhà chú Mân, Bích còn nghe rõ tiếng Mưng hẹn mùa này về sớm. Thế mà, đống rạ đã gần thối gốc, bàn chân giẫm lên không còn nghe ram rám. Ba ngày trước, Bích băng đồng, qua hói kiệt, ngược chợ Gianh. Chân Bích đạp lên những gốc rạ nhũn mềm bởi những trận mưa giông muộn. Bích thấy dưới chân mình nham nhám nước, lòng cô nao nao. Cô lại bắt gặp những xác diều, trái banh giẻ nùi của tụi trẻ đã chán chường, rã rệu vất long lóc trên đồng. Người chi mà... Mưng ơi!
Đêm, Bích nằm trên chõng tre. Những nan tre già, bóng mỡ, mát lạnh. Mưa ngùi ngùi. Bích xô cửa sổ. Làng nón chìm trong mưa. Tiếng ếch nhái vọng đều trên những cánh đồng trơ rạ bây giờ chắc hẳn đã xâm xấp nước. Giông muộån mà dai dẳng lạ, từ chiều đến giờ. Trong mờ đục, mắt Bích hướng ra cái chòi vịt của cậu Rô. Có lần, chiều muộn lắm, Bích và Mưng ngồi trong vườn chú Mân ngó ra. Chòi vịt liu riu đốm lửa đèn. Từ chòi, khói rơm trấu đườm đượm, nồng nồng khóe mũi. Bích biết vợ chồng cậu Rô đêm nay sẽ ở lại canh chòi, bởi mùa vịt bầu đẻ trứng. Cô chỉ cho Mưng cái ánh sáng đó. Họ thầm thì về một hạnh phúc bé nhỏ, mong manh.
Càng khuya, mưa càng nhiều. Bích không sao ngủ được. Cô xô mền vùng dậy. Bích mở rương, sục tay vào dưới đống quần áo. Tay Bích chạm vào những tờ giấy mà cô đã vuốt phẳng phiu nhiều lần. Đó là những bài thơ của Mưng.
Năm trước, mùa lễ hội, một bác từ tỉnh về bảo mẹ: Khách thích những nón lá có những bài thơ. Mẹ bảo: Thơ gì? Bác bảo: Thơ gì miễn là thơ.
Nghe Bích kể, Mưng cười, hiền như đất: Thơ tôi nhiều lắm. Để tôi kiếm tặng Bích.
Bích đọc cho Hường nghe: Anh đến tìm hoa, thì hoa đã nở/Anh đến tìm đò, đò đã sang sông. Hường cười cười: Thơ hay thường buồn. Bích cũng không hiểu sao nhưng thấy Hường nói trúng phóc.
Mưa đêm rả rích. Tiếng chó sủa khan đêm. Buồn quá, Mưng ơi.
2. Ông Cả Hưởng kéo sợi dây gấc to bằng nửa sợi thừng. Con đò rùng rùng mấy cái rồi xuôi xị, lướt êm trên một khúc sông ngắn cách bờ non bốn sải tay. Thím Dừa vỗ đét lên vai Bích, Bích giật mình. Tiếng thím chen chét như dao liếc trên đá: Đến rồi mày. Dạo này thấy mày oải oải. Thằng Mưng về chưa? Bích cười. Nhưng mắt nhìn xa, buồn buồn. Mưng ơi, cả làng nón biết chuyện mình. Gái ở làng khổ lắm. Da đen, tóc cháy đã đành. Tình hẹp như đò ngang. Yêu ai không thành, râm ran một cõi.
Chị Mận ở làng bên đó. Cách một hói sông nước kiệt mùa rạ khô. Mười tám tuổi, yêu một công nhân về Kinh Tàu làm thủy lợi. Bố mẹ lành như sắn khoai, rước vô nhà. Lại lo chỗ ăn, chỗ ngủ. Ngày tỉnh về cắt băng khánh thành, rượu sâm banh nổ đôm đốp. Đêm ấy văn nghệ hát đến khuya. Chị Mận chờ mãi, đèn lu dầu kiệt, không thấy người về.
Bây giờ, trên đê Kinh Tàu, hàng phi lao đã lên xanh ngợåp, chị Mận đã thôi khóc, thôi chờ, nhưng trai làng không dám bén mảng tới nhà. Ông bố, từng chiều, xong việc đồng, nhẩn nha trên cái sân gạch, nhổ từng chùm cỏ dại, ngoan cố, lắt lay, vượt lên từ đất. Chị Mận ngồi trong phòng, ngó ra cửa sổ, thở hắt từng hồi. Một đêm chị ra Kinh Tàu. Và không thấy chị về...
Nước xuôi tình chị. Chị lại theo nước mà biệt tăm.
Thuyền cập bờ. Thím Dừa về cùng Bích. Đến ngang cây sung dại, đáng lẽ Bích sẽ tắt ngang Kinh Tàu, qua đồng rạ, theo đường gần về nhà. Nhưng Bích không theo lối đó. Thím Dừa chửi: Cha mày, lẩn thẩn rồi thành con Mận làng bên. Tao mà như mẹ mày, kiếm đám nào gả quách. Bích cười, thím kiếm giùm con đi.
Bích không theo đường gần. Đường này, đối với cô, có đồng chiều đã âng ấc nước, gợi một lời hẹn muộn. Đường kia có xa, nhưng sẽ ngang qua đình làng.
Màu sắc của chiếc xe nói gì về bạn?
Màu sắc của xe hơi luôn luôn đóng vai trọng trong sự lựa chọn của khách hàng. Trước đây, bạn chỉ có thể chọn màu đen, không phải bởi đó là màu yêu thích của ngài Henry Ford đáng kính mà còn bởi đó là màu nhanh khô nhất. Giờ đây, những tiến bộ của khoa học đẩy nhanh quá trình làm khô và các nhà sản xuất bắt đầu thêm nhiều màu sắc bắt mắt vào bộ sưu tập của mình.
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024233.jpg
Theo những nhà tâm lý học, chủ nhân của những chiếc xe màu đỏ là những người rất thú vị, giàu nghị lực, can đảm, tham vọng nhưng thường nôn nóng và thiếu kiên nhẫn. Họ luôn suy nghĩ, di chuyển và nói rất nhanh. Màu đỏ đồng nghĩa với tốc độ, năng nổ, và đam mê sự hoàn hảo.
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024231.jpg
Màu nâu hoặc màu cam biểu trưng cho những người thực tế, độc lập và những người thích ganh đua. Hai màu này còn hiện thân cho sự khôn ngoan và đơn giản.
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024234.jpg
Những chiếc xe màu vàng thuộc về những người duy tâm, thích sự mới lạ, và cả những người thông minh nữa.
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024230.jpg
Chủ nhân của những chiếc xe màu xanh lá cây thì thường là những người có tính cẩn thận, hơi khó gần và có xu hướng... nổi loạn.
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024219.jpg
Người giàu trí tưởng tượng, trung thành và đáng tin cậy thường xuất hiện bên chiếc xe màu xanh thẫm.
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024217.jpg
Những quí bà đằm thắm chọn những chiếc xe màu hồng, màu hồng còn là biểu tượng của óc sáng tạo và tính độc lập.
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024233.jpg
Người thích xe màu bạc hoặc xám thường lãnh đạm, điềm tĩnh, sống hơi tách biệt và luôn có xu hướng phê bình.
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024218.jpg
Màu đen sang trọng thuộc về những người bướng bỉnh nhưng có kỷ luật, thích các mẫu xe cổ điển có dáng thanh lịch và tao nhã.
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1266024235.jpg
Những chiếc xe màu trắng thuộc về người luôn mưu cầu địa vị, hướng ngoại hay những người luôn lạc quan, sống đơn giản và đáng để bạn tin tưởng.
Đương nhiên, mọi quy luật đều có ngoại lệ. Để đánh giá một con người qua chiếc xe của họ không theo phương pháp hay quy luật nào cả. Ví dụ, với những người mua xe cũ thì chất lượng của chiếc xe là điều đáng quan tâm hơn rất nhiều so với màu sắc của nó.
Theo Autonet
Tự sự của một người khởi nghiệp thất bại
http://img.photo.zing.vn/file_upload...1262348135.JPG
Chẳng mấy ai đủ can đảm kể lại câu chuyện khởi nghiệp thất bại của chính mình, nhưng tác giả của bài báo dưới đây đã làm được điều đó. Sau lần thử thay đổi thời vận không thành, anh đã quay lại công việc cũ, mỗi ngày tám tiếng ở văn phòng và viết bài này cho mục Khởi nghiệp của TBKTSG, mong mang lại chút kinh nghiệm cho những ai sắp bước vào kinh doanh...
Hồi đó, đang từ một viên chức bình thường, tôi đột ngột quyết định chuyển sang làm kinh doanh. Tôi chọn hướng mở quán ăn vì đã nhiều lần… đi ăn quán, đã phần nào hình dung được công việc kinh doanh. Và quan trọng hơn nữa là tôi tự tin vì mình cũng biết chút ít về nghề bếp. Người thân can ngăn “chớ thấy người ăn khoai vác mai đi đào”, nhưng tôi bỏ ngoài tai.
TỪ QUYẾT ĐOÁN ĐẾN… GÀN
Trong kinh doanh rất cần phải cố chấp, tôi nghĩ thế. Cố chấp, trong một chừng mực nào đó, là quyết đoán, bản lĩnh, dám nghĩ dám làm.
Công việc đầu tiên của tôi là tìm thuê mặt bằng. Việc này tôi không có kinh nghiệm nhưng vẫn quyết làm một mình, bởi không muốn tiếp tục nghe những lời can ngăn. Đọc báo thấy đăng “nhà cho thuê nguyên căn, sân để được xe tải, giá thuê vừa phải, hẻm xe hơi vào được…”, tôi liên hệ ngay với chủ nhà. Xem xong căn nhà cảm thấy vừa ý, tôi quyết định đặt cọc, làm hợp đồng… ngay trong ngày.
Tôi sợ nếu không quyết định sớm sẽ có người khác đến thuê, quên việc phải thương lượng giá. Mẹ tôi biết chuyện cứ cằn nhằn suốt, bởi khi bà đi hỏi chuyện mấy ông xe ôm đầu hẻm và dò la người dân sống gần đó thì hiểu ra tôi đã thuê hớ giá khá nhiều. Lúc này thì đành chịu, tôi đã ký hợp đồng, đã đặt cọc ba tháng, và đóng trước một tháng tiền nhà. Sau đó tôi còn phát hiện ra một số điều kiện về mặt bằng chỉ có trên… mục rao vặt. Chẳng hạn, “hẻm xe hơi vào được” nhưng lại không ra được, vì đầu con hẻm rộng tới 12 mét nhưng vào đến căn nhà tôi thuê thì chỉ còn 4 mét! “Sân để được xe tải” có nghĩa là sân không có mái che, giữa trưa trời nắng mới thật là khủng khiếp. Tiếc là lúc xem nhà và khi ký hợp đồng tôi lại đi vào buổi chiều tối nên cứ thấy mát rượi!
Ngày khai trương, quán phở rất đông khách. Tôi đắc ý cho là mình quyết định đúng mà không để ý đến một điều là lần đầu tiên ở khu vực này xuất hiện một quán phở. Người ta đến ăn vì tò mò chứ chưa hẳn vì nhu cầu. Sau vài ngày đông vui, khách đến quán cứ thưa thớt dần. Tôi lại phải động não tìm nguyên nhân thất bại. Đây là một khu dân cư đông đúc, nhưng hầu hết đều là viên chức nên sống khá khép kín. Sáng họ vội đi làm nên không kịp ăn, chiều về ăn cơm tối với gia đình. Rốt cuộc khách hàng chính của quán tôi ở con hẻm chỉ là mấy ông bà nghỉ hưu. Nhưng khổ nỗi họ lại sợ cao huyết áp nên chẳng mấy ai đụng đến phở. Vậy là tôi đành trông chờ vào khách vãng lai.
Con hẻm mà tôi mở quán ăn thông sang nhiều hẻm và đường lớn khác nên suốt ngày tấp nập người qua lại. Tôi thấy đây là ưu điểm và bỏ qua lời cảnh báo từ người thân rằng “đây là con đường chết, người qua lại tuy tấp nập nhưng đó là vì công việc, vì… tránh kẹt xe, chứ không phải để tìm một điểm ăn uống”. Hơn nữa, như nhiều người phân tích, quán của tôi chẳng có gì hấp dẫn để thu hút khách vãng lai. Quán không có bảng hiệu, chỉ có mỗi hộp đèn gắn tít trên trời. Thêm nữa, hộp đèn chỉ mở vào buổi tối, còn ban ngày khách đi từ xa chỉ thấy mỗi tên quán (là tên tôi!) còn quán bán gì thì không rõ, vì chữ “phở” tôi để quá nhỏ.
Kinh doanh phở ế ẩm, tôi đột ngột chuyển sang bán cơm, vì nghĩ món này “thiết thực” hơn. Một lần nữa quyết định quá nôn nóng của tôi đã gây họa. Có khách vào quán gọi phở đã phải sượng sùng quay ra, vì tôi bán cơm mà vẫn treo hộp đèn quán phở! Thậm chí, chiếc xe phở còn được tôi “cải tiến” thành tủ kiếng bày thức ăn bán với cơm! Nhưng điều đó cũng chưa “nghiêm trọng” bằng việc tôi quyết định quay trở lại bán phở lần nữa. Do bán cơm không đắt khách như mong muốn, và lại có nhiều khách gợi ý tôi nên bán phở trở lại. Lúc này không ai còn hiểu nổi quán tôi thực sự bán gì!
Vì cố chấp, tôi đã bằng mọi cách quyết phải đạt được thành công. Cũng vì cố chấp, tôi cứ sợ mọi người cười chê thất bại của mình. Chính những suy nghĩ này đã dẫn đến một đường lối kinh doanh không nhất quán, làm tôi ngày càng lún sâu vào thất bại.
“SÁNG TẠO” QUÁ MỨC
Sau một thời gian loay hoay từ “phở” sang “cơm”, hết “cơm” đến “phở”, tôi chuyển sang bán nước uống. Nếu như ở hàng ăn đòi hỏi phải nghiêm ngặt trong công thức chế biến, thì với thức uống tôi lại thấy hợp với đầu óc “sáng tạo phong phú” của mình.
Lần này rút kinh nghiệm chuyện làm bảng hiệu lúc bán phở quá mờ nhạt, tôi cho làm lại hộp đèn, vẽ lại bảng hiệu với cái tên… rất Tây: “Hi there, buddies!”. Sợ cái tên này nghe lai căng quá nên trong tờ rơi đi phát ở trường học, tôi đã cẩn thận chuyển ngữ sang tiếng Việt, nghe thật… kêu: “Chào nhé, bạn mình ơi!”.
Rồi tôi bắt tay vào nghiên cứu công thức pha chế các món uống. Tôi “sáng tạo” bằng cách thêm vị này, bớt vị nọ. Vì quá “sáng tạo”, tôi đã tạo ra một thực đơn dài dằng dặc hàng mấy chục món giải khát, chưa kể cũng ngần ấy món trái cây và sinh tố. Tên gọi các món lại được đặt quá bay bổng, đến nỗi khách không thể hình dung mình sắp được “thưởng thức” món gì với những cái tên như “Hây hây má hồng”, “Mắt ai mãi tìm”, “No 4 go”… Cũng vì tôi tạo ra quá nhiều công thức nên lúc pha chế cho khách tôi không thể nào nhớ xuể. Vậy là vừa pha chế tôi phải vừa… cầm giấy ghi công thức nhẩm đọc. Việc này đôi khi cũng dẫn đến nhầm lẫn trong pha chế khi quán đông khách.
Tôi đã cố hết sức nhưng vẫn không thành, chỉ còn biết rút ra bài học cho chính mình:
* Kinh doanh rất cần sáng tạo nhưng không phải là phi thực tế.
* Và điều quan trọng hơn là không thể chủ quan khinh suất.
Tôi vốn thích yên tĩnh nên khi kinh doanh đã chọn hẻm để mở quán. Ngoài lý do đó, tôi còn bị thuyết phục bởi nhiều quán ăn dù mở trong hẻm mà vẫn rất thành công. Nhưng tôi lại quên rằng những quán thành công đó rất khác biệt so với tôi. Đó là những quán chuyên bán đặc sản vùng miền, quán cà phê vườn lãng mạn… Chứ bán hàng ăn uống bình thường như tôi mà tìm nơi tịnh vắng thì chỉ có thất bại. Lẽ ra tôi phải biết vận dụng câu “buôn có bạn, bán có phường” khi chọn địa điểm mở quán.
Tôi cố cầm cự hơn một năm thì đành đóng cửa. Tôi chạnh nghĩ mình không có khiếu kinh doanh! Đi ăn quán thường xuyên, làm bếp thuần thục chưa hẳn đã có thể kinh doanh quán ăn giỏi!
Thời báo kinh tế SG
Thơ & Truyện của PHAN CUNG TIẾN
... Tôi bỗng nhận ra lối viết truyện của Phan Cung Việt chẳng giống ai, và cũng không giống lối viết truyện ngắn truyền thống đã được lý luận hóa thành bài bản cho nhưngx người học văn và học viết văn...
Đến nay Phan Cung Việt đã có tới vài trăm truyện ngắn. Vậy là có biết bao cảnh đời trong bao nhiêu trang sách của nhà văn. Hoặc nó nhấn chìm nhân vật xuống tới... thành cặn bã. Hoặc là nó thăng hoa nhân vật lên cõi thánh thiện. Hoặc bỏ mặc nó trôi nổi kiếp sống qua năm tháng, như sự sống sinh học, hay như bè chuối trôi bồng bềnh trên mặt sông cho tới lúc vỡ bè tan vào dòng nước. Tới đây, cái gọi là con người và cái chưa phải là con người, thậm chí nhiều cái còn xa lạ cả với loài... hiện ra rõ nét ở mỗi nhân vật trong truyện. Ra con người tự làm khổ nhau, tự đầy ải lẫn nhau, rồi còn tự sát hại nhau! Vậy là nó bừng ngộ trong lòng người đọc bao điều suy ngẫm về con người, về cõi nhân gian. Càng suy ngẫm càng ứa trào nước mắt.
Phan Cung Việt không khắc họa tỉ mỉ chân dung nhân vật, lại càng không kể lể dài dòng về thân phận con người trong truyện. Hệt bức ký họa chỉ mấy nét chấm phá. Anh tinh nhạy lách ngòi bút vào nơi thẳm sâu, khuất nẻo nhất của đời sống thường nhật, nhưng người đọc vẫn thấy nó rất cụ thể, cặn kẽ, và cũng rất cá biệt, song lại cô đúc thành đặc trưng, điển hình.
Láng Thượng, 14.6.2001
Nhà văn Vũ Đức Nguyên
Hạng mục cuối cùng
Đây không phải là truyện cuối cùng anh Vấn viết xong rồi ngoẻo, chấm hết một kiếp cầm bút long đong, như người ta thường nói. Nhờ Giời Phật cho khỏe thì chắc anh còn viết nhiều nữa. Mà đây là loại truyện xếp vào hạng mục nhân văn cuối cùng của đời người. Như vấn đề “nhân quả” (anh cả tên là Túng từng nói), “xa thơm gần thối” (của ông bố đẻ), “nhạt hơn người dưng” (vợ anh Vấn từng nói), “bác-ca-nông” (cái Thánh con gái đầu của ông chú từng nói) v.v...
Thực ra bố anh Vấn là người đàn ông có giá, cụ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kiếp người, gần được như câu ca “công cha như núi Thái Sơn”. Chỉ có điều cái lối sống củ cụ thuộc loại như dân gian nói là “xa thơm, gần thối”. Tức là ở cùng với ai thì người ấy dở, chỉ người xa mới đáng nhớ thương. Cứ thế mà yêu, ghét theo vòng cuốn chiếu luôn hồi. ở với vợ con thì chỉ nhớ thương anh em cháu chắt họ mạc của mình ở nhà. ở với anh con cả thì chỉ mong anh con hai, anh con ba... Rồi ở với anh hai, anh ba thì lại nhớ thương mong ngày đoàn tụ với anh cả. Nói theo bà cụ thì cái thói nặng nhất là ở cùng vợ con thì cứ nhớ mong đoàn tụ anh em nhà mình. Anh cả Túng thì nói:
- Khổ quá, người ta thì cầm cuốc cuốc vào, đây lại cứ cầm cào cào ra...
Mới đây, sau đám tang ông chú ruột thì anh Túng lại nói một câu, nghe chừng không dễ hiểu chút nào:
- Đúng là luật “nhân quả”!
Anh Vấn nhớ lại những năm tháng gia đình đoàn tụ, chẳng có chuyện gì nhưng chẳng hiểu sao cứ buồn thăm thẳm. Người đàn ông rường cột trong nhà, nhưng mọi vui buồn ơn huệ hận thù lại từ cái tính cách người đàn ông mà ra. Người đàn bà sớm phát hiện ra điều đó và phải chịu đựng suốt từ thời con gái.
Cái tính “xa thơm gần thối” của bố anh Vấn, biết đâu cũng chính là thủ pháp sống của ông, cái thủ pháp tráo trở giữa cuộc đời để chèo chống nuôi được vợ con. đó là cái phần cần hiểu cho đúng, đừng quy oan. Còn thực chất của nó thì quả có sinh ra phương hại.
Dịch nôm cái tính đó là: “Người được ở gần tôi dù thế nào cũng là sướng rồi. Chỉ thương anh em cháu chắt họ mạc của tôi”. Và người ở gần, trước hết là người vợ, phải chiến đấu trường kỳ với cái tính chủ quan ngu dốt ấy.
Thực ra người sống gần thì khổ, người sống xa thì sinh thói đòi hỏi hợm hĩnh. Trong mấy anh em bên nội, thì bố anh Vấn thương chú Ngần nhất. Chú Ngần thì không sao, chứ vợ con chú, nhất là các con chú, cứ cho là bác gái và các anh chị ăn hết phần “bổng lộc” của họ, lại sinh ra khắt khe keo kiệt. Cái Thánh con gái đầu của chú từ khi ra học đại học cho đến khi ra ở nước ngoài vẫn một mực hậm hực, bảo bác là “bác-ca-nông”, tức là súng ca nông bắn cũng không nhằm nhò gì! Mẹ anh Vấn ức lắm:
- Tôi là tôi cấm cửa!
Đã thế lũ cháu trai bên nội lấc cấc, to vổng như trâu mộng, mặt mày lạ hoắc từ đẩu đâu tự xưng là ở quê ra đến gõ cửa, mẹ anh Vấn không mở, hỏi lại: “Anh là ai?”. Bà sợ cánh này chỉ nhằm nhe bỏ bánh thuốc phiện vào cái túi đeo điệu đàng ở vai, buôn từ Lào sang, rồi trốn vào nhà bác giai. Đấy là bà có tính lo xa.
Bố anh Vấn buồn và hậm hực đầy lòng. Lúc nào cái nhìn cũng bực dọc gay gắt, như muốn nói: “Bà quá thể. Coi anh em cháu chắt bên tối quá người dưng nước lã...”. Rồi lẩm bẩm như ma: “Em ta, ta quí, ta thương”. Không ra câu thơ, không ra câu khấn.
Anh cả Túng đi chiến đấu trong Nam xa từ hồi trẻ, rồi ở lại lập gia đình trong đó luôn thì không thật rõ ngọn ngành. Còn những thành viên có mặt như chị Phướng và chú Đắt thì ra điều khôn ngoan, đứng về phe người chủ trì tức là ông bố, cho rằng như thế là đúng. Như cán bộ viên chức khôn ngoan cứ đứng về phía lãnh đạo là xong. Còn anh Vấn thì lưng chừng, có phần nghiêng về phía bà mẹ, dù thực lòng không dại gì coi họ mạc là người dưng nước lã, và ông bố thì cũng như mọi người đều là công tội vốn ngang nhau. Nói nhẹ nhàng thế, chứ một ngày sống chẳng dễ chút nào!
Đến ngày chú Ngần qua đời ở một vùng quê biển xa, đi trước ông anh là bố anh Vấn. Cụ xót xa lắm, choáng lắm, ở cái tuổi gần chín mưới, cái tính cũ “xa thơm gần thối” lại càng bốc mạnh lên. Bà mẹ mất đã lâu, các thành viên bước vào tuổi già, mọi chân lý xưa đã trơ toác ra. Nhưng dòng họ là dòng họ, lại sắp ở tuổi lá rụng về cội, cáo chết quay đầu về núi cả rồi, làm sao cho xứng đây?
Chị Phướng:
- Điện chia buồn là xong!
Chú Đắt:
- Chú sẽ lo cái phong bì...
Anh Vấn:
- Không được, chú cũng là cha. Phải thuê xe về tận nơi. Ba chị em ta cùng đi!
Chiếc xe máy lạnh bốn chỗ ngồi lăn bánh về vùng quê cách mấy trăm cây số. Nỗi buồn thăm thẳm về họ mạc năm nào, khởi đầu từ ông bố, như ma ám vào tận trong xe lúc này. Chị Phướng ngồi ghế trên quay cổ lại: “Mua cái phướn cho nó sang chứ cậu!”. Chú Đắt ngồi bên thì thầm: “Phong bì đây bác, chú chuẩn bị năm trăm. Bớt lại hai trăm đỡ tiền thuê xe cho bác, đi về mất gần triệu chứ ít đâu!...”
Đến nơi, một chiếc quan tài gỗ tạp méo mó, dài ngoẵng như một thân cây mục, đặt giữa căn nhà thấp lè tò mái gần chạm đến nền cát. Thực chất vùng quê là vậy, tang gia là vậy. Đám người gào khóc bơ phờ. Anh Vấn nửa thật nửa giả, nửa say nửa tỉnh, đến cái móc trước quan tài, rút xoạch mấy giải xô trắng, ba cái cho ba người, làm khăn tang. Cái Thánh từ nước ngoài về chịu tang bố, béo thấp như khúc giò lụa, gào khóc bên quan tài rồi đưa mắt ráo hoảnh nhìn đoàn anh chị, lại gào to hơn. Mặc niệm, thắp hương, trao phướn, đặt phong bì... Chu tất đâu đấy xin phép linh hồn chú lên xe về. Trời nổi trận mưa to. Sáng mai người ta đưa chú Ngần ra đồng.
Đúng sáng hôm sau, anh Túng nhân danh tộc trưởng gọi điện từ xa ngàn cây số về chia buồn cho thêm phần trọng thể, thì đôi bên nổi trận lôi đình, đến mức phải giập máy xuống. Tiếng khóc gào còn phụt ra từ máy nói:
- Thật quá người dưng nước lã!
- Hôm nào bác mất chúng em sẽ cho người trả lại chiếc phong bì ba trăm!... Hu... Hu... Hu...
Anh Túng:
- Thật là nhân quả!
Đến lượt anh Vấn choáng. Mơ hồ nghĩ đến cái nét “xa thơm gần thối” của ông bố. Anh Túng nói điều ấy chăng? Nhưng choáng, lòng thành, tiền mất tật mang. Trao đổi với mấy bạn giỏi về văn hóa phong tục, họ nhao nhao:
- Đúng rồi, bởi ông anh bà chị “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” quá. Về lại đi ngay...
- ít ra phải ở lại đưa chú ra đồng đã!
- Hoặc nhấp chén rượu, bát cơm cúng, hoặc lăn lộn gào khóc bên quan tài...
- Bảo quá người dưng nước lã là đúng!
Hu... Hu... Hu...
Ha... Ha... Ha...
Anh Vấn lấy lại bình tĩnh kể với cô vợ đang ngồi một cục trước mâm cơm.
- Oan gì! Anh đối với họ mạc đôi bên còn thua cả người dưng nước lã! Cô vợ ráo hoảnh.
- Cô bảo ai?
- Như với cái Hường vợ thằng Huấn nhà em, hoặc với cô Thứ vợ chú Đắt bên anh. Bao giờ mặt anh chẳng lạnh như tiền!
- Cô im đi. Đó là chuyện khác. Đó không phải là chuyện người dưng nước lã mà là chuyện loạn luân?
- Loạn luân thế nào?
- Chúng nó xinh đẹp, phởn phơ thế. Mặt không lạnh băng thì cứ nhìn chúng mà nuốt nước bọt ừng ực, mắt chớp beng beng chắc!... Thời nay bao nhiêu ông anh chồng anh vợ đã đổn đốn như vậy rồi. Cô không biết à?
Hu... Hu... Hu...
Ha... Ha... Ha...
Xóm Mỗ Hương, 17.6.2001
Thơ & Truyện của PHAN CUNG TIẾN
Cỏ bến sông
1. Sau đêm nằm mơ thấy con sông nước màu hồng chảy vào tận giường nằm và chiếc giường hóa thành con thuyền có cánh buồm trắng toát, sáng tỉnh dậy tôi vội ra bến Bồ Đề nơi dạo trước đêm tôi và em thường ngồi chơi trên bãi cỏ tự nhiên xanh mướt, ngắm dòng sao trời và ánh điện trôi dưới sông.
Bồ Đề là tên cổ của bến sông, trước đây nghe nói đất phù sa đỏ thắm, có ba loại cây cỏ mọc nhiều là cỏ bồ đề dành cho ngựa vua ăn, cỏ mần trầu nấu gội đầu cho thiếu nữ và cây đậu tương lấy hạt làm bánh thơm. Khi về tôi viết bài thơ sông Hồng:
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Im...bnailID=387297
Người ta bảo sông Hồng mùa nào cũng đục
Tôi ở gần sông không hay biết chuyện gì...
Sông việc sông, mình việc mình, có lúc
Ra ngắm sông Hồng mọi chuyện lại nguôi đi...
Thực ra sông Hồng cũng khi trong khi đục
Tôi biết chuyện con sông khi đã ngả sang chiều
Quãng giêng hai, nước sông Hồng trong nhất
Mẹ sinh tôi tháng ấy ngặt nghèo!
Cũng tháng ấy, áo đào phai con nước
Em đi lấy chồng, tôi đứng trông theo...
Bài thơ ra đời được nhiều người yêu, in vào tuyển này tuyển nọ. Vài nhà phê bình viết lời bình. Trong số đó tôi thích nhất bài bình của anh Sáng, bạn học văn khoa, giờ là nhà phê bình thơ nổi tiếng. Tôi thích nhất đoạn cuối bài viết, anh Sáng dừng rất lâu ở hai câu cuối, nói về tình yêu với một cô gái. Cuối cùng anh buông một câu: “Đọc xong câu này tôi thấy thương anh đến lạ!”.
Anh Sáng tinh lắm. Cô gái xinh đẹp mười tám tuổi mà tôi thường gặp đêm đêm ở bến Bồ Đề. Đêm đêm gió từ lòng sông thổi lên, bay mái tóc thề ngang vai của em, thoảng lên mùi thơm lạ lùng. Tôi đùa: “Em gội nước cỏ mần trầu à?”. Em cười: “Em hiểu điều anh nói. Nhưng em gội nước bồ kết”. Hình như bến sông xa lắc bờ bên kia có một bóng cây bồ kết rất to, cô đơn đâm lên đường chân trời. Bên ấy thấp thoáng nhiều bến nước, cỏ xanh mướt.
Một đêm chẳng hiểu sao tình cờ em nói:
- Em vừa đi xem về. Người ta bảo số em vất vả, phải qua đến vài ba bến nước. Anh có dám đi cùng em không?
Nói rồi em rơm rớm nước mắt, gục hẳn vào vai tôi. Tôi nói:
- Em đừng tin điều mê tín. Thời buổi khoa học rồi!
Tôi nói câu ấy như con vẹt, như cách nói của mọi người. Chẳng ngờ cuối cùng điều em nói lại đúng. Đời em vất vả, qua hai đời chồng rồi, người chồng của em hiện nay lại đang bị nặng về gan. Trách chi đêm xưa ấy em khóc nhiều đến vậy.
Đêm ấy quãng sông trước mặt chúng tôi xảy ra một chuyện lạ lùng. Người ta bảo có ba con cá lạ từ ngoài biển, ghen tuông cắn xé nhau thế nào mà dạt vào đây. Dân làng chài thấy có điều lạ bèn thắp đèn hoa đăng vừa đón vừa xua đuổi...
Sáng ra không thấy ba con cá lạ ấy đâu nữa.
Thơ & Truyện của PHAN CUNG VIỆT
BINH PHÁP TÔN TỬ
Đàn bà thì không biết, chứ đa phần đàn ông thời nay đến quãng tuổi lưng chừng là vấp phải những thứ bệnh trọng, không ung thư gan, suy thận nặng, thì lại xuất huyết não, tâm thần. Vượt được tuổi 49, 59, quá bát tuần đến cửu tuần, có nghĩa là các cơ quan nội tạng đều siêu bền, đều “chạy tốt”, bấy giờ hóa tinh hoặc trở lại kiếp con hắc tinh tinh kỳ dị.
Ai đến tuổi đó, hễ đi đâu là gặp ai cũng mở miệng rối rít: “Tôi ngoại tám mươi rồi”. Hoặc: “Ngót hai năm gần chín chục”. Từ đó cứ tự nhiên tung hê hết cá tính của mình.
ở xóm Trại có cụ ngoài tám mươi, áo quần bảnh bao lịch sự, đội mũ, thắt lưng, đeo túi, đeo Huân chương như đi đại lễ. Ngày nào cũng vậy, tháng nào cũng vậy, cả năm đều vậy. Bất kể ngày đông tháng giá hoặc mùa hè đổ lửa. Bình thường cụ đi đứng chỉn chu, khoan thai, mắt nhìn thẳng. Đến lối rẽ thì cụ xoay mông quặt chân như lính tráng, vừa đi vừa hát to “Vì nhân dân quên mình”. Hát rồi đưa tay lên mũ chào...
Ở phố Đản có cụ ngoài tám mươi, từ quê ra ở với anh con trai cỡ Bộ trưởng. Cô con dâu cỡ Thứ trưởng. Đón bố, con trai con dâu chuẩn bị bộ sa lông mới, thay thảm mới, giường chiếu bàn ghế cứ như cung điện nhà Thanh bên Tầu xưa. Dăm bữa nửa tháng, anh con trai xuống cái xe ô tô ở sân thì thấy bố mình tay cầm quạt cứ ngồi xổm ở góc sân, mắt nhìn lên tán cây trong vườn. Con trai đến gần, nghiêng đầu lễ phép thưa hỏi, thì được trả lời: “ngồi thế cho mát”. Một ngày cô con dâu đi làm về thì tá hỏa tam kinh khi thấy ông cháu chơi ở góc sân xa tít sau vườn, cứ lấy que bới đất bới phân gà cho cháu chơi, thỉnh thoảng lại cười, đưa lên mồm...
Phía cầu Mây có cụ ông gần chín mươi tuổi một mình tọa một căn hộ tầng trệt, ngay mặt đường. Con cháu ở trong phố cổ. Tuổi cao, nhờ trời cụ khỏe, ăn nói còn lưu loát lắm. Có một tổ vệ sinh đường phố toàn những cô đã chồng con phốp pháp, vui cười, hàng ngày quí “bố già” vui tính, đến gửi nhờ dụng cụ, quần áo. Ban đầu hai bên còn lạ, sau quen hơi dần nhất là các cô ngạc nhiên thấy “bố già” chăm sóc quần áo của mình quá ư chỉn chu, cẩn thận. Thậm chí bố chăng dây thép quanh giường ngủ của mình, phơi quần áo chị em bộ nào ra bộ ấy... Đêm đêm “bố già” hít thở và ngủ rất ngon lành. Con cháu đến, nhất là phái đàn bà, là cụ ghét, cụ đuổi. Cụ chỉ mặt: “Này, chúng mày chưa nuôi bố được một ngày đâu đấy”. Lại nói: “Chúng mày đừng mua gì cho bố. Bố giờ chỉ hít thở là chính”. Chỉ đàn bà con gái nhạy cảm mới biết “bố già” hít thở gì...
Có cụ gần chín mươi ở quãng phố Hương lại rơi vào tình trạng thật lạ lùng. Một đời cụ thanh sạch. Nghĩa là từ trẻ cụ không thuộc loại đàn ông phàm phu tục tử. Tám mươi, cụ còn minh mẫn. Tám nhăm, còn minh mẫn... Cứ thế đến gần chín mươi, cụ rơi vào tình trạng run rẩy hoang tưởng. Không phải là kẻ chơi bời trác táng, cũng không phải khổ hạnh tu hành. Như khát vọng sống từ kiếp nào dồn nén vào cụ, khiến cụ khao khát khôn nguôi. Gặp người cùng giới thì không sao, hễ thấy bóng dáng đàn bà con gái là cụ run rẩy bàng hoàng, mắt đỏ lên như khóc, rồi òa khóc thật... Trong khi hai bàn tay run rẩy như người sắp chết đuối cứ níu kéo, vẫy gọi...
Dễ đoán được là bố anh Ký Vấn, người sinh ra thằng con làm báo viết thơ như anh Ký Vấn, thì đang rời vào hoàn cảnh “bố già” nào rồi.
Kiếp đàn ông xem thế mà thật nan giải. Có khi câu thơ Kiều của cái người đàn ông, tên là Nguyễn Du, vốn là thế này chăng:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh lại là... đàn ông!
Anh Ký Vấn nhìn lên màn hình, rồi nói một câu vô cảm:
Kiếp sau không muốn làm người, nhất là làm thằng đàn ông. Cũng không lập nên gia đình nữa.
Thị rít lên, khi trên màn hình đang loạn cảnh binh đao của phim “Binh pháp Tôn Tử”:
- Gia đình gì anh. Hễ mở mồm là chửi họ hàng tông tích bên ngoại.
Ký Vấn như bị sét đánh. Cứ mỗi lần gia cảnh Ký Vấn bối rối là thị lại giở chiêu ấy, cái chiêu đánh sang bên ngoại. Như mây đen thù hận từ kiếp nào trong đáy lòng người đàn bà cứ đùn lên, đùn lên che khuất tất cả.
Kiếp một thằng đàn ông bèo bọt như Ký Vấn lại càng nan giải.
Buổi sáng chủ nhật Ký Vấn đành phải lao ra phố, cùng một cỗ sáng lạc bữa. Dọc phố dạo này ở đâu cũng thấy “ngan, tiết canh ngan”. Ngan ngỗng chẳng rõ báo điềm gì, còn tiết canh ngan thì ắt là điềm báo người đời đang khát máu, sau đêm dài nóng nực xem “Binh pháp Tôn Tử”.
Mình là kiếp bò, vậy thì đáp vào quán “phở bò gia truyền”. Nghe nói toàn quân từ Nam Định lên, lại toàn thanh niên choai choai như lính tráng. Phía trước là cái bếp phun đầy khói than, khói mỡ như chiến trận. Bên trong có đến một trung đội dao thớt, bưng bê loạn xì ngầu. Chẳng có nét gì là ẩm thực. Thị dân thi nhau vục vào ăn, và khen “món nước ninh xương thật”.
Bàn la liệt. Một gia đình dựng xe máy, bên ngoài bốn cái mũ bảo hiểm lố nhố như ma. Một chốc thì thấy anh chồng cởi mũ, đầu sấy ốp, kính gọng vàng, đeo đầy bao túi trong đó có chiếc mobil phôn. Chị vợ đầu dắt tém rất điệu, tay đeo đầy nhẫn vàng, vòng kiềng vàng, cái dây chuyền chừng năm chỉ lách ra khỏi cái cổ trắng ngần. Hai đứa con thì khỏi phải nói, con chị và thằng em đều đeo kính cận, cứ để mãi cái mũ bảo hiểm trên đầu mà tiến vào bàn ăn. Bố mẹ điệu đàng gỡ mũ cho mỗi đứa. Còn nói: “Khổ, con tôi”. Rồi đưa mắt nhìn nhau rất tình tứ.
mời các bạn ngắm hoa LiLi nở
[YOUTUBE]<object width="425" height="344"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/4Edx5NSkPeI&hl=en_US&fs=1&"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/4Edx5NSkPeI&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="425" height="344"></embed></object>[/YOUTUBE]
Mời các bạn ngắm Hoa hồng nở
[YOUTUBE]<object width="425" height="344"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/HnbMYzdjuBs&hl=en_US&fs=1&"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/HnbMYzdjuBs&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="425" height="344"></embed></object>[/YOUTUBE]
Mời các bạn dùng nước trái cây Huyền không
[YOUTUBE]<object width="560" height="340"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/pUgJp0GPVBk&hl=en_US&fs=1&"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/pUgJp0GPVBk&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="560" height="340"></embed></object>[/YOUTUBE]