Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 2/12 đầuđầu 1234 ... cuốicuối
    kết quả từ 11 tới 20 trên 119
      1. #11
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        BÀI BIỂU CỦA NGÔ CẢNH LOAN NÓI VỀ TUYỂN TRẠCH NGŨ HÀNH

        Lũ thần thật run thật sợ, cúi đầu dập đầu, kính đem cuốn Ngũ Hành dâng trình. Tiên Thiên Hậu Thiên, tiết thân công không lường được: Long Vận, Sơn Vận, tỏ Thể Dụng chung không cùng. Nguyên đức của vua đều nghe biết cả, gốc ở Khôn nguyên che chỡ đầy. Thần lên thích thấy, rợ, chợ đều xem. Lũ thần thật run thật sợ, cúi đầu dập đầu, trộm nghĩ: Âm Dương Ngũ Hành, gốc nguồn xa lắm. Hà Đồ Lạc Thư, vua Hy vua Vũ mở rộng chỗ thiết yếu; Thanh Nang Kim Quỹ, Quản Quách tiết lậu cái chân cơ. Này chính khí Ngũ Hành, Hồng Phạm Ngũ Hành, Bát Quái Ngũ Hành, môn loại vốn không đồng, hoặc chính về Phương Vị, hoặc bàn về Hướng Cục, hoặc cùng đến Sơn Vận, lấy dùng há không để riêng rẽ, phép TUYỂN TRẠCH tốt lành, chẳng gì bằng Tạo Mệnh. Cái hay của Thể Dụng, có thể đoạt thần công, đó là bí yếu của Ngũ Hành, há chẳng phải của quý cho vạn thể. Nay cúi gặp Hoàng Đế... ngửa xem thiên văn, cúi xét địa lý, coi Nghiêu Thành Thang thuộc cả đồ bản, coi Vũ mênh mông, đều về thống trị cả. Trong Nhà toan tính cai trị, tôn trọng, tiết chế, dưới thì nhẹ nhàng, thực là vị vua đại hữu vi, là vị chúa phi thường. Cúi nghĩ lũ lần, tìm làm số mặc, và đọc sách nho, noi dòng ngược đến nguồn cùng cực, biết chút Khắc, Trạch, rất rõ cơ trời, biến định 2 vận, nối trời dựng cõi, giữ gìn xã tắc lâu dài; ra phương Chấn kế đến phương Ly, vỗ yên bản đồ nhà vua và củng cố, Ngũ Hành rõ rệt dùng, mừng động đến Thiên Nhan, cõi xa xôi hẽo lánh, nơi nơi ban hành, bẻ quế trời băng, người truyền thụ. Lũ thần không xiết xem Trời ngựa Thánh, rất là sợ hãi, kính lấy cuốn Ngũ Hành dâng lên vua xem.

        Kính xét Thiên Cơ bí thư bản về Ngũ Hành có 6 khoản:

        1. CHÍNH NGŨ HÀNH LẤY ĐỘN LONG VẬN
        (Không bàn ngang, chéo, chính thụ, chỉ đem vào đầu một chút mạch tới, Dương thuận Âm nghịch, lấy Nguyệt Kiến và cung giữa, sau ngày Đông Chí thì thuận độn, sau ngày Hạ Chí thì nghịch độn, để tìm Bát Cung, xem sinh khắc, vượng, tiết, để đoán cát hung. Đây chỉ bàn Bát cung, không bàn Nạp Âm chịu khắc)

        2. HỒNG PHẠM NGŨ HÀNH LẤY ĐỘN SƠN VẬN
        (Xem Nạp Âm thuộc Sơn Vận, khắc niên, nguyệt, nhật, thời thì TỐT; không nên niên, nguyệt, nhật, thời tới khắc Sơn Vận thì XẤU. Niên, nguyệt, nhật, thời sinh Sơn Vận thì TỐT; Sơn Vận sinh niên nguyệt, nhật, thời thì XẤU. Hỉ lợi thì tốt. Nếu khắc Sơn mà có chế có hóa, đều dùng được)

        3. BÁT QUÁI NGŨ HÀNH LẤY CỤC ĐỘN HƯỚNG
        (Độn Hướng Vận Nạp Âm sở thuộc KỴ niên, nguyệt, nhật, thời xung khắc, nhưng Sơn với Hướng khó được hợp cả hai, NÊN LẤY SƠN LÀM CHỦ, Hướng bất tất hợp cũng được.

        4. HUYỀN KHÔNG NGŨ HÀNH LẤY ĐỘN THUỶ VẬN
        (Độn Thuỷ Vận Nạp Âm sở thuộc KỴ niên, nguyệt, nhật, thời, xung khắc, như Ất Sửu KỴ Kỷ Mùi niên, nguyệt, nhật, thời xung khắc, dư phỏng đây mà suy)

        5. SONG SƠN NGŨ HÀNH LẤY LUẬN TAM HỢP
        (Luận Tam Hợp không luận Độn Vận, như Cấn Dần, Bính Ngọ, Tân Tuất 6 Sơn đó luận Hỏa, nên dùng Cục Dần Ngọ Tuất bổ vào; Khôn Thân, Nhâm Tí, Ất Thìn 6 Sơn đó luận Thuỷ, nên dùng Cục Thân Tí Thìn bổ vào; 6 Sơn Càn Hợi, Giáp Mão, Đinh Dậu, Quý Sửu, bàn Kim, nên dùng Cục Tỵ Dậu Sửu mà bổ. Đây 2 Sơn mà dùng Cục Tam Hợp bổ vào Sơn, ĐÓ LÀ NGŨ HÀNH RẤT KHẨN YẾU)

        6. HỖN THIÊN NGŨ HÀNH LẤY HỢP QUÁI LỆ
        (Bàn quái lệ không bàn Độn Vận như 2 quẻ Càn Đoài thuộc Kim, cho nên 6 Sơn Canh Dậu, Tân Tuất, Càn Hợi, nên dùng Kim niên, nguyệt, nhật thời bổ vào; 2 quẻ Chấn Tốn thuộc Mộc 6 Sơn Giáp Mão, Ất Thìn, Tốn Tỵ, nên dùng Mộc niên, nguyệt, nhật, thời bổ vào; Quẻ Khảm thuộc Thuỷ, cho nên 3 Sơn Nhâm Tí Quý, nên dùng Thuỷ niên, nguyệt, nhật, thời bổ vào; Ly thuộc Hỏa, cho nên 3 Sơn Bính Ngọ Đinh, dùng Hỏa niên, nguyệt, nhật, thời bổ vào; Hai quẻ Khôn Cấn thuộc Thổ, cho nên 6 Sơn Mùi, Khôn, Thân, Sửu, Cấn, Dần dùng Thổ niên, nguyệt, nhật, thời bổ vào)

        Lục gia Ngũ Hành đều có phép lấy, hợp nên gồm xem cả Thể và Dụng đều làm không trái, thì đoạt được thần công, đổi được Mệnh Trời, tạo phúc hưởng ứng. Đấn tiên sư dùng đấy, đã nghiệm ở trước rồi. Còn như Thế Tục không xét các NGŨ HÀNH, mà chỉ chuyên dùng Bản Ngũ Hành nhất định, sao hay tạo phúc cho đời được.
        -----------------------------------------------

        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. Có 12 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        binhbinh (15-10-09),cuongbao (13-09-09),dongphuong (15-09-09),htruongdinh (14-10-09),kimcuong (01-10-09),Kloan (25-09-09),leostar79 (28-01-16),maile (13-06-10),sonthuy (05-10-09),thucnguyen (02-11-09),tom (18-01-10),vanti67 (24-07-13)

      3. #12
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        NÊU SỰ CỐT YẾU VỀ TUYỂN TRẠCH

        Phép Tạo Mệnh, trước hết:
        1) Xem lai LONG, thuộc Ngũ Hành gì, nên ư năm gì, tháng gì, nên Cục gì để bổ vào.
        2)Sau xem Sơn Hướng, Sát gì nên tránh, Sát gì chế được và lấy phép gì chế, lấy Tinh (sao) gì chiếu tới.
        3) Xem Chủ Mệnh (làm nhà lấy Mệnh chủ nhà, táng lấy Mệnh người chết), nên như thế nào để giúp vào.
        Ba điều trên đều được cả sau xử sự làm, chẳng sự gì là chẳng lợi đó. Đến như SỬA CÁT PHƯƠNG, THÌ CHỌN THÁNG VƯỢNG TƯỚNG CÁT PHƯƠNG MÀ GIÚP VÀO, như vun trồng loại thiện vậy. SỬA HUNG PHƯƠNG, THÌ LỰA THÁNG HƯU TÙ HUNG PHƯƠNG MÀ KHẮC CHẾ ĐI, thu trộm giặc, tất phải ta mạnh nó yếu, thì mới dùng cho ta được. Kẻ kia chọn định bát tự, không hỏi đến Long Sơn, Chủ Mệnh, mà cứ nhất khái làm, là Tạo Mệnh giả dối, đối với phép đời xưa, khác nào trời với vực.

        Học giả nên biết rõ rành phải và trái, để định theo hay không theo, ngỏ hầu không sai lầm.
        ------------------------------------------------

        BÀI CA VỀ TUYỂN TRẠCH DIỆU DỤNG

        Đại phàm: phép khắc trạch, nên rõ công chế hóa, Sơn gia lấy thừa thì là cát, cách cục thuần tí là thịnh. Mệnh Quý, Lộc, Mã nên đắc địa. Tuế, Quý, Lộc, Mã mừng tới cung, Cát thần Sinh Vượng, định thẩm phúc trạch. Sao ÁC hưu tù, lại được hanh thông, Tam Kỳ Tam Đức gặp không vong thì phúc giảm, Thái Âm Thái Dương gặp Sơn Phương thì họa tiêu. Phượng Hoàng, Kỳ Lân giám rằng sao cát, Hoành Thiên thụ tử chớ giận sao Hung. Nhật lành gặp Trạch mộc thì cửa nhà sáng, làm cửa nên xem Mệnh vượng, gặp Không Vong, Tứ Phế, thọ mệnh nên điều hòa. Trước Mã có Phá Thoái, thêm vào được phúc Tinh thì phúc tới. Thiên Địa Quan Phù, gặp Lộc Mã thì giàu có. Ngày Tỵ Hợi cung Trùng Phục, chôn mới chết thì tránh, mà cải táng thì nên tới. Thiên La Đô lệ chia nghịch thuận, tiến ngày nào mà lui đêm nào. Đến như Quý kỵ hợp với Hỏa, giá thú không nên. Tức như việc đi trốn, duy xuất hành, rời chỗ ở, nên tránh Thiên Hỏa, chỉ không lợp nhà. Cất rường nhà không ngại gì. Một Nhật không quan hệ gì khinh trọng, an táng đều lợi. Nguyệt Cùng, Nguyệt Kỵ, dùng làm được cả. Tử Kỷ, Tử Ly nhân việc châm chước làm Thiên Tặc, Địa Tặc, vào nhà mới ở, chia bếp đều không hại gì. Trường Tinh, Đoản Tinh, chỉ kiêng giao dịch nơi chợ búa. Kìa như Hỏa Tinh nên Thuỷ luôn Nhất Bạch. Khốc Sát nên Thiên Huỷ, Mẫu Thương. Tiểu Nhi, Cửu Lương, Nguyệt Tú, Thái Âm hóa cát Phù Thiên. Ngũ Quỷ, Tam Kỳ Lục Đức trình điềm lành. Nhận Sát chỉ kiêng Lưỡng Toàn. Cô Đơn mà đi một mình, khỏi họa Âm Phủ, nên biết rõ chết sống. Suy mà không Hóa không hại gì. Tuần Sơn La Hầu, hai sao tới các Kim Thần, Thất Sát. Các sự lành Cửu Tử, Bạch Hổ chẳng hung. Quan Phù có thể chế, Chú tước không lý gì, triết sĩ chớ hoang mang. Cát Tú tốt đẹp ở vượng tướng, Hung Tinh chớ tới hàng bầy. Thần Sát nhiều cửa, đều xét Ngũ Hành để chế hóa. Sơn Phương khác vị, mỗi vị cầm một việc để suy rõ ràng. Tức như dựng nhà, nên tránh khai sơn ÁC SÁT. Sửa Phương nên xét Phương Đại Hung Thần. Ngôi nhà là sinh khí chỗ ở, mạch hợp để bổ và giúp đỡ vào. Hướng là sự cốt yếu ra vào, Thần Sát Quý và sáng sủa rõ ràng. Phương vị xa gần, Ngũ Hành diệu dụng. Nhân thì khảo sát, Phi Điếu cát hung nên kiêng. Tuỳ việc suy bầy của hạng việc. Khắc Trạch rất nhiều mối, không cần thuật ra hết các điều khoản. Chủ Mệnh tốt xấu có khác, nghĩa giả đổi bỏ đi. Lục Cát, Lục Tướng lệ dùng, đừng quá câu chấp về Niên Nguyệt. Lục Hung, Lục Thế, sự sống chết về Nhân Vận rất vu vơ. Ngũ Tính tu tạo, sự hoang đường đáng chán. Cửu Long vào nhà là giả dối, nên để Tuế, Quan Giao thừa nhau. Kẻ ngu cậy là bí quyết. Lập nữ làm trộm. Tục Thuật cầm lấy cho là mưu hay. Lan Song Tử biết đã lâu Mệnh Long nhập thổ, từng ẩn Tiên Thậm bác đi hết lời vu vơ về Đảo Gia ngoa sát.

        Tóm lại, cơ Thần để tạo phúc, BÍ QUYẾT Ở SƠN VỊ VƯỢNG TUỚNG, CỐT PHÂN BIỆT LỆ HÓA SÁT HUYỀN DIỆU. TÌM TUẾ MỆNH LỘC, QUỶ, GẶP TẠO MỆNH TRƯỚC LÀM THỂ, ĐẦU THỦ CÁC NHÀ RUỒNG BỎ, CÁT TINH LÀM DỤNG, SAI PHƯƠNG LỘC MÃ BỎ ĐI. Đọc kỹ bài ca Thiên Kim, biến hóa kỳ diệu. Kết cả bí quyết Nghi Long, sẽ rõ ràng thực hay giả dối. Muốn vì người đời làm phúc, chớ bắt chước sự câu nệ của kẻ thuật sĩ tầm thường.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (11-10-09),dongphuong (15-09-09),htruongdinh (14-10-09),kimcuong (01-10-09),Kloan (25-09-09),leostar79 (28-01-16),maile (13-06-10),sonthuy (05-10-09),thucnguyen (02-11-09),tom (05-10-09),vanti67 (24-07-13)

      5. #13
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        BÀN VỀ SINH KHẮC CHẾ HÓA

        Phép Tuyển Trạch quý ở cách cục thuần tuý. Tu tạo khó được Phương đắc lợi hết cả, niên, nguyệt, nhật, thời, công thần giúp đỡ bổ vào có phép. Sinh khắc chế hóa, diệu dụng của cơ huyền bí không cùng. Sách có nói: "Sinh khắc chế hóa cốt tinh chuyên". Lại nói: "biết khiến cho cơ trời như gấm thêm hoa; ấy là sinh khắc chế hóa, Nhật gia không thể lìa, như trông, nghe, hỏi kỹ, thầy thuốc không thể bỏ sót". Vì thầy thuốc nếu không trông, nghe, hỏ kỹ, không lấy gì biết gốc con bệnh, như Nhật Xá Sinh Khắc chế hóa, không hay biết hết sự thần diệu của khắc trạch. Song cùng sinh cùng khắc nhau, thì nghĩa để biết rõ, mà chế mà hóa, lý rất tinh vi, mà sự cốt yếu đều ở trong đạo dẫn chân cơ. Như sinh tức là tương sinh, hoặc Can Chi tương sinh, hoặc Hóa Khí tương sinh, Tam Hợp tương sinh, Nạp Âm tương sinh. Khắc là tương khắc, có Can Chi tương khắc, Khí Hóa tương khắc, Tam Hợp tương khắc, Nạp Âm Tương Khắc. Song Hung Thần có nhiều tên, thuộc về Ngũ Hành, cổ nhân có Phép chế hóa, thực là tinh nghĩa nhập thần vậy. Thế nào là chế? Là nhân có khắc, không thể hoàn toàn tránh được. Nên có phép chế, như Thổ phạm Mộc khắc, dùng Kim để chế Mộc; Mộc phạm Kim khắc, dùng Hỏa để chế Kim. Xét nguồn gốc thụ bệnh, để thi hành phép chế phục, nhưng không ngoài Thiên can phạm thì Thiên can chế , Địa chi phạm thì dùng Địa chi chế , Hóa khí phạm thì Hóa khí chế , Tam hợp phạm thì Tam hợp chế , Nạp âm phạm thì Nạp âm chế đó mà thôi . Lại có Tinh ( sao ) phạm thì Tinh chế , như Nhất Bạch Thuỷ chế các Hỏa Bính Đinh, Cửu Tử Hỏa chế Kim Thần Thất Sát. Nhưng cốt yếu chế Cát Thần thì vượng tướng, Sát Thần thì hưu tù, là thần diệu. Sách có nói: "Cát Tinh có khí thì nhỏ thành lớn, Ác diệu hưu tù không làm hung". Lại nói: "Cát Tinh thất diệu lại sinh tai họa, Hung Thần có chế thực làm phúc". Đến cái nghĩa Hóa Chi, càng hơn là chế, chế là lấy sức thẳng người. Lấy tượng "đạo chính tề hình" mà hóa , lấy đức phục người, như cách cai trị lấy đạo đức tế lễ, huống chi dùng sức con để thắng kẻ thù, không khỏi tiết lậu tinh hóa của mình, phải nhờ đức của cha mà thoát nạn, lại được ích lợi về sinh ta. Như Thổ phạm Mộc khắc, dùng Hỏa để hóa Mộc, Mộc phạm Kim khắc, thời dùng Thuỷ để hóa Kim. Vì Mộc vốn khắc Thổ, mà Mộc thấy Hỏa tất quyến luyến với cái sinh ra, mà quên khắc Thổ, huống chi Hóa lại hay sinh Thổ. Kim khắc Mộc, Kim thấy Thuỷ tất quyến luyến với cái sinh ra mà quên khắc Mộc, huống chi Thuỷ lại hay sinh Mộc, có sự sinh sinh không thôi, đó là diệu dụng hóa nạn nên ơn. Lại dùng Thái Âm Thái Dương đổi Quan Phù hung cữu, dùng Lộc Mã Quý Nhân, để hóa Hình Hại Nhận Sát. Hoặc lấy Tam Kỳ Tam Đức, để vời điềm lành, đều là hóa cả. Sách có nói: "Một tướng giữ cửa ải, các tà đều phục", đó là hóa Chân thần cơ không thể lường được.

        Trên nói nghĩa về Hóa đã rõ, nhưng con một phép hợp hóa là thoát thai đổi xương, kỳ diệu, "siêu sinh nhập thánh". Như kỵ chữ Giáp, dùng Kỹ để hợp, khiến cho Giáp tham cái hợp mà quên cái xung, cái hình, huống chi Giáp không phải hợp hóa mà theo Thổ. Như kỵ chữ Ất, dùng chữ Canh để phối hợp, khiến Ất quyến luyến cái hợp mà quên cái xung, cái hình, huống chi Ất không Mộc hợp hóa mà theo Kim; các chữ khác cũng lẽ này mà suy. Sách có nói: "Tham sinh quên hợp, tham hợp quên hình, tham hợp quên xung", là thế đấy, há chẳng phải có sự biến hóa khôn lường ru! Song hóa nói trên là trỏ vào chế sát mà nói , mà hợp hóa ở trong Trụ suy rõ, học giả nên lưu tâm xem xét.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (11-10-09),Hoa Tử Vi (03-01-10),htruongdinh (14-10-09),kimcuong (01-10-09),Kloan (25-09-09),leostar79 (28-01-16),maile (13-06-10),sonthuy (05-10-09),thucnguyen (02-11-09),tom (18-01-10),vanti67 (24-07-13)

      7. #14
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        BÀI CA TẠO MỆNH THIÊN KIM

        (của Dương Quân Tùng đời đường làm ra. Tên là Ích hiệu cứu bần)

        THIÊN CƠ DIỆU QUYẾT ĐÁNG GIÁ NGÌN VÀNG, KHÔNG DÙNG HÀNH NIÊN VÀ TÍNH GIẢ, CHỈ XEM SƠN ĐẦU VÀ MỆNH VỊ, NGŨ HÀNH SINH VƯỢNG NÊN SUY TÌM.

        Đó là cương lĩnh của phép Tạo Mệnh. Hành Niên, như loại mấy mươi mấy tuổi, Tính Giả tức là Ngũ Tính Tu Trạch vậy. Thế tục lấy hai điều đó phân Cát Hung là lầm lắm, cho nên không dùng. Sơn đầu chính là một tiết long lại với tọa sơn, tức là Tọa Sơn. Mệnh Vị tức là ngũ hổ độn Nạp Âm của Bản Sơn Mệnh. Sơn Mệnh chỗ thuộc vào Ngũ Hành, hợp với năm tháng ngày giờ đều cần sinh vượng. Như Tí Sơn Mệnh, chọn năm tháng ngày giờ Thân Tí Thìn hữu khí để dùng, lấy cả Thiên Can hợp cách Cục thì là đại cát. Một là xét Mệnh Vị, không chuyên chỉ Bản Sơn Mệnh, nên gồm cả chủ Mệnh mà nói. Về Tạo dựng nhà chỉ lấy bản Mệnh người trạch trưởng, Táng thì lấy Mệnh người chết làm chủ. Tứ khóa đều cốt tin nhau, chính là nói về Phù Long Tướng Chủ.

        CỐT YẾU THỨ NHẤT: ÂM DƯƠNG KHÔNG HỖN TẠP; THỨ HAI: TỌA HƯỚNG GẶP TAM HỢP; THỨ BA: MINH TINH VÀO TỚI HƯỚNG; THỨ TƯ: ĐẾ TINH NÊN LỤC GIÁP. TRONG 4 ĐIỀU ĐÓ MẤT MỘT VẪN KHÔNG HẠI, NẾU MẤT HAI THÌ KHÔNG PHẢI PHÉP.

        * 1. Bàn Âm Dương không hỗn tạp là nói lai long phải tĩnh (toàn) Âm hay tĩnh (toàn) Dương. Long đó chỉ riêng một đốt mạch nhập thủ kết huyệt, không phải Tọa Sơn vậy. Càn Giáp, Khôn Ất, Khảm Quý, Thân Thìn, Ly Nhâm, Dần Tuất 12 lai long thuộc Dương, nên lập Dương Hướng, dùng kỳ hạn ngày Dương là Thân Tí Thìn, Dần Ngọ Tuất vậy. Cấn Bính, Tốn TÂn, Chấn Canh, Hợi Mùi, Đoài Đinh, Tỵ Sửu 12 lai long thuộc Âm, nên lập Âm Hướng, dùng kỳ hạn ngày Âm là Tỵ Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi vậy. Thế bảo rằng: "Dương Long nên Dương Điều, Âm Long nên Âm Khóa"; trái thế là Âm Dương hỗn tạp, không tốt. Song cũng bất tất câu nệ hết cả, như Cấn Long, Hợi Long, Cổ Nhân có dùng Thân Tí Thìn, Dần Ngọ Tuất là phép Tam Hợp bổ Long.
        *2. Bàn về Tọa Hướng Tam Hợp. Lấy Tam Hợp bổ Long, thời bổ vào mới có lực. Không nói Long mà nói Tọa, Hướng vậy. ẤY LÀ MƯỢN TỌA HƯỚNG ĐỂ BỔ VÀO LONG. Như Tốn Long thì làm Tỵ Sơn Hợi Hướng, dùng Cục Mão Mùi để bổ vào Tốn Mộc Long, không phải thực bổ Hợi Hướng. (Xét Cục Mão Mùi tuy bổ vào Tốn Mộc Long, thực ra là Tỵ Sơn, Cục Ấn Thụ), phát phúc hoàn toàn ở trên Long, Tọa Sơn là thứ, huống chi Hướng có ích gì đâu? Song lấy Chính Ngũ Hành để luận bàn, có Tứ Trụ cùng với Hướng Tam Hợp ấy, thì chẳng nên xung Sơn, nên phải bớt đi một chữ. Như Hợi Long thì làm Hợi Sơn Tỵ Hướng, chỉ dùng Dậu Sửu Kim Cục để sinh Hợi Long là được, nếu thêm chữ Tỵ thời xung phá Hợi Sơn. Điều khác, phỏng theo đây mà suy ra. Xét Tọa Hướng Tam Hợp, thường gồm cả Tu (sửa) mà nói. Như Tọa Hợi Hướng Tỵ, muốn Tu Tỵ hướng, thì dùng Dậu Sửu Hướng Hợp Cục Tam Hợp, lấy sinh Tọa Sơn Hợi Thuỷ vậy.

        *3. Bàn về Minh Tinh nhập Hướng, là cần Nhật Nguyệt thất chính đến Hướng. Minh Tinh là Nhật Nguyệt, tới Hướng thì chiếu Sơn. Hy Di (Trần Đoàn) có nói: "Thái Dương tới Sơn, chỉ nên dùng cho quốc gia tu sửa cung điện mới thích hợp, người sĩ và dân thường không thể đương được". Vì vậy Dương Công nhiều lần nói: "Tam Hợp đối cung Phúc Lộc bền vững", như Thái Âm tới Sơn tới Hướng đều được. Hoặc Nhật tới Hướng, Nguyệt tới Sơn, trước sau giáp chiếu thời càng thần diệu.

        *4. Bàn về Đế Tinh, tới Hướng. Cốt yếu Đế Tih, Tịch Mậu có nói: "Đế là Thiên Đế, tức là trong Kinh Dịch nói [Đế xuất hồ Chấn, tề hồ Tốn]. Đương Lục Giáp là nói Thiên Đế mừng nắm thời Lệnh để nhận khí đất, tới Sơn thời Tinh cát, nếu trái thời thất khí, rất hung.

        Bốn điều này là Phương Pháp Tạo Mệnh, được cả là thượng cát, mất 1 còn khá, nếu được 2 mất 2 thì không phải phép Tạo Mệnh, huống chi là hoàn toàn không hợp ru! Xét Hiệp Kỷ nhầm cho là không kê cứu ở đâu Tôn Đế 2 vị sao và Thích Đế Tinh là mâu thuẩn vậy. Đây trỏ vào Thiên Đế là không nghi ngờ, xét ở dưới đây 2 thiên nói về Thiên Đế và Thiên Tướng, giao hội dùng khác nhau, thì tự rõ.

        SƠN ĐẦU CÓ SÁT LÀM SAO ĐÂY , QUÝ NHÂN LỘC MÃ MỪNG CÙNG TỚI . TAM KỲ TỨ ĐỨC HAY HÀNG ĐƯỢC SÁT .CÁT CHẾ HUNG THẦN PHÁT PHÚC NHIỀU.

        Trên nói đạo ( phép , đường lối ) cát , đây nói chế hung . Sơn đầu là tọa sơn . sát là nói các sao ác về niên , nguyệt .Sơn đầu không phạm càng tốt .Thảng hoặc có phạm chiếm , chưa tiện vội bỏ , trừ Tuế phá Tam sát của niên gia , Mậu Kỷ phủ . Nguyệt gia đại tiểu nguyệt kiến , chưa nên khinh thường lắm . Như Quan phù Phá thoái , Không vong Kim thần , loại Hỏa tinh có đã lâu , chỉ cốt chân Quý nhân Lộc Mã của bản mệnh , với lại chân Quý nhân LỘc Mã của Thái Tuế , cả tam kỳ ( Ất , Bính , Đinh ) , chư đức ( Thiên đức , Nguyệt Đức , Tuế đức ) đều có thể hóa giải ( như năm Đinh Hợi : giáp Sát ở dậu , năm Đinh Quý nhân ở dậu , phần nhiều dùng nhật , nguyệt , thời dậu mà tu sửa tức là Quý nhân yếm sát ) . Nhưng chỗ này không nói khắc , vì Tọa sơn nguyên không nên chế khắc , khắc sát thì là khắc lên Tọa sơn ( Kinh có nói : “quyền hóa sát sinh, lại hay vời phúc ” , là thế đó. Nói sơn đầu có sát , chỉ nên dùng hóa để giải , chứ không nên dùng chế ). Nếu Đại sát thì tất dùng chế , không chuyên bằng vào lời nói Tinh có thể hóa được , nên biết thế đấy . Có sát là chỉ Trung sát mà nói .
        thay đổi nội dung bởi: AnhNgoc, 23-09-09 lúc 15:41 Lý do: Đánh nhầm chữ
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. Có 12 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        binhbinh (15-10-09),cuongbao (11-10-09),htruongdinh (14-10-09),kimcuong (01-10-09),Kloan (25-09-09),leostar79 (28-01-16),maile (13-06-10),sonthuy (05-10-09),thucnguyen (02-11-09),tienhaiutc (01-07-14),tom (05-10-09),vanti67 (24-07-13)

      9. #15
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        BÀI CA TẠO MỆNH THIÊN KIM ( Tiếp theo )


        HAI VỊ TÔN TINH NÊN GẶP NGUYỆT . NHẤT KHÍ CHỒNG CHẤT HÀNG CAN LÀ BẬC NHẤT . CỦNG LỘC CỦNG QUÝ MỪNG TỚI SƠN. PHI MÃ TỚI PHƯƠNG LÀ CÀNG TỐT .TAM NGUYÊN HỢP CÁCH RẤT LÀ THƯỢNG CÁCH . TỨ TRỤ MỪNG THẤY TÀI QUAN VƯỢNG .DÙNG HÀNG CHI KHÔNG NÊN CÓ TỔN THƯƠNG .LẤY HÀNG CAN RẤT NÊN GẶP KIỆN VƯỢNG .SINH VƯỢNG ĐƯỢC HỢP MỪNG CÙNG GẶP NHAU .NÊN BIẾT KHẮC PHÁ VỚI HÌNH XUNG . CÁT TINH CÓ KHÍ NHỎ THÀNH LỚN . SAO ÁC HƯU TÙ KHÔNG LÀM HUNG . HAI SAO TÔN ĐẾ , MỪNG Ở NIÊN NGUYỆT TỚI VẬY , MÀ NHẬT THỜI CŨNG NÊN LẤY ,LẠI HAY GIÚP CÁT.

        Tịch Hậu nói rằng : “ Gặp hai vị tôn tinh ,tất không phải là Tôn Đế tinh không kê cứu , nhưng không biết chỉ cái gì . Xét khóa cổ thì Dương công táng Canh sơn , Giáp hướng ,dùng năm Kỷ Mùi , tháng Tân Mùi , ngày Kỷ Mùi , giờ Tân Mùi . Ghi rằng : năm Mùi , tháng Mùi , giờ Mùi dưới ngày Mùi có thành giá hai vị Tôn tinh vào chính cung , có phúc tự nhiên thông ”. Tra xét rõ ràng khóa này Niên nguyệt nhật thời đều không hợp hai sao Tôn Đế , chỉ có tháng 6 có Thiên Đức và nguyệt Đức tới hướng Giáp , năm kỷ ngày kỷ ( nguyên bản ghi : năm tị ngày tị không đúng) đều cùng Giáp hợp , hoặc là chỉ vào đấy chăng ? .
        Xét Hiệp Kỷ chỉ hai sao Tôn đế là nhầm , mà Tịch mậu chỉ Thiên đức Nguyệt đức cũng không phải xác thực . Vì Thiên tinh không vị nào tôn bằng Nhật Nguyệt , hai vị tôn tinh, tất là chỉ Thái âm Thái dương đấy .Thất chính lấy Ngọ làm Thái dương , Mùi làm Thái âm . Tra khóa này của Dương công , thời tháng 6 Thái dương ở ngọ , Thái âm gặp Mùi , đó là Nguyệt Nhật về cung điện . Huống chi Canh sơn Quý nhân ở Mùi , Thái âm giữ Quý nguyên .Năm Kỷ Lộc ở Ngọ , Thái dương giữ Lộc nguyên đều về cung điện . Sách nói : phàm thất chính cùng với 4 sao dữ , nếu gặp về cung lên điện , lại gồm giử Quý Lộc Mã nguyên , đều hay vì người tạo phúc , bất tất định nên tới sơn tới hướng . Xem kỹ trong lời ghi “ vào chính cung ” ba chữ , tất là chỉ Nhật Nguyệt về cung điện , khong nghi ngờ gì nữa ; không thể ,sao chẳng nói tới Chấn tới Đoài ru !. Nên Trị nhật ấy là nói ngày ấy nên được Thái âm Thái dương tới sơn tới hướng, áp phục bày tà vậy . Nhất khí chồng chất hang can ấy là nói 4 can cùng một dạng . Nhưng mà tất cùng Long sơn chủ mệnh can chi cùng hợp , mà không hình khắc mới tốt .
        Tịch Mậu nói : “Thiên nguyên nhất khí , cố nhiên là thượng cách , mà địa nguyên nhất khí cũng là thượng cách ”. Nay chỉ nơi đôi can , mà không nói đến đôi chi , lấy cớ rằng địa chi có cái lệ “ Nguyệt kiến chuyển sát ” , ( xét khóa đời xưa phần nhiều dùng địa chi nhất khí , đếu không lấy kiến sát làm hiềm . Đây hảy lấy thiên can nhất khí để lấy lệ địa chi vậy .)gồm nữa Long hung đới có sát là kiêng dùng , bởi thế nên châm chước .

        Củng Lộc ấy , như mênh Giáp , Lộc ở Dần , Tứ trụ dùng nhị mão , Nhị Sửu , thì triều vào Dần Lộc vậy . Nhưng sự xung mà chầu ( kiêng thấy chữ Thân ) và lập lại ( kiêng thấy chữ Dần ) cũng nên Sơn Đầu cùng quan hệ mới cát . Chầu Quý cũng thế ( xét mẹnh có Lộc Quý thì bát can sơn cũng có Lộc Quý đều phỏng y phép đấy ) . Mừng tới Sơn ấy là chỉ vào Lộc Quý Tứ Trụ tới Sơn . Không nói phương hướng là chỉ nói Sơn mà bao gồm cả phương hướng .
        thay đổi nội dung bởi: AnhNgoc, 22-09-09 lúc 19:25
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. Có 10 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (11-10-09),htruongdinh (14-10-09),kimcuong (01-10-09),Kloan (25-09-09),leostar79 (28-01-16),maile (13-06-10),sonthuy (05-10-09),thucnguyen (02-11-09),tom (05-10-09),vanti67 (24-07-13)

      11. #16
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        BÀI CA TẠO MỆNH THIÊN KIM ( Tiếp theo )

        Xét Lộc Quý cùng củng Giáp , mừng cả xung nữa , duy Mã thì không nên , vì Mã xung thì tan , củng thì không đi , cho nên đoạn dưới nói “ Phi mã lâm phương ” .

        Phi mã lại bao gồm Lộc Quý ở trong , tức là nói hoạt Lộc , hoạt Quý , hoạt Mã vậy . Như Chủ Mẹnh lấy Thái Tuế vào trung cung thuận độn , bản niên ấy lấy Nguyệt kiến vào trung cung thuận độn , hoặc bay tới Sơn , hoặc bay tới Phương Hướng : đều cát , cho nên nói “ lâm phương ” . ( Xét ngũ chủng bí khiếu độn Quý nhân Lộc Mã , không bàn đến Tuế mệnh , đầu lấy sau ngày đông chí dụng sự thuận độn , sau ngày hạ chí dụng sự nghịch độn , Song tra trong Hiệp Kỷ Lập thành thì đều đi thuận 9 cung , chứ không lấy hai ngày Chí chia thuận nghịch . Chỉ sau ngày Đông chí dùng Dương Quý là đắc lực , độn gặp cung dương càng hay ; sau ngày Hạ chí dùng Âm quý là đắc lực , độn gặp cung âm cũng càng hay . Lại xét sách Thời hiến nói : Quý nhân Lộc Mã cùng Thiên Đức , Nguyệt Đức đều đi thuận 9 cung , chứ không phân chia hai ngày Chí ).

        Tam nguyên ấy : là láy can làm thiên nguyên , chi làm địa nguyên , nạp âm làm nhân nguyên . Hợp cách như đôi can đôi chi , lưỡng can không lẫn lộn . Địa chi song phi , Tam hợp cục với lại Tứ nạp âm ….., đều nên thuần túy không hỗn tạp , mà lại hay ở Bổ giúp vào Long Sơn Tướng Chủ mệnh , cho nên là thượng cát .

        Tài Quan là bàn chủ mệnh , không phải bàn Long sơn . Như người mệnh Giáp dùng 3 , 4 điểm chữ Kỷ làm hợp Tài . Người mệnh Kỷ dùng 3,4 điểm chữ Giáp làm hợp Quan . Hợp là tốt , không hợp là không tốt . Tra trong Dương Tăng nhật khóa : phàm dụng Tài Quan , đều là thập can hợp khí . Nhưng Tài Quan tứ trụ , cũng nên mở lộ ra , tức là chưa lộ ; cũng nên sinh vượng có khí . Như Quách công táng Mậu thin hóa mệnh ( tuổi người chết ) , dùng năm Nhâm tí , tháng Nhâm tí ,ngày Nhâm tí , giờ Canh tí . Lời ghi rằng : “ Nhâm tí một khí đi thuận , giàu sang vượng ruộng trâu, không thấy sao Quan ra chỗ nào , Tài vượng sinh Quan gấp . Giáp Ất đầu hàng can chi tên đề bảng vàng , chỉ vì thấy sao Quan ”.

        Dùng tứ trụ hang chi , là Địa chi nên làm cục hợp hội , nếu cùng hình xung nhau , thì đó đây đều bị thương mà đại hung , cho nên nói : không nện có tổn thương . Trong Tứ trụ thời nhật can là rất trọng , nên vượng tướng đắc lệnh ; nếu nhật can mà hưu tù , không nghèo thì chết non , và chủ con cháu lụn bại . Cho nên dùng can , nếu không được thời ( giờ ) hợp nên lấy 3 can , 4 can một khí để giúp đỡ vào . Như tỷ kiên đã ít , lại không dương nguyệt lệnh , cốt phải trên năm có Ấn để sinh , lại dùng Lộc thì để giúp vào , thì cũng trong chỗ nhược ( yếu đuối ) biến ra vượng mà là có lực vậy . Song tứ trụ dù được sinh vượng có khí lực tức càng phải Long sơn và Chủ mệnh hợp nhau . Bổ Long , bổ Sơn , bổ Chủ mệnh , đó là được nhiều sức giúp đỡ , cát còn gì bằng . Nếu khắc Long , khắc Sơn , Khắc Mệnh ; Hình Long , hình Sơn , hình Mệnh ; xung Long , xung Sơn , xung Mệnh , đó là bị nhiều sức đánh đập , khá biết là hung . Cho nên nói rằng : Sinh vượng được lệnh mừng càng gặp , nên tránh khắc phá với hình xung . Đến đây là phép Tạo Mệnh không sót một chút ý kín đáo gì . Nếu tứ trụ tự cùng hình xung nhau , thì là nói : dùng Chi tổn thương . Đời xưa Bát tự cũng có tự cùng xung nhau , xung tức là phá . Như dùng cục Thìn Tuất , cục Sửu Mùi , để bổ vào Thổ Sơn …., tứ mộ sơn không xung thì không mở : ( xét 4 sơn ; Thìn , Tuất , Sửu , Mùi , dù không thích xung lắm nhưng Tuế xung cũng hung , Nguyệt xung hung vừa , duy trong Nhật Thời chỉ lấy một chữ mà xung , thì không kiêng , nếu xung nhiều cũng phá mà hung . Còn các trường hợp khác , các Sơn rất kỵ Chi xung : tai họa kỵ Thiên Can khắc Sơn . Sách nói : xung hướng thì không thể nói được , là thế đó . Song có lấy giờ Thái Dương tới Hướng ; như Tí Sơn Ngọ Hướng dùng giờ Ngọ ; Hợi Sơn Tỵ Hướng dùng giờ Tỵ …..xét không bằng Nhâm Sơn kiêm Tí : dùng trên giờ Ngọ 4 khắc , mà Kiêm Hợi : dùng dưới giờ Tỵ 4 khắc , đó cũng là thuần chính , ngỏ hầu không hiềm xung Sơn , nhưng phép này chỉ nên dùng giờ ban ngày , không nên dùng giờ ban đêm . Nếu xung chủ mệnh thì không dứt , dứt thì không thể đến chế sát . Tu phương thì trung , đẳng thần sát , cát tinh có thể lấy chế phục . Song lấy cát chế hung , thì hoàn toàn xem Nguyệt lệnh , tất là tháng hung sát hưu tù , chế thần thì tháng vượng tướng tốt . Như lấy một sao Bạch thủy , Nhâm Quý thủy tinh , chế hỏa phương Nam , tất đợi tháng về mùa Đông lúc thủy vượng hỏa suy , hoặc tháng Thân Tí cũng được , cho nên nói : “ sao cát có khí nhỏ thành lớn , sao ác hưu tù không làm hung ”. Đây chuyên chỉ Tu phương mà nói , còn như Tọa sơn Tu Tù thì lại không cát .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      12. Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (11-10-09),htruongdinh (14-10-09),kimcuong (01-10-09),Kloan (04-10-09),leostar79 (28-01-16),maile (13-06-10),sonthuy (05-10-09),thucnguyen (02-11-09),tom (18-01-10),vanti67 (24-07-13),vqkhanh019 (20-06-14)

      13. #17
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        SƠN GIA TẠO MỆNH ĐÃ HỢP CỤC LẠI MỪNG KIM THỦY TỚI CÙNG THEO , CHỖ MÀ THÁI DƯƠNG CHIẾU TỰ NHIÊN SÁNG . ĐỘ SỐ VÒNG TRỜI XEM VÒNG SAO PHỤC CHỖ NÀO , 7 ĐỘ CỦA THÁI DƯƠNG 3 CÁI KHẪN YẾU SỐ ĐI KHẮP TRUNG GIAN THÌ SỐ GẦN THỨ NHẤT , TRƯỚC SAU SOI TỚI GIÚP SƠN MẠCH , KHÔNG NÊN NGỒI XUỐNG CHỖ CAN CHI KHUYẾT , LẠI ĐƯỢC NGỌC THỐ ( Tức Mặt Trăng ) SOI CHỖ NGỒI , CÓ THỂ KHIẾN NGƯỜI SỐNG THẤM NHUẦN ƠN .
        Trên nói cách làm cụ thể cho tạo mệnh , đây nói hợp cát làm Dụng cho tạo mệnh . Phép Tạo mệnh là tạo thành 8 chữ , đã hợp cách cuc5 , rồi sau tìm các sao tốt soi tới Sơn Hướng , thế là gồm cả thể dụng , có thể đạt được thần công mà đổi mệnh trời vậy . Vì Trời lấy 5 sao làm kinh , ngoài mặt trời mặt trăng ra , không gì tôn bằng . Song sao Hỏa hung liệt , hai sao Thổ Mộc , lại hay che lấp ánh sáng của mặt trời mặt trăng , và che sự sáng của Sơn Hướng , cho nên không thể dùng , duy sao Kim thanh , sao Thủy tốt đẹp , là sao rất tốt trong 5 sao , nếu dùng với mặt trời mặt trăng cùng tới Sơn Hướng , gọi là Kim Thủy giúp nhật nguyệt , là triệu đại cát , nhưng tất phải lấy Đài lịch mặt trời đi vòng cung độ mới là thực . Đến như Thăng huyền kim thủy Chu thiên kim thủy suốt năm , giữ nhiệm vụ ở một phương , mà không đi vần thì không đủ tin . Thái dương cũng tra Đài lịch mới là thật . Ngoài đây ra còn có Thăng huyền Thái dương , Đô toản Thái dương , Ô thỏ Thái dương , Tứ lợi tam nguyên Thái dương , Tuần hoàn Thái dương, Lôi đình Thái dương , Đô thiên bảo chiếu Thái dương , dù là 7 thứ đều thuộc tạo giả dối cả . Vả lại trên trời không có 2 mặt trời , há lại có một Thái dương ở Đông , một Thái dương ở Tây , suốt năm không chuyển động , nếu thực có sao ấy mà lòng lại không có lý ấy . Vả lại chọn ngày mà lấy nhật , nguyệt , tinh thần tới Sơn tới Hướng , mừng Sơn Hướng sáng sủa , Tăng nói : trong nhật , nguyệt , tinh thần có thần tiên à ? kẻ kia tối tăm không biết , mứng lấy Đạo giả gọi là Thái dương đế quân , Thái âm đế quân, Ngân hà tinh quân rồi phụ họa với nhau nặn ra một vị Ngọc Hoàng để đè ép đến nỗi bời bời không nhất định , thật dối trá rất mực . Lại như hai sao Tôn Đế rất nói cát , mà xét khởi lệ rất là vô nghĩa , niên lệ thì lấy Thượng nguyên Hạ nguyên Giáp tí khời từ cung Càn 6 ; Trung nguyên Giáp tí khởi từ cung Khảm 1 ; vì từ Thượng nguyên năm Giáp tí khởi từ cung Càn 6 , đến năm Kỷ mùi mà 7 vòng , năm Canh thân lại gặp Càn 6 , thì trung nguyên Giáp tí tất khởi từ Khảm 1 , lại đến năm Kỷ mùi mà 7 vòng , thì năm Canh thân lại gặp Khảm 1 , thì Hạ nguyên Giáp tí tất khởi từ Càn 6 vậy . Nhưng Hạ nguyên Giáp tí 60 năm đã hết mà lại khởi Thượng nguyên , thì không thể lại tới Càn 6 . Đến như cái nghĩa Tam nguyên cửu cung vòng rồi lại bắt đầu , hoàn toàn không hợp nhau . Vã lại đã dùng Cửu cung phi độn , mà không dùng trung cung 5 , càng thuộc vào phi lý . Dến lệ tháng lấy tháng giêng năm dương khởi từ Cấn 5, cũng tức tháng 9 cung , cái nghĩa tháng giêng khởi 8 Bạch , nhưng lệ năm đã không hợp , thì ngày, tháng , giờ không đủ tin . Về huing tinh thì có 24 tuần sơn thần sát : Tuần sơn La hầu , Âm diêu Thổ tú , Ôn tinh ( đầu hung ) , Thủy tinh , Tài bảo ( cát ) , Kim tinh , Huyết quang ( hung) , Thái dương , Cát tinh ( cát ) , Hỏa tinh , Viêm diệu ( hung ) , Tử khí , Vinh quan ( cát ) , Kế đô , Đao binh ( hung ) , Mộc tinh , Vượng điền ( cát ) ,, Quỷ sát , Thương vong ( hung ) , Thái âm , Cát khánh ( cát ) , Nhiếp đề ( hung ) , Vượng tàm ( cát , tức thái tuế bản vị ) , cộng 24 vị , theo các Tuế chi trước Can duy khởi La hầu rồi dần dần tính thuận 24 Sơn , 12 năm cùng lệ này . Nay xem những tên ấy mà nghĩ đến nghĩa xét đến lệ , mà đo liệu đến tình , thì đúng là các thuật sĩ hùa nhau nặn ra làm thỏa bọn họ , rõ ràng lắm rồi . Duy có Tuần sơn La hầu , cho là gần kề Thái tuế , không đến hướng , hầu gần như có lý , há phải thuật sĩ nhầm tong 24 sao sát có tên Kế đô , bèn chỉ La hầu thuộc Hỏa , thật là nhầm sai quá lắm ( nói rõ ở dưới trong thiên La hầu ) . Lại đến Ẩn phục Huyết nhận , Thiên kim Huyết nhận , Đã kiếp Huyết nhận , Sơn gia Hỏa huyết , Sơn gia đao châm , hoặc theo thiên can khởi hoặc theo niên chi khởi đến như lẽ sinh khắc chế hóa , tuyệt nhiên không liên quan nhau . Đến nghịch Huyết nhận , lấy bát can tứ duy chia rải cho 60 Giáp tí , đều chiếm một chữ mà không dùng 12 chi , không có chút đường lý gì chỉ lấy 3 chữ là đáng sợ để làm người ta sợ hãi . Chín sao lành cũng chia rải cho 60 giáp tí , mỗi ngày ở một xứ Ám đao sát , thì 60 tháng chia chiếm 12 xứ , 5 năm một lần thì lầm lẩn càng sâu . Lại có một sao mà cát hay hung không định rõ , như Dịch Mã Lâm quan , tức là trước Dịch mã hai can và cả đối phương , thuật sĩ tục lại lấy Dịch mã trước một can là Mã , trước Lục hại đối phương làm Kim đồng . Chàng một sát phu , cùng là lẽ trước 1 mã ,cho là Lâm quan : tốt , cho là Lục hại : hung , rõ ràng tự cùng mâu thuẫn nhau . Xét ra tam hợp Trường sinh đối xung là Dịch mã , cùng với can chi trước sau , không can thiệp mảy may . Mệnh cát Mệnh hung đều bàn càn bậy . Lâm qua Lục hại , đã không phải nghĩa , Kim đồng Chàng mệnh , càng là quái đản không ít . Vì niên nguyệt thần sát , có tự lâu rồi , các thuật sĩ hiếu kỳ , mỗi việc hùa nhau nặn ra , nặn tạo ra không được , thì cứ đem thần sát ấy nặn ra tên khác , lại lược đổi khác đi , để làm văn vẻ sự hủ lậu , mà Thần sát tự đó càng ngày càng rối bời , tức như một Phù thiên không vong , lại gọi là Dầu bạc không vong , lại gọi là Bát sơn không vong : như Nhất tọa sát hướng sát , lại gọi là Linh mao cấm hướng , lại gọi là Bát sơn đao châm , nên cũng tự chán là chồng chập , thì ở như Bát sơn đao châm mà thêm vào , lấy Tam hợp nguyệt ở Đầu bạch không vong mà thêm vào ; lấy Bát quý sơn chi chia lìa gượng gạo làm vài sao sát , Lại thêm Lục hại thì lại gọi tên khác là Âm trung Thái tuế . Âm trung sát tiểu hao thì gọi tên khác là Tĩnh lan sát mà đều dấu kín tên cũ đi . Lại như Hoàng đạo Hắc đạo thì lại lập riêng danh sắc , gọi là Minh tinh , Hắc tinh , mà Lôi công với Thiên nhạc , cát hung đều khác nhau . Lôi công tức là Thanh long vốn là sao cát . Thiên nhạc tức là Thiên lao vốn là hung tinh . Nhân thiên lao mà gọi khác tên là Thiên ngục , nhân ngục mà ngoa ra nhạc lại nhân Nhạc mà ngoa ra Nhạc , bèn lấy Thiên nhạc là cát mà Lôi công là hung . Lại như Thiên quan Thú Tướng dân , ngày thì diễn ra lấy ngày ngục , ngày Đô lệ lao chết rieng chịu tội , không nói ra tội hình , và đến như 12 mà lại riêng ra các tên Phúc hậu Ân thắng . Kiến Trừ 12 vị thần đã có cùng vị khác tên , mà lại chia riêng làm các hiệu Chu tước , Quý nhân . Ôi ! chỉ một Thần sát mà danh hiệu càng được càng nhiều , cát hung không bằng cứ gì , bèn khiến kẻ Nghiệp thuật hoa mắt rối lòng , tới hay tráng không biết đâu mà mò ! Chẳng lạ gì , vì người ta tạo phúc , mà lại tới họa . Cái tệ hại này đều do người dời thích sao cát , ghét sao hung , cho nên những kẻ tục thuật hùa nhau nặn ra danh hiệu cát để gieo vào sự muốn sự ghét vậy , đâu có biết cát không phải thực cát , hung không phải thực hung , vì thần sát , cát hung to nhỏ , nên đều theo Thái tuế Nguyệt kiến mới là thực . Nếu không do đó , dù có thi , ca , đồ , lệ , cũng đều là thuật giả dối hùa nhau tạo nặn ra .

        Xét kỹ Quốc triều bản Khâm định Hiệp Kỷ , thì sự thật hay giả rõ ràng lắm . Các điều đó đều lập thành ở thiên Biên ngụy ở sau .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      14. Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        binhbinh (15-10-09),cuongbao (11-10-09),htruongdinh (14-10-09),kimcuong (01-10-09),Kloan (04-10-09),leostar79 (28-01-16),maile (13-06-10),sonthuy (05-10-09),thucnguyen (02-11-09),tom (18-01-10),vanti67 (24-07-13)

      15. #18
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        NÓI RÕ TINH ( Sao ) THẦN

        Tuyển trạch Tông kinh viết : “ Dương công có nói : niên nguyt65 cốt diệu , ít ai biết , niên nguyệt không bằng phép tạo mệnh ” .Ngô công có nói : “ phép Tuyển trạch không bằng phép Tạo mệnh , cái hay của Thể , Dụng , có thể đoạt đực thần công ”. Quách công có nói : “ Trời sáng chiếu dưới , đức Đất chở trên , Tàng thân họp sóc , Thần đón Quỷ phục ”. Mười sáu chữ này rất tinh rất mầu nhiệm , tức là nói Thể , Dụng của Tạo mệnh là thế . Vì Thần Tàng ấy là vị Nguyên thần thu tang ở trong đất . Phép ấy đây : Kén thành Tứ trụ , bát tự can chi thuần túy , thành cách thành cục , để giúp bổ vào Long khí , thì mạch đất thịnh vượng , mà lên trên giữa phần mộ , cho nên gợi là Tàng thần , nên gọi là “ địa đức thượng tải ”, là thể của tạo mệnh đó .Hợp sóc là : lấy ngày mồng một , nghĩa là Thái âm Thái dương hợp nhau chiếu sáng . Cứ một điều gồm trăm điều vậy . Phép đây : lấy Tam kỳ Tam đức , Kim , Thủy , Tử , Bạch , Lộc mã Quý nhân tới Sơn tới Hướng , tự nhiên tốt Phúc . Nói về Hợp Sóc là nói “ trời sáng chiếu xuống dưới “ , là Dụng của Tạo mệnh , nhưng nếu phạm đụng Hung Sát , thì Họa theo liền , cũng là vô ích .Lại tất phải trước hết ở trong niên nguyệt , suy tìm Cát thần ba hướng cùng đón rước , còn nhất thiết Tuế phá Tam sát , các hạng Mậu Kỷ Âm phủ phải tránh , kiêng tất cả , không can phạm nhau , là hoàn toàn cát , là thuyết Thần đón Quỷ tránh vậy , đó lại là rất khẩn trong Thể : Thể Dụng gồm cả , là nhất rồi , nếu không thế , thì thà bỏ Dụng mà dùng Thể . Trong mỗi năm có Cát thần , có Hung thần , có cát tinh , có hung tinh , hai loại ấy không đồng nhau , không thể không biện . Thần lệ thuộc ở đất , hoặc cát hoặc hung , tùy theo Thái tuế chỉ huy mà thôi , vì Thái tuế là Vua , phận vị rất tôn , lực rất lớn , cùng 24 sơn ấy , thì Thái tuế cùng mừng cùng hợp nhau , đến như Thái tuế sở sinh phù ấy tức là cát . Cho nên phàm Tuế đức hợp Tuế quý , Tuế Lộc , Tuế Mã , cả đến những chữ Khai , Thành , Bình , Nguy , bốn ngày ấy đều cát , ngày Trừ ngày Định cũng cát vừa . Tóm lại cùng với Tuế quân tương đắc nhau cho nên cát ; còn như cùng với Thái tuế xung , đấu nhau và bị Thái tuế khắc chế , thì là hung thần , cho nên Tuế phá ấy , Thái Tuế lý gì đâu ? Thái âm hiền lành , có khí tượng mẫu nghi , hay hóa được tất cả mọi hung thần , nhưng đã được chân Thái dương rồi , lại được chân Thái âm là Kim Thủy cùng tới Sơn Hướng , phúc trạch càng dầy . Nhưng kim thủynhật nguyệt này cùng với Lộc Mã , Quý nhân đều giúp là sao Phúc chứ chẳng phải là nguồn gốc phát phúc ; căn bản của phúc là hoàn toàn ở bổ Long , bổ Sơn , bổ chủ mệnh , Tứ trụ Bát tự được cục để sinh phù mạch Sơn vậy . Cho nên Mạch Sơn chỗ ngồi , mà Vượng Tướng thời Phát , nếu Hưu Tù thì Không Phát . Đó hoàn toàn ở chi can của Tứ trụ . Nếu can chi đã khuyết , thì bổ Mạch không dậy , dù các cát đều tới , cũng không đại phúc , ví như con người vô dụng dù được Quý nhân giúp đỡ , trọn không thể làm gì lớn được . Cho nên lại đinh ninh nói rằng : “ Không nên ngồi xuống chỗ can chi khuyết ”, đó là tỏ rõ Thể là trọng , Dụng là khinh .

        Đã được cơ trời chữ nào cũng huyền diệu , tinh vi tuyển trạch nên thao tìm , không thế là trái lý , là thuật của ông thầy tầm thường , cầm xem văn phù hiếm , uổng phí công dụng tâm . Chứ chữ như vàng thực đáng khoe , khiến cho cơ trời như hoa thêm gấm , nếu không được chân Long , mà được niên nguyệt , thì cũng giàu sang và người nhà thịnh vượng .

        Đây là kết rõ bài trên về phép tạo mệnh , hoàn toàn lấy Bổ Long Sơn , Tướng Chủ Mệnh làm chủ yếu , cho nên Dương công lại cực khẩu tán dương , há chẳng phải muốn người để lòng nghiên cứu . Ai hay hay biết đực nghĩa ấy nghên cứu tinh vi , thì Tuyển trạch có thể tốt đẹp như tiền nhân ; Không thể , chỉ cần văn suông , làm việc câu nệ ở phép đã thành , chẳng qua là thuật tầm thường , cho nên lại khen tốt đẹp rất sâu , để thấy Tạo mệnh diệu dụng vô cùng , mở bảo người sau nên lưu tâm .

        Lại ca rằng : “ Phương phương vị vị sát thần tới , tránh được Sơn qua khỏi , lại lấn tới Hướng . Chỉ có Sơn gia chỗ tự vượng , bí quyết thần diệu của cơ Trời nên lưu tâm . Chi mà không hợp thì lấy trong hang can , đón phúc trừ hung tìm chỗ vượng , mặc kệ La Hầu Thiên phủ sát , nên ẫn phục dưới âm chin suối .

        Hai mươi bốn phưng vị thần sát chiếm phạm rất nhiều , tránh được niên sát , lại có nguyệt sát , tránh được nguyệt sát , lại có nhật sát . Vả 1 Sơn lợi , Hướng lại không lợi . Hướng lợi Sơn lại không lợi , khó được cát hoàn toàn . Chỉ lấy bản Sơn , mạch tới từ chỗ vượng , được lệnh có khí , lại Tứ Trụ can chi nhân thì vượng tướng .Như Tọa Sơn là bát can thì lấy Thiên can nhất khí , hoặc chồng chất Lộc , chồng chất can . Tọa Sơn lả 12 chi , lấy địa chi nhất khí , hoặc Tam hợp niên nguyệt nhật thời , chẳng phải là ở Sơn gia nơi tự vượng , châm chước điều hòa , khiến cho càng thêm vượng . Đây vượng thì đấy suy , mà hung sát tự nhiên phải phục . Đó là bí quyết thần diệu của Cơ Trời .

        -----------------------------------------------------------------

        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      16. Có 9 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (11-10-09),htruongdinh (14-10-09),Kloan (09-10-09),leostar79 (28-01-16),maile (13-06-10),sonthuy (05-10-09),thucnguyen (02-11-09),tom (05-10-09),vanti67 (24-07-13)

      17. #19
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        KINH NGHI LONG
        ( Dương Quân Tùng )

        Đại phàm việc sửa dựng nhà cùng việc mai táng, nên đem các sao của niên nguyệt bầy ra , đất lành táng hung , họa phát trước , gọi là khí thi phúc chẳng tới , đấy là lời nói của vị tiền hiền Cảnh Thuần , Cảnh Thuần dù nói không niên nguyệt ( Quách Phát thời Đông Tấn mới làm Táng kinh mà nghĩa Tuyển Trạch xét ra chưa từng truyền , tới đời Đường Dương công mới làm ra thiên Tạo Mẹnh và Kinh Nhgi Long , mỡ rõ lý khí mà đạo ấy mới rõ rệt , Quách Phát làm sao có nguyên kinh . Người đời sau cho là Nguyên kinh tự Quách công làm ra , thế chẳng phải ngụy tạo sao ! ). Về sau niên nguyệt vài mươi Nhà , một nửa có đầu , không đuôi kết , đại để văn ấy không thập toàn . Một nửa đều là người có tục truyền ( về sau dứt hết sự lầm lẫn của các Nhà ) , không phải Thanh nang khởi Quỷ quái , ấy là Tam nguyên Độn giáp giải nghĩa rõ ràng , Đằng vân diệu khí cả Lộc Mã , Thông Thiên khiếu cùng với cục Lục Nhâm , trang hoàng thành ra đồ cục gọi là Phi thiên ( khiếu mả không đủ tin ) danh hiệu Phi thiên người nào tạo ra , rằng là của Tổ sư nói bí quyết mà truyền ( lầm lẩn về miệng truyền là có thể biết ) , Đồ kim bàn là Tả bổ Lục . Lôi đình Cửu kiếp gọi là Thăng Huyền . Khôn giám Hoàng là cả Vũ khúc , duy có Quan Quỷ khiến Đại đan can . Huyền truyền là bậc nhất , toán lệ 120 Nhà , 96 Nhà lấy niên nguyệt làm cốt yếu , hỏi đến nhất nhất đều thông hiểu cả . Phi độ tinh thần nói mầu nhiệm trống ốc là hay . Thử khiến Tuyển Trạch làm nhà , mộ , khi phúc chưa tới họa đã tới trước ( nói hết cả sự lầm lẫn của các Nhà không nên dùng ) , không biết niên nguyệt ít người biết . Niên nguyệt không như phép Tạo mệnh , trang hoàng thành mệnh tốt nhờ người làm . Người cát sinh , vượng được mệnh tốt , một đới được hưởng phúc gồm giầu thịnh , không những một thân mình giầu sang cao , đời đời con cháu hưởng phúc thừa ( ở đây nói là Tạo mệnh thần diệu , để bảo người sau lưu tâm xem xét ) . Ta nhân tích số xét về trời , khí tượng huyền vi muôn muôn ngàn sao đến sáng sớm lặn dần dần , chỉ có sao Thái dương còn mải đến muôn đời . Thái Âm nhờ mặt trời có khi đầy khi vơi không ví được với Thái dương luôn luôn sáng trên trời , xin ai chuyên dùng ánh sáng Thái dương soi tới , Tam hợp cung đối thì phúc lộc bền . Lại xem vài sao ở chỗ nào , phúc lực cùng với Thái dương gồm cả . Hai sao Kim Thủy cùng tử khí , Nhật tác cùng dùng không hiềm gì . Vòng trời vốn là 11 sao , chỉ hiềm trái phục , tai họa ghê gớm .

        Kinh trên đây nói rõ các Nhà hoảng hốt , không như tạo mệnh thần diệu . Nhân Long sơn chủ mệnh để khởi Tứ trụ Bát tự , thành cách thành cục Phù Long tướng chủ , thể gọi là trang thành mệnh tốt đẹp . Bát tự đã tốt đẹp , bèn lấy cát tinh chiếu tới , Thái dương là rất tốt thứ nhất nên tới hướng là thượng cát . Đối cung tức là tới hướng đó . Tam hợp cũng cát , hoặc cùng Sơn Tam hợp , hoặc cùng Hướng Tam hợp , Thái Âm là tốt vừa . Trong số 5 sao , thì 2 sao Kim Thủy tốt , hai sao Thổ Mộc che lấp sáng sủa , và Hỏa tinh nóng dữ dội đều hung . Trong Tứ Dư duy Tử khí rất tốt . Nguyệt bột Nhu tinh , gặp sao hung thì hung , gặp sao cát thì cát , cùng dùng cả thì không hiềm gì , vì cùng với Nhật Nguyệt hợp với Thủy đồng dùng là cát . Hòa , La , Thổ , Kế , đều hung . Thất chính Tứ Dư cộng 11 sao , nếu gặp phục nghịch thì hung lại càng hung , mà cát cũng hung.

        Xét bài ca Thien Kim của Dương công cùng với Kinh Nhgi Long , mở rõ ý về Tạo mệnh mà nói . Nói đến lý càng xem càng hay , thật là ngàn đời chỉ xa ( tức là xe chỉ Nam ) của Nhật gia Nơi đó đến Tăng Văn Sơn , Trần Hy Dy , Ngô Khắc Thành , Ngô Cảnh Loan , với lại những nhà thuật sỹ danh tiếng đời sau , khóa Tạo Táng nhất thiết đều lấy phù Long Tướng chủ làm chủ yếu . Đến việc sửa cát phương thì phép Phù Cát , hết sức khúc chiết , khéo lấy mà xem, cùng với sự hoảng hốt vô bằng của các Nhà , ví như mây bùn cách biệt .
        thay đổi nội dung bởi: AnhNgoc, 09-10-09 lúc 21:49
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      18. Có 10 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (11-10-09),htruongdinh (16-10-09),Kloan (09-10-09),leostar79 (28-01-16),maile (13-06-10),sonthuy (09-10-09),thucnguyen (02-11-09),tom (18-01-10),vanti67 (24-07-13),vqkhanh019 (20-06-14)

      19. #20
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        BÀN BẠC CHÍNH XÁC VỀ THẦN , SÁT .
        -------------------------------

        Tuyển Trạch lấy Phù Long Tướng chủ làm Thể , theo cát tránh hung làm Dụng , thể dụng gồm đủ là hoàn toàn cát Nhưng thuật giả dối ra rất nhiều như ong dây , mở cổng , rộng cửa , hùa nhau nặn ra Thần Sát , không dưới hàng ngàn .
        Như Tịnh là cát thì mặt trời , mặt trăng là rất cát . Trong bài Thiên Kim ca có câu : “ Tứ yếu Đế tinh dưỡng Lục giáp ”. Đế là Thiên Đế , tức là hùa nặn ra một Ngọc Hàng loan giá , Tử vi Đế tinh , Tử vi Loan giá , Thử thần Đế tinh Nam Long Đế tinh, Đô thiên Bảo chiếu .Đô thiên chuyển vận , Hành nha Đế tinh , suốt năm mỗi vị giữ một phương tuyệt nhiên không đổi dời , há phải là Phấn hoàng 6 triều các vị Đế dời Ngũ đại dư : khá biết không phải đối xung mà là phá vậy . Tam sát là 3 phương Thái Tuế sở sát . Âm phủ là : hóa khí của Thái tuế , tức là khắc sơn hóa khí . Niên khắc là Thái Tuế nạp âm khắc Tọa Sơn bản mộ nạp âm . Đó đều chịu Thái Tuế khắc , mà không thể phạm vào được . Lâm quan phương là Thiên quan phù , chủ quan tụng . Đế vượng phương , là Đả đầu hỏa , chủ hỏa tai . Đó là khí Thái Tuế có thừa , cho nên phải Tam Hợp cục khắc tử phương vị Lục hại , vì Chá thoái chủ về lụn bại . Đó là khí của Thái Tuế không đủ , cho nên đem cục Tam hợp bổ vào . Lấy là Tuế can độn Ngũ Hổ , độn dến Mậu Kỷ phương , là Mậu Kỷ sát , canh Tân phương là Thiên Kim Thần , Bính Đinh phương là Độc Hỏa . Các Thần từ đây trở lên tóm cả tùy theo . Tuế quân mà di chuyển . Còn các Thần Sát bời bời , không theo Thái Tuế mà dấy thì đều là người đời sau dặt thêm . Trong đó duy có Thái Tuế là rất hung , lệ không phép chế . Tam sát cũng đại hung , không thể chuyển phạm . Còn các Hung Sát khác , đợi tháng Hưu Tù mà lấy Tứ Trụ chế hóa là được . Nếu không biết phép Chế Hóa , thì thà tránh đi , đó là đại lược về Thần đón Quỷ tránh .
        ( Đây bàn về cát tinh hung tinh ) : Sao chuyển vận ở trên trời , mặt trời mặt trăng ở trong thất chính . Kim Thủy là Tử khí Nguyệt bột trorng tứ dư với Tam Kỳ Tử Bạch trong Bát kết , đều là cát tinh cả . Trong đó duy mặt trời là rất Tôn , nguyệt ( mặt trăng ) cùng với Tam Kỳ Tử Bạch là cát thứ nhì . Đến như các sao Ngọc Hoàng Loan Giá , đều hùa nhau nặn ra không căn cứ gì cả .
        ( Đây bàn về Nguyệt gia cát thần hung sát ) : Nguyệt lệnh là chức quan quyền yếu , sao xung là nguyệt phá , sao khắc là Nguyệt Âm phủ , làm Tuế phá cho khắc Sơn gia và Niên gia . Âm phủ niên khắc cũng đồng vậy . Nguyệt gia chi Thất sát : là tháng đủ kiến Tiểu nhi sát , với Mậu Kỷ sát của Niên gia đồng vậy . Trong đó duy tháng đủ kiến rất hung , đó là chân hung thần của Nguyệt gia . Vượng phương của bản nguyệt là khoảng giữa sao Kim Quỹ , Lâm Quan , Đế Vượng là Nguyệt Đức . Phương cùng hợp là Nguyệt đức Hợp , loại giữa Đinh , Nhị Khôn là Thiên Đức . Phương cùng hợp là Thiên đức Hợp , đó là Chân Cát thần của Nguyệt gia.
        ( Đây bàn chế sát ) : Sao trên trời có thể hàng phục được sao sát dưới đất , nhưng sao trên trời khí nhẹ , sao sát ở dưới đất sức mạnh . Nếu phạm Tam Sát âm Phủ , với lại Nguyệt gia chi đại nguyệt kiến Tiểu nhi sát , thì Thái Dương tới cũng không thể chế được , huống chi là Đất ! Đại sát thì tránh đi , Trung sát thì Chế đi , Tiểu sát thì bất tất bàn đến . Cốt được tám chữ đích đáng , sao cát soi tới thì tự nhiên bền cát . Còn như giả sát mà hùa nhau nặng ra thời bỏ đi thôi .
        ( Đây luận về tu phương ) : Tu hung phúc mạnh , không bằng tu cát là ổn . Song tu cát nhu tu Thái Tuế phương , Tam đức phương , Bản mệnh Lộc quý phương . Thực Lộc phương tất lấy cát phương tháng vượng tướng , mà lấy Tứ Trụ giúp đỡ thêm vào, thì cát ấy lại càng cát vậy . Tu hung như tu Tam Sát phương , Quan Phù phương , Kim thần phương , tất đợi tháng phương hung tháng tu tù , mà lấy tám chữ khắc chế , thì hung phương cũng cát được .
        Tu cát cốt giúp được vượng , chế hung cốt chế được phục . Như bản mệnh Quý nhân Lộc Mã phi tới Sơn phương , hướng , rất cát , cũng có thể hàng phục được các hạng Trung , Hạ sát .
        ( Đây luận về thần sát thực , giả ) : Trong 24 sơn phương không cát hung , nghe theo Thái Tuế lấy cát , hung mà thôi , không theo Thái Tuế khởi thì đều là giả tạo ra . Như cát thần , giả thì gọi là Ngọc Hoàng , là Tử vi , là Loan giá . Hung thần giả thì gọi Thiên mệnh sát , Phù thiên Hỏa tinh , với các dạng Hỏa tinh , Quan phù , Huyết nhận , không thể ghi chép hết được , chỉ một là xét về lệ khởi lên , hai là xét về sở dĩ nhiên , thì sai lầm rất rõ ràng vậy .
        ( Đây bàn về nhật thần cát hung , thực giả ) : Trong 60 ngày cũng không hung cát , nghe theo Nguyệt lệnh lấy cát hung mà thôi . Nhật thống ở Nguyệt là Nguyệt sở hợp sở sinh với lại cùng Nguyệt lệnh cùng vượng ấy là Chân cát nhật , như vượng nhật Tướng nhật , Nguyệt đức nhật ,……, Can chi của Nhật là Nguyệt sở khắc , sở xung cả đến hưu tù mà không dường Nguyệt lệnh , là Chân Hung nhật , như Phá nhật Tứ phế ,…., còn không theo Nguyệt lệnh khởi ấy , đều là ngụy tạo cả , như ngụy cát Nhật thì gọi là Man Đức , Cát Khánh ,…., ngụy hung Nhật thì gọi là Tử biệt , Diệt môn ,…., xét kỹ về khởi lệ thì Thực , Giả rõ ràng vậy ./.


        HẾT QUYỂN I
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      20. Có 9 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        binhbinh (15-10-09),htruongdinh (14-10-09),Kloan (23-10-09),maile (13-06-10),phuluong52 (18-02-12),sonthuy (16-10-09),thucnguyen (02-11-09),tom (18-01-10),Đại An (14-10-09)

      Trang 2/12 đầuđầu 1234 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Dịch - Định - Tâm - Trạch
        By admin in forum Về chúng tôi
        Trả lời: 4
        Bài mới: 17-08-11, 22:16
      2. Đổng công tuyển nhật!
        By vocuc in forum Tủ sách Huyền Không Lý Số
        Trả lời: 3
        Bài mới: 13-04-11, 07:42
      3. Âm trạch
        By htruongdinh in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 18
        Bài mới: 18-02-10, 20:57
      4. Nhờ xem ngày giờ nhập trạch
        By lehien28 in forum Nhờ xem ngày giờ
        Trả lời: 4
        Bài mới: 25-09-09, 11:48
      5. Xem giúp lá số Tử Bình! Chân thành cảm ơn!
        By ngoisaobang99992003 in forum Nhờ xem Tử Bình
        Trả lời: 2
        Bài mới: 23-08-09, 21:36

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •