Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 4/4 đầuđầu ... 234
    kết quả từ 31 tới 39 trên 39

    Ðề tài: Trích thiên tủy

      1. #31
        Tham gia ngày
        Jul 2009
        Bài gửi
        492
        Cảm ơn
        441
        Được cảm ơn: 363 lần
        trong 196 bài viết

        Default

        Nhâm thị viết:

        Cái thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “lạc thư”, hai cái khí này lưu hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy tiến làm thối, âm khí tính hay tán, nên lấy thối làm tiến. Thế cho nên người học dự đoán cát hung mệnh vận bất tất chuyên lấy thuận nghịch làm luận lý, mà cần nên quan sát xem nhật chủ suy vượng, nghiệm xem căn gốc nông sâu ra sao, xét xem tứ trụ dụng thần hữu lực hay vô lực, từ đó mà biết được cát hung vậy. Đến như trường sinh mộc dục các loại, cũng chỉ là mượn danh gọi để chỉ cho hậu học hình dung mà thôi. Nó nói lên giai đoạn thành, thịnh suy hủy của kiếp người hay sự vật. Trường sinh chỉ con người mới bắt đấu sinh; do con người mới sinh cần sự tắm sạch nên gọi là mộc dục, hình thể dần dần lớn mạnh gọi là quan đới, lâm quan là giai đoạn con người xuất sĩ ra làm quan, đế vượng là giai đoạn cực thịnh của con người và thịnh cực tắc suy cho nên thời kỳ này gọi là suy, suy lâu thời tắc bệnh, bệnh lâu thời phải chết hai giai đoạn này gọi là bệnh tử, tạo hóa ra muon loài cũng từ đất và cũng là nơi mộ địa của muôn loài, vạn vật bị chôn vùi trong mộ địa khí suy cùng cực cho nên hai giai đoạn này gọi là mộ tuyệt của sự vật; sự vật trong trời đất không thể nào suy tuyệt mãi cho nên vật cực tất sinh thời kỳ này gọi thai dưỡng, và cứ như thế mà tuần hoàn lưu chuyển không ngừng vậy.

        Đến như nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, mà trong trụ năm ngày giờ đắc trường sinh lộc vượng, nhân đó được xem là cường vượng, hay như tứ trụ còn địa chi có khố cũng được coi như là có căn gốc. Nên mới có cái thuyết là đầu mộ cần nên xung động, tục thư thật sai lầm quá vậy. Cổ pháp duy chỉ có tứ trường sinh, chứ không bao giờ có cái thuyết rằng tý, ngọ, mão, dậu là âm trường sinh bao giờ cả. Thủy sinh mộc, thân là cung vị thiên quan, hợi là thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh không ngừng, thế cho nên mộc trường sinh tại hợi là thế. Cung vị ngọ hỏa là nơi tử địa của mộc, do mộc sinh hỏa liệt hỏa thiêu cháy mộc mà ra. Các loại ngũ hành khác cứ thế mà suy.

        Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương, suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy; còn ngũ hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với tự nhiên vậy. Lại còn nói là “Đất tý ngọ cung không thể sinh kim sinh mộc; Đất hợi dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, đinh gặp dậu lấy tài luận, ất gặp ngọ, kỷ gặp dậu, tn6 gặp tý, quý gặp mão lấy thực thần tiết khí luận, toàn không lấy trường sinh luận. Ất gặp hợi, quý gặp thân lấy ấn luận, không nên luận tử. Lại như kỷ gặp dần tàng can bính hỏa, tân gặp tỵ tàng can mậu thổ, cũng đồng ấn luận, không nên luận tử. Từ đó cho thấy, âm dương đông sinh đồng tử là điều dể hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên, “chương Tri Mệnh” có nói “thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.

        Bính tý - kỷ hợi - ất hợi - bính tý


        Canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ.

        Nhật nguyên ất hợi sinh vào tháng hợi, rất mừng lưỡng bính hỏa thấu can, không sợ mất đi cái vẻ đẹp của mùa xuân. Hàn mộc hướng dương, thanh thuần không tạp, tiếc rằng bính hỏa không có căn gốc, thủy mộc lại thái quá, văn nghiệp không thành tựu; với lại trung vận nhất lộ thủy mộc sinh phù thái quá, hỏa thồ trong trụ bị tổn thương, đọc sách không thành nhưng tài vận thì rất tốt đẹp. Tứ trụ mừng không thấy kim tất sự nghiệp thanh cao. Nếu như cứ cố chấp theo luận thuyết cho rằng ất mộc bệnh ở trụ năm trụ giờ tý thủy, tử ở trụ tháng hợi, từ đó suy ra rằng nhật nguyên suy kiệt cùng cực, rất nên lấy dụng thần sinh phù nhật chủ, rồi chọn lấy hợi tý thủy làm dụng thần sinh trợ nhật thần, từ đấy không nên tái kiến thủy mộc vậy.

        Mậu ngọ - ất mão - quý mão - quý hợi

        Bính thìn đinh tị mậu ngọ kỷ mùi canh thân tân dậu.

        Tứ trụ quý thủy sinh vào mùa xuân trong trụ ất mộc xuất hiện quá nhiều, nhật nguyên tiết khí thái quá, ngũ hành vô kim tư phù, chỉ dựa vào quý hợi thủy trụ giờ bang trợ. Hiềm vì hợi mão bán hợp mộc cục, thiên can lại xuất hiện mậu thổ khắc tiết cùng cực, đại vận mậu ngọ hỏa thổ đồng lâm khắc tiết quý thủy nhật nguyên mạng vong. Nếu như cứ cố chấp theo ngụy thư cho rằng quý thủy trường sinh ở trụ thán và trụ ngày, trụ giờ cư kình dương vượng địa, hà cớ vì sao mà đoản mệnh? Lại còn nói “thực thần hữu thọ đa thê tử, thực thần sinh vượng thắng tài quan”, lấy tứ tụ trên mà nói danh lợi lưỡng toàn, nhiều con cháu chăng. Nói cho cùng thì cái thuyết âm dương thật không lấy chi làm bằng chứng thật.
        Khi chén rượu, khi cuộc cờ
        Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên

      2. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "Ducminh" về bài viết có ích này:

        ChucSonTu (16-10-14)

      3. #32
        Tham gia ngày
        Jul 2009
        Bài gửi
        492
        Cảm ơn
        441
        Được cảm ơn: 363 lần
        trong 196 bài viết

        Default

        Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương, âm dương quai bội nhi hỗn loạn giả vong.

        (Thiên địa thuận toại cho cái tinh túy sáng sủa, âm dương trái nghịch để cái hỗn loạn diệt vong.)



        Nguyên chú: Bất luận hữu căn vô căn, câu yếu thiên phúc địa tái.

        Nguyên chú: Bất luận hữu căn hay vô căn, đều cần thiết xem xét kỹ cả Thiên can cùng Địa chi.

        Nhâm thị viết: phương pháp chọn dụng Can Chi, thấy Can cần phải xem thêm Chi, thấy Chi cũng phải xét kỹ Can. Như hỉ Giáp Ất, mà gặp thêm dần mão hợi tý, tắc sanh vượng, gặp phải thân dậu, tắc thời khắc bại; như kỵ Bính Đinh, thời lấy hợi tý chế phục, nếu lấy 4 chi tị ngọ dần mão thời phóng túng quá rồi. Như hỉ dần mão, mà xét lấy Giáp Ất Nhâm Quý thởi được sanh vượng, còn xét lấy Canh Tân thời khắc bại vậy; hay như kỵ tị ngọ, xét lấy Nhâm Quý là để chế phục, còn xét lấy Bính Đinh Giáp Ất, chỉ là lấy cho sướng mà thôi. Không những như vậy, Can thông căn cho chi, chi gặp sanh phù, tắc gốc Can Chi cùng kiên cường, chi gặp xung khắc, tắc gốc Can Chi như bị bật rể. Chi thụ ấm cho Can, Can gặp sanh phù, tắc Chi được ấm thịnh; Can gặp khắc chế, tắc Chi cũng suy vi. Phàm trong tứ trụ Can Chi của mệnh, thời hiển nhiên gặp cát thần mà không là cát, gặp phải hung thần mà chẳng thành hung, đều là vì lý do ấy cả, điều này chẳng phải chỉ luận khí chất của riêng Thiên can mà phải luận song hành cả khí chất Địa chi, tổng hợp lại chính là cái ý “Thiên phúc địa tái”.



        Kỷ Hợi , Đinh Mão , Canh Thân , Canh Thìn

        Bính dần - Ất sửu - Giáp tý - Quý hợi - Nhâm tuất - Tân dậu



        Canh kim tuy sanh xuân lệnh, chi tọa lộc vượng, thì phùng ấn tỉ, túc dĩ dụng quan. Địa Chi tái dĩ mão mộc tài tinh, hựu đắc hợi thủy sanh phù hữu tình, Đinh hỏa chi căn dũ cố, sở vị "Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương" dã. Tuế vận phùng Nhâm Quý hợi tý, Can hữu Kỷ ấn vệ quan, chi đắc mão tài hóa thương, sanh bình lý hiểm như di, thiểu niên khoa giáp, sĩ chí phong cương. Kinh vân: "Nhật chủ tối nghi kiện vượng, dụng thần bất khả tổn thương", tín tư ngôn dã.


        Canh kim tuy sanh lệnh tháng mùa xuân, tọa chi Thân là lộc vượng, trụ giờ gặp Ấn Tỉ, đủ để dụng được Quan. Địa chi tái kiến mão mộc tài tinh, lại được hợi thủy sanh phù hữu tình, gốc Đinh hỏa càng bền chặt, nên gọi là "Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương" đấy thôi !. Tuế vận gặp Nhâm Quý hợi tý, Can có Kỷ là ấn vệ Quan, chi được mão tài hóa Thương, suốt đời không sợ nguy hiểm, thiếu niên đã khoa giáp, khi lớn cũng làm đến tướng soái. Kinh cho rằng: "Nhật chủ cần nhất kiện vượng, dụng thần không thể bị tổn thương", lời ấy chẳng sai chạy.
        Khi chén rượu, khi cuộc cờ
        Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên

      4. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "Ducminh" về bài viết có ích này:

        ChucSonTu (16-10-14)

      5. #33
        Tham gia ngày
        Jul 2009
        Bài gửi
        492
        Cảm ơn
        441
        Được cảm ơn: 363 lần
        trong 196 bài viết

        Default

        Kỷ dậu , Đinh mão , Canh Thìn , Giáp thân

        Bính dần - Ất sửu - Giáp tý - Quý hợi - Nhâm tuất - Tân dậu

        Trụ này cũng lấy Đinh hỏa Quan tinh làm dụng, Địa chi cũng kiến mão mộc tài tinh nâng đỡ, so với tứ trụ trước nhiều điểm tương đồng nhưng có khác biệt nho nhỏ, đó là mão dậu xung nhau, khắc bại gốc Đinh hỏa, trong Chi ít thủy, Tài tinh hữu khắc vô sanh, tuy trụ giờ thấu Giáp mộc nhưng đóng ở chi Thân, thành ra Địa chi chẳng nâng đỡ được can Giáp, tuy có mà như không. Nên xuất thân cựu gia, chuyện đèn sách không tiếp tục được, lại phá hao hình thương; hạn vào Tuất vận, Chi thuộc phương tây, bần khốn không chịu nổi.


        Canh thân Nhâm ngọ Tân dậu Quý tị

        Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất - Đinh hợi - Mậu Tý


        Tứ trụ này Canh Tân Nhâm Quý, kim thủy đều trong sáng, rõ ràng minh bạch, Địa chi thân dậu tị ngọ, kim hỏa nung đúc thành công, nên khí tháng ngọ hỏa đắc dụng, lý ấy ứng với danh lợi đều sáng sủa tốt đẹp. Nhưng điều đáng tiếc là tứ trụ ngũ hành vô mộc, kim tuy thất lệnh nhưng nhiều, hỏa tuy đương lệnh mà không có phụ trợ; lại ngại Nhâm Quý thêm vào, buộc Canh Tân sanh trợ thêm, mà ở Thân lại đắc Trường sanh, thời Nhâm thủy càng thêm sướng (mạnh). Tuy có tị hỏa giúp ngọ nhưng tị dậu hợp kim, thời ngọ hỏa tất cô thế. Cho nên hai vận thân dậu, phá hao bất thường; trong vận Bính tuất, bắt đầu giúp trợ dụng thần, gặp gỡ vận hội lớn; vừa giao với vận hợi, Nhâm thủy được Lộc, Quý thủy lâm Đế vượng, hỏa khí bị khắc cùng cực, tan nhà nát cửa mạng vong.



        Canh thân , Nhâm ngọ , Tân dậu , Giáp ngọ

        Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất - Đinh hợi - Mậu Tý


        Tứ trụ này cũng dụng Đinh hỏa trong ngọ làm Sát, Nhâm thủy cũng tác động vào Chi ngọ, lại có Canh kim sanh phù. Mừng ở chổ giờ ngọ trợ giúp, càng hay có Thiên can phụ trợ Giáp mộc, thời hỏa được ấm thịnh. Vả lại Nhâm thủy thấy Giáp mộc thành ra tham sanh, không đến đối địch với hỏa, tứ trụ có cái thế tương sanh hữu nghị, không có phong thái tranh khắc lẫn nhau, trung niên tên đề Hương bảng, kẻ sĩ làm tới Giám sát quan (Ngự sử). So với tứ trụ trước chỉ đổi lại trước sau một giờ, đã thành cách cục thâm sâu (Thiên uyên chi cách), mới gọi là “sai một ly đi một dặm” là vậy.
        Khi chén rượu, khi cuộc cờ
        Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên

      6. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "Ducminh" về bài viết có ích này:

        ChucSonTu (16-10-14)

      7. #34
        Tham gia ngày
        Jul 2009
        Bài gửi
        492
        Cảm ơn
        441
        Được cảm ơn: 363 lần
        trong 196 bài viết

        Default

        Thiên toàn nhất khí, bất khả sử địa đức mạc chi tái.

        (Khí chất Thiên can toàn vẹn [là một loại], chẳng lẽ không thể dùng tới khí vượng của Địa chi.)



        - Nguyên chú: Tứ Giáp tứ Ất, nhi ngộ dần thân mão dậu, vi địa bất tái.

        Nguyên chú: Tứ Giáp tứ Ất, mà ngộ dần thân mão dậu, là Địa (chi) bất tái (không chuyên chở/phù trợ lẫn nhau).

        - Nhâm thị viết:


        Thiên toàn nhất khí giả, Thiên Can tứ Giáp, tứ Ất, tứ Bính, tứ Đinh, tứ Mậu, tứ Kỷ, tứ Canh, tứ Tân, tứ Nhâm, tứ Quý, giai thị dã. Địa Chi bất tái giả, Địa Chi dữ Thiên Can vô sanh hóa dã. Phi đặc tứ Giáp tứ Ất nhi ngộ thân dậu dần mão vi bất tái, tức toàn thụ khắc vu Địa Chi. Hoặc phản khắc Địa Chi, hoặc Thiên Can bất cố Địa Chi, hoặc Địa Chi bất cố Thiên Can, giai vi bất tái dã. Như tứ Ất dậu giả, thụ khắc vu Địa Chi dã ; tứ Tân mão giả, phản khắc Địa Chi dã. Tất tu Địa Chi chi khí thượng thăng, Thiên Can chi khí hạ hàng, tắc lưu thông sanh hóa, nhi bất chí vu thiên khô, hựu đắc tuế vận an đốn, phi phú diệc Quý hĩ. Như vô thăng hàng chi tình, phản hữu trùng khắc chi thế, giai vi thiên khô nhi bần tiện hĩ. Nghi tế cứu chi.

        - Nhâm Thị viết:

        Thiên toàn nhất khí, chính là nói đến Thiên can tứ Giáp, tứ Ất, tứ Bính, tứ Đinh, tứ Mậu, tứ Kỷ, tứ Canh, tứ Tân, tứ Nhâm, tứ Quý. Địa Chi bất tái, chính là Địa chi và Thiên Can không sanh hóa nhau vậy. Không những tứ Giáp tứ Ất mà ngộ thân dậu dần mão là bất tái, tức bị Địa chi toàn khắc, hoặc khắc ngược Địa chi, hoặc Thiên Can không đoái hoài Địa Chi, hoặc Địa Chi không để ý Thiên Can, đều là bất tái cả. Như tứ Ất dậu, bị Địa chi khắc; hay tứ Tân mão, lại là khắc Địa chi vậy. Khí Địa chi nhất thiết phải bay (tác động) lên cao, khí Thiên can (tác động) giảm xuống, thời lưu thông sanh hóa, để không đến nổi thiên khô (mất cân bằng), lại đắc tuế vận ổn thỏa, hợp lý, không phú thì cũng quý. Ví như chẳng có cái tình lên xuống ấy, mà ngược lại chỉ có cái thế xung khắc nhau, đều là thiên khô mà bần tiện thôi. Nên xét đến cùng sự tinh tế là thế.


        Giáp thân , Giáp tuất , Giáp dần , Giáp tuất

        Ất hợi - Bính Tý - Đinh sửu - Mậu dần - Kỷ mão - Canh Thìn

        Niên chi thân kim, trùng khứ nhật chủ dần mộc, gia dĩ tuất thổ thừa quyền trọng kiến, sanh kim trợ sát, vị Địa Chi bất cố Thiên Can. Phu tứ Giáp nhất dần, tự hồ cường vượng, đệ thu mộc hưu tù, trùng khứ lộc thần, kỳ căn dĩ bạt, bất tác vượng luận. Cố dần mão hợi tử vận trung, y thực pha phong, nhất giao Canh Thìn, sát chi nguyên thần thấu xuất. Tứ tử câu thương, phá gia bất lộc. Can đa bất như chi trọng, lý cố nhiên dã.

        Chi năm thân kim, đến xung Nhật chủ dần mộc, hơn nữa thấy cả tuất thổ cường vượng thừa dịp sinh kim trợ Sát, nói Địa Chi không để ý đến Thiên Can, thử nói đến tứ Giáp cư dần, tựa hồ đều cường vượng, nhưng ở mùa thu thì mộc hưu tù, đến xung Lộc thần, cái gốc ấy tất phải bật rễ, không thể luận là vượng. Cho nên ở vận dần mão hợi tý, áo cơm có phần hậu hỹ thịnh vượng, giao vận Canh Thìn, nguyên thần Sát lộ ra. Tứ Giáp đều bị thương, tan nhà thất lộc (chết). Can nhiều chẳng bằng Chi trọng, cái lý ấy hiển nhiên rồi.


        Mậu Tý , Mậu ngọ , Mậu tuất , Mậu ngọ

        Kỷ mùi - Canh thân - Tân dậu - Nhâm tuất - Quý hợi Giáp Tý

        Thử mãn cục hỏa thổ, tử suy ngọ vượng, trùng tắc ngọ phát nhi dũ liệt, ngao Can tích thủy, thị vị Thiên Can bất phúc. Sơ giao dĩ vị, cô khổ vạn trạng ; chí canh thân Tân dậu vận, dẫn thông Mậu thổ chi tính, đại đắc tế ngộ, thú thê sanh tử, lập nghiệp thành gia ; nhất giao Nhâm tuất, thủy bất thông căn, ám củng hỏa cục, tao chúc dung chi biến, nhất gia ngũ khẩu giai vong. Như Thiên Can thấu nhất Canh Tân, hoặc Địa Chi tàng nhất thân dậu, khởi chí nhược thị chi kết cục hồ?

        Tứ trụ này hỏa thổ đầy đủ, tý suy ngọ vượng, bị xung thời ngọ phát hỏa mãnh liệt rang khô Can như nung ngói, nên nói rằng Thiên Can chẳng được phúc. Bắt đầu vào vận Kỷ Mùi, cô khổ trăm điều; tới vận Canh thân Tân dậu, dẫn thông Mậu thổ, gặp được vận hội lớn, lấy vợ sanh con, lập nghiệp thành gia; vào vận Nhâm tuất, thủy không thông gốc, ngầm củng hỏa cục, gặp biến cố tan tác, một nhà 5 khẩu đều mất. Như Thiên Can thấu xuất một Canh Tân, hoặc Địa Chi tàng một thân dậu, thì sao có kết cục thảm thương như vậy được?
        Khi chén rượu, khi cuộc cờ
        Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên

      8. Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "Ducminh" về bài viết có ích này:

        ChucSonTu (16-10-14),kyniemthoigian_tht (27-10-16),quangdct (12-11-10)

      9. #35
        Tham gia ngày
        Jul 2009
        Bài gửi
        492
        Cảm ơn
        441
        Được cảm ơn: 363 lần
        trong 196 bài viết

        Default

        Mậu thân , Mậu ngọ , Mậu tuất , Mậu ngọ

        Kỷ mùi - Canh thân - Tân dậu - Nhâm tuất - Quý hợi - Giáp tý

        Thử dữ tiền tạo chích hoán nhất Thân tự, nhi Thiên Can chi khí hạ hàng, Địa chi chi thủy hữu nguyên, ngọ hỏa tuy liệt, cứu bất năng thương Thân kim, dụng kim minh hĩ, huống hữu tử thủy vi khứ bệnh chi hỉ thần. Giao thân vận, Mậu Thìn niên tứ nguyệt nhập học, cửu nguyệt đăng khoa, cái đắc thái tuế thần tự, ám hội thủy cục chi diệu. Tích tương lai Nhâm tuất vận trung, Thiên Can quần bỉ tranh tài, Địa Chi ám hội hỏa cục, vị kiến kỳ cát hĩ.

        Tứ trụ này và tứ trụ trước chỉ hoán đổi một chữ Thân, khí Thiên can tác động giảm xuống (Mậu thổ sinh thân kim), thủy trong Địa chi có nguồn (Nhâm tàng trong chi Thân), ngọ hỏa tuy mãnh liệt, xét cho cùng cũng không thể tổn thương thân kim, dụng kim sáng suốt vậy, huống hồ có con là thủy hỉ thần chữa bệnh. Vào vận thân, tháng 4 năm Mậu thìn nhập học, tháng 9 đăng khoa, chính do đắc một chữ Thìn là Thái tuế, khéo ở chổ ám hội thủy cục. Tiếc rằng ở vận tương lai Nhâm tuất, các Thiên can (Mậu) Tỉ đoạt Tài (Nhâm), Địa chi ám hội hỏa cục, chẳng thấy đâu điềm cát lành.

        Tân mão , Tân mão , Tân mão , Tân mão

        Canh Dần - Kỷ sửu - Mậu Tý - Đinh hợi - Bính tuất - Kỷ dậu

        Thử tạo tứ mộc đương quyền, tứ kim lâm Tuyệt, tuy viết phản khắc Địa chi, thật vô lực khắc dã. Như quả năng khắc, khả dụng Tài hĩ, nhược năng dụng Tài, khởi vô thành lập hồ? Bỉ thử mẫu phúc, sổ niên gian phụ mẫu giai vong, dữ đạo sĩ vi đồ ; Kỷ sửu Mậu Tý vận, ấn thụ sanh phù, y thực vô khuy ; nhất giao Đinh hợi, sanh hỏa khắc kim, tức vong kỳ sư, sở hữu vi nghiệp, phiêu đổ tảo tẫn nhi tử.

        Tứ trụ này tứ mão mộc đương quyền, tứ Tân kim lâm vị trí Tuyệt, tuy rằng phản khắc Địa chi, thật ra chẳng có lực để khắc, nếu mà có thể khắc, có thể dụng được Tài rồi, nếu có thể dụng tài, há chẳng trụ vững được ư? Được mẹ đùm bọc, được khoảng vài ba năm cha mẹ đều mất, rồi làm đồ đệ một đạo sĩ; vận Kỷ sửu Mậu Tý, Ấn thụ sanh phù, áo cơm chẳng thiếu; giao vận Đinh hợi, sanh hỏa khắc kim, thầy chết ngay, vì thế mới gây nghiệp chướng, cờ bạc đến khánh tận mà chết.
        Khi chén rượu, khi cuộc cờ
        Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên

      10. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "Ducminh" về bài viết có ích này:

        quangdct (12-11-10)

      11. #36
        Tham gia ngày
        Jul 2009
        Bài gửi
        492
        Cảm ơn
        441
        Được cảm ơn: 363 lần
        trong 196 bài viết

        Default

        Địa toàn tam vật, bất khả sử Thiên đạo mạc chi dung.

        (Địa chi cùng hội về một hành, chẳng lẽ không thể dung nạp cái đạo Thiên can.)



        - Nguyên chú
        : Dần mão thìn, hợi mão mùi nhi ngộ Giáp Canh Ất Tân, tắc Thiên bất phúc. Nhiên bất đặc toàn nhất khí dữ tam vật giả, giai nghi Thiên phúc Địa tải, bất luận hữu căn vô căn, giai yếu “tuần kỳ khí tự”, Can Chi bất phản bội vi diệu .

        + “toàn nhất khí” : 4 can tứ trụ cùng 1 chữ

        + “toàn tam vật” : 3 chi cùng hội/hóa thành một hành

        + “đề cương” : thường chỉ lệnh tháng hoặc hành nắm lệnh trong tứ trụ.

        - Nguyên chú: Dần mão thìn, hợi mão mùi mà ngộ Giáp Canh Ất Tân, thời Thiên can chẳng được phúc. Vậy không chỉ “toàn nhất khí” mà cả “tam vật”, đều cần “Thiên phúc Địa tải”, bất luận có gốc hay không gốc, đều cần “noi theo thứ tự của thần khí đó”, cái khéo là Can Chi không phản bội nhau.

        - Nhâm thị viết: Địa Chi tam vật giả, chi đắc dần mão thìn, tị ngọ mùi, thân dậu tuất, hợi tý sửu chi phương thị dã. Như dần mão thìn nhật chủ thị mộc, yếu Thiên can hỏa đa ; Nhật chủ thị hỏa, yếu Thiên can kim vượng ; Nhật chủ thị kim, yếu Thiên can thổ trọng. Đại phàm Chi toàn tam vật, kỳ thế vượng thịnh. Như vượng thần tại đề cương, Thiên can tất tu thuận kỳ khí thế, tiết chi khả dã ; như vượng thần tại biệt chi, Thiên can chế chi hữu lực, chế chi khả dã. Hà dĩ vượng thần tại đề cương, chích nghi tiết nhi bất nghi chế? Phu vượng thần tại đề cương giả, tất chế thần chi tuyệt địa dã, như cường chế chi, bất đắc kỳ tính, dụng kích nhi tứ sính hĩ. Vượng thần giả, mộc phương đề cương đắc dần mão dã thị dã ; chế thần giả, Canh Tân kim dã, dần mão nãi Canh Tân chi tuyệt địa dã. Như thần tại đề cương, tứ trụ Can chi hựu hữu Canh Tân chi trợ, phương khả chế hĩ. Sở vị tuần kỳ khí tự, điều tề đắc nghi, tư vi toàn mỹ. Mộc phương như thử, dư khả loại thôi.

        - Nhâm Thị viết: Địa Chi tam vật, chính là các chi trong tứ trụ hội về một phương như dần mão thìn, tị ngọ mùi, thân dậu tuất, hợi tý sửu. Như dần mão thìn mà Nhật chủ là mộc, quan trọng Thiên can nhiều hỏa; Nhật chủ là hỏa, cần Thiên can kim vượng; Nhật chủ là kim, lại cần Thiên can thổ trọng. Địa chi “toàn tam vật”, hầu hết cái thế của nó thịnh vượng. Như ở đề cương , vượng thần khí nào thì Thiên can phải thuận theo cái khí thế ấy, thời như thế có thể tiết được; hay như thần khí vượng tại một Địa chi khác, Thiên can chế Chi mà hữu lực, thời có thể chế được vậy. Tại sao thần khí vượng ở đề cương, chỉ nên tiết mà không nên chế? Ấy bởi khi thần khí vượng tại đề cương, chế thần khí ắt hẳn chỉ dẫn đến tuyệt địa, như là cưỡng chế mà thôi, chẳng đắc dùng được cái thần khí vượng ấy, chỉ là dùng kích động để cho sướng mà thôi. Thần khí vượng, như đề cương phương mộc mà đắc dần mão cũng là thần khí vượng vậy; thì khi đó cái gọi là chế thần, chính là Canh Tân kim vậy, vì dần mão chính là tuyệt địa của Canh Tân. Hay như khí Địa chi Thìn tại đề cương, tứ trụ can chi lại có Canh Tân trợ giúp thì mới có thể chế được vậy. Gọi là “noi theo thứ tự của thần khí đó” (tuần kỳ khí tự), chính là điều hòa cái nào cần nên, cái nào cần đắc, được như thế thì toàn mỹ. Mộc phương luận như thế, các phương còn lại cũng luận tương tự.

        Tân mão - Canh Dần - Giáp Thìn - Bính dần

        Kỷ sửu - Mậu Tý - Đinh hợi - Bính tuất - Ất dậu - Giáp thân

        Thử dần mão thìn đông phương, kiêm chi dần thì, vượng chi cực hĩ. Niên nguyệt lưỡng kim lâm tuyệt, vượng thần tại đề cương, hưu kim nan khắc, nhi thả Bính hỏa thấu thì, mộc hỏa đồng tâm, vị cường chúng nhi địch quả, thế tại khứ Canh Tân chi quả. Tảo hành thổ vận sanh kim, phá háo dị thường, tiến kinh nhập bộ bạn sự ; chí Bính tuất vận, phân phát quảng đông, đắc quân công, thăng tri huyện, hỉ kỳ khắc tẫn Canh Tân chi mỹ ; chí dậu, Canh Tân đắc địa, bất lộc nghi hĩ.

        Tứ trụ này dần mão thìn phương đông hội mộc, kiêm được giờ dần mộc, nên rất vượng. Trụ năm tháng lưỡng kim đều lâm vị trí Tuyệt, thần khí vượng ở đề cương thì kim yếu khó mà khắc được, hơn nữa Bính hỏa thấu lộ ở trụ giờ, nên mộc hỏa đều đồng lòng, gọi là lấy số đông-mạnh mà chống lại số ít, uy thế này đến áp chế Canh Tân chính là thiểu số. Hành vận sớm gặp thổ sanh kim, phá hao dị thường, đến kinh thành vào làm việc trong Bộ (một cơ quan hành chính thời xưa, như Bộ Binh, Bộ Lễ, Bộ Hộ,…); tới vận Bính tuất, được phái đi Quảng Đông, được quân công, thăng chức Tri huyện, vận hỉ chính là do gặp được Canh Tân bị khắc tận cùng; tới vận dậu, Canh Tân đắc địa, nên bất lộc (chết) vậy.

        Canh dần , Canh thìn , Giáp dần , Đinh mão


        Tân tị - Nhâm ngọ - Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất

        Thử diệc dần, mão, thìn đông phương. Vượng thần bất thị đề cương, thìn thổ quy viên, canh kim đắc tái, lực lượng túc dĩ khắc mộc, Đinh hỏa tuy thấu, phi canh kim chi địch, dụng sát minh hĩ. Chí Giáp thân vận, canh kim lộc vượng ám xung dần mộc, khoa Giáp liên đăng, sĩ chí quận thủ ; nhất giao Bính vận chế sát, giáng chức quy điền.

        Tứ trụ này cũng là dần, mão, thìn phương đông; thần khí vượng không phải đề cương, thìn thổ quy viên, Canh kim được nâng đỡ, lực lượng đủ để khắc mộc, Đinh hỏa tuy thấu lộ, nhưng chẳng đối địch Canh kim, lấy Sát làm dụng là sáng suốt. Tới vận Giáp thân, Canh kim Lộc vượng ám xung dần mộc, khoa giáp liên tục tấn tới, làm quan đứng đầu một quận (Tri phủ); đến vận Bính chế Sát, bị giáng chức về hưu.
        Khi chén rượu, khi cuộc cờ
        Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên

      12. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "Ducminh" về bài viết có ích này:

        quangdct (12-11-10)

      13. #37
        Tham gia ngày
        Jul 2009
        Bài gửi
        492
        Cảm ơn
        441
        Được cảm ơn: 363 lần
        trong 196 bài viết

        Default

        Dương thừa dương vị dương khí xương , tối yếu hành trình an đốn.

        (Dương can vì cư vị trí dương nên dương khí thịnh, rất cần được vận trình điều hòa. )

        - Nguyên chú: lục dương chi vị, độc tý, dần, thìn vi dương phương, vi dương vị chi thuần. Ngũ dương cư chi, như nhược thị vượng thần, tối yếu hành vận âm thuận an đốn chi địa.

        - Nguyên chú: Trong 6 vị trí dương , chỉ có tý , dần , thìn là phương dương, là vị trí thuần dương, 5 (can) dương đóng ở đó , nếu là vượng thần (thì) rất cần gặp vận đến đất âm thuận (để) điều hòa.

        - Nhâm thị viết: lục dương giai dương , phi tý, dần, thìn dương chi thuần dã, tu phân dương hàn dương noãn nhi luận dã. Tây bắc vi hàn, Đông nam vi noãn, như nhược thân, tuất, tý toàn, vi Tây bắc chi dương hàn, tối yếu hành vận ngộ mão, tị, mùi Đông nam chi âm noãn thị dã; như dần, thìn, ngọ toàn, vi Đông nam chi dương noãn, tối yếu hành vận dậu hợi sửu tây bắc chi âm hàn thị dã.

        Nhậm nói rằng: 6 chi dương đều dương, tý, dần, thìn chẳng phải thuần dương, mà cần phải phân ra làm dương lạnh, dương ấm để luận. Tây bắc lạnh, Đông nam ấm. Nếu thân, tuất, tý đầy đủ (trong trụ), là Tây bắc dương lạnh, rất cần đi gặp vận mùi, tị, mão Đông nam âm ấm vậy. Như dần, thìn, ngọ đầy đủ, là Đông nam dương ấm, lại rất cần đi vận dậu, hợi, sửu Tây bắc âm lạnh vậy.

        Thử cử đại cục nhi luận, nhược ngộ nhật chủ chi dụng thần hỉ thần, hoặc mộc, hoặc hỏa, hoặc thổ, thị đông nam chi dương noãn, tuế vận diệc nghi phối tây bắc chi âm thủy, âm mộc, âm hỏa, phương năng sanh trợ hỉ thần dụng thần, nhi hoan như thù tạc. Nhược tuế vận ngộ Tây bắc chi dương thủy, dương mộc, dương hỏa, tắc vi cô dương bất sanh , túng sử sanh trợ hỉ thần, diệc nan thiết đương, bất quá miễn khi khu nhi xu bình thản dã. Dương noãn chi cục như thử , dương hàn chi cục diệc như thử luận, sở vị "Dương thịnh quang xương cương kiện chi thế, tu phối dĩ âm thịnh bao hàm nhu thuận chi địa" thị dã . Nhược bất thâm tâm xác cứu , thục năng tham kỳ tinh vi , nhi đắc kỳ yếu quyết hồ ?

        Điều này cứ lấy đại cục mà luận, như gặp hỉ, dụng thần của nhật chủ: hoặc là mộc, hoặc hỏa, hoặc thổ, thời là Đông nam dương ấm, tuế vận lại cũng nên phối hợp với Tây bắc âm thủy, âm mộc, âm hỏa, thì mới có thể sinh trợ dụng, hỉ thần, mà vui vẻ như chủ khách thân tình. Nếu tuế vận gặp Tây bắc dương thủy, dương mộc, dương hỏa, tất là dương cô độc không thể sinh trợ được. Dù muốn sinh trợ cho hỉ thần, cũng khó thiết tha gánh vác, bất quá chỉ như bỏ đường núi gập ghềnh mà theo đường bằng phẳng mà thôi. Cách cục dương ấm luận như thế, cách cục dương hàn cũng như thế mà luận. Đó gọi là “Gặp thế dương thịnh sáng sủa tốt đẹp khỏe mạnh, thì nên phối hợp với đất âm thịnh hàm chứa nhu thuận” !. Như chẳng bỏ thâm tâm minh xét đến cùng, thì sao tìm ra cái tinh vi, để mà đắc yếu quyết đây ?

        Quý tị Bính thìn Bính ngọ Canh dần

        Ất mão - Giáp dần - Quý sửu - Nhâm tý - Tân hợi


        Thử Đông nam chi dương noãn. Thiên can kim thủy, tự hồ vô căn, hỉ nguyệt chi thìn thổ , tiết hỏa súc thủy nhi sanh kim , Canh kim quải giác phùng sanh, tắc Canh kim khả dụng. Quý thủy tức canh kim chi hỉ thần. Sơ vận Ất mão Giáp dần, kim tuyệt hỏa sanh nhi thủy tiết, cô khổ bất kham; nhất giao Quý sửu bắc phương âm thấp chi địa, kim thủy thông căn, hựu đắc tị sửu củng kim chi diệu, xuất ngoại đại đắc tế ngộ, sậu nhiên phát tài thập dư vạn. Dương noãn phùng hàn, phối hiệp chi mỹ dã.

        Đây là tứ trụ dương ấm đông nam, Thiên can kim thủy tựa hồ như không có gốc (căn), mừng là nguyệt chi thìn thổ, tiết bớt hỏa, chứa đựng thủy (Thìn tàng Quý thủy) mà sinh kim. Canh kim như bị treo dồn vào góc mà nay được sinh trợ, tất Canh kim có thể làm dụng, Quý thủy tức hỷ thần của Canh kim. Hai vận đầu Ất mão, Giáp dần, kim bị tuyệt (Canh tuyệt ở dần), hỏa được sinh (hỏa sinh từ mộc: Giáp Ất, dần mão), mà thủy bị tiết khí, cô đơn, khổ cực không chịu được. Giao vận Quý sửu là nơi âm phương bắc ẩm ướt, kim thủy thông gốc, lại hay ở chổ 2 chi tị, sửu hợp củng kim, xuất ngoại gặp được vận hội lớn, bỗng nhiên phát tài hơn 10 vạn. Dương ấm gặp lạnh, phối hợp đẹp đẽ vậy.

        Mậu dần Ất sửu Bính dần Canh dần

        Bính dần - Đinh mão - ; Mậu thìn - Kỷ tị - Canh ngọ

        Bính dần nhật nguyên , tuy chi ngộ tam dần , tối hỉ sửu thổ thừa quyền, tài tinh quy khố. Nhược vận tẩu Tây bắc thổ kim , tài nghiệp tất thắng tiền tạo, tích nhất lộ Đông nam mộc hỏa chi địa, tổ nghiệp phá tận, biến lịch sổ tỉnh, bôn trì bất ngộ , chí ngọ vận ám hội kiếp cục , tử vu Quảng đông . Nhất sự vô thành , mạc phi vận dã.

        Nhật nguyên Bính dần, tuy gặp 3 dần, nhưng rất mừng là sửu thổ nắm quyền, Tài nhập mộ khố. Nếu như hành vận Tây bắc thổ kim, thì tiền tài sẽ giàu hơn tứ trụ trước. Tiếc rằng đi đường Đông nam hỏa mộc, phá sạch cơ nghiệp ông cha, lang thang khắp mấy tỉnh mà không gặp cơ hội. Đến vận ngọ hợp thành Tỉ Kiếp, chết ở Quảng Đông. Một việc cũng chẳng thành, chẳng nhẽ không phải do vận gây nên ư.
        Khi chén rượu, khi cuộc cờ
        Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên

      14. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "Ducminh" về bài viết có ích này:

        quangdct (12-11-10),Su-tu (31-12-10)

      15. #38
        Tham gia ngày
        Feb 2011
        Bài gửi
        67
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 22 lần
        trong 19 bài viết

        Default

        kính gửi anh Ducminh,
        Bộ Trích thiên tủy rất có giá trị nhưng rất tiếc anh mới đưa lên 9 chương phần I. Độc giả rất mong muốn anh đưa phần còn lại để anh em tham khảo. Xin cảm ơn.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      16. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "daoth" về bài viết có ích này:

        hungthobac (16-05-14)

      17. #39
        Tham gia ngày
        Mar 2015
        Bài gửi
        135
        Cảm ơn
        79
        Được cảm ơn: 13 lần
        trong 13 bài viết

        Default

        Chào a.Ducminh,

        Đoạn bên dưới về quý thủy sinh vào mùa thu đông, thấu can bính or đinh hỏa và gặp mậu thổ.

        như vậy: Quý thủy bị hợp hóa hỏa hay không? nếu bị hợp hóa hỏa thì điều gì xảy ra cho Quý thủy?

        vì nguyên chú:"....Phàm mậu quý gặp bính đinh thấu can, chẳng cần luận vượng suy, sinh vào mùa thu mùa đông đều luận hóa hỏa, thật là chân lý luận vậy."

        Nhâm thị viết:"...Sinh vào mùa thu mùa đông kim thủy vượng địa, trong tứ trụ địa chi có chi thìn thổ, thiên can thấu bính đinh cũng không thể hóa được, cho nên cần phải tế phân cho tường tận vậy."

        Mong nhận được hoài âm từ ACE.

        Rgds,
        M.Tu
        ------------------------------
        Quý thủy chí nhược, đạt vu thiên tân. Đắc long nhi vận, công hóa tư thần. Bất sầu hỏa thổ, bất luận canh tân. Hợp mậu kiến hỏa, hóa tượng tư chân.

        Nguyên chú: quý thủy nãi âm chi thuần nhi chí nhược, cố phù tang nhược thủy dã. Đạt vu thiên tân, tùy thiên nhi vận, đắc long dĩ thành vân vũ, nãi năng nhuận trạch vạn vật, công hóa tư thần. Phàm trụ trung hữu giáp ất dần mão, giai năng vận thủy khí, sinh mộc chế hỏa, nhuận thổ dưỡng kim, định vi quý cách, hỏa thổ tuy đa bất úy. Chí vu canh kim, tắc bất tại kỳ sinh, diệc bất kị kỳ đa. Duy hợp mậu thổ hóa hỏa dã, mậu sinh dần, quý sinh mão, giai chúc đông phương, cố năng sinh hỏa. Thử cố nhất thuyết dã, bất tri địa bất mãn đông nam, mậu thổ chi cực xử, tức quý thủy chi tận xử, nãi thái dương khởi phương dã, cố hóa hỏa. Phàm mậu quý đắc bính đinh thấu giả, bất luận vượng suy, thu đông giai năng hóa hỏa, tối vi chân dã.

        Dịch nghĩa:

        Quý thủy thuộc khí thuần âm mà khí thế cực nhược, nên gọi là nước biển phù tang. Thông đến bến trời, tùy theo thời hành vận, gặp long mà hóa vân vũ, có công năng làm nhuận trạch muôn loài, làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở. Phàm trong trụ có giáp ất dần mão mộc, lại còn gặp thủy vận, thủy vừa chế hỏa vừa sinh mộc lại nhuận thổ dưỡng kim, cho là quý cách, dù cho có hỏa thổ nhiều cũng không lo sợ. Đến như canh kim, chẳng sinh được quý thủy nhưng cũng không sợ kim nhiều. Duy quý thủy hợp mậu thổ hóa hỏa, mậu trường sinh tại dần, quý trường sinh tại mão, đều thuộc mộc phương đông, cho nên nói mậu quý hợp hóa hỏa vậy. Có thuyết nói: “Nhiều người không biết rằng đất phương đông nam bốn bề khuyết hãm, mậu thổ vị ở cực cao, tức quý thủy vị ở cực thấp, là nơi vầng dương bắt đấu ló dạng, cho nên mậu quý hợp hóa hỏa vậy”. Phàm mậu quý gặp bính đinh thấu can, chẳng cần luận vượng suy, sinh vào mùa thu mùa đông đều luận hóa hỏa, thật là chân lý luận vậy.

        Nhâm thị viết: quý thủy chi vũ lộ chi vị, nãi thuần âm chi thủy. phát nguyên tuy trường, kỳ tích cực nhược, kỳ thế tối tĩnh, năng nhuận thổ dưỡng kim, phát dục vạn vật, đắc long nhi vận, biến hóa bất trắc. Sở vị phùng long tức hóa, long tức thìn dã, phi chân long nhi năng biến hóa dã. Đắc thìn nhi hóa giả, hóa thần chi nguyên thần phát lộ dã, phàm thập can phùng thìn vị, tất can thấu hóa thần, thử nhất định bất dịch chi lý dã. Bất sầu hỏa thổ giả, chí nhược chi tính, kiến hỏa thổ đa tức tòng hóa hỷ; bất luận canh kim giả, nhược thủy bất năng tiết kim khí, sở vị kim đa phản trọc, quý thủy thị dã. Hợp mậu kiến hỏa giả, âm cực tắc dương sinh, mậu thổ táo hậu, trụ trung đắc bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, nãi vi chân dã. Nhược thu đông kim thủy vượng địa, túng thủy chi ngộ thần long, can thấu bính đinh, diệc nan tòng hóa, nghi tế tường chi.

        Dịch nghĩa:

        Quý thủy thuộc mưa mốc, là thủy thuần âm. Phát nguyên tuy trường nhưng tính lại nhược, khí thế cực tĩnh lặng, có thể nhuận thổ dưỡng kim, sinh sôi và phát triển vạn vật, gặp long vận biến hóa khó lường. Sở dĩ gặp long mà hóa là do long là thìn, chẳng phải chân long (tức thìn) thì không thể hóa. Gặp thìn thì hóa, hóa thần là nguyên thần phát lộ, phàm thập can gặp chi thìn, tức can thấu thần, cái luận lý ấy bất di bất dịch vậy. Bất sầu hỏa thổ, quý thủy khí thế cực nhược, gặp hỏa thổ nhiều tức tòng hóa; bất luận canh kim, quý thủy không thể tiết khí được canh kim, thế cho nên kim nhiều thủy trở nên đục. Quý thủy hợp mậu hóa hỏa, âm cực tức dương sinh, mậu thổ khí khô dày, trong trụ trên can thấu lộ bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, đều là lý luận chân chính vậy. Sinh vào mùa thu mùa đông kim thủy vượng địa, trong tứ trụ địa chi có chi thìn thổ, thiên can thấu bính đinh cũng không thể hóa được, cho nên cần phải tế phân cho tường tận vậy.[/QUOTE]
        thay đổi nội dung bởi: Mathias, 15-10-15 lúc 12:51
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 4/4 đầuđầu ... 234

      Đề tài tương tự

      1. Trích : HỘI ĐỒ LỖ BAN KINH
        By htruongdinh in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 9
        Bài mới: 12-01-10, 13:11
      2. Trả lời: 1
        Bài mới: 28-11-09, 14:59
      3. Trích : Ngũ hành hình tướng (Linh Khu)
        By htruongdinh in forum Nhân tướng học
        Trả lời: 2
        Bài mới: 05-10-09, 18:03

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •