Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 2/7 đầuđầu 1234 ... cuốicuối
    kết quả từ 11 tới 20 trên 66
      1. #11
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        _ Tổng luận nạp âm : (Tiếp theo)

        Lại xét trong lục vi âm luận nói : Nạp âm tức là Tí Ngo đếm đến Canh , Sửu Mùi đếm đến Tân , Dần Thân đếm đến Mậu , Mảo Dậu đếm đến Kỷ , Thìn Tuất đếm đến Bính , Tỵ Hợi đếm đến Đinh ; 7 phần nầy tứ phương khí số nạp âm thuộc Kim vậy ; phương Nam thiên khí màu đỏ nên nạp âm thuộc hỏa vậy , được 9 tức phương Đông khí dương 9 nên nạp âm thuộc Mộc vậy , được 1 tức trung ương khí tỗn thống nên nạp âm thuộc Thổ vậy , được 5 tức Bắc phương khí huyền cực nên nạp âm thuộc thủy vậy .
        Giả như Giáp Tí Giáp Ngọ từ Giáp đến Canh , Ất Sửu Ất Mùi từ Ất đến Tân thỉ số đều là 7 nên nạp âm thuộc Kim . Bính Dần Bính Thân theo Bính đến Mậu , Đinh Mảo Đinh Dậu từ Đinh đến Kỷ thì đều số 3 nên nạp âm thuộc Hỏa . Mậu Thìn Mậu Tuất từ Mậu đến Bính , Kỷ Tỵ Kỷ Hợi từ Kỷ đến Đinh thì đều số 9 nên nạp âm thuộc Mộc . Canh Tí Canh Ngọ , Tân Mùi Tân Sửu , đều là số 1 nên nạp âm thuộc Thổ . Bính Tí Bính Ngọ từ Bính dến Canh , Đinh Mùi Đinh Sửu từ Đinh dến Tân đều là số 5 nên nạp âm thuộc Thủy . Sở dĩ chỉ lấy Can số mà không lấy Chi số , như từ Bính đến Canh tức là Bính đinh mậu kỷ canh đó tức 5 số vậy . Lại như từ Giáp đến Canh tức Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh thì 7 số vậy . Đây là cái nghĩa của Lạc sứ .
        • Lại trong Tục đường hà lục nói : Nạp âm lục thập Giáp tí tức là dùng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ mà làm rõ vậy . Nhứt lục là Thủy , nhị thất là Hỏa , tam bát là Mộc , tứ cửu là Kim , ngủ thập là Thổ . Nhưng ở trong ngũ hành chỉ có Kim và Mộc là có âm tự nhiên , còn Thủy Hỏa Thổ thì nương giả mà sau đó có âm vậy . Thủy giả Thổ , Hỏa giả Thủy , Thổ giả Hỏa nên Kim âm là 4 , 9 Mộc âm là 3, 8 . Nhứt lục là Thủy , ngũ thập là Thổ , nhị thất là Hỏa ; như Giáp Tí Ất Sửu có số là 34 thừa 4 là Kim âm vậy . Mậu Thìn Kỷ Tỵ có số 28 thừa 8 là Mộc âm vậy . Canh Ngọ Tân Mùi có số là 32 thừa 2 là Hỏa vậy . Thổ dùng Hỏa làm âm nên bèn là Thổ vậy . Giáp Thân Ất Dậu có số 30 là Thổ vậy . Mà Thủy dùng Thổ làm âm nên bèn là Thủy vậy .Mậu Tí Kỷ Sửu có số 31 thừa 1 là Thủy , Hỏa lấy Thủy làm âm nên bèn là Hỏa vậy .
        Thường lục thập Giáp Tí đều gồm lưỡng Kim lưỡng Mộc tương kích tự nhiên mà thành âm và Thủy thì dùng Thổ kích , Hỏa thì dùng Thủy kích , tương thắng mà thành âm . Thổ nhờ Hỏa nung đúc mà thành khí vật sau đó mới có âm , đấy cũng là cái lý tự nhiên vậy .
        Lại nói rằng Lục thập Giáp tí nạp âm đều do ngũ âm mà sanh , ngay thẳng thông suốt , bởi Giáp tí là đầu mà ngũ âm đầu tiên ở cung Thổ nhưng cung Thổ sanh kim nên Giáp Tí là Kim còn Ất Sửu là âm theo dương ; lấy Kim mà sanh Thủy nên Bính Tí là Thủy mà Đinh sửu tòng theo . Giác Mộc sanh Hỏa nên Mậu Tí là Hỏa , dùng hỏa sanh Thổ nên Canh Tí là Thổ . Vũ Thủy sanh Mộc nên Nhâm tí là Mộc mà Kỷ sửu Tân sửu Quý sửu tùng theo , đến nơi Giáp Dần thì nạp âm khởi ở Thương , Thương là Kim sanh Thủy cho nên Giáp Dần là Thủy ; giác Mộc sanh Hỏa nên Bính Dần là Hỏa , trưng Hỏa sanh Thổ nên Mậu Dần là Thổ . Vũ thủy sanh Mộc nên Canh Dần là Mộc , cung Thổ sanh Kim nên Nhâm Dần lá Kim , ngũ Mảo đều theo đó . Dến Giáp Thìn thì nạp âm khởi ở Giác , Giác Mộc sanh Hỏa nên Giáp Thìn là Hỏa , chủy tương Hỏa sanh Thổ nên Bính Thìn là Thổ , Vũ thủy sanh Mộc nên Mậu thìn là Mộc , cung Thổ sanh Kim nên Canh Thìn là Kim , Thương Kim sanh Thủy nên Nhâm Thìn là Thủy mà ngũ Tỵ đều tong theo . Cung Thương Giác đều vậy chỉ có Trùng Vũ thì không thể ở đầu , đó là Giáp Ngọ trở lại như Giáp Tí , Giáp Thân như Giáp Dần , Giáp Tuất như Giáp Thìn mà ngũ Mùi ngũ Hợi cũng tùng theo các loại.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. Có 10 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (12-10-09),htruongdinh (02-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),Kloan (10-10-09),macchulan (25-04-11),sonthuy (10-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (02-10-09),VP (24-08-13)

      3. #12
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        _ Tổng luận nạp âm : (Tiếp theo)


        Lại một thuyết nói : số đại diễn ngũ thâp thì dùng 49 ,trước dùng 49 số mà bố , không dùng số thái huyền : Giáp Kỷ tí Ngọ 9 , Ất Canh Sửu Mùi 8 ,Bính Tân Thân Dần 7 , Đinh Nhâm Mảo Dậu 6 Mậu Quý Thìn Tuất 5 , Tỵ Hợi đơn danh 4 . Lấy số 5 mà trừ , không đủ 5 thì lấy nạp âm mà thuộc , Thủy 1 Hỏa 2 Mộc 3 Kim 4 Thổ 5 hể tương sanh thì tiện dùng vậy ; như dư 1 thủy thì sanh Mộc , dư 2 Hỏa thì sanh Thổ , dư 3 Mộc thì sanh Hỏa , dư 4 Kim thì sanh Thủy , dư 5 Thổ thì sanh Kim . Giã sử Giáp Tí Ất Sửu 4 vị Can Chi cọng được số 34 , lấy 49 trừ đi ta có số 15, lấy 15 trừ 10 còn dư 5 thuộc Thổ , Thổ năng sanh Kim nên Giáp Tí Ất sửu là Kim ; Bính Dần Đinh Mão 4 vị can chi cộng số được số 26 , lấy 49 trừ đi ta có số 23 , lấy 23 trừ 20 còn lạ 3 thuộc Mộc , Mộc năng sinh Hỏa nên Bính Dần Đinh Mão thuộc Hỏa ; Các vị khác cứ theo đó mà tính vậy . Đại để Lục thập Giáp tí như vậy , luật nạp âm vậy , cái khác của can chi nạp âm vậy , đây là cái số tự nhiên của trời đất , Hà Đồ sanh số thì tả toàn nên dùng trung ương là Thổ mà sanh Tây phương Kim , Tây phương Kim mà sanh Bắc phương Thủy , Bắc phương Thủy mà sanh Đông phương Mộc , Đông phương Mộc mà sanh Nam phương Hỏa , Nam phương Hỏa mà trở lại sanh trung ương Thổ . Lạc Thư khác số thì Hữu chuyển nên lấy trung ương Thổ mà khắc Bắc và Tây Bắc Thủy , Bắc và Tây Bắc Thủy mà khắc Tây và Tây Nam Hỏa , Tây và Tây Nam Hỏa mà khắc Nam và Đông Nam Kim , Nam và Đông Nam Kim mà khắc Đông và Đông Bắc Mộc , Đông và đông bắc Mộc mà trở lại khắc trung ương Thổ . Thật là thông suốt cho nên Nạp âm đúng là vi diệu vậy , từng đoạn đều xuất từ Hoàng đế không nghi vậy .
        Trở lại xét số Thái huyền thì vì sao lấy Giáp Kỷ Tí Ngọ là số 9 , bởi lẻ nguồn gốc của vạn vật thì từ Thiên Địa mà Vận thì lại ở Tứ Thời , Xuân vạn vật tươi tốt nơi Cấn , Thu vạn vật điêu linh ở Khôn , Sanh thì phát , Quy thì chứa mà chẳng rời nơi Thổ , Thổ tức là Khôn Cấn vậy . Dịch nói : Cấn trước sanh ra vật mà Khôn thì vật trưởng thành , Giáp thì đầu thiên can còn Tí thì đầu địa chi , hai nghĩa tuần hoàn mà 1 dương trở lại nên Giáp Tí khởi số ở nơi thiên địa l2 vậy .
        Tí 1 dương thuộc Càn tức là đạo cha vậy , Giáp phối với Nhâm theo Tí đếm đến Thân thì gặp Nhâm được 9 số cho nên Nhâm lấy số 9 vậy . Phu phụ phối hợp nên hai can Giáp Kỷ đều mang số 9 vậy . Sửu trước có Ất đến thân được số 8 nên Ất Canh đều mang số 8 vậy . Dần trước có Bính đến Thân được số 7 nên hai can Bính Tân đếu mang số 7 . Mảo trước có Đinh đếm đến Thân được số 6 nên hai can Đinh Nhâm đều mang số 6 . Thìn trước có mậu đến Thân được 5 nên hai can Mậu Quý đều mang số 5 . Đây là thiên can khởi ở Càn vậy .
        Ngọ là nhứt âm thuộc Khôn là cái đạo làm thần ( tôi ) vậy . Ất phối với Quý , từ Ngọ gia ất đếm đến Dấn gặp Quý được 9 số , Tí là nhứt dương , Ngọ là nhứt âm phụ phụ tương phối nên hai chi Tí Ngọ đếu mang số 9 . Sửu gia Dần đếm đến Mùi được 8 nên 2 chi Sửu Mùi đều mang số 8 ,lấy Dần gia Thân đếm đến Dần được 7 nên hai chi Dần Thân đều mang số 7 . Lấy Mảo gia Dậu đếm đến Dần được 6 nên hai chi Mảo Dậu đều mang số 6 . Lấy Thìn gia Tuất đếm đến Dần được 5 nên hai chi Thìn Tuất đều mang số 5 . Lấy Tỵ gia Hợi đếm đến Dần được 4 nên hai chi Tỵ Hợi đều mang số 4 . Số chỉ dừng nơi 9 mà không phải là 10 bởi nếu 10 thì lại khởi 1 , cho nên thường số 10 thì viết nhứt thập . Số Lạc Thư bắt đầu ở 1 mà hết ở 9 , cái số sanh hắc tự nhiên của Thái Ất đồ thư vậy . ( Bởi vạn vật có nguồn gốc là Thiên địa mà vận thì ở tứ thời . ) . Thái Huyền chỉ tùng theo 4 mà khởi số chứ không nói 1 , 2, 3 bởi vì 1 sanh 2 , 2 sanh 3 , 3 sanh vạn vật , 1 là Thiên , 2 là Địa , 3 là Nhân , có thiên địa mà sau mới có vạn vật cho nên nói rằng Tam nguyên ; còn thiên can 10 , địa chi 12 thì khởi ở 9 mà hết ở 4 , thiên can địa chi đã tận tự không có 1 ,2 , 3. Số Thái Huyền khởi đều do cái lý tự nhiên như vậy , không thể không biết vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. Có 10 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (12-10-09),htruongdinh (04-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (05-10-09),Kloan (10-10-09),sonthuy (10-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (10-10-09),VP (24-08-13)

      5. #13
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        _ Luận nạp âm thủ tượng :

        Âm tức Hoàng đế tương nơi Giáp Tí phân khinh trọng mà phối thành 60 , có tên Hoa Giáp tí , chữ Hoa thật rất ảo diệu . Thánh nhân mượn ý mà dụ vậy , không nên chấp nê cái ý nầy . Từ Tí đến Hợi trong 12 cung rải đều Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ , ban đầu khởi ở Tí là nhứt dương và cuối cùng ở Hợi là lục âm , ngũ hành sở thuộc Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tại Thiên là ngũ hoàng , tại địa là ngũ nhạc , ở đức là ngũ thường , ở nhân là ngũ tạng , đó là mạng vậy , nên Giáp tí sở thuộc ứng mạng , mạng tức là việc cả một đời . Cho nên các tượng Giáp tí nạp âm là thánh nhân dụ vậy , cũng như các việc của đời người vậy . Vì sao gọi Tí Sửu là âm dương thai nghén, nhân tại bào thai mà vật tạng ở căn rễ chưa có hình thành , đến Dần Mảo thì âm dương bắt đầu mở dần , nhân cũng lần sanh trưởng , sự tinh hoa của vật cũng dần tạo ra như người bắt đầu lập thân vậy , qua Thìn Tỵ thì khí âm dương đã thành vật cho trái đẹp như người đến tuổi 30, 40 , dến Ngọ Mùi thì khí âm dương sáng rõ mà vật đã tề chỉnh và người thì đến 50 , 60 ; việc bần tiện phú quý đã định rõ , sự hung suy cũng biết rành , khi qua Thân Dậu thì âm dương tiêu sát vạt thì thâu thành người thì quy súc , mỗi đều tinh cả , đến Tuất Hợi thì âm dương bế tắc , khí vật trở về gốc , người cũng ngưng nghĩ , tất cả đều quy vậy . Nói qua về 12 vị ấy cứ lần lượt trước sau mà hiểu luc thập Giáp tí vậy .
        • Sao mà tương cho Giáp Tí , Ất Sửu là Hải trung Kim , bởi khí ở bao tạng có tên mà không có hình , do người ở trong bụng mẹ vậy
        Nhâm Dần , Quý Mão tuyệt địa , Kim khí thô sơ bạc nhược nên gọi là Kim bạc Kim .
        Canh Thìn , Tân Tỵ là Kim ở đất Thổ Hỏa , khí đã phát sanh , Kim còn tại mỏ , nơi gởi hình để sanh dưỡng lại nhận chánh sắc ở phương Tây nên gọi là Bạch lạp Kim
        Giáp Ngọ , Ất Mùi tức khí đã thành , vật chất đã tự chắc thật , cuộn nơi cát mà cũng biệt nơi cát , ở nơi Hỏa mà luyện cũng nơi Hỏa nên gọi là Sa trung Kim .
        Nhâm Thân , Quý Dậu khí vật cực thạnh , đang lúc thâu liễm , thoát làm mủi nhọn như dao , do chánh vị là Thân Dậu lại đặt vào can Nhâm Quý tức Kim Thủy phối luyện để thành công dụng của Kim vậy , đến Tuất Hợi thì khí Kim tạng phục hình thể đã tàn , nung đúc trang điểm đã thành hình trạng , cát chứa trong lầu các không làm gì nữa nên công dụng của Kim đã hết do đó gọi Canh Tuất , Tân Hợi là Xoa xuyến Kim .
        Sao Nhâm Tí , Quý Sửu lại dùng cái tượng như cây dâu ,bởi khí ở nơi quanh co hình trạng chưa thẳng và lại cư nơi đất Thủy , nhận khí dâu tàm theo thời mà sanh vậy .
        Canh Dần , Tân Mão thì khí đã qua dương , được tài bồi cái thế lực mà tráng kiện chỉ nại ở dưới Kim , nhưng thường Kim có chất sương thì trở thành chắc chắn , Mộc cư ở đó thì thành vượng nên tánh cũng được kiên cố do đó gọi là Tùng bá Mộc .
        Mậu Thìn , Kỷ Tỵ thì khí không thành lượng , vật đã đúng thời , cành lá tốt thịnh sầm uất mà thành rừng , lại lúc Mộc rất thạnh nên gọi là Đại lâm Mộc .
        Nhâm Ngọ , Quý Mùi Mộc mà đến Ngọ thì tử , đến Mùi thì mộ cho nên dương liễu thanh mùa Hạ lá tàn , cây nhành có phần nhược nên tánh chất là nhu mềm bèn gọi là Dương liễu Mộc .
        Canh Thân , Tân Dậu thuộc Kim ngũ hành mà nạp âm thuộc Mộc , lấy tương khắc mà dùng , bởi tánh mộc cay chỉ có nơi Thạch lựu , khí đến Thân Dậu thì tịnh túc , vật dần thành thực , do Mộc ở đất Kim có vị cay nên gọi là Thạch lựu Mộc vậy , xét thấy các Mộc khác đến Ngọ thì tử nhưng chỉ riêng Mộc này đến Ngọ lại vượng đó cũng do tánh mà khác vậy .
        Mậu Tuất , Kỷ Hợi thì khí quy về tàng phục âm dương bế mộ ,khí mộc về gốc , nấp ở nơi Thổ cho nên gọi là Bình địa Mộc vậy .
        Bính Tí , Đinh Sửu vì sao mà dùng tuong nhuận thủy , bởi khí chưa thông tế , chẳng phải nơi thủy lưu , có được nơi thấp thì thủy tụ cũng tùy theo đất mà thôi nên gọi là Nhuận hạ Thủy .
        Giáp Dần , Ất Mảo khí dương xuất rõ , thế thủy nương ở gốc , lưu hành cuồn cuộn ở phương Đông cái thế rất mạnh nên gọi là Đại khê Thủy .
        Nhâm Thìn , Quý tỵ thế mạnh ở Đông Nam tàng khí Ly cung , Hỏa thế sáng mạnh , Thủy được quy khố , vừa nhiều vừa lưu nên gọi là Trường lưu Thủy .
        thay đổi nội dung bởi: AnhNgoc, 07-10-09 lúc 23:01
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (12-10-09),htruongdinh (07-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (07-10-09),Kloan (10-10-09),macchulan (25-04-11),sonthuy (10-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (10-10-09),VP (24-08-13)

      7. #14
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        _ Luận nạp âm thủ tượng : ( Tiếp theo )

        Bính Ngọ , Đinh Mùi khí đang lên xuống , ở cao thì hỏa sáng có thủy chảy do mưa , trong thủy có hỏa thì chỉ ở trên trời mới có nên gọi là Thiên hà Thủy .

        Giáp Thân , Ất Dậu khí an tịnh dừng nghĩ , mẫu tử đồng vị , xuất mà không cùng , múc mà không kiệt nên gọi là Tỉnh tuyền Thủy .

        Nhâm Tuất , Quý Hợi là đất thiên môn , khí quy về bế tắc thủy trãi khắp mà không xa , thế quy mà yên lặng , đến mà không cùng , nạp vào mà không đầy tràn nên gọi là Đại hải Thủy vậy .

        Mậu Tí , Kỷ Sửu sao lại lấy tượng Tích lịch Hỏa , bởi khí tại nhứt dương mà hình thì ở thủy vị , thủy ở trong hỏa khí là hạng thần long nên gọi là Tích lịch Hỏa .

        Bính Dần , Đinh Mảo khí dần phát huy , do nơi cây cỏ mà hiển ra , âm dương thì lửa thiên địa thì lò nên gọi là Lư trung Hỏa .

        Giáp Thìn , Ất Tỵ là nơi hình khí thạnh , thế ở chỗ cao chiếu sáng tới chỗ tối tăm nên gọi là Phúc đăng Hỏa .

        Mậu Ngọ , Kỷ Mùi khí quá dương cung , trùng ly tương hội , chớp sáng giao nhau phát nóng lên trên nên gọi là Thiên thượng Hỏa vậy .

        Bính Thân , Đinh Dậu thì khí dừng mà hình núp , cái thể hỏa quang đã cát giấu mà quy về Đoài vị nên sức nhỏ thế yếu nhìn chẳng rõ xa nên gọi là Sơn hạ Hỏa vậy .

        Giáp Tuất , Ất Hợi gọi là Sơn đầu Hỏa bởi sơn tạng hình mà đầu thì đơn quang , trong sáng ngoài tối , ẩn dấu không lộ , đem ánh quang đến hết quy về dừng nghĩ ở trong nên gọi là Sơn đầu Hỏa vậy .

        Canh Tí , Tân Sửu sao dùng tượng Bích thượng Thổ , bởi khí ở nơi bế tắc , vật chuộng được bao nấp , che hình chận thể , trong ngoài không giao nhau nên gọi là Bích thượng Thổ vậy .

        Mậu Dần , Kỷ Mảo khí đã thành vật , có công nuôi vật , phát ở nơi rễ mà trưởng thành ở nhụy đài nên gọi là Thành đầu Thổ vậy .

        Bính Thìn , Đinh Tỵ khí đã thành dương , phát sinh đã quá , thành mà chưa đến nên gọi là Sa trung Thổ vậy .

        Canh Ngọ , Tân Mùi thì khí đang thành mà hình vật đã lộ hình , có hình tức đã có chất tức vật đã rõ ràng nên gọi là Lộ bàng Thổ .

        Mậu Thân , Kỷ Dậu khí đã dừng nghĩ , vật đã thâu liễm quy về , đẹp mà vô sự nên gọi là Đại trạch Thổ .

        Bính Tuất , Đinh Hợi khí đã thành mỹ mãn , âm dương trãi khắp , thế đã nhàn hạ nên gọi là Ốc thượng Thổ vậy .

        Ta thấy Lộ bàng Thổ sanh ra năm thứ cốc mễ nơi Ngọ Mùi cũng là thời hưng thạnh trưởng dưỡng . Đại trạch Thổ thông đạt 4 phương nơi Thân Dậu cũng đạt được lý hanh thông ; Thành đầu Thổ dùng để phòng sự công kích , Vương hầu nhờ nó để lập nước giữ dân vậy . Bích thượng Thổ là phấn để trang sức , thần dân đều cho dùng vậy . Sa trung Thổ là đất rất nhuận , Thổ mà nhuận thì sanh nên chưa tới mà hữu dụng vậy . Ốc thượng Thổ chỉ cho sự thành công , đã thành công thì dừng mà nhất định không đổi , bởi trong ngũ hành sự che chở dưỡng dục , tam tài ngũ hành đều không thể mất nơi cao thấp, mà đắc vị ở tứ quý mà có công , Kim thì được sắc nhọn cứng cáp , Hỏa thì được quang minh chiếu diệu , Mộc thì được tươi tốt xum xuê , Thủy thì được sung mãn không phiếm , Thổ thì được cấy gặt dồi dào , tụ mà không tán tức phải là sơn , sơn thì cao ; tán mà không tụ tức đúng căn nguyên , dùng mà không cùng , sanh mà không hết , cái công dụng hết sức to lớn vậy .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (12-10-09),htruongdinh (09-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (09-10-09),Kloan (10-10-09),macchulan (25-04-11),sonthuy (10-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (10-10-09),VP (24-08-13)

      9. #15
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        _ Luận nạp âm thủ tượng : ( Tiếp theo )


        Lại nghe các nhà nhựt gia nói :
        Giáp Tí , Ất Sửu , tí thuộc thủy lại là hồ , tất thủy dụng , kim lại tử ở tí mộ ở sửu , thủy vượng mà kim tử mộ nên gọi là Hải trung Kim .

        Nhâm Thân Quý Dậu , thân Dậu là chánh vị của Kim , Lâm quan ở thân Đế vượng tại Dậu , Kim đã được sanh vượng tức thành cường vậy nên gọi là Kiếm phong Kim .

        Canh thìn Tân tỵ , kim dương ở Thìn mà sanh ở Tỵ , hình chất chưa thành nên chưa được cứng mạnh nên gọi là Bạch lạp Kim .

        Giáp Ngọ , Ất Mùi là đất vượng Hỏa , hỏa vượng thì Kim bại , Mùi là đất hỏa suy , hỏa suy thì kim quan đới bại mà phương quan đới thì chưa thể cắt chặc nên gọi là Sa trung Kim .

        Nhâm Dần , Quý MẢo , dần mảo là đất vượng mộc , mộc vượng thì kim loa , kim thì lại tuyệt ở dần thai ở mảo kim đã không còn lực nên gọi là Kim bạc Kim .
        Canh Tuất , Tân Hợi , kim đến tuất thì suy , đến hợi thì bịnh , Kim đã suy bịnh thì yếu mềm vậy nên gọi là Xoa xuyến Kim .
        Bính Dần , Đinh Mảo , dần là 3 dương mà mảo là 4 dương , Hỏa đã đắc địa lại được dần mảo mộc sanh , đây là thời thiên địa khai lư vạn vật thì sanh nên gọi là Lư trung Hỏa .

        Giáp Tuất , Ất Hợi là thiên môn , hỏa chiếm thiên môn thì ánh quang rất cao nên gọi là Sơn đầu hỏa .

        Mậu Tí , Kỷ Sửu , sửu thuộc thổ tí thuộc thủy , thủy ở chánh vị mà nạp âm thuộc hỏa chỉ có nơi hạng thần long nên gọi là Tích lịch Hỏa .

        Bính Thân , Đinh Dậu , thân là đất nhà dậu là nhựt nhập chi môn , nhựt đến đây thì hết ánh quang nên gọi là Sơn hạ Hỏa .

        Giáp Thìn , Ất Tỵ , thìn là thực thời tỵ là khu trung , nhựt ở đây thì đẹp thế dương chiếu cho thiên hạ nên gọi là Phúc đăng Hỏa .

        Mậu Ngọ , Kỷ Mùi , Ngọ là nơi vượng hỏa , Mộc ở trong Mùi trở lại sanh cho Hỏa , tánh nóng phát lên lại gặp sanh địa nên gọi là Thiên thượng Hỏa .

        Mậu Thìn , Kỷ Tỵ là cồn bãi ; Tỵ là lục dương , mộc đến đây thì cành lá tươi tốt , đã tốt cành lá mà lại ở nơi cồn bãi nên gọi là Đại lâm Mộc vậy .

        Nhâm Ngọ , Quý Mùi ; mộc tử ở ngọ mộ ở mùi , mộc đã tử mộ tuy được thiên can Nhâm Quý thủy sanh nhưng cũng bị nhu nhược nên gọi là Dương liểu Mộc .

        Canh Dần , Tân Mảo ;Mộc lâm quan dần đế vượng mảo Mộc đã sanh vượng thì không còn nhu nhược nữa nên gọi là Tòng bá Mộc .

        Mậu Tuất , Kỷ Hợi ; tuất là cồn bãi hợi là nơi sanh mộc , Mộc mà ở nơi cồn bãi thì như thể một gốc một cây nên gọi là Bình địa Mộc .

        Nhâm Tí , Quý Sửu ; tí thuộc thủy sửu thuộc thổ , thủy thhi2 sanh mộc mà bị thổ phạt nên phải làm loại dâu tằm để phương sanh do đó gọi là Tang đố Mộc .

        Canh Thân , Tân Dậu ; Thân thuộc tháng 7 dậu thuộc tháng 8 , đây là thời mộc tuyệt , chỉ có thạch lựu mới kết thật nên gọi là Thạch lựu Mộc .

        Canh Ngọ , Tân Mùi ; ngọ mùi thì vượng hỏa , hỏa vượng thì thổ được thêm , lại thọ sanh nơi thổ , nên gọi là Lộ bàng Thổ vậy .

        Mậu Dần , Kỷ Mảo ; thiên can mậu kỷ thuộc thổ , dần là cấn do tích thổ mà thành sơn nên gọi là Thành đầu Thổ .

        Bính Tuất , Đinh Hợi ; Bính Đinh thuộc Hỏa , Tuất hợi là thiên môn , Hỏa đã nóng lên trên thì thổ chẳng ở dưới mà sanh nên gọi là Ốc thượng Thổ .

        Canh Tí , Tân Sửu , sửu tuy là thổ chánh vị mà tí lại là nơi vượng thủy , thổ gặp thủy thì thành bùn nên gọi là Bích thượng Thổ .

        Mậu Thân , Kỷ Dậu ; thân thuộc đất khôn dậu thuộc đoài trạch , Mậu Kỷ thổ lại thêm Khôn Đoài nên là nơi đầm trạch lớn mới gọi Đại trạch Thổ .

        Bính Thìn , Đinh Tỵ ; Thổ khố ở Thìn tuyệt ở tỵ mà thiên can là Bính Đinh hỏa đến thin là quan đới , tỵ là lâm quan , trên đã tuyệt khố mà gặp hỏa vượng trở lại sanh nên gọi là Sa trung Thổ .

        Bính Tí , Đinh Sửu ; thủy vượng ở tí , suy ở sửu , vượng mà trở lại suy nên không thể là sông hồ do đó gọi là Giãn hạ Thủy .

        Giáp Thân , Ất Dậu ; lâm quan thân đế vượng dậu , Kim đã sanh vượng thì thủy nương đó mà sanh , sức lực chưa lớn nên gọi là Tỉnh tuyền Thủy .

        Nhâm Thìn , Quý tỵ ; thin là thủy khố , tỵ là nơi kim tràng sanh , kim đã sanh mà thủy đã vượng lại khố thủy mà gặp kim sanh thì tất dòng chảy không cạn nên gọi là Trường lưu Thủy .

        Bính Ngọ , Đinh Mùi ; Bính Đinh thuộc hỏa , Ngọ là nơi vượng hỏa nạp âm lại là thủy , thủy từ hỏa mà xuất chỉ là ngân hà mới có nên gọi là Thiên hà Thủy .

        Giáp Dần , Ất Mảo ; Dần là Đông Bắc , Mảo là chánh Đông , Thủy lưu ở chánh Đông thì tánh được thuần nên sông ngòi hồ lạch đều hợp lại mà về nên gọi là Đại khê Thủy .

        Nhâm Tuất , Quý Hợi thủy , Tuất Quan đới , Hợi Lâm quan nên lực rất mạnh , lại Hợi là sông chẳng có thủy nào sánh được nên gọi là Đại hải Thủy .

        Thuyết tuy không thông nhưng có thể thấy rõ được cái nghĩa tương hỗ dùng tương của cổ nhân vậy .
        Thường luận rằng ngũ hành thủ tượng do nơi sự đối đải mà phân âm dương , trước sau biến hóa rõ ràng .
        Như Giáp Tí Ất sửu đối với Giáp Ngọ Ất Mùi , Hải trung Sa trung lấy Thủy sanh mà biện phân âm dương vậy . Nhâm Dần Quý Mảo đối với Nhâm Thân Quý Dậu lấy Kim Mộc mà biện cương nhu khác nhau vậy . Canh Thìn Tân Tỵ , Canh Tuất Tân Hợi ,Bạch lạp Xoa xuyến , Càn Tốn khác phương , hình sắc mổi lạ vậy . Nhâm Tí Quý Sửu đối với Nhâm Ngọ Quý Mùi , Tang đố Dương liểu , một cong một mềm , hình chất khác nhau vậy . Canh Dần Tân Mảo đối với Canh Thân Tân Dậu , Tùng bá Thạch lựu một cứng một cay , tánh vị đều khác vậy . Mậu Thìn Kỷ Tỵ đối với Mậu Tuất Kỷ Hợi , Đại lâm Bình địa một thịnh một suy , Tốn Càn đối phương vậy . Mậu Tí Kỷ Sửu đối với Mậu Ngọ Kỷ Mùi , Tích lịch Thiên thượng , lôi đình huy tiên nhật nguyệt đồng chiếu vậy . Bính Dần Đinh Mảo đối với Bính Thân Đinh Dậu , Lư trung Sơn hạ hỏa thịnh mộc thiếu kim cường hỏa diệt vậy . Giáp Thìn Ất Tỵ đối với Giáp Tuất Ất Hợi , Phúc đăng Sơn đầu , hàn quang sợ gió , đưa quang về Cấn vậy . Bính Thìn Đinh Tỵ đối với Bính Tuất Đinh Hợi , Sa trung Ốc thượng , cạn ướt tương hỗ biến hóa thỉ chung vậy .
        Xét tròn xét vuông không ngoài vượng tướng tử hưu tù . Lấy gần lấy xa chẳng rời Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ . Lấy can chi mà phân phối ngũ hành , luận âm dương mà sáng tỏ trước sau , thiên thành nhân lực gồm tương sanh vượng tử tuyệt các loại . Kêu là lục thập Giáp tí chẳng qua Thánh nhân mượn cái tượng mà làm rõ cái lý ; tính chất hình sắc của ngũ hành công dụng chẳng thể không khúc tận mà tạo hóa không dư chứa vậy .
        Trong Dịch nói đạo lập thiên âm với dương nhật là Thiên đạo vậy , 10 ngày thay đổi là đã rõ cái nghĩa âm dương , còn cái đạo lập địa thì cương nhu thời tức địa đạo vậy . Từ Tí đến Hợi có 12 thời thứ bậc mà rõ nghĩa âm dương , trước bày thanh sau đó là âm , cho nên dùng nhật thời thác tống nạp giáp để thành ngũ âm , lấy lục tượng đó là tam tài đủ mà ngũ hành không dư vậy . Dùng can là Lộc mà định quý tiện , lấy chi là mệnh để định trường đoản , lấy nạp âm là thanh để xét thanh suy , người nếu có Lộc , mệnh thân đều được vượng tướng , tam tài đắc khí thì chắc khoái lạc trường thọ ; nếu bị tử tuyệt hưu tù , tam tài thất khí thì một đời trần ai khốn khổ chẳng sai vậy .
        thay đổi nội dung bởi: AnhNgoc, 13-10-09 lúc 12:16
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. Có 12 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (12-10-09),htruongdinh (10-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (13-10-09),Kloan (10-10-09),macchulan (25-04-11),ProCEO (28-04-10),sonthuy (10-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (10-10-09),VP (24-08-13)

      11. #16
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        _ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :

        Giáp tí Kim là thực vật thích Kim Thủy vượng địa , tấn thần hỷ phúc tinh , bình đầu huyền ngoại phá tự .

        • Ất sửu Kim là khoáng vật thích Hỏa và Nam phương nhựt thời , phúc tinh Hoa cái chánh ấn .

        • Bính dần Hỏa là Lư khôi thích Đông và Mộc , phúc tinh lộc hình , bính đầu lung á .

        • Đinh mảo Hỏa là Lư yên thích Tốn và Thu đông , bính đầu triệt lộ huyền châm .

        • Mậu thin Mộc là sơn lâm sơn dã , mộc bất tài , thích thủy lộc khố hoa cái , thủy lộc mã khố , bổng trương phục thần bình đầu .

        • Kỷ Tỵ Mộc là hoa quả trên núi , thích Xuân và Thu , Lộc khố nhập chuyên .

        • Canh Ngọ Thổ là đất mỏng bên đường , thích Thủy và Xuân , phúc tịnh quan quý , triệt lộ bổng trượng huyền châm .

        • Tân Mùi Thổ, thích Thu với Hỏa , hoa cái huyền châm phá tự .

        • Nhâm Thân Kim là kích chiến , thích Tí Ngọ Mảo Dậu , bình đầu đại bại, phường hại lung á phá tự huyền châm .

        • Quý Dậu Kim là Kim thôi tạc , thích Mộc và Dần Mảo , phục thần phá tự lung á .

        Giáp Tuất Hỏa thích Xuân và Hạ , chánh ấn hoa cái , bình đầu huyền châm phá tự bổng trượng .

        • Ất Hợi Hỏa , Hỏa khí nóng thích Thổ và Hạ , Thiên đức khúc cước .

        • Bính Tí Thủy sông hồ , thích Mộc và Thổ , phúc tinh quan quý, bình đầu lung á , giao thần phi nhận .

        • Đinh sửu Thủy , thủy bất lưu thanh , triệt cứ , thích kim và hạ , hoa cái thối thần , bình đầu phi nhận .

        • Mậu Dần Thổ , đề tinh thành quách , thích Mộc và Hỏa , phục thần bổng trượng lung á .

        • Kỷ Mão Thổ , phá đê bại thành , thích Thân Dậu và Hỏa , tấn thần đoản thiên cửu xá , khúc cước huyền châm .

        • Canh Thìn Kim Tích lạp , thích Thu và triệt Mộc , hoa cái đại bại , bổng trượng bình đầu .

        • Tân Tỵ Kim ; Kim sanh thì sa thạch tạp , thích Hỏa và Thu , Thiên đức phúc tinh quan quý , triệt lộ đại bại huyền châm khúc cước .

        • Nhâm Ngọ Mộc : dương liểu cán tiết , thích Xuân Hạ , thích quan quý , cửu xú phi nhận bình đầu lung á huyền châm .

        • Qúy Mùi Mộc : Dương liểu căn , thích Đông với thủy và chánh ấn ở Xuân , hoa cái đoản thiên phục thần phi nhận phá tự .

        Giáp Thân Thủy : Cam tỉnh thích Xuân và Hạ , phá lộc mã triệt lộ bình đầu.

        • Ất Dậu Thủy : âm Thủy thích Đông và Nam phương , phá lộc đoản thiên cửu xú khúc cước phá tự lung á .

        • Bính Tuất Thổ : gò đồi , thích Xuân Hạ và Thủy , thiên đức hoa cái , bình đầu lung á .

        • Đinh Hợi Thổ : Bình nguyên , thích Hỏa và Mộc , thiên đức phúc tinh quan quý đức hợp bình đầu .

        • Mậu Tí Hỏa : Sét vậy , thích Thủy và Xuân Hạ , đắc thượng thần thiên , phục thần đoản thiên cửu xú trượng hình phi nhận .

        • Kỷ Sửu Thổ : điện vậy , thích thủy và Xuân Hạ , đắc địa mà tối , hoa cái đại bại phi nhận khúc cước .

        • Canh Dần Mộc : Thân cây tùng bách , thích Thu Đông , phá lộc mã tướng hình trượng hình lung á .

        • Tân Mão mộc : Rễ cây Tùng, thích Thủy Thổ và Xuân , phá lôc giao thần cửu xú huyền châm .

        • Nhâm Thìn Thủy : Long Thủy , thích Lôi điện và Xuân Hạ , chánh giáp thiên đức thủy lộc mã tất thối thần bình đầu lung á .

        • Quý Tỵ Thủy : Không nghĩ khi chảy về biển , thích Hợi Tí mà biến hóa thiên ất quan quý đức hợp , phục mã phá tự khúc cước .

        Giáp Ngọ Kim : Bách luyện tinh Kim , thích Mộc Thủy Thổ , thối thần đức hợp , bình đầu phá tự huyền châm .

        • Ất Mùi Kim : Lư khôi dư Kim , thích dại hỏa và thổ , hoa cái triệt lộ khúc cước phá tự .

        • Bính Thân Hỏa : Bạch nha dã thiêu , thích Thu Đông và Mộc , bình đầu lung á đại bại phá tự huyền châm .

        • Đinh Dậu Hỏa : Quỷ thần thừa hưởng Hỏa vô hình , thích Thìn Tuất Sửu Mùi , thiên ất hỷ thần bình đầu phá tự lung á đại bại .

        • Mậu Tuất Mộc : Thứ cỏ ngải khô , thích Hỏa và Xuân Hạ , hoa cái đại bại nhập chuyên trượng hình triệt lộ .

        • Kỷ Hợi Mộc : mầm cỏ ngải , thích Hỏa và Xuân Hạ , khúc cước .

        • Canh Tí Thổ : Thổ giữa không , là ốc vũ , thích Mộc và Kim Mộc , đức hợp trượng hình .

        • Tân Sửu Thổ : Mộ , thích Mộc và Hỏa với Xuân , hoa cái huyền châm.

        • Nhâm Dần Kim : Kim hoa sức , thích Mộc Hỏa , triệt lộ bình đầu lung á .

        • Quý Mão Kim : Dây ngọc , thích Hỏa mạnh và Thu , quý nhân phá tự huyền châm.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      12. Có 12 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (18-10-09),htruongdinh (13-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (15-10-09),Kloan (19-10-09),macchulan (25-04-11),QuocTrung (13-10-09),sonthuy (15-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (13-10-09),VP (24-08-13)

      13. #17
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        _ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )


        Giáp Thìn Hỏa : Đèn vậy , thích đêm và Thủy , Hoa cái đại bại bình đầu phá tự huyền châm .

        • Ất Tỵ Hỏa : Ánh đèn vậy , thích Thân Dậu và Thu , chánh Lộc mã , đại bại khúc cước .

        • Bính Ngọ Thủy : Nguyệt luân , thích đêm và Thu thủy , hỷ thần dương nhận , giao thần bính đầu lung á huyền châm .

        • Đinh Mùi Thủy : Hỏa quang đồng thương , hoa cái dương nhận thối thần nhập chuyên bình đầu phá tự .

        • Mậu Thân Thổ : Điền địa , thích Thân Dậu và Hỏa , phúc tinh phục mã phục hình phá tự huyền châm .

        • Kỷ Dậu Thổ : thích Thân Dậu và Đông , tấn thần triệt lộ cửu xú , khúc cước phá tự lung á .

        • Canh Tuất Kim : thích dùng Hỏa và Mộc , hoa cái trượng hình .

        • Tân Hơi Kim : chung đỉnh bảo vật , thích Mộc Hỏa và Thổ , chánh lộc mã huyền châm.

        • Nhâm Tí Mộc : thương Thủy Mộc , thích Hỏa Thổ và Hạ ,dương nhận cửu xú bình đầu lung á .

        • Quý Sửu Mộc : thương Thủy Mộc , thích Kim Thủy và Thu , hoa cái phúc tinh nhập chuyên , phá tự dương nhận .

        Giáp Dần Thủy : Mưa vậy , thích Hạ và Hỏa chánh lộc mã phúc thần nhập chuyên bình đầu phá tự huyền châm lung á .

        • Ất Mão Thủy : Lộ vậy , thích Thủy và Hỏa , kiến lộc , nhập chuyên cửu xú khúc cước huyền châm .

        • Bính Thìn Thổ : Đê ngạn , thích Kim và Mộc , lộc khố chánh ấn , hoa cái triệt lộ bình đầu lung á .

        • Đinh Tỵ Thổ : Thích Hỏa và Tây Bắc , lộc khố bình đầu khúc cước .

        • Mậu Ngọ Hỏa : Nhựt về Hạ thì nhân úy , qua Đông thì nhân ái , kỵ Mậu tí Kỷ sửu Giáp dần Ất mão , phục thần dương nhận cửu xú bỗng trượng huyền châm .

        • Kỷ Mùi Hỏa : Ngày kỵ đêm , phúc tinh hoa cái dương nhận khúc cước phá tự .

        • Canh Thân Mộc : Lựu hoa , Hạ bất nghi , Thu Đông kiến lộc mã , nhập chuyên trương hình phá tự huyền châm .

        • Tân Dậu Mộc Lựu nhỏ , thích Thu và Hạ kiến lộc giao thần cửu xú nhập chuyên huyền châm lung á .

        • Nhâm Tuất Thủy : Biển vậy thích Xuân Hạ và Mộc , hoa cái thối thần bình đầu lung á trượng hình .

        • Quý Hợi Thủy : Bách xuyên thích Kim trên Hỏa , phục mã đại bại phá tự triệt lộ .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      14. Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (18-10-09),htruongdinh (14-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (15-10-09),Kloan (19-10-09),macchulan (25-04-11),sonthuy (15-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (14-10-09),VP (24-08-13)

      15. #18
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        _ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )


        * Lục thập Giáp Tí thịnh lớn thì kỵ biến nhỏ yếu , nếu bị nhỏ yếu thì muốn thành lớn mạnh , giống như trước bần tiện mà về sau phú quý vinh hoa , trước phú quý mà sau bần tiện nhỏ mọn ; không nên dùng phú quý trước mà không luận bần tiện , cũng không thể thấy bần tiện trước mà không luận phú quý .
        Niên sanh thuộc Mộc , ví dụ như Canh Dần Tân Mão tức Mộc lớn mạnh , nếu nhựt nguyệt thời không gặp các Mộc thì lấy Tòng bá Mộc mà luận ; vạn nhứt mà gặp Dương liểu hoặc Thạch lựu tức bỏ đại mà về tiểu , không lấy Tòng bá mà luận vậy .
        Còn như sanh nhân là Nhâm Ngọ Quý Mùi thì Mộc nhỏ yếu nếu nhựt nguyệt thời không gặp các Mộc khác thì lấy Dương liểu mà luận , vạn nhứt nếu gặp Tùng bách hoặc Đại lâm Mộc tức bỏ nhỏ mà luận lớn , không nên luận như Dương liểu vậy .
        Cho nên Thiên thượng Hỏa , Kiếm phong Kim , Đại hải Thủy Đại trạch Thổ sanh nhân mà nhựt nguyệt thời không gặp các vị nạp âm đều nhỏ yếu ; hay như Phúc đăng Hỏa , Kim bạc Kim , Tỉnh tuyền Thủy , Sa trung Thổ sanh nhân mà nhựt nguyệt thời không gặp vị khác thì nạp âm đều lớn mạnh , hoặc đem phàm nhập thánh , hoặc trước trọng mà sau khinh , đều theo sự biến mà luận chứ không thể chấp ở một mặt .

        - Giáp tí là Kim tùng cách nên khí tán , nếu được Mậu Thân Thổ , Quý Tỵ Thủy tương hợp thì tốt , Mậu Thân là đất Lâm quan Kim, Thổ thì vượng ở Tí nên được sanh thành vậy , Quý tỵ thuộc hệ Kim sanh ở Tỵ , Thủy sanh ở Tí, nạp âm tat61` cả đều quy lại là triều nguyên lộc , kỵ Đinh Mão Đinh Dậu Mậu Ngọ Hỏa . Diêm đông Sưu nói : Giáp Tí Kim là tấn thần bẩm cái đức trầm tiệm hư vô nên tứ thời đều tốt , nhập quý cách thừa vượng khí nên tay nghề tinh vi chủ về vinh hoa hiễn đạt .

        - Ất sửu là Kim phủ khô , Hỏa không thể khắc bởi Kim đã ân núp nên không bị hình hại xung phá lại là hiễn vinh , chỉ kỵ Kỷ Sửu Kỷ Mùi Hỏa . Diêm đông Sửu nói : Ất sửu là chánh ấn , là đại phúc đức , Thu Đông được phú quý thọ khảo , Xuân Hạ thì tốt , trong đó tự nhập cách thì kiến công hưởng phước . Ngọc Tiêu bửu Giám nói : Giáp Tí Ất Sửu chưa thành khí , Kim gặp Hỏa thì thành , gặp nhiều thì tốt .

        - Bính Dần là Hỏa hách hy , Thủy không chế được nên cái Hỏa thiêu đốt dữ dội , Thủy không qua được , chỉ thích một mình Giáp Dần Thủy , đồng vị với nhau lại gọi là triều nguyên Lộc . Yếu luận nói : trong Dần Hỏa chứa khí linh minh , tứ thời sanh đức , nhập quý cách thì văn chương phát khoa giáp .

        - Đinh Mão là Hỏa phục minh , khí yếu nên cần Mộc sanh , gặp Thủy thì hung , nếu gặp Ất mão Ất dậu thủy thì rất độc . Ngũ hành Yếu Luận nói : Đinh mão là Hỏa mộc dục , khí hàm lôi đông phong , thủy tề khí đạt , thổ tải thì mộ hậu , lấy mộc mà cho thì văn chương , lấy kim mà hợp lại gặp hạ thì hung bạo . Quỷ Cốc nói : Bính dần Đinh mão thu đông cần phải bảo trì . Chú rằng : hỏa không vượng tây đến thu đong thì thế sợ không bền .

        - Mậu thin là lưỡng thổ hạ mộc , các kim không thể khắc bởi là thổ sanh kim tức cái đạo mẫu tử , được thủy sanh là tốt . Ngũ hành yếu Luận nói : Mậu thìn Canh dần Quý sửu 3 thần này tánh mộc tráng kiện , sanh ở Xuân Hạ có chất độc lập , tùy biến hóa mà thành công , thừa được vượng khí thì chí tận mây xanh , chỉ kỵ sanh ở Thu, tuy bị hoại tiết chí bị khuất phục nhưng chẳng theo vậy .

        - Kỷ tị là mộc cận hỏa , kim sanh ở đây , ở ta mà không sát , kỵ gặp hỏa sanh vượng . Diêm Đông nói : Kỷ tỵ tại Tốn là Mộc bị phong đông , rễ dể bị bạt , hòa với Kim , Thổ vận ở Đông nam mà thành vật dụng , tuy ngoài dương trong âm mà chẳng phụ trợ nên khí hư tán , lại thêm Kim quỹ khắc nên thành Mộc bất tài dung vậy . Lạc lộc Tử nói : Kỷ tỵ Mậu thìn qua Càn cung mà thoát ách . Chú rằng : Kỷ tỵ Mậu thìn là loại cử mộc , kim quỹ vượng ở phương Tây , nạp âm mà Mộc thì đến đây phải tuyệt vậy . Như bị hạn ách nếu đến Càn Hợi cung thì Mộc đắc Thủy thành trường sanh mới khỏi ách .

        - Canh ngọ Tân mùi Thổ , Mộc không dến khắc , chỉ kỵ nhiều Thủy thì bị thương khí , còn Mộc nhiều thì nhủ quy về , bởi Mộc quy Mùi vậy . Diêm Đong nói : Canh ngọ Tân mùi Mậu thân Kỷ dậu đều có đức hậu , Thổ bao hàm trấn tịnh , dung hợp hòa khí , nhân cách phước lộc .

        - Nhâm thân là Kim lâm quan , thích gặp Thủy Thổ , nếu gặp Hỏa Bính thân Bính dần Mậu ngọ thì tác hại . Diêm D(ông nói : Nhâm thân Kim là cái uy của thiên tướng cho khí lâm quan , Thu Đong chủ quyền bị sát , Xuân Hạ thì tốt ít xấu nhiều , nhân cách lấy công danh mà phấn chấn , đế sát dùng để khắc bạc .

        - Quý dậu là Kim cứng mạnh , Hỏa tử ở Dậu nên gặp Hỏa chẳng hề gì , chỉ kỵ Hỏa Đinh dậu cùng vị nên khắc vậy . Diêm Đông nói : Quý dậu là tự vượng Kim , cái khí chất thuần túy , Xuân Hạ thì tánh anh minh , Thu Đong rất quý nhân cách nên công danh sự nghiệp tiết tháo hơn người , đới sát thì niên thiếu ngang ngạnh đến sau 40 thì dần thuận tánh . Vương tiêu Bửu Giám nói : Nhâm thân Quý dậu là vị vượng Kim , không nên vượng lại vì vượng thì sát vật , không nên gặp Hỏa vì gặp Hỏa thì bị thương .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      16. Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        cuongbao (18-10-09),htruongdinh (16-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (18-10-09),Kloan (19-10-09),macchulan (25-04-11),sonthuy (16-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (17-10-09),VP (24-08-13)

      17. #19
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default

        _ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )



        - Giáp tuất là tự khô Hỏa , không sợ các thủy chỉ sợ Nhâm tuất , đó là cái họa mộ trung thọ khắc , khó tránh được . Ngũ hành yếu luận nói : Giáp tuất Hỏa là Ấn là khố , gồm cho đến khí dương tạng mật , gặp được qúy cách thì phú quý quang đại , chỉ kỵ sanh Hạ thì trong cát có hung .

        - Ất hợi là Hỏa phục minh nên khí uất ức mà không phát tịch được , Kỷ hợi , Tân mão Kỷ tỵ Nhâm ngọ Quý mùi là Mộc sanh cho nên tinh thần vượng tướng , có Quý hợi Bính ngọ Thủy thì không tốt . Diêm Đông nói : ẤT hợi là Hỏa tự tuyệt , khí hàm minh mẫn mà tự tịnh , thuộc hệ ám quang tịch nhiên vô hình , nếu được đắc số thì cao nhân diệu đạo , quân tử tốt đức .

        - Bính tí là Thủy lưu hành , không sợ các Thổ , chỉ hiềm Canh tí bởi trong vượng gặp quỷ chẳng được tốt lành . Ngũ hành yếu Luận nói : Bính tí tự vượng Thủy , dương thượng âm hạ , tinh thần hoàn hảo , bẩm chất thiên tư khoáng đạt , tri thức uyên thâm , Xuân Hạ thì khí tề vật , công năng kiện lợi .

        - Đinh sửu là phước tụ Thủy , rất thích Kim sanh , sợ bị Tân mùi Bính thìn Bính tuất tương hình phá vậy .Ngũ hành yếu luận nói “ Đinh sửu Ất dậu tại số là thủy tam yếu , có bẩm chất âm thạnh dương yếu , tuy trong sáng nhiều huệ mà thiếu phước , dùng Thủy Mộc vượng khí thì quân bình được âm dương mà phát quý đạt hiển sĩ “.

        - Mâu Dần là Thổ thọ thương , chẳng có chút lực , cần được Hỏa sanh vượng để giúp khí , kỵ Kỷ hợi Canh dần Tân mão Mộc khắc , chủ bị đoãn triết đại hung . Ngũ hành yếu luận nói : Mậu dần , Bính tuất hai vị này thừa khí Thổ , một mặt sanh Hỏa , một mặt giữ Hỏa , tức là linh dương theo trong được phước khánh , đắc quý cách , đạo đức hơn đời , đến tận thân vương công tử , nhiều nơi chỗ nhựt sanh thường được dắc cách , cũng đếu phước thọ dài lâu , trước sau đều an dật .

        - Kỷ mão là Thổ tư tử , bị ức chế nhiều , quý nhờ ở cái HỎa Đinh mão Giáp tuất Đinh hợi Kỷ mùi mà có phước . Ngũ hành yếu luận nói : Kỷ mão tự tử Thổ , mạnh ở nơi chánh vị , gió nỗi sét động , tán mà hòa khí , bẫm loại đạo hành , tùy biến mà thích ứng , phức thọ tự tại , chỉ không lợi nơi tử tuyệt tức là cửu giả vật quý chi đồ . Tam mệnh soán cục nói : Mậu dần Kỷ mão Thổ thọ thương không sợ lấy Mộc lâm tổn vì Thổ không còn lực . Vương tiêu bửu giám nói : Mậu dần Kỷ Mão Thổ không nên gặp Thủy , gặp Thủy thì tổn tài , không sợ Mộc , gặp Mộc thì thành chắc . Mậu dấn thừa Thổ đức vượng khí mà hàm sanh Hỏa , đắc thì chỉ phước thọ dài lâu , Kỷ mão không nên gặp lại tử tuyệt , gặp thì hung.

        - Canh thìn là Kim tụ khí , không dùng Hỏa chế thì khí vật tự thành , Hỏa mạnh thì thành tổn thương khí vật , gặp Hỏa bệnh tuyệt thì vô hại , nếu gặp Giáp thìn Ất tỵ thì xấu ác rất nhiều , cũng không thể khắc các Mộc được . Diêm Đông nói : Canh thìn Kim có được sự cương kiện trầm hậu , lại có tánh thông minh lanh lợi , Xuân Hạ họa phước cũng có , nhập cách thì tài kiêm văn võ , đới sát thì hảo lộng binh quyền .

        - Tân tỵ là bạch kim , tinh thần đầy đủ , khí thế hoàn bị , có bị thiêu đốt cũng không tiêu vong , kỵ Bính thìn Ất tỵ Mậu ngọ các Hỏa , bởi Kim bạch ở tỵ mà không thường sanh , bại ở ngọ tuyệt ở dần , khí tán mà lại gặp Hỏa sanh vượng thì khó mà đương nổi . Ngũ hành yếu luận nói : Tân tỵ Kim là tự sanh học đường , đủ anh minh khối kỳ , Thu Đong sức lực đầy đủ , Xuân Hạ bảy phần xấu ba phần tốt , nhập quý cách thì chủ học hành thông minh , thân được thanh quý , có lòng thương vật . Vương tiêu bửu giám nói : Canh thìn Tân tỵ chưa thành Kim khí nên cần gặp Hoa . Tân tỵ là tự sanh , tỵ thì đắc Hỏa nên quang huy nhựt tân .

        - Nhâm ngọ là Mộc nhu hòa `, thân rễ đều nhỏ yếu , mộc năng sanh hỏa nên kỵ gặp nhiều hỏa , gặp thì thiêu hết vậy , tuy là kim sanh vương nhưng cũng không làm cho thương tổn được bởi kim đến đây thì bại , được kim trở thành quý , thủy thổ thạnh thì cũng quý , chỉ sợ kim Giáp ngọ làm thương tổn thôi . Ngũ hành yếu luận nói : Nhâm ngọ mộc tự tử , mộc tử tuyệt thì hồn đi mà thần khí linh tú , bẩm được cái đức tịnh minh , có dõng lực mà phá tịnh lập công , diên niên ích thọ .

        - Quý Mùi mộc tự khố , sanh vượng thì tốt , tuy ẤT sửu kim không thể xung phá cũng đều phải quy về gốc mới không tương phạm , kỵ Canh tuất Ất mùi kim . Ngũ hành yếu luận nói : Quý mùi là chánh ấn , có tánh văn minh tài đức , muốn đươc phước thanh hoa . Ngọc tiêu bửu giám nói : Nhâm ngọ Quý mùi là Dương liễu mộc , mộc đến ngọ thì tử , đến mùi thì mộ , cho nên thịnh mùa Hạ lá nhiều , được thời thì phú thọ , chẳng đựơc thời thì bần yểu .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      18. Có 10 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        Ducminh (21-10-09),htruongdinh (19-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (20-10-09),Kloan (19-10-09),macchulan (25-04-11),thucnguyen (16-01-12),vocuc (19-10-09),VP (24-08-13)

      19. #20
        Tham gia ngày
        Jun 2009
        Bài gửi
        758
        Cảm ơn
        245
        Được cảm ơn: 2,921 lần
        trong 596 bài viết

        Default


        _ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung
        :(Tiếp theo )

        - Giáp thân thủy tự sanh , khí lưu hành nên có nơi quy cũng mượn kim sanh , không sợ các Thổ khác chỉ sợ Mậu thân Canh tí thổ . Ngũ hành yếu luận nói : Giáp thân thủy bạch sanh có thiên chân học đường mà đắc nhập cuộc thì trí thức thông tuệ diệu dụng vô cùng .

        - Ất dậu tự bại thủy , cần các kim tương trợ , bởi khí tự đã yếu , muốn được mẹ dưỡng , kỵ Kỷ dậu Kỷ mão Mâu thân Canh tí Tân sửu các Thổ , nếu gặp thì yểu triết cùng tiện .

        - Bính tuất phước tráng lộc hậu thổ , mộc không thể khắc được , sợ gặp Kim sanh vượng , nếu gặp được Hỏa thạnh thì quý không nói hết .

        - Đinh hợi Lâm quan thổ , Mộc không thể khắc , chỉ hiềm nhiều Kim thì tiết , cần có Hỏa sanh để cứu thì tốt , kỵ Kỷ hợi Tân mão Mộc . Ngũ hành yếu luận nói : Đinh hợi Canh tí hai thổ có chứa kim , trong cương ngoài hòa , có được đinh lực , dùng Thủy Hỏa vượng khí thì kiến công lập nghiệp vậy .

        - Mậu tí Kỷ sửu hỏa ở trong thủy , lại gọi là thần long hỏa , gặp thủy thì quý là ma lục khí vậy . Ngũ hành yếu luận nói : Mậu tí chứa tinh thần quang huy toàn thật , khí cả 4 thời , bảo sanh cái phước , nhập quý cách tức là quý nhân quân tử khí chất gồm lớn phú quý hết đời .

        - Kỷ sửu là hỏa Thiên tướng , lại là nhà Thiên Ất ,hàm chứa khí oai phúc quang hậu , phát rất dũng mãnh , là tướng đức là khôi danh . Kinh nói : Hỏa được thai dưỡng thì khí dần mạnh , nếu được Bính Dần Mậu ngọ Hỏa trợ thêm thì trở thành có công tế vật .

        - Canh dần Tân mão tuế hàn Mộc , sương tuyết không thể làm mất tiết tháo hướng chi là kim , như gặp thổ Canh dần Tân mão chẳng muốn chế trị , tự nhiên thành rừng . Diêm dông nói : Tân mão Mộc , tự vượng Xuân Hạ thì khí tiết xuất chúng ,kiến công lập nghiệp , sanh ở Thu thì bị ngông cuồng hẹp hòi tỏa triết , khí vượng khí nhuần .

        - Nhâm thìn là tự khố thủy , nếu là đất ao hồ tích thủy thì kỵ kim đến quyết phá , nếu gặp lại Nhâm thìn tức là tự hình , gặp nhiều Thủy Thổ thì thích , chỉ sợ gặp Nhâm tuất Quý hợi Bính tí Thủy , được sanh vượng thái quá trở thành tràn lan hỗn tạp . Ngũ hành yếu luận nói : Nhâm thìn là chánh ấn thủy , chứa cái đức thanh minh huần ốc , có tánh bao dung quãng đại , tâm thức như gương , được mùa Xuân Hạ thì đại phước tuệ , Thu Đông thì thuộc loại gian trá bạc đức .

        - Quý tỵ là tự tuyệt thủy , tên gọi là hạc lưu ( chảy cạn ) , nếu gặp Bính tuất Đinh hợi Canh tí thổ hùng hậu thì còn giữ cạn , nếu gặp kim tam hợp sanh vượng thì thành nguyên lưu dồi dào khoa danh tấn đạt vậy . Ngũ hành yếu luận nói : Quý tỵ Ất mão là Thủy tự tuyệt tự tử , bèn đến âm lui ẩn , chân tình sắc dưỡng ngưng thành khí quý trở nên quý cuộc , loại nầy thuộc diệu đạo quân tử hiễn công cập vật .

        - Giáp ngọ là tự bại kim cũng gọi là cường hãn ( dữ mạnh ) kim gặp hỏa sanh vượng thì khí vật thạnh , gặp Đinh mão Đinh dậu Mậu tí hỏa đại hung . Ngũ hành yếu luận nói : Giáp ngọ kim là tấn thần khí tốt có , có đủ đức cang minh , Thu Đông thì tốt Xuân Hạ thì xấu , nhập quý cách thì khoa trương xuất chúng , nếu chẳng gặp thời mà đới sát thì bạo liệt vô ơn thiếu nghĩa . Chúc thần kinh nói : Giáp ngọ kim dương dữ mạnh , nếu ức chế thì trầm . Chú viết : Sa thạch kim cứng thích sát , muốn ức thì lấy hỏa mà dùng vậy . Quỷ Cốc di văn rằng : giáp ngọ thích quan quỷ . Lý hư trung nói : Giáp ngọ kim tổn dữ mạnh , Nhâm tí mộc hết nhu ,hoặc Nhâm tí gặp Giáp ngọ hoặc Giáp ngọ gặp Nhâm tí , âm dương giành vị không còn sáng tỏ .

        - Ất mùi kim thiên khố ( không chánh khố ) , cũng là hỏa khắc mà thổ sanh thì phước mạnh khí tụ , kỵ Kỷ mùi Bính thân Đinh dậu các hỏa . Ngũ hành yếu luận nói : Ất mùi kim ở số là mộc khố lại là thiên tướng có đủ các đức thuần nhân hậu nghĩa , được quý cách thì anh kiệt xuất chúng khôi trấn tứ luân , nếu được cách thường mà đới sát xung phạm cũng được quân tử bình thường .

        - Bính thân hỏa tự bịnh , Đinh dậu hỏa tự tử , khí nhỏ yếu , cần mộc tương trợ thì khí mới sanh , kỵ Giáp thân Ất dậu Giáp dần Ất mão các thủy , Diêm Đông nói : Bính thân hỏa bịnh hư , gặp Mộc đức văn minh , thủy khoáng đạt thì được phước tuệ , chỉ có kim là bạo hại , nếu dù có tốt thì cũng đổi thành cái khí bất hòa . Ngũ hành yếu luận nói : Bính thân Đinh dậu hỏa tư tử , hàm khí dấu kín yên tịnh , ngoài hòa trong cương , quý cách ở đó , thuộc loại có đạo quân tử , đức hạnh tự nhiên .

        - Mậu tuất mộc trong thổ kỵ gặp lại thổ , nếu nạp âm gặp nhiều thổ thì một đời truân chuyên , kim không thể khắc bởi kim đến tuất thì bại , gặp kim có khi lại được phước , thích gặp nhiều thủy , thịnh mộc sẽ thành quý cách . Diêm Đông nói : Mậu tuất mộc cô thân độc vị , hòa với thủy hỏa vượng khí thì được cái đức chân thật anh minh , nhập cách thì văn chương tấn đạt , phước lộc thủy chung , nhưng vì thừa khí thiên tướng nên trãi nhiều gian hiểm song tiết tháo không đổi thì mới được phước về sau .

        - Kỷ Hợi mộc tự sanh , căn bản phồn thịnh không sợ các kim khác chỉ sợ Tân hợi Tân tỵ Quý dậu kim , nếu gặp Ất mão Quý mùi Đinh mùi mộc chưa hẳn là không đại quý . Ngũ hành Yếu luận nói : Kỷ hợi mộc tự sanh , anh minh tài trí , như đắc được nơi thì thanh quý . Diêm Đông nói : Kỷ hợi mộc được thời thì thanh quý , chẳng gặp thời thì tân khổ .

        - Canh tí thổ hậu đức , hay khắc các thủy và không kỵ các mộc , bởi mộc đến tí thì vô khí , nếu gặp được Nhâm thân kim thì là được Lộc vị tức quý vậy .

        - Tân sửu thổ phước tụ , bởi lộc không thể khắc và Sửu là Kim khố , trong Sửu có Kim nên không sợ gặp Mộc . Ngọc tiêu Bửu giám nói : Canh tí Tân sửu thổ thích Mộc mà ghét Thủy , gặp Mộc là quan , gặp Thủy thì không tương nghi . Diêm Đông nói : Tân sửu Kỷ dậu Thổ trong có chứa ít Kim , đức hậu tánh cứng hòa mà bất đồng , trên dưới tề nhau dùng Thủy Hỏa vượng khí thì công lớn danh oai vậy .

        - Nhâm dần tự tuyệt kim , Quý mão là kim tám khí , nếu gặp các Hỏa thì phải tiêu khí , chỉ tốt khi được Thủy Thổ triều . Ngũ hành yếu Luận nói : Nhâm dần Quý mão là Kim hư hoại bạc nhược nhưng cũng có đức nghĩa nhu cương , Thu Đông khang kiện không xấu , xấu lại là điềm tốt , Xuan Hạ thì nội hung ngoại cát , tốt thì bị xấu trước , nhập quý cách thì tiết chí anh minh , đới sát thì hung bạo không cùng vậy .Tam mệnh soán cuộc nói : Quý mão là Kim tự thai , nếu gặp Bính dần Đinh mão Lư trung Hỏa thì không sợ , vì thai Kim nên ở trong lư thì thì khí vật được thành vậy .

        - Giáp thìn là Hỏa thiên khố ( không chánh khố ) , có nhiều Hỏa trợ thì tốt , đó là đồng khí tương trợ , nếu gặp được Mậu thìn Mậu tuất Mộc sanh cho thì đắc quý cách , kỵ Nhâm thìn Nhâm tuất Bính ngọ Đinh mùi Thủy rất độc . Ngũ hành yếu Luận nói : Giáp thìn là Thiên tướng Hỏa , tánh khí nóng mạnh nhanh nhẹn , nhập quý cách thi văn khôi đặc biệt , lợi ở Thu Đông mà không lợi ở Hạ .

        - Ất tỵ lâm quan Hỏa , Thủy không thể khắc bởi Thủy tuyệt ở Tỵ , được Thủy tương tề thì là thuần túy , nếu có hai ba Hỏa tương trợ thì cũng tốt . Ngũ hành yếu Luận nói : Ất tỵ chứa thuần dương , phát khí ở Tốn nên quang huy sung mãn , Xuân Đông theo tốt , Thu Hạ theo xấu .

        - Bính ngọ Đinh mùi Thiên hà Thủy thổ không thể khắc Thủy ở trên trời nên đất Kim không sanh được , như sanh vượng thai quá thì phát dục nơi vạn vật , nếu tử tuyệt thái quá thì lại không thể sanh vạn vật . Ngũ hành yếu Luận nói : Bính ngọ là thủy chí cao , khí thể ôn hậu ở phương Nam tánh loại có đạo khí hư thì biến thành xuất sắc .

        - Đinh Mùi thì đủ cả tam tài , toàn số được xung chánh khí bẩm được tinh thần toàn khí , căn tánh cao diệu , biến hóa vô cùng .

        - Mậu thân trọng phụ thổ , mộc không thể khắc vì mộc tuyệt ở thân , nếu được kim thủy trợ nhiều thì chủ phú quý tôn vinh vậy .

        - Kỷ dậu là tự bại thổ , khí không đầy đủ , cần lấy hỏa tương trợ , gặp được Đinh mão Đinh dậu hỏa thì tốt , kỵ nhất là tử tuyệt , nếu gặp Tân Mão Tân dậu mộc thì tai ương yểu triết

        - Canh tuất Tân hợi là kiên thành kim không nên gặp hỏa dễ bị thương tổn , nếu được thủy thổ tương giúp thì quý . Diêm Đông nói : Canh tuất kim mộ ở hỏa , kim cương liệt trở thành hung bạo , Thu Đong ít nhiều trầm hậu , Xuan HẠ động sanh hối tiếc , quân tử nắm binh quyền , tiểu nhân thì tánh hung ác . Tân hợi kim mạnh ở Càn , có khí thuần minh trung chánh , Xuan Thu Đông đều tốt , Hạ thì 7 tốt 3 xấu , lấy nhân mà hành nghĩa , nếu có hình sát thì hung bạo bần tiện..

        - Nhâm tí mộc chuyên vị , Quý sửu là mộc thiên khô , gặp tử tuyệt thì phú quý , gặp sanh vượng thì bần tiện , nhiều mộc thì yểu triết , kim thổ nhiều và thịnh thì tốt . Ngũ hành yếu Luận nói : Nhâm tí là mộc âm u , dương yếu mà âm mạnh , nhu mà không lập , gặp Bính ngọ thủy thì đức tánh thuần túy thuộc loại thần tiên dị sĩ tánh cách phi thường . Chúc thần Kinh nói : Nhâm tí mộc mắc ở chỗ nhu mềm , hoặc phát dương nhân thì cao minh . Chú rằng : Nhâm tí mộc ở nơi vượng thủy , tí được ít dương khí mà sanh , nhu thoát dễ triết tức là mộc tự bại , nếu phát lên được thì khí hỏa thượng tăng ích mà khiến cho phồn vinh nên cao minh nhân nghĩa.
        - Bản gốc thiếu Quý sửu .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      20. Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:

        Ducminh (26-10-09),htruongdinh (22-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (12-11-09),macchulan (25-04-11),ProCEO (28-04-10),sonthuy (22-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (22-10-09),VP (24-08-13)

      Trang 2/7 đầuđầu 1234 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Thông Ðiệp Huyền Diệu Từ Nước
        By dhai06 in forum Xã Hội - Con Người
        Trả lời: 3
        Bài mới: 17-06-12, 10:25
      2. Sách Tổ của Phong Thủy
        By VinhL in forum Phong thủy II
        Trả lời: 17
        Bài mới: 18-10-11, 02:45
      3. Xét nghiệm giá trị của huyền không.
        By NhấtLụcTamBát in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 7
        Bài mới: 04-08-11, 23:40
      4. Thông Huyền Linh Kinh
        By hoa mai in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 1
        Bài mới: 21-03-11, 08:50
      5. Nhạc cổ điển có giúp trẻ thông minh hơn
        By dhai06 in forum Xã Hội - Con Người
        Trả lời: 0
        Bài mới: 31-07-10, 14:23

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •