Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 1/3 123 cuốicuối
    kết quả từ 1 tới 10 trên 23
      1. #1
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default "Luận dụng thần - Hoàng Đại Lục" của Durobi bên Tuvilyso.org

        Trong chủ đề "Luận dụng thần - Hoàng Đại Lục" trong mục "Tử Bình" bên trang web "Tuvilyso.org", Durobi đã trích dẫn:

        "1 - Cách cục là tác dụng của trời đất ảnh hưởng đến sự phú quí bần tiện của con người ;
        2 - Vượng suy trung hòa là sự lưu chuyển của ngũ hành ảnh hưởng đến sự cát hung họa phúc của con người ;
        3 - Sinh khắc chế hóa hình xung hợp hại phá là phương thức tác dụng của bát tự ;
        4 – Thập thần ngũ hành là kẻ phát ngôn cho các sự kiện trong đời người.
        (Vương Khánh)".


        Tôi không biết Durobi đã lấy câu này từ đâu nhưng phải thừa nhận rằng Vương Khánh phải là một Đại cao thủ Tử Bình thực thụ mới có thể tóm gọn toàn bộ môn Tử Bình vào 4 câu bất hủ như vậy.

        Thiết nghĩ đây chính là "Kim Chỉ Nam" cho bất cứ ai muốn nghiên cứu Tử Bình.

        Theo tôi hiểu thì :

        1 - Lệnh tháng định cách cục và từ cách cục này chỉ cho ta biết Tứ Trụ đó là Phú Quý hay Bần Tiện (Phú Quý nghĩa là được làm quan to hay nhỏ và thường đi đôi với có tiền, còn Bần Tiện tức không được làm Quan mà chỉ là người dân bình thường và thường nghèo khó). Nói theo trường phái Tử Bình hiện đại của cụ Thiệu là Tứ Trụ có tổ hợp tốt. Điều này khẳng định Cách cục và Dụng thần không liên quan gì tới nhau.

        2 - Dụng thần phải là cái làm cân bằng Tứ Trụ (trừ các trường hợp ngoại lệ). Từ dụng thần có thể dự đoán được mọi họa hay phúc của đời người qua các vận và lưu niên. Cho nên Dụng thần không liên quan gì tới Cách cục. Nếu cách cục tốt mà vào tuế vận xấu vẫn gặp các tai họa nặng như phá sản, mất quan vào tù,…. tử vong.

        Còn câu 3 và 4 là các công cụ hay các thông tin để nói nên bản chất tương tác của các can chi giữa Tứ Trụ với tuế vận (chý ý: ở đây chưa hề đả động gì tới sự tác động của ngũ hành trong môi trường sống tới ngũ hành trong mệnh của người có Tứ Trụ đó).

        Trong khi Hoàng Đại Lục viết:

        "Chính bởi vì dụng thần chỉ là vật mà nguyệt lệnh dùng để định cách, không phải ở bất cứ vị trí nào khác dùng để cân bằng ngũ hành bát tự, cho nên cổ nhân mới gồm dụng thần và cách cục vô làm một, và đem cách cục vật khả dụng của nguyệt lệnh gọi là nội cách, mà cách cục vật không khả dụng của nguyệt lệnh gọi là ngoại cách (xin tham khảo cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa của tác giả). Chúng ta biết rằng mệnh lý hiện hành chọn dụng thần không chú trọng đến nguyệt lệnh, cho nên cách cục không phân làm nội cách và ngoại cách, hoặc nói không rõ nguyên do sự phân chia nội cách ngoại cách".

        Chứng tỏ Hoàng Đại Lục đã khẳng định “Dụng thần chính là Cách Cục“ của Tứ Trụ, tức Cách Cục đó mang hành gì thì hành đó chính là Dụng thần của Tứ Trụ đó.

        Một cái sai lầm trầm trọng giống như hơn trăm năm qua người ta vẫn còn tung hô “Những người càng có nhiều đời nghèo khổ thì mới càng có khả năng lãnh đạo những người khác làm kinh tế“ ấy mà.
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 13-01-12 lúc 23:30
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #2
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Hoàng Ðại Lục đã viết:

        “1 - Như mệnh Lưu Trừng Như:

        Quan….. thực….. nhận…...tấn

        Nhâm…… kỷ…… đinh…….giáp

        Tuất………dậu…….Sửu…….thìn

        Niên can thấu quan, nguyệt can thấu thực, quan tinh chịu khắc mà phá quan cách. Nhưng còn có thể khí quan tựu thực, nói cách khác quan cách không thành, có sao đâu trở lại lấy tài cách. Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập. Cho nên mệnh chủ sĩ lộ không thông tài lộ thông, kinh doanh tơ lụa có phương pháp, trung niên thành nhà giàu nhất Chiết Giang.“.

        Sau đây là bài luận của tôi:

        Sơ đồ xác định các điểm vượng trong vùng tâm:


        [img]http://farm8.staticflickr.com/7149/6719688411_0db1804394_z.jpg[/img]

        Theo phương pháp của tôi, chưa cần biết Cách cục của Tứ Trụ này là gì nhưng có thể xác định chính xác dụng thần của Tứ Trụ này là Mộc, do vậy đến tuổi trung niên vào các vận Giáp Dần và Ất Mão là các vận dụng thần, chúng là 2 đại vận huy hoàng nhất cuộc đời của người này. Do vậy người này đã đại phát tài.

        Vì sao Hoàng Đại Lục lại chọn ví dụ này để chứng minh cho ý tưởng "Dụng thần chính là Cách Cục" của ông ta ? Điều này có thể khẳng định rằng ông ta đã xác định Tứ Trụ này có Thân vượng cho nên ông ta muốn chứng minh Tứ Trụ có Thân vượng mà có “Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập“ vẫn phát tài ở vận Kiêu Ấn thì quá đủ để chứng minh cho "Dụng Thần chính là Cách Cục" của ông ta là đúng.

        Để kiểm tra thêm điều khẳng định này chúng ta nghiên cứu tiếp ví dụ số 2 của ông ta xem sao.

        2/ Trích TBCTBN-HĐL, toahuongqui dịch:

        "Mậu tuất-giáp dần-ất sửu-bính tý

        Ất mão/bính thìn/đinh tị/mậu NGỌ
        ..........
        Tại sao mệnh chủ phải đến tài đại vận mậu ngọ mới xảy ra xoay chuyển? Nguyên nhân chỉ có một, đó chính là trên mệnh cục có tuất không có ngọ là không thể đủ hợp hóa thành hỏa, chỉ có tới vận mậu ngọ, có chữ ngọ, mới có thể đủ hợp hóa thành hỏa, khiến nguyên mệnh cục nguyệt kiếp cách biến thành thực thương cách, như vậy mới có thể làm cho mệnh chủ phất lên như sấm".

        Sau đây là bài luận của tôi:

        [img]http://farm8.staticflickr.com/7173/6719583769_698f9d014a_z.jpg[/img]

        Theo sơ đồ trên thì Tứ Trụ này có Thân vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Tân tàng trong Tuất ở trụ năm.
        Vào đại vận Mậu Ngọ có Dần trụ tháng cùng Tuất trụ năm hợp với Ngọ đại vận tạo thành tam hợp cục hóa Hỏa thành công. Trong Tứ Trụ có 2 chi là Dần và Tuất hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại (điều này Hoàng Đại Lục đã đề cập đến : “… mà sách mệnh lý hiện đại lại nói chính là vì tuế vận can dự vào phá vỡ thăng bằng nguyên mệnh cục, yêu cầu lại lần nữa vấn đề chọn chữ thăng bằng“). Ta thấy Hỏa có 5,4đv được thêm 5,4đv của Dần ở trụ tháng và 2,16đv của Tuất ở trụ năm thành 12,96đv. Thổ có 10,89đv bị mất 2,16đv của Tuất ở trụ năm còn 8,82đv. Mộc có 24,4đv bị mất 5,4đv của Dần ở trụ tháng còn 19đv. Thân vẫn vượng nhưng Thực Thương (Hỏa) nhiều nên dụng thần đầu tiên lúc này phải là Tài tinh/ Mậu ở trụ năm (trong trường hợp này các điểm vượng ở tuế vận được tính thêm vào vùng tâm không làm cho điểm hạn của ngũ hành thay đổi). Mậu chính là dụng thần “thăng bằng“ mà Trích Thiên Tủy đã đề cập tới : “... yêu cầu lại lần nữa vấn đề chọn chữ thăng bằng“.

        Sau khi tính lại Thân vẫn vượng mà Tài tinh là dụng thần thì dĩ nhiên vào vận Tài lại còn có cục Thực Thương hóa Thân sinh Tài thì “…làm cho mệnh chủ phất lên như sấm" là dĩ nhiên có gì là lạ. Vậy thì ông ta chọn ví dụ này làm mẫu để chứng minh điều gì?

        Giống như ví dụ trước, chúng ta có thể khẳng định ông ta đã xác định khi Dần lệnh tháng hóa Hỏa thì Thân sẽ mất căn gốc nên trở thành nhược (chắc là cái không nên học thì ông ta lại học là câu: “…Đắc 2 can tương trợ không bằng một chi trường sanh lộc vượng; như Giáp Ất phùng chi Hợi, Dần, Mão. Can như bằng hữu, chi lại sinh phù, nhiều can không bằng thông căn nơi địa chi. Người xưa không được biết lý này vậy…“ - Trích Chương 17 – Suy Vượng của Trích Thiên Tủy. Còn cái cần học là Dụng Thần thăng bằng thì ông ta lại không học). Cho nên qua 2 ví dụ này ông ta chắc mẩm đã chứng minh được cho câu : “Trầm thị nói chính là nguyệt lệnh thấu can và địa chi hội hợp dẫn tới vấn đề nguyệt lệnh biến hóa“ thì phát tài không liên quan gì tới Thân vượng hay nhược, miễn là “Cách cục được thành lập“.

        Qua 2 ví dụ này đủ cho chúng ta biết Trình Độ để xác định Thân vượng hay nhược của ông ta thuộc loại “Vịt Bầu“ hay “Vịt Bắc Kinh“ gì đấy.

        Vậy mà Hoàng Đại Lục còn viết:

        “Mà sự vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự lại tùy theo sự giới nhập của tuế vận mà biến hóa không ngừng, muốn cân đo đong đếm nó khác nào đi cân đo đong đếm con khỉ có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa !
        ....…………………
        Thế đấy, có phải muốn phán đoán chính xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành bát tự còn khó hơn Phật Bà phán đoán Tề Thiên thật và Tề Thiên giả không nhỉ ?“.


        Quả thực tôi không thể hiểu được ông ta là người hay là Ngợm mà lại phát biểu như vậy. Theo tôi thì chỉ có loài động vật 4 chân mới không thể biết được khả năng trí tuệ của con người vĩ đại như thế nào mà thôi. Chính “Phương pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần“ của tôi đã chứng minh điều mà ông ta nói là sai.

        Nếu những điều suy luận của tôi ở trên là sai thì xin bạn đọc hãy trích dẫn một ví dụ nào đó trong sách của ông ta để chứng minh rằng phát tài do “Cách cục được thành lập“ tức “Dụng thần chính là Cách Cục“ mà không liên quan gì tới Thân vượng hay nhược.

        Nói một cách đơn giản là trích ra một ví dụ từ trong sách của ông ta mà Thân vượng vẫn phát tài ở vận Kiêu Ấn hoặc Thân nhược vẫn phát tài ở vận Tài, Thực Thương (trừ ngoại cách).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        Shanghai (18-01-12)

      4. #3
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Durobi bên trang web “Mệnh Lý Mệnh Học” đã dịch bài : “Trăm năm mệnh lý què quặt“ của tác giả Vương Khánh có đoạn sau:

        “…Làm thế nào để đoán định thành bại của cách cục, chủ yếu phải xem lập hướng điểm có thông qua được 3 cửa quan là hộ vệ, thật giả, thanh thuần hay không. Chỉ có 3 cửa quan đều thông qua thì mới tính cách cục được thành lập, không quí thì phú. 3 cửa chỉ cần 1 cửa không thông qua thì luận là không thành cách cục, án tình huống cụ thể phân làm 3 loại bán thành phẩm, thứ phẩm và phế phẩm, lấy tiêu chí này đoán định ngoài đại quí đại phú ra (đã thành cách cục) thì còn có các tầng thứ khác, hoặc tiểu phú quí, hoặc có thành tựu, hoặc bình phàm, hoặc là đồ bỏ đi, rõ ràng đâu ra đấy.

        Cái gọi là 3 cửa quan : Hộ vệ, thật giả, thanh thuần, được biểu thuật như sau.

        Hộ vệ : Tức là thập thần lập hướng (thập thần lập cách cục) xung quanh có hình thành một cơ chế bảo vệ hoặc ức chế hoàn thiện hay không. Lấy nguyên tắc hộ vệ hung thần thì nghịch dụng, cát thần thì thuận dụng để phán đoán thành bại.

        4 hung thần : Sát, Thương, Kiêu, Kiếp cần chế cần hóa, như Thương Quan cần gặp Tài hoặc Ấn, Thất Sát cần gặp Thực hoặc Ấn hoặc Thương Nhận hợp Sát.

        4 cát thần : Tài, Quan, Ấn, Thực cần được sinh và hộ vệ, như Quan tinh cần gặp Tài hoặc Ấn, Ấn tinh cần gặp Quan hoặc Tỷ.

        Cát hung thần chỉ khi đã cụ bị cơ chế hộ vệ và ức chế này mới có thể kiện khang và thành tựu, và mới có thể là vật hữu dụng cho ta.

        Lúc luận cách cục, hộ vệ là tối quan kiện, chúng ta chớ cho rằng thân vượng gặp Tài, Sát thì có thể thăng quan phát tài. Bạn đầu tiên phải tính : Tài này tự thân nó có an toàn, kiện khang hay không ? Sát này có thể thuần phục làm vật hữu dụng cho ta không ? Đơn lẻ chỉ mỗi thập thần thì nó chỉ là "nguyên liệu" mà thôi, chỉ khi qua sự tổ hợp hợp lý mới thành hình, tức biến thành "thành phẩm", tức Tài là tài phú, Quan là địa vị.

        Ví dụ 1:
        Càn tạo: Giáp Dần-Đinh Mão-Ất Sửu-Ất Dậu
        Đại vận: Tân Mùi
        Lưu niên: Kỷ Sửu

        Thân vượng Kiếp vượng, vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng địa chi Sát có Tài sinh có thể dùng được, nhưng trên thực tế vấn đề xảy ra ngay chỗ Sát này. Thất Sát là hung thần, không có chế hóa mà lại có nguồn; mà xung quanh nhật chủ không có Ấn tinh hộ vệ, Thực Thần thì yếu nên khó dùng, không hề có chút lực để kháng kích Thất Sát, điềm đại hung. Đại vận Tân Mùi Sát thấu, ứng kỳ đến, lưu niên Kỷ Sửu bị ung thư không chữa khỏi mà chết“.


        Ví dụ trên Vương Khánh luận theo Cách Cục pháp cho ta thấy cái cốt tủy mà Vương Khánh sử dụng là coi Sát, Thương, Kiêu, Kiếp luôn luôn là các hung thần nên cần được chế ngự, nếu không được chế ngự sẽ là “điềm đại hung“. Ở ví dụ trên vì Sát không được chế ngự, cho nên Vương Khánh cho rằng vào đại vận Sát (Tân) đương số bị ung thư chết thì đó chính là bằng chứng để chứng minh cho lý thuyết mà Vương Khánh đã đưa ra là đúng.

        Vậy thì ta thử xem có đúng là Sát ở ví dụ trên đã gây ra tai họa này hay không ?

        Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn năm Kỷ Sửu:


        [img]http://farm8.staticflickr.com/7156/6776272807_9905ef0a13_z.jpg[/img]

        Qua sơ đồ này cho ta thấy Thân quá cường vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương đều ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát là Tân tàng trong Dậu ở trụ giờ. Mộc là kỵ vượng và điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi.
        1 – Trong Tứ Trụ có Dậu trụ giờ hợp với Sửu trụ ngày không hóa (vì lực xung của Mão trụ tháng (có 9đv) với Dậu cách 1 ngôi nên bị giảm 1/3; và bị giảm thêm ¾ khi khắc Sửu trụ ngày còn 9.2/3.1/4 = 1,5đv là nhỏ hơn lực hợp của Sửu trụ ngày với Dậu có 4,8đv).
        2 – Vào đại vận Tân Mùi có Mùi đại vận hợp với Mão trụ tháng hóa Mộc và bán hợp Tị với Dậu trong Tứ Trụ hóa Kim (Kim cục này không thể khắc được Mộc cục ở phía trên để gây ra Đại Chiến).
        Tới năm Tân Sửu Kim cục trong Tứ Trụ hợp thêm với Sửu thái tuế và Dậu tiểu vận hợp với Sửu thái tuế đều hóa Kim. Chính Kim cục này khắc Mộc cục đã gây ra Đại Chiến nên Gi áp trụ năm hợp với Kỷ lưu niên mới hóa được Thổ (vì có Sửu thái tuế động dẫn hóa). Vì Mộc cục bị khắc quá nặng nên nó không còn khả năng khắc Thổ cục, vì vậy Thổ cục có thể vẫn có điểm hạn như bình thường nhưng không sinh được cho Kim cục (?)).

        Giáp trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục (hoặc Kim cục trong Tứ Trụ hợp với Tuế Vận hóa Kim cục) nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại. Ta thấy Thân vẫn vượng và dụng thần vẫn không thay đổi. Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận Mộc vẫn là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi.

        Kim cục và Mộc cục gây ra Đại Chiến có (0,4.5 + 0,2)đh = 2,2đh, nên Kim cục có 2,13đh, Mộc cục có 0,5đh còn Thổ cục có -0,5đh. Mùi đại vận có 0,5đh kỵ vượng.
        3 - Dụng thần Tân mặc dù Tử Tuyệt ở lệnh tháng nhưng không có 0,5đh hay 1đh do Dậu hợp với tuế vận hóa cục (bởi vì hóa cục này chính là hành của dụng thần). Tân nhược ở lưu niên nên có 0đh.
        4 - Nhật can Ất nhược ở lưu niên nên có 0đh.
        5 – Đinh trụ tháng thất lệnh và chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Tân đại vận có 0,5đh.
        Tân đại vận nhược ở tuế vận nên khắc 2 Ất trong Tứ Trụ không có điểm hạn nhưng các lực khắc này đủ làm cho 2 Ất trở thành động, vì vậy mỗi Ất có 0,5đh kỵ vượng. 2 Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Ất có -0,5đh can động.

        Tổng số có 5,08đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (vì 5đh đã có thể gây ra tử vong). Nếu Mộc cục và Thổ cục cũng gây ra Đại Chiến hay Thổ cục sinh được cho Kim cục, hoặc Thổ cục không thể tạo thành do Mộc cục có trước ngăn cản thì tổng điểm hạn còn cao hơn nhiều.

        Vậy thì :

        1 - Tân là Sát ở đại vận nhược ở tuế vận còn bị Đinh trụ tháng là Thực thần chế ngự mà có thể gây ra tai họa này sao ?
        2 - Hay ngược lại cho rằng Tân là dụng thần của Tứ Trụ nên vào đại vận Tân bị Đinh khắc chế nên dụng thần bị tổn thương mà gây ra tai họa chăng ?


        Cả hai điều lý luận này đều sai, bởi vì hầu như tất cả các tai họa điều do nhiều yếu tố kết hợp gây ra, trong ví dụ này thì yếu tố Đại Chiến là quan trọng nhất (4,83đh), sau đó đến yếu tố điểm kỵ vượng (1,5đh). Nhưng đáng tiếc rằng hầu như tất cả các sách từ Cổ tới Kim đều không hề nhắc đến các khái niệm này (riêng khái niện Đại Chiến tôi đã “Chôm” được từ câu 12 trang 295 trong cuốn “Dự Đoán theo Tứ Trụ” in năm 2002 của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa (tất nhiên tôi đã mở rộng khái niệm này) : “12 - Mệnh cục, đại vận, lưu niên có 6 địa chi hợp thành hai cục khắc nhau hoặc tam hợp cục tương khắc nhau thì chủ về đại họa đến nơi, cái chết khó tránh”).

        Nếu như không có Mộc cục (tức chi đại vận không phải là Mùi hay trong Tứ Trụ không có Mão) thì làm gì có Đại Chiến và dĩ nhiên làm gì có Tai Họa này (khi Kim cục và Thổ cục có điểm hạn âm). Vậy mà Vương Khánh đã khẳng định chỉ cần thấy Sát không bị chế ngự như ví dụ trên là đã đi đến kết luận tai họa do Sát gây ra. Nhưng thực chất ở đâyTân đại vận chính là Sát đã bị Thực thần là Đinh chế ngự, vậy mà Vương Khánh lại không nhìn ra hay sao ?

        (còn tiếp)
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 28-01-12 lúc 23:01
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #4
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ thứ 3 của Vương Khánh:

        “Càn tạo: Ất Hợi - Kỷ Sửu – ngày Giáp Thìn - Ất Hợi

        Đại vận: Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu/ Giáp Thân/ Quý Mùi/ Nhâm Ngọ

        Bát tự này nhìn giống như thân Tài lưỡng đình, dùng vượng suy pháp xem thì mệnh này tốt. Dùng cách cục pháp xem, dùng Chính Tài cách luận thành bại, cát thần Chính Tài cần có Quan Sát hoặc Thực Thương hộ vệ, hiện thời thì không thấy dụng thần Quan Sát, Thực Thần nào cả, đã thế còn có 2 Kiếp Tài tọa vượng đến khắc, chẳng những không thành cách mà còn bị phá tổn nghiêm trọng. Phú quí thôi đừng mơ nữa, cát thần nắm lệnh bị phá, cách bị phá bởi hung thần Kiếp Tài không có chế hóa, tất là người có tai nạn lớn. Mệnh chủ là người cực kỳ nghèo, sau do sự cố trong lúc mưu sinh mà mất đôi cánh tay, phải đi làm ăn mày.

        Kiếp Tài là đệ nhị ác thần trong 4 hung thần, cực hung hãn, là cường đạo chuyên môn đoạt Tài, không có Tài thì đoạt mệnh“.


        Theo tôi ví dụ này đủ để chứng minh Cách Cục Pháp chỉ có khả năng cho biết Cách Cục của Tứ Trụ là cao hay thấp (quý hay tiện) còn mức độ cao tới mức nào hay thấp tới mức nào thì phải nhờ tới Vượng Suy Pháp.

        Tứ Trụ này đúng là thuộc Chính Tài Cách, mà Chính Tài Cách chủ về tiền tài. Do vậy nếu Thân vượng thì thường Chính Tài Cách đòi hỏi phải có Quan sát bảo hộ Tài hay Thực Thương để hóa Thân tái sinh Tài, còn Thân nhược thì 2 yêu cầu này không quan trọng lắm (miễn là có chút ít Thực Thương để thông quan là được).

        Vương Khánh đã xác định Tứ Trụ này là “Thân Tài lưỡng đình“ tức là Thân vượng mà Tài cũng vượng nên muốn phát tài nó đòi hỏi phải có 1 trong 2 yêu cầu mà Vương Khánh đã nói ở trên nhưng đáng tiếc trong Tứ Trụ này không có. Chính vì vậy mà Cách Cục của Tứ Trụ này là thấp nhưng nếu chỉ có như vậy thì chả nhẽ hành vận Quan Sát hay Thực Thương không thể bù vào sự thiếu vắng này sao ? Bởi vì vào các vận Thực Thương (Đinh Hợi và Bính Tuất) chúng có thể xì hợi Thân vượng tái sinh Tài, thì dĩ nhiên người này phải phát Tài nhưng trong thực tế người này vẫn nghèo đói. Tại sao lại như vậy ? Đây chính là điều quan trọng nhất mà Cách Cục Pháp không thể giải thích được mà phải nhờ tới Vượng Suy Pháp (xét sự vượng suy của các hành với nhau, trong đó xét hành của Thân với các hành khác là quan trọng nhất). Phải chăng Vương Khánh không nhìn ra sự đặc biệt của Tứ Trụ này nên đã chọn nó làm ví dụ mẫu ?
        (Điều nghi ngờ này có thể đúng bởi vì qua ví dụ 7 và 8, Thân của 2 ví dụ này đều nhược vậy mà Vương Khánh lại xác định là vượng. Chính xác định sai nên Vương Khánh đã chọn chúng làm các ví dụ mẫu để chứng minh cho ý tưởng Thân vượng tài vượng mà vẫn nghèo đói…).

        Vậy thì sự đặc biệt của Tứ Trụ này là gì mà Thân vượng vào các vận Thực Thương (Đinh Hợi và Bính Tuất) người này vẫn nghèo đói ?
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #5
        Tham gia ngày
        Nov 2011
        Bài gửi
        67
        Cảm ơn
        10
        Được cảm ơn: 39 lần
        trong 23 bài viết

        Default

        Nhật chủ tọa khố. Thìn là thủy khố và chứa mộc nên có thể nói là căn của Giáp, Hợi lại ngậm Giáp nên nhật chủ là sinh mộc. Giáp Thìn liên căn do đó không nên phạm Thìn khố.

        Thìn là thủy khố nên Hợi vào Thìn mộ. Thìn cũng là thổ khố nên Sửu vào Thìn mộ. Toàn bộ vào mộ thì khí không lưu thông nên là tử khí là bỏ đi, muốn dùng cần phải xung khố.

        Nhưng Thìn là liên căn với nhật chủ tức không được phạm. Mệnh này tự mâu thuẩn về điều kiện phát tài. Xung khố tất gặp nạn. Bất xung khố thì tù khí cả đời. Mệnh ăn mày.

        Lý luận này gọi là Ý Tứ Pháp. Đóng góp ít dòng.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #6
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Trích Nguyên văn bởi MJKN Xem bài gởi
        Nhật chủ tọa khố. Thìn là thủy khố và chứa mộc nên có thể nói là căn của Giáp, Hợi lại ngậm Giáp nên nhật chủ là sinh mộc. Giáp Thìn liên căn do đó không nên phạm Thìn khố.

        Thìn là thủy khố nên Hợi vào Thìn mộ. Thìn cũng là thổ khố nên Sửu vào Thìn mộ. Toàn bộ vào mộ thì khí không lưu thông nên là tử khí là bỏ đi, muốn dùng cần phải xung khố.

        Nhưng Thìn là liên căn với nhật chủ tức không được phạm. Mệnh này tự mâu thuẩn về điều kiện phát tài. Xung khố tất gặp nạn. Bất xung khố thì tù khí cả đời. Mệnh ăn mày.

        Lý luận này gọi là Ý Tứ Pháp. Đóng góp ít dòng.
        Cám ơn MJKN đã tham gia luận ví dụ này.

        Tôi chưa hiểu lắm về cách luận của bạn nhưng xin cho hỏi nếu Hợi là chi của trụ năm đổi thành Mão thì người này còn là mệnh "Ăn Mày" nữa hay không ? Vì sao vậy ?

        Xin cám ơn trước.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #7
        Tham gia ngày
        Nov 2011
        Bài gửi
        67
        Cảm ơn
        10
        Được cảm ơn: 39 lần
        trong 23 bài viết

        Default

        Ý tứ pháp là phương pháp để xem ý tứ mỗi can chi trong tứ trụ như thế nào? Vượng Suy Pháp xem vượng nhược và chọn dụng thần cho mệnh. Dụng thần là thần rất quan trọng để cân bằng bát tự. Dụng thần vượng được luận là cát nhưng mà nếu ý tứ không quy thuận nhật chủ thì sao cát được? Hay là nhìn vào chế độ Vua cùng các Tôi. Vua là nhật chủ. Chọn dụng thần tức là chọn bề Tôi có năng lực nhất để theo hầu. Tôi giỏi thì kéo theo cả đất nước hay cụ thể là mệnh tốt. Tuy nhiên, ý tứ của bề Tôi này liệu có một lòng hầu Vua không? ... Cũng như khi xét thì phải xét tài đức vẹn toàn vậy.

        Bàn về khi nhật chủ tọa khố, không phải khố nào cũng nên bị xung. Lý luận này trước hết ngẫm lại khi nhật chủ tọa Lộc hay Dương Nhận. Giả như Ất tọa Mão, Mão chính là Ất nên gọi là liên căn. Ất chính là Mão và Mão cũng đại biểu cho Ất. Cho nên, có thuyết pháp cho rằng Lộc không nên bị thương. Trong các trường hợp nhật chủ tọa khố, đó là Đinh Mùi - Quý Sửu - Giáp Thìn - Bính Tuất thì kỵ bị xung phá. Do :
        _ Mùi là táo thổ chứa Đinh.
        _ Tuất là táo thổ chứa Bính.
        _ Sửu là thấp thổ chứa Quý.
        _ Thìn là thấp thổ chứa Quý thủy cùng Ất mộc. Giáp Thìn là tượng cây mọc trên đất ẩm.

        Các trường hợp trên do chi khố tàng ý tứ nuôi dưỡng hoặc chứa đựng thiên can nên ngại bị xung phá (nếu ý tứ đi xung khố khác thì được). Bị xung thì như nước nhà bị giặc đánh chiếm. Xung khố cũng là xung nhật chủ hay xung mạch sống nhật chủ.

        Bát tự của người ăn mày kể trên nếu đổi niên chi Hợi sang Mão thì trước hết Hợi ở giờ và Sửu nhập mộ Thìn như lý luận đã đưa ra từ trước nhưng Thìn không phải mộ của Mão nên Mão không vào khố. Ta thấy Hợi-Mão hợp có ý tứ kéo Mão về với nhật chủ. Có một tượng nữa là Mão hại Thìn (nếu có Dần thì bàn tam hội, không có Dần thì bàn hại). Giáp Thìn liên căn. Liên căn thì không nên phạm nhưng Mão hại Thìn vẫn bất hung do Mão mộc chủ yếu khắc Mậu thổ trong Thìn (bất liên can Quý-Ất vốn thực sự cần cho nhật chủ). Mão chế Thìn. Thìn là Ấn khố. Mão là Kình Dương. Chế Ấn được quyền. Thìn cũng là thổ là Tài. Chế Tài được Tài. Mệnh phát tài. Mão ở xa nên tác dụng không lớn.
        thay đổi nội dung bởi: MJKN, 01-02-12 lúc 20:40
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "MJKN" về bài viết có ích này:

        TanLen73 (02-02-12)

      10. #8
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Hình như là MJKN dùng "Manh Phái" để luận thì phải.

        Ở đây tôi muốn biết khi thay chi Hợi của trụ năm thành Mão thì người này vẫn là số "Ăn Mày" hay không, khi mà điều kiện mà Vương Khánh đưa ra "...cát thần Chính Tài cần có Quan Sát hoặc Thực Thương hộ vệ, hiện thời thì không thấy dụng thần Quan Sát, Thực Thần nào cả, đã thế còn có 2 Kiếp Tài tọa vượng đến khắc,..." không hề thay đổi ?

        Nhưng theo cách luận của bạn "...Mão chế Thìn. Thìn là Ấn khố. Mão là Kình Dương. Chế Ấn được quyền. Thìn cũng là thổ là Tài. Chế Tài được Tài. Mệnh phát tài. Mão ở xa nên tác dụng không lơn" thì hình như bạn cho rằng mệnh của người thứ 2 này là "Mệnh phát tài" thì phải ? Nếu đúng như vậy thì bạn đã chứng minh giúp tôi điều mà Vương Khánh kết luận mà tôi trích ra ở trên là sai lầm.

        Thân chào.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      11. #9
        Tham gia ngày
        Sep 2011
        Bài gửi
        18
        Cảm ơn
        0
        Được cảm ơn: 0 lần
        trong 0 bài viết

        Default

        Cái gì gọi dụng thần, cái gì gọi là cách cục, cái gì là vượng suy?!
        Ha ha, còn lâu các "sư phụ" mới khai ngộ được!
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      12. #10
        Tham gia ngày
        Nov 2011
        Bài gửi
        67
        Cảm ơn
        10
        Được cảm ơn: 39 lần
        trong 23 bài viết

        Default

        Trích Nguyên văn bởi tungnguyen Xem bài gởi
        Cái gì gọi dụng thần, cái gì gọi là cách cục, cái gì là vượng suy?!
        Ha ha, còn lâu các "sư phụ" mới khai ngộ được!
        Ha ha, tungnguyen rất sảng khoái. Bởi vậy chúng ta phải luôn không ngừng học tập đấy. Biển học vô bờ ...
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      13. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "MJKN" về bài viết có ích này:

        hanmactu (04-02-12)

      Trang 1/3 123 cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 3
        Bài mới: 27-01-13, 22:05
      2. Trả lời: 1
        Bài mới: 29-01-11, 00:57

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •