Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    kết quả từ 1 tới 9 trên 9
      1. #1
        Tham gia ngày
        Aug 2011
        Bài gửi
        195
        Cảm ơn
        12
        Được cảm ơn: 56 lần
        trong 43 bài viết

        Default Thôi Bi Đồ (Lưu Bá Ôn)

        Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (I)

        Tác giả: Sử Giám

        Lời nói đầu:

        Nhân loại đến từ đâu và rồi sẽ đi về đâu? Có lẽ dựa vào truyền thuyết và thần thoại của các quốc gia trên thế giới, các cố sự tôn giáo, cũng như lịch sử ghi lại, chúng ta có thể tìm lại được những ký ức bị thất lạc ấy. Thần thoại và truyền thuyết các nước trên thế giới đều có đề cập đến trận đại hồng thủy một cách trùng hợp, khiến người ta vô cùng kinh ngạc. Ví như thổ dân Châu Mỹ có hơn 130 thần thoại về đại hồng thủy. Thần thoại Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Nhật Bản, Australia, Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập, v.v. cũng đều lưu lại những ký ức về trận đại hồng thủy khủng khiếp ấy. Ở một vùng dưới chân núi Himalaya tại Tây Tạng, người ta đã phát hiện được một bộ lạc; họ là nhân chủng rất giống với người Hy Lạp cổ, do vậy người ta cho rằng họ là những người may mắn còn sót lại sau trận đại hồng thủy.

        Năm 1986, thông tấn xã nhà nước của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố đã phát hiện được một vật thể có dạng con thuyền Noah trên đỉnh núi Ararat ở độ cao 5.200 mét, và từ ảnh chụp trên không trung, người ta thấy đầu con thuyền tròn như củ hành, và chiều dài con thuyền trùng khớp với điều được mô tả trong «Thánh Kinh». Như vậy tại sao nhân loại lại gặp phải đợt tai nạn ấy? Truyền thuyết các nước đều có giải thích thống nhất về vấn đề này, đó chính là vì sự sa đọa của nhân loại; các nhà khảo cổ học Châu Âu cũng đã khai quật được những di tích thời Hy Lạp cổ cho thấy sự sa đọa của nhân loại vào thời ấy. Các vị Thần đã quyết định trừng phạt nhân loại, và thế là sau đó một trận đại hồng thủy nhấn chìm cả địa cầu,…

        Hàng ngàn năm đã trôi qua, các sinh mệnh trong vòng luân hồi chuyển thế đều đã quên mất những ký ức xa xưa ấy. Đối với tương lai, họ cũng thấy mù mờ như vậy. Trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện nhiều lời tiên tri, và tại các quốc gia cũng lưu lại những đại dự ngôn khác nhau. Ví dụ tác phẩm nổi tiếng «Các Thế Kỷ» của Nostradamus dự đoán chính xác về rất nhiều sự kiện lớn trong lịch sử, chẳng hạn hai trận đại chiến thế giới, chiến tranh vùng Vịnh, Liên Xô giải thể, v.v. Bài thơ «Mai Hoa Thi» thời Bắc Tống tiên tri rất chính xác về sự hoán chuyển của các triều đại Trung Quốc cũng như sự xuất hiện của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Có dự ngôn tiên tri rằng hiện tại là thời kỳ người và Thần cùng tồn tại, lại cũng có dự ngôn tiên đoán về đại kiếp nạn của nhân loại, rằng năm 1999 tại Trung Quốc sẽ có một sự kiện nào đó phát sinh, tuy nhiên “ngày tận thế” năm 1999 đã không còn tồn tại nữa,…

        Những thần thoại và dự ngôn này có thể khiến chúng ta có một vài suy ngẫm.

        Lời cảnh tỉnh trong lịch sử

        Chúng ta đều đã biết cách ghi năm theo Công nguyên bắt đầu từ đâu, ấy là để tưởng niệm năm đầu tiên Chúa Jesus bị đóng đinh trên Thập tự giá, đó là năm đầu tiên sau Công nguyên.

        Khi Chúa Jesus bị những người Do Thái phản bội, người La Mã đã đóng đinh Ngài lên Thập tự giá, khi ấy có người qua đường nhìn thấy cười rằng: “Ông nói ông là con của Thượng Đế, mà lại bị đóng lên cây Thập tự rồi hạ xuống à!” “Ông đi cứu độ người khác, chứ không cứu nổi chính ông, hãy để Thượng Đế cứu ông đi, bởi vì ông nói ông là con của Thượng Đế mà.” Lúc ấy, Chúa Jesus cực kỳ đau đớn trên Thập tự giá. Khi Ngài la lên một tiếng, tất cả các bức màn trong đền thờ đều đồng loạt hạ xuống, Trái đất chao đảo, khi ấy những người chứng kiến trợn tròn mắt kinh ngạc: “A! Ông đúng là con của Thượng Đế!!“… Ba ngày sau Chúa Jesus phục sinh. Đây chính là nguồn gốc “lễ Phục Sinh” ở Tây phương.

        Về sau Đế quốc La Mã hùng mạnh nhất thế giới đã bị bệnh dịch hạch bao trùm (“cái chết đen”), người dân chết một lượng lớn, xác chết chồng chất trên phố. Trải qua ba đợt dịch bệnh, chẳng còn mấy người sống sót, Đế quốc La Mã cuối cùng tiến đến bờ diệt vong. Người Do Thái từ đó cũng mất quê hương, bị các nước trên thế giới xua đuổi, lưu lạc khắp nơi. Trong chiến tranh thế giới thứ II, người Do Thái bị thảm sát thê thảm, chỉ còn một số ít người sống sót, an thân nơi hoang mạc, lại vẫn khói lửa chiến tranh liên miên. Con người ngày nay đã không còn tin vào Thần nữa, không còn tin rằng “Thiện ác hữu báo” nữa, không có cách nào lý giải tại sao vùng Trung Đông lại rối loạn không ngừng, chiến họa liên miên như vậy. Bởi vì họ đã đem vị Giác Giả cứu độ họ đóng đinh lên Thập tự giá, tạo nên tội nghiệp tày trời, mắc một món nợ khổng lồ vĩnh viễn không bồi hoàn được.

        Vào lúc Chúa Jesus mang theo Thập tự giá, lảo đảo trên đường đến pháp trường, Ngài nhìn thấy trên đường có một người phụ nữ đang khóc vì Ngài, Ngài đã nói một cách từ bi và sâu sắc: “Cô ơi, xin cô hãy khóc cho các con các cháu của cô đi.” Với tư duy của con người thì không thể lý giải được câu nói xuyên thấu thời không của một Giác Giả vĩ đại, mãi cho tới ngày nay chẳng phải câu nói này vẫn ứng nghiệm hay sao?

        * * *

        Thần chính là sinh mệnh cao tầng thực sự tồn tại, hết thảy sự việc của con người đều nằm trong sự an bài của chư Thần. Lúc còn sống, thuyết vô thần của Mao Trạch Đông đã bị những người tu luyện thách thức: “Một đời của ông với 8341 là có quan hệ“. Mao không biết được vì sao, nên đã gọi bộ đội cảnh vệ của mình là “Bộ đội 8341”. Lúc lâm chung thì mới minh bạch, ấy là vì Mao thọ mệnh 83 tuổi, tại vị 41 năm (từ Đại hội Tuân Nghĩa năm 1935, Mao nắm quyền lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ, cho tới năm 1976 tạ thế)! Con người không thể thoát khỏi định số của Thần.

        Từ các chủng dự ngôn có thể thấy rằng, hiện tại vũ trụ đang trong giai đoạn giao thời giữa cũ và mới. Phật Thích Ca Mâu Ni giảng về thời kỳ mạt pháp, mạt kiếp, chính là hôm nay. Mạt kiếp là kiếp tối hậu, mạt pháp là những phương pháp tu luyện trước đây không còn cứu được con người bại hoại ngày nay nữa. Vì thế vị Chủ của vũ trụ mới phải hạ thế, tự mình truyền Đại Pháp căn bản của vũ trụ, Pháp chính càn khôn, đồng thời cũng cứu độ hết thảy sinh mệnh bại hoại, bao gồm thế nhân.

        Di Lặc hạ thế tại đâu?

        Quốc sư triều Minh Lưu Bá Ôn tại quyển 2 «Thôi Bi Đồ» đã tiên tri:

        Đại Giác Giả “thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đáo trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính.“

        (Trung Quốc hình như Kim Kê {con gà vàng}, “Kim Kê mục” là vị trí tỉnh Cát Lâm. Chỉ Giác Giả chuyển sinh nhân thế tại Cát Lâm, thuộc Thỏ, Mộc Tử tính, tức họ Lý. Trong tiếng Hán, “Mộc Tử” (木子) chính là chữ “Lý” (李)).

        Ngoài ra, Lưu Bá Ôn và Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã có một đoạn đối thoại liên quan tới lịch sử ngày nay, trình bày càng rõ ràng minh bạch xuất chúng hơn nữa:

        “Hoàng Đế hỏi: Cuối cùng ai sẽ truyền Đạo?

        Bá Ôn đáp: Có thơ làm chứng rằng:

        Không tướng tăng cũng chẳng tướng đạo
        Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng
        Chân Phật không ở trong tự viện
        Ngài là Di Lặc nguyên đầu giáo.”

        Giải: Vào cuối thời mạt pháp, người truyền chính Pháp sẽ không phải là hòa thượng trong chùa chiền, cũng không phải là đạo sĩ trong đạo quán. “Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng” ý nói người truyền chính Pháp để tóc ngắn kiểu nam tử ngày nay (đàn ông thời xưa để tóc dài), minh xác chỉ rõ: Chân Phật truyền chính Pháp không phải là người trong Phật giáo.

        “Hoàng Đế hỏi: Di Lặc hạ phàm tại nơi đâu?

        Bá Ôn đáp: Nghe thần nói đây: Lúc Giáo chủ tương lai hạ phàm, không ở tại Tể phủ giống quan viên, không ở tại Hoàng cung làm Thái Tử, cũng không xuất thân nơi miếu lý hoặc đạo quán, mà giáng sinh tại căn nhà cỏ của bách tính hàn vi, rải vàng khắp Yên Nam Triệu Bắc.”

        Giải: Vị Chủ của vũ trụ truyền chính Pháp trong tương lai sẽ không sinh ra tại gia đình quan chức Chính phủ, không thuộc gia đình quyền quý, cũng không xuất thân tại chùa chiền hay đạo quán, mà sẽ giáng sinh trong gia đình người dân nghèo.

        “Yên Nam Triệu Bắc” là chỉ vùng đất nước Yên, nước Triệu thời Chiến Quốc, tức vị trí Bắc Kinh ngày nay. “Rải vàng” là ẩn dụ Phật Pháp quý giá như vàng, truyền khắp bốn phương.

        Ghi chú: Năm 1992, Đại sư Lý Hồng Chí bắt đầu hồng truyền Đại Pháp tại Bắc Kinh —tại Hội Sức khỏe Đông phương, mượn hình thức khí công để khiến người ta liễu giải được Pháp Luân Đại Pháp.

        “Hoàng Đế hỏi: Khanh nói gì về Đạo thời đó?

        Bá Ôn đáp: Lúc sắp kết thúc, vạn Tổ hạ giới, nghìn Phật lâm phàm, phổ thiên Tinh Đẩu, La Hán quần Chân, mãn thiên Bồ Tát, khó thoát kiếp này, duy có mạt lai Phật hạ thế truyền Đạo, thiên thượng thiên hạ chư Phật chư Tổ, nếu không gặp con đường Kim Tuyến, khó tránh kiếp này, bị tước quả vị, sau cùng Di Lặc phong bế hết 81 kiếp.”

        Giải: Vào lúc sắp kết thúc thời kỳ mạt pháp, vô số Vương, vô số Phật, Bồ Tát, La Hán, vô số Đạo, Chân Nhân khắp Trời, họ đều khó thoát khỏi kiếp nạn này. Họ đều thấy trước sẽ xuất hiện kiếp nạn này, đã biết trước về thời kỳ này, rằng “vạn vương chi Vương” của vũ trụ —vị Phật tương lai— sẽ hạ xuống nhân gian hồng truyền Đại Pháp vũ trụ. Do đó họ đều ào ào chuyển sinh đến thế gian con người, lợi dụng thân người để đồng hóa với Đại Pháp được Đức Phật Chủ hồng truyền tại nhân gian. “Thiên thượng thiên hạ chư Phật chư Tổ”, bất kể là ai, nếu không gặp được “con đường Kim Tuyến” (con đường tu luyện Đại Pháp) được so sánh là quý như vàng này, thì đều không thể thoát khỏi trường kiếp nạn.

        Rất nhiều dự ngôn cổ đại toàn thế giới đều đề cập rằng: “Nếu như vào lúc giao thời thiên niên kỷ phát sinh một sự kiện đặc định nào đó, thì tất cả dự ngôn về đại tai nạn hủy diệt toàn cầu đến đó là kết thúc.” Như vậy, “sự kiện đặc định” ở đây là chỉ điều gì? Vì sự an nguy của nhân loại tương lai, rất nhiều người quan tâm đến sự việc này. Tiếp theo đây, chúng ta sẽ khám phá xem «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn giải thích như thế nào về vấn đề này.

        (còn tiếp)
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #2
        Tham gia ngày
        Aug 2011
        Bài gửi
        195
        Cảm ơn
        12
        Được cảm ơn: 56 lần
        trong 43 bài viết

        Default

        Phân tích một bộ phận «Thôi Bi Đồ»

        (1) Ác ma khắp nơi, tôn giáo tiêu vong

        Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ 550 năm trước đây, tổng cộng 3 quyển. Hai bộ dự ngôn này, tiên tri rất rõ ràng từ thời Thanh mạt đến hiện tại (lúc giao thời thiên niên kỷ) về những đại sự mà xã hội Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Vì độ dài bài viết có hạn, nên chúng ta chỉ tuyển chọn những phần có liên hệ mật thiết với sự kiện hiện đang phát sinh tại Trung Quốc ngày nay để giải thích:

        “Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni chưởng quản thiên hạ một vạn ba ngàn năm nay đã mãn, khoanh tay không có cách nào, nhìn trong chùa miếu không có hòa thượng tu Phật, Phật A Di Đà như thế nào? Thấy Cực Lạc ra sao? Ác ma khắp nơi, nhưng thiên đường Tây phương không có cửa, bách giáo đảo hướng diệt vong, …” (Quyển 1)

        Giải: Đạo đức nhân loại thời mạt kiếp mười phần bại hoại, con người khắp nơi đều không có thiện niệm mà chỉ hành ác, ma tính rất lớn. Ở trong chùa miếu người chân tu càng ngày càng ít, ngay cả Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không còn cách nào, chỉ có thể buông tay không quản nữa. Trăm tôn giáo (“bách giáo”) đều suy vong, đã không còn nữa.

        “Thế giới đã tận, mạt kiếp đã đến, chúng sinh chịu khổ não, vạn ma xuất động, không Tam Dương có thể điều hành, tất phải đợi Thượng Thượng Chủ Thánh tới… Ta nói rằng Thượng Thượng Chủ Thánh chính là Di Lặc Phật sẽ sớm đến, …” (Quyển 2)

        Giải: Trong nguyên văn, đây là câu thoại mà “Thiên Phật” hồi đáp “Tam Thanh Ngọc Đế”, đại ý là: thế giới đã đến tận cùng tối hậu rồi, thời mạt kiếp đã đến rồi, các chủng tà ác ào ào xuất hiện (như loạn tính, giải phóng tình dục, hút hít ma túy, xã hội đen, v.v.); với đạo đức bại hoại của nhân loại ngày nay thì các Thánh nhân ban sơ không còn cứu nổi nữa, tất phải đợi “Thượng Thượng Chủ Thánh” —tức Sáng Thế Chủ tới.

        (“Tam Dương” chỉ ba Thánh nhân là Lão Tử, sơ phàm Ngọc Đế và Khổng Tử; chi tiết về Di Lặc Phật xin tham khảo phần dưới đây).

        (2) Di Lặc hạ thế truyền “tam tự chân kinh”

        “Phật Di Lặc từ Thiên nói rằng: ‘Sau khi ta tự mình truyền tam tự tam Pháp, tất vạn pháp quy nhất, Pháp chính càn khôn,… lễ rồi thấu hư mà đi. Phàm thân Mộc Tử vi tính.“

        Giải: Đoạn trên có thể giải thích như sau:

        “Lúc Phật Di Lặc từ biệt sinh mệnh cao tầng trên thiên thượng nói rằng: ‘Sau khi ta tới nhân gian truyền ‘tam tự chân kinh’, nhất định sẽ quy nhất tất cả các pháp ở không gian tầng thấp nhất, dùng bộ Đại Pháp vũ trụ tối cao này để quy chính Thiên Địa,… Thi lễ xong xuyên qua Thần giới, hướng về nhân gian mà đi. Nhục thân của Phật Di Lặc tại nhân gian họ là Lý.”

        (“Mộc Tử” (木子) là cách viết của chữ “Lý” (李); quá trình từ không gian của Thần hướng về không gian con người mà chuyển sinh gọi là “thấu hư”.)

        “Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đáo trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính.“

        Giải: Bản đồ Trung Quốc có dạng con gà vàng (Kim Kê), “mục” là con mắt, từ địa đồ Trung Quốc mà quan sát thì thấy “Kim Kê mục” chính là vị trí tỉnh Cát Lâm. Ở đây nói Phật Di Lặc xuất sinh tại Cát Lâm, vào năm Thỏ, tức nhục thân của Phật Di Lặc tại nhân gian thuộc Thỏ, họ ở nhân gian là “Lý” (Mộc Tử).

        Trở về hiện thực xã hội ngày nay, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, Đại sư Lý Hồng Chí sinh ra tại thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, thuộc Thỏ (sinh năm Thỏ). Năm 1992, Ông Lý Hồng Chí bắt đầu truyền công pháp Phật gia —Pháp Luân Công, hay còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp— giảng “Chân, Thiện, Nhẫn”, tức “tam tự chân kinh”. Chỉ trong mấy năm ngắn ngủi mà số người học người luyện lên tới hàng chục triệu người.

        Ghi chú: Ở đây chúng ta đặc biệt chỉ rõ rằng Đại sư Lý Hồng Chí khi giảng Pháp không hề nói tự bản thân là Phật Di Lặc hoặc vị Phật nào đó chuyển thế, do vậy không thể coi lời Phật Di Lặc trong dự ngôn là lời Đại sư Lý Hồng Chí. Tuy nhiên chúng ta tôn trọng nguyên văn dự ngôn, khi tiếp tục giải thích thì vẫn bảo lưu cách xưng hô được dùng trong nguyên văn.

        “Lúc ấy Di Lặc Phật nói: ‘Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử, tín nữ tử, ta truyền tam tự tam Pháp, chính là Phật tam bảo, còn có trường sinh lưỡng ngọc…’“

        Giải: “Phật tam bảo” chính là “tam tự chân kinh” (“Chân, Thiện, Nhẫn”) như đã nói ở trên. “Lưỡng ngọc” là chỉ người tu luyện Pháp Luân Công, mỗi ngày luyện tập 5 bộ công pháp động công và tĩnh công, có thể khiến thân thể dần dần được vật chất cao năng lượng thay thế, cuối cùng trở nên thuần tịnh tựa như ngọc —tới đây người luyện công đã không còn bệnh nữa, do đó cũng không cần dùng thuốc, đạt được mục đích kéo dài thọ mệnh, trường sinh bất lão.

        (3) Thiện-ác phân minh

        “Mà Di Lặc Phật Pháp tử, người người góp đức tích ngọc, đường đường chính chính, cùng tu Di Lặc Phật truyền tam tự, nhân kiến bất nhất, tín giả thiểu, mạ giả đa, thiện ác lưỡng phân thanh.” (Quyển 1)

        Giải: Đệ tử của Phật Di Lặc (đệ tử Đại Pháp), ai ai cũng đều thủ đức thực tu, đường đường chính chính cùng tu luyện ‘tam tự chân kinh’ (“Chân, Thiện, Nhẫn”) mà Phật Di Lặc truyền; còn thế nhân đối với họ có cách nhìn không giống nhau, người kiên định tín ngưỡng Đại Pháp thì ít, kẻ trách mắng Đại Pháp thì nhiều, Thiện-ác do vậy thật phân minh.

        “Lúc ấy Nam Hạp Phù Đề trung thiên Trung Quốc mới có thiện nam tín nữ lễ bái tam tự Phật bảo, chân tâm kính ngưỡng tín tâm bất thoái, thành tâm thực tiễn giả chuyển phàm thành Thánh, chúng sinh bất tín.” (Quyển 2)

        Giải: Đến thời điểm này, tại Trung Quốc có thiện nam tín nữ lễ bái ‘tam tự chân kinh’ (“Chân, Thiện, Nhẫn”), thực tâm kính ngưỡng, tín tâm không giảm, người thành tâm tu luyện một cách thực tiễn có thể từ phàm nhân (người thường) tu thành Thánh nhân (tức Phật, Đạo, Thần,… sinh mệnh cao cấp); người thường ở thế gian do thụ nhận ảnh hưởng của thuyết vô thần trong hàng thập niên nên không tin.

        (4) Thanh ảnh tề mạ, chúng sinh bất tỉnh

        «Thôi Bi Đồ» đã đề cập kỹ càng tỉ mỉ về tình huống Pháp Luân Đại Pháp bị phỉ báng và bức hại tại Trung Quốc như sau:

        “Đến năm người người đều biết tam tự, không cho là đúng, thanh ảnh tề mạ, Thần khóc quỷ khóc, chúng sinh không hiểu làm sao, một kéo, hai kéo, ba kéo, chúng sinh bất tỉnh.” (Quyển 2)

        Giải: Vào những năm Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền, ai ai cũng biết ba chữ “Chân, Thiện, Nhẫn”, lại có kẻ dựa vào truyền thanh truyền hình mà nhất tề phỉ báng, nhục mạ; sinh mệnh cao tầng thấy thế nhân bị ác nhân đương quyền lừa dối, che giấu, do vô tri mà bị kéo theo đồng loạt công kích Phật Pháp, từ đó đi vào con đường cụt của sinh mệnh, do đó vì họ mà khóc thương. Phật Chủ Di Lặc tiếp tục kéo dài thời gian đến Pháp Chính Nhân Gian, với hy vọng chúng sinh tỉnh ngộ để tránh bị đào thải, thế nhưng rất nhiều chúng sinh vẫn bất tỉnh!

        (“thanh” là chỉ thứ phát ra âm thanh, tức truyền thanh; “ảnh” là chỉ thứ phát ra hình ảnh, tức truyền hình.)

        Ghi chú: Vào những năm đầu trấn áp Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân lợi dụng báo chí, truyền thanh, truyền hình để tạo nên vô số lừa dối, ác độc công kích Đại Pháp, lại còn cố ý dàn dựng ra “vụ tự thiêu trên Quảng trường Thiên An Môn” để đầu độc vô vàn bách tính, khiến họ vì không biết mà thù hận Đại Pháp và đệ tử Đại Pháp. Họ không ngờ rằng loại “thanh ảnh tề mạ” này lại khiến họ phải nhận hậu quả nghiêm trọng.

        “Chúng sinh vẫn cứ bất tín, chửi mắng, phỉ báng, hoành Thiên tảo Địa, người tin phải chịu nỗi khổ bị lưu đày giam ngục.” (Quyển 3)

        Giải: Trong những năm Pháp Luân Đại Pháp bị bức hại, đệ tử Đại Pháp bị bắt giữ, kết án, thậm chí bị giết hại; tuy nhiên, chúng sinh bách tính vẫn không tin rằng Phật Pháp mà Phật Di Lặc truyền là thật, vẫn cứ phỉ báng nhục mạ Phật Pháp. Do đó, đệ tử Đại Pháp nói với thế nhân chân tướng bức hại là để giúp những người bị lừa dối và đầu độc thoát khỏi kết cục bị hủy diệt vĩnh viễn vì phỉ báng Phật Pháp.

        Còn có rất nhiều điều đáng nói, tuy nhiên vì giới hạn về độ dài phần này, người viết xin được phép dừng bút tại đây. Qua phân tích dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn, chúng ta thấy rằng sự kiện trọng đại ngày hôm nay đã được an bài từ rất lâu rồi, và rằng không có việc gì xảy ra là ngẫu nhiên. Hy vọng những người hữu duyên đọc được bài viết này sẽ lý trí phân biệt rõ thị phi và lựa chọn cho mình một tương lai tươi sáng.

        (còn tiếp)
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "Boxer" về bài viết có ích này:

        phiphươnghô (28-05-12)

      4. #3
        Tham gia ngày
        Jul 2010
        Bài gửi
        272
        Cảm ơn
        116
        Được cảm ơn: 65 lần
        trong 57 bài viết

        Default

        lưu bá ôn quả là kỳ tài,1 vị thánh,nhớ lại mùa hè năm 2008 pph tôi chẳng biết thế nào là thế giới bốc dịch,nhưng sau khi xem bộ phim kỳ tài lưu bá ôn,với sự ngưỡng mộ nhân vật này mà đưa đẩy pph đi lục kiếm khắp các nhà sách sưu tầm các quyển sách nói về dịch,thế là từ đó nghiên cứu bốc dich tới nay.
        thiên thời-địa lợi-nhân hòa

      5. #4
        Tham gia ngày
        Aug 2011
        Bài gửi
        195
        Cảm ơn
        12
        Được cảm ơn: 56 lần
        trong 43 bài viết

        Default

        Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (II)

        Tác giả: Sử Giám

        Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ 550 năm trước đây, tổng cộng 3 quyển. Hai bộ dự ngôn này, tiên tri rất rõ ràng từ thời Thanh mạt đến hiện tại (lúc giao thời thiên niên kỷ) về những đại sự mà xã hội Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Vì độ dài bài viết có hạn, nên chúng ta chỉ tuyển chọn những phần có liên hệ mật thiết với sự kiện hiện đang phát sinh tại Trung Quốc ngày nay để giải thích.

        Tiếp theo Phần I: Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay

        * * *

        Rơi vào cửa tử, vạn kiếp khó phục

        “Đến năm ấy tất có can qua tứ khởi, đau xót bi thương, phản loạn thế giới; tu Thiện lương dân, chớ có phiền muộn.” (Quyển 2)

        Giải: Phật Di Lặc nói: Vào mấy năm này (bức hại Pháp Luân Công), thế giới nhất định sẽ có chiến tranh, tấn công khủng bố, ôn dịch, động đất khắp nơi, các chủng sự tình bất hảo sẽ đua nhau xuất hiện. Điều này ắt có ảnh hưởng đến sự ổn định của thế giới; người tốt tu Thiện nghìn vạn lần không được sợ hãi, những điều này đối với các vị là vô quan.

        Tại đây, «Thôi Bi Đồ» đã đề cập đến bộ phận thế nhân không tin Đại Pháp, lại bị kẻ ác đương quyền lừa dối, hủy báng Phật Pháp, bức hại đệ tử của Phật Di Lặc—tức đệ tử Đại Pháp, từ đó đi vào con đường tuyệt lộ của sinh mệnh.

        Ghi chú: Ở đây chúng ta đặc biệt chỉ rõ rằng Đại sư Lý Hồng Chí khi giảng Pháp không hề nói tự bản thân là Phật Di Lặc hoặc vị Phật nào đó chuyển thế, do vậy không thể coi lời Phật Di Lặc trong dự ngôn là lời Đại sư Lý Hồng Chí. Tuy nhiên chúng ta tôn trọng nguyên văn dự ngôn, khi tiếp tục giải thích thì vẫn bảo lưu cách xưng hô được dùng trong nguyên văn.

        Dự ngôn không ngừng cảnh báo:

        “Tự chúng sinh không hành thiện, hủy báng tam bảo, thường sinh tâm tật đố, đến năm ấy tất có nỗi khổ hạ địa ngục, cầu không được nơi an lạc. …” (Quyển 2)

        Giải: Rất nhiều người không làm việc tốt, mà lại chửi rủa, phỉ báng Chân-Thiện-Nhẫn, tức “tam tự chân kinh”, thường nảy sinh tâm ganh tỵ không chịu phục, đến mấy năm đào thải tối hậu con người (tức Pháp Chính Nhân Gian tới), khẳng định sẽ gặp phải ác báo, sinh mệnh tìm không được nơi chốn an lạc.

        “Nghe tam bảo tất sinh kẻ phỉ báng, nhân thân bất đắc, vạn kiếp khó phục nhân đạo,” (Quyển 2)

        Giải: Với những người nghe tam tự Phật Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn” mà lại ác ý phỉ báng, thì trong luân hồi không thể đắc được thân người nữa, vĩnh viễn mất đi cơ hội làm người.

        “Như chúng nhân không tin lời ta, rơi vào cửa tử, thây chất như núi, vạn kiếp khó phục nhân đạo’. Nhưng chúng sinh bất tín.” (Quyển 3)

        Giải: Nếu như chúng sinh không tin lời Phật Di Lặc, thì cuối cùng rơi vào đường cùng, xác người chất như núi, trong luân hồi vĩnh viễn khó lại có được cơ hội làm người. Vậy mà bách tính vẫn không tin lời Phật Di Lặc.

        Đại ôn dịch hạ giới

        “Thiện ác có người tụng chân kinh, biết đường hối cải, gọi là quay đầu; người biết chân tướng, gọi là tới bờ“. (Quyển 1)

        Giải: Cho dù là người tốt hay người xấu, có người đọc qua bộ chân kinh của Phật Di Lặc thì biết hối cải, không còn công kích bộ Phật Pháp này nữa, gọi là “quay đầu”; người biết chân tướng đệ tử Đại Pháp bị bức hại, lý giải và ủng hộ Đại Pháp, gọi là “tới bờ”.

        Trong «Thôi Bi Đồ» cũng dự ngôn người Trung Quốc không tin, mà phỉ báng Đại Pháp, dẫn tới ôn dịch không ngừng, cuối cùng chịu khí hậu kỳ dị bất thường.

        “Không đến tháng Tám năm ấy, ôn thần giáng xuống, người trên mặt đất mười phần chết chín, kẻ ác thập đạo không còn sót ai. Nhưng chúng sinh lại càng bất tín.” (Quyển 3)

        Giải: Không đến tháng Tám một năm nào đó, lại có ôn dịch hoành hành, người trên mặt đất mười phần chết chín, những người xấu các ngành các nghề đều không còn sót lại. Thế nhưng người dân lại càng không tin.

        (Vào triều Minh, người ta gọi mỗi ngành nghề là một “đạo”; “thập đạo” chỉ các ngành các nghề.)

        Ghi chú: Trận đại ôn dịch này là nhắm vào những ai phỉ báng và bức hại Phật Pháp, là đợt đại thanh trừ những kẻ hành ác chấp mê bất ngộ. Tuy nhiên con số “mười phần chết chín” này là an bài cũ, nhờ sự thức tỉnh của thế nhân mà có thể được thay đổi.

        Trong một vạn người chết chín nghìn

        “Có người bất tín, không tụng kinh Phật Di Lặc, không thuốc trị được, thổ huyết mà chết. Biết được kinh này bảo mệnh, người thực tiễn chân tâm tụng đọc, theo Phật gia an nhiên mừng rỡ vô cùng, chuyển phàm thành Thánh, người không tin không ai còn sống. Thân Đại nhân hỏi có thể thay đổi chăng? Thiên Sư đáp rằng: Duy tam tự có thể giải…”

        Giải: Đối diện trường đại kiếp nạn này, những người không tin Đại Pháp, thì sẽ “không thuốc trị được, thổ huyết mà chết”. Những người chân chính tu luyện Đại Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn”, thì không chỉ bình an vô sự, mà còn từ phàm nhân chuyển thành Thánh nhân; còn người phản đối thì không ai sống sót. Thân Đại nhân hỏi: Liệu có biện pháp nào thay đổi tình huống này không? Thiên Sư đáp lại rằng: Chỉ có ba chữ (tức “Chân-Thiện-Nhẫn”) mới có thể giải cứu…

        “Thiên hạ có mười sầu lớn: Nhất sầu tật bệnh vô trị; nhị sầu hạn hán thủy tai, tam sầu ngày đêm bất an; tứ sầu phụ tử bất đoàn viên; ngũ sầu phu thê không gặp mặt; lục sầu xác người chết khắp nơi; thất sầu thây cốt không người liệm; bát sầu áo không người mặc; cửu sầu cơm không người ăn; thập sầu nhà không người ở.” (Quyển 1)

        Đây là miêu tả tình huống sau khi đại ôn dịch phát sinh, nói rất minh bạch, không cần giải thích thêm nữa.

        Trong «Thôi Bi Đồ» đề cập đến một lượng lớn người bị chết, nhưng vẫn có người thoát khỏi kiếp nạn này.

        “Người minh bạch điềm nhiên vô sự, người hồ đồ khó qua năm thái bình, người đi đường chết vô số, trong một vạn chết chín nghìn, không tin quyển kinh này, thập kiếp tại nhãn tiền.” (Quyển 1)

        Giải: Người minh bạch chân tướng bức hại, không làm điều xấu, thì trong đại tai nạn vẫn bình an vô sự mà vượt qua; người hồ đồ không biết chân tướng, lại phỉ báng Phật Di Lặc và tham dự bức hại, thì không qua nổi năm thái bình, trốn không được trận ôn dịch này; người đi trên đường chết vô số kể, trong một vạn người chết chín nghìn người; người không tin bộ chân kinh này, mười loại kiếp nạn ở ngay trước mắt.

        “Người thập phương chết tám chín, còn lại một là hiền lương quân tử, chính là người hành thiện.” (Quyển 2)

        Giải: Người các nơi chết tới 80-90% (an bài cũ), chỉ còn lại một bộ phận người, đều là người lương thiện trong sáng và tu đức hành thiện.

        (“Thập phương”, là học thuyết về “thế giới mười phương” mà Phật gia khái quát đối với vũ trụ, ở đây có thể lý giải là “người các nơi”.)

        Gà vàng gáy, trời sáng thiên môn khai

        Trong quyển 3 «Thôi Bi Đồ» còn minh xác đề cập đến tình huống Phật Di Lặc hồng truyền Đại Pháp tại các nơi trên thế giới và Pháp Chính Nhân Gian.

        “Lúc ấy Di Lặc Phật, tại thập phương bách quốc,… đi khắp tứ hải ngũ châu, cứu độ chúng sinh. Toàn bằng Phật bảo thu thập người tàn duyên.”

        Giải: Lúc này Phật Di Lặc tại các nơi trên thế giới,… đi lại giữa bốn biển năm châu, cứu độ nhân dân các quốc gia này. Toàn bằng tam tự Phật Pháp, thu thập những người còn có duyên phận ở các nước.

        Ban biên tập ghi chú: Từ tháng 5/1992 đến cuối năm 1994, Pháp Luân Đại Pháp được truyền xuất. Tại Trung Quốc, Đại sư Lý Hồng Chí đáp ứng lời mời của các ban ngành chính phủ và Hiệp hội Khí công các nơi, không ngừng bôn ba khắp Đông Tây Nam Bắc, truyền Pháp truyền công, chỉ trong thời gian hơn 2 năm ngắn ngủi đã tổ chức 54 lớp học Pháp Luân Công trên cả nước. Kể từ năm 1995, Lý Đại sư bắt đầu lịch trình truyền Pháp tại các nước hải ngoại; tính tới nay, Pháp Luân Đại Pháp đã hồng truyền tại hơn 114 quốc gia và khu vực. Đây chính là điều dự ngôn nói là “đi khắp tứ hải ngũ châu, cứu độ chúng sinh.”

        “Khi ấy Di Lặc Phật, Pháp chính càn khôn, lực trảm quần ma, trừ ác đến trung thiên.”

        Giải: Phật Di Lặc dùng tam tự chân Pháp để quy chính Trời Đất vũ trụ, triệt để tiêu hủy hết thảy tà ác lạn quỷ, trừ ác tiến nhập tới Trung Quốc, trừ sạch tất cả những tà ác cuối cùng.

        (“Quần ma” chỉ những sinh mệnh tà ác phỉ báng tam tự chân kinh, bức hại đệ tử Phật Di Lặc và ngăn cản bách tính liễu giải được chân tướng Đại Pháp; “trung thiên” chỉ Trung Quốc.)

        “Tức thì Pháp tử, kim cương bất động, kiên thủ Phật Pháp, chỉ đợi Kim Kê khiếu, trời sáng thiên môn khai,… Kim Kê tỉnh lại gáy là trời hửng sáng, toàn bộ Trung Hoa Đại Địa Kim Kê đứng thẳng, tứ hương quy về Thần Châu Lục xuất Chân Thần.”

        Giải: Ngay lập tức đệ tử của Phật Di Lặc, kim cương bất động duy hộ Phật Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn”, không ngừng giảng rõ chân tướng cho thế nhân trong mê, cũng là đang cứu độ chúng sinh, chỉ đợi gà vàng Trung Hoa Đại Địa gáy sớm, khi ấy bình minh xua tan tối tăm, nghênh đón thời khắc Pháp Chính Nhân Gian; đệ tử Đại Pháp các nơi tụ hội, Đại Lục Thần Châu xuất hiện những sinh mệnh cao cấp tu luyện viên mãn—trở thành Thần.

        Mười phương trăm nước Pháp Luân huy

        “Thập phương bách quốc Pháp Luân huy, khắp trời mừng vui, thời hạn mãn. Pháp tử quy thập phương thiên quốc, người quay đầu làm người trên đất, người tới bờ, cùng lên chùa mười vạn tám ngàn, khi ấy Di Lặc Phật ở giữa cười vui vẻ.”

        Giải: Toàn thế giới đều nhìn thấy ánh quang huy của Pháp Luân, khắp trời trên dưới cùng đón mừng. Đệ tử tu luyện viên mãn của Phật Di Lặc, quay trở về thế giới của từng người; người biết chân tướng bức hại đã quay đầu hối cải (“người quay đầu”), sau khi kiếp nạn qua đi trở thành nhân loại mới trên Địa cầu tương lai, có phúc phận lớn tương đương; người biết chân tướng bức hại, lại từng bảo hộ đệ tử Phật Di Lặc (“người tới bờ”), sẽ có cơ hội tu luyện chân Pháp, cũng trở thành sinh mệnh cao cấp. Khi ấy Phật Chủ Di Lặc nhìn chúng sinh của vũ trụ mới sau khi Pháp Chính Càn Khôn, sinh cơ bừng bừng, vui vẻ mỉm cười.

        [IMG]http://chanhkien.org/wp-content/uploads/2012/01/KimKeTrungQuoc.jpg[/IMG]
        Bản đồ Trung Quốc như con Gà Vàng (Kim Kê), với mắt gà nằm tại thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #5
        Tham gia ngày
        Aug 2011
        Bài gửi
        195
        Cảm ơn
        12
        Được cảm ơn: 56 lần
        trong 43 bài viết

        Default Hoa Ưu Đàm Bà La

        Tham khảo thêm thông tin liên quan đến các tiên tri (Mã Tiền Khóa, Thôi Bối Đồ, Thôi Bi Đồ, Các Thế Kỷ (Nostradamus))

        Hoa Ưu Đàm nở ở Phú Yên
        04/06/2012 20:37
        (TNO) Hôm qua, 3.6 (nhằm ngày 14.3 Nhâm Thìn), ông bà Đinh Gò, Bùi Thị Tự trú ở thôn Diêm Điền, xã An Ninh Tây, huyện Tuy An (Phú Yên) phát hiện trên cửa kính, trên thanh nhôm cửa, trên song sắt… nhà mình có một loài hoa lạ mọc thành từng khóm (ảnh), có chỗ 5 bông, có chỗ 8 bông… tổng cộng là 35 bông.

        Hoa nhỏ li ti, màu trắng thanh khiết, mọc trên thân cây rất mảnh… Tin tức lan truyền khiến các vị sư gần đó đến tận nhà xem và khẳng định đó là hoa Ưu Đàm - được cho là loài hoa thần tiên mang lại nhiều may mắn.

        Vào Google, các trang báo mạng trong nước cũng như nước ngoài dẫn nguồn khác nhau nhưng đều chung nội dung cho biết: Theo kinh Phật, có một loài hoa gọi là hoa Ưu Đàm Bà La (Udumbara, gọi tắt là hoa Ưu Đàm), 3.000 năm mới nở một lần. Udumbara là một từ tiếng Phạn, có nghĩa là “loài hoa linh thiêng mang điềm lành từ Trời”.

        Quyển 8 kinh “Huệ Lâm Âm Nghĩa” của nhà Phật viết: “Hoa Ưu Đàm do điềm lành linh dị sinh ra; đây là một loại hoa của Trời, trên thế gian không có. Nếu một đấng Như Lai hoặc Đức Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện nơi thế giới con người, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ đại ân và đại đức của Ngài”.
        [IMG]http://www.thanhnien.com.vn/Pictures20126/LUAN/1/hoa-1.jpg[/IMG]

        [IMG]http://www.thanhnien.com.vn/Pictures20126/LUAN/1/hoa-2.jpg[/IMG]

        Trong hai thập niên qua, nhiều người trên thế giới đã bắt gặp một loại hoa được tin là hoa Ưu Đàm Bà La. Vào tháng 7.1997, 24 đóa hoa Ưu Đàm Bà La đã được phát hiện mọc trước ngực bức tượng đồng vàng Như Lai đặt trong phòng phương trượng tại một ngôi chùa ở Hàn Quốc. Sau đó, nó xuất hiện ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Úc, Pháp và Mỹ. Loài hoa này cũng được thấy mọc trên các loại thực vật khác, kim loại, và cả tượng Phật.

        Cách đây 3 năm, tại Quảng Nam, PV Thanh Niên ghi nhận loài hoa này mọc trên một tấm sắt tại nhà của một nông dân. Hoa Ưu Đàm đã nhiều lần được phát hiện nở tại nhiều tỉnh thành, như Thái Nguyên, Nam Định, TP.HCM… Sáng ngày 3.5.2012, hoa Ưu Đàm Bà La đã được phát hiện nở trên chuông đồng tại đền Tràng Kênh, Hải Phòng và bây giờ ở tại Phú Yên.

        Như vậy, rõ ràng đây không phải là loài hoa “3.000 năm mới nở một lần” như truyền thuyết, nhưng sự xuất hiện của hoa Ưu Đàm ở nhà ông bà Đinh Gò, Bùi Thị Tự ở Phú Yên khiến những người theo Phật giáo và người dân trong vùng cho rằng nó mang lại nhiều điều tốt đẹp cho người dân.

        Tin, ảnh Nguyễn Thế Thịnh - Thế Cường

        http://www.thanhnien.com.vn/pages/20...o-phu-yen.aspx
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #6
        Tham gia ngày
        Jul 2013
        Bài gửi
        68
        Cảm ơn
        10
        Được cảm ơn: 32 lần
        trong 26 bài viết

        Default

        Bài viết của Bác hay quá, thanks you!
        Ngoài tâm không động
        Ðộng chẳng phải tâm
        Tâm chẳng phải động
        Ðộng vốn không tâm
        Tâm vốn không động
        Ðộng không lìa tâm
        Tâm chẳng lìa động
        Ðộng là dụng của tâm
        Dụng là cái tâm động
        Tụ Đức chuyển nghiệp !

      8. #7
        Tham gia ngày
        Aug 2013
        Bài gửi
        54
        Cảm ơn
        18
        Được cảm ơn: 34 lần
        trong 30 bài viết

        Default

        Nôi dung bài viết có phần thuyết phục. Pháp luân Đại pháp nên vận dụng & phổ biến. Nhưng "Con gà vàng ' lại mang màu sắc chính trị
        (bản đồ TQ gồm cả Đông nam á ..?)
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #8
        Tham gia ngày
        Apr 2012
        Bài gửi
        86
        Cảm ơn
        413
        Được cảm ơn: 42 lần
        trong 30 bài viết

        Default Bản đồ Kim Kê Mục ?

        T/g: tanvn1803 :
        Bạn nhìn lầm rồi! Cái bản đồ ấy chỉ biểu thị riêng Trung Quốc mà thôi.
        Bạn thấy cái đảo Hải Nam ở tận cùng -tượng cho như là cái bàn chân gà đó.
        Cái tam giác nhọn nhô lên dưới bụng con gà là tỉnh Hà Giang của VN đấy.
        Riêng cái bài Mục Kê thì mình không dám có ý kiến !
        Trang này không dành cho việc truyền bá các giáo phái...và sự tưởng tượng.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #9
        Tham gia ngày
        May 2009
        Bài gửi
        5,506
        Cảm ơn
        1,033
        Được cảm ơn: 18,316 lần
        trong 4,266 bài viết

        Default

        Trích Nguyên văn bởi tuhuong Xem bài gởi
        T/g: tanvn1803 :
        Bạn nhìn lầm rồi! Cái bản đồ ấy chỉ biểu thị riêng Trung Quốc mà thôi.
        Bạn thấy cái đảo Hải Nam ở tận cùng -tượng cho như là cái bàn chân gà đó.
        Cái tam giác nhọn nhô lên dưới bụng con gà là tỉnh Hà Giang của VN đấy.
        Riêng cái bài Mục Kê thì mình không dám có ý kiến !
        Trang này không dành cho việc truyền bá các giáo phái...và sự tưởng tượng.
        Nếu đảo Hải Nam là chân gà thì con gà này bị què rồi, hihi
        Gà què lên đĩa là hay nhất

        Truyền bá các giáo phái là vi phạm nội qui rồi đó !!!
        [IMG]http://anhdepblog.com/graphics/popular/images/heart-6.gif[/IMG]
        Hạnh phúc cho những ai biết được bí mật của tự nhiên

      11. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "vanhoai" về bài viết có ích này:

        tranduyquang (06-01-15),tuhuong (07-01-15)

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •