Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 3/5 đầuđầu 12345 cuốicuối
    kết quả từ 21 tới 30 trên 44
      1. #21
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Bài 25 - Điểm hạn của hình, tự hình và hại.....

        Y9 - Kiêu ấn và điểm hạn của nó

        190/ – Xem giả thiết 27/12
        (27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên.)
        192/ - Xem giả thiết 28/100 và 29/(98;99
        (28/100 – Thân nhược và khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận, Kiêu Ấn trở thành kỵ thần có 0,5đh nếu nó lớn hơn Thân ít nhất 20đv, trừ trường hợp nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm, Kiêu Ấn chỉ được thêm không quá 10đv mà nó đã lớn hơn Thân 20đv thì Kiêu Ấn trở thành kỵ thần chỉ có 0,38đh. Kiêu Ấn trở thành kỵ vượng.... giống như giả thiết 27/12.
        29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu).)

        Y11 – Điểm hạn của hình, tự hình và hại

        B - Các chi không bị xung hay bị khắc mà hình, tự hình hay hại các chi khác
        Như trên đã nói ở trên chi đại vận phải được xem là động đầu tiên, sau mới đến các chi trong tứ trụ và chi tiểu vận, cuối cùng mới đến thái tuế (chi của lưu niên) và ở đây nói về Hình thường bao hàm cả Tự hình.

        222/124 - Mỗi chi hình hay tự hình nhiều chi, mỗi loại có tổng cộng max 2 đh.
        223/108 - Mỗi chi hại nhiều chi có tổng cộng max 2 đh.
        224/4 - Chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 1đh.
        225/40 – Chi đại vận hình, tự hình hay hại các chi trong tứ trụ mỗi lực có 1đh và khi đó các chi trong tứ trụ giống chi đại vận mới có thể hình, tự hình hay hại được với các chi trong tứ trụ này, nhưng số điểm hạn của mỗi lực chỉ có 0,5đh nếu là chi gần, 0,25đh nếu cách 1 ngôi và 0,13đh nếu cách 2 ngôi (nó nghĩa là các lực hình, tự hình hay hại với chi cách 1 ngôi bị giảm ½ đh và ¾ đh nếu cách 2 ngôi).
        226/2 – Các chi trong tứ trụ hình, tự hình hay hại thái tuế mỗi lực có 1đh và khi đó các chi này mới hình, tự hình hay hại được các chi giống chi thái tuế ở trong tứ trụ có điểm hạn giống như câu trên nhưng nó không hình hay hại được với chi đại vận và tiểu vận.
        227/20 – Chi tiểu vận hình hay hại chi đại vận hay thái tuế, mỗi lực có 0,5đh nhưng nó không hình hay hại được các chi trong tứ trụ.
        228/66 - Thái tuế hình hay hại chi đại vận hay chi trong tứ trụ mỗi lực có 1đh.
        229/(15;38;109) - Thái tuế hay chi đại vận hình hay hại chi tiểu vận có 0,5đh chỉ khi lực tác động này không phải là lực thứ 3 trở nên (riêng Dần ở tuế vận hình và hại Tị tiểu vận chỉ được tính là 1 lực), riêng Thân thái tuế hay đại vận hình Dần tiểu vận có 0,5đh nếu lực này mới là lực thứ 5, ngoài ra các lực này chỉ có 0,25đh, và riêng mỗi lực hợp được tính là 0,5 lực và nếu chi tuế vận hình hay hại chi tiểu vận mới là 2,5 lực thì mỗi điểm hình hay hại này chỉ bị giảm 1/3 đh.
        230/39 - Các chi trong một tổ hợp giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận không hóa vẫn hình hay hại được với nhau và có điểm hạn như bình thường.
        231/40 – Chi bị hại không hình và hại được các chi khác.
        232/40 – Chi bị hình không hình được chi khác (trừ Thái tuế) nhưng chúng vẫn hại được các chi khác và có điểm hạn như bình thường.
        233/40 – Chi bị tự hình vẫn hình, tự hình hay hại các chi khác có điểm hạn như bình thường.

        B – Các chi bị xung hay bị khắc mà hình hay hại các chi khác

        Chú ý : Ở đây, các lực xung hay khắc các chi này phải có điểm hạn.

        234/ - Lực hình, tự hình hay hại của các chi bị xung hay bị khắc với các chi khác bị giảm tỉ lệ thuận theo lực xung hay khắc chúng, các lực này chỉ xét về ngũ hành và nếu chúng ta quy ước các lực xung hay khắc này là 1 (nghĩa là các lực này không liên quan tới điểm vượng của các chi của chúng) thì các lực này bị giảm giống như giả thiết 95/ nhưng chúng không có điểm vượng.
        235/ - Mỗi lực xung hay khắc với mỗi chi của giả thiết 95/ còn bị giảm thêm giống như giả thiết 96/ nhưng không có điểm vượng.
        236/(54;159) - Nếu 1 chi xung gần với 1 chi thì lực này bị giảm ¼ với các chi Thổ (vd 54) và ½ với các chi không phải Thổ (ví dụ 159), các lực này bị giảm thêm ...nếu nó xung 1 chi cách 1 hay 2 ngôi như các giả thiết 234/ và 235/.
        237/(30;106) - Nếu 1 chi xung với 2 chi thì mỗi lực xung này bị giảm ½ khi nó xung với các chi là Thổ (ví dụ 106) và 2/3 với các chi không phải là Thổ (ví dụ 30; 66), nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/.
        237a/106 - Nếu lực hình hay tự hình của một chi với một chi bị giảm x% đh thì lực hình của chi bị hình này với các chi khác bị giảm (100-x)% đh,
        238/(43;113) - Nếu 1 chi xung với 3 chi thì mỗi lực xung này bị giảm 7/8 khi nó xung gần với các chi là Thổ (ví dụ 43) và 15/16 với các chi không phải là Thổ (ví dụ 30; 66), nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/.
        238a/104 - Nếu 1 chi xung với 4 chi thì mỗi lực xung này bị giảm 15/16 khi nó xung gần với các chi là Thổ và 31/32 đv với các chi không phải là Thổ, nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/.
        239/(50;68) - Nếu từ 2 chi trở lên chỉ xung với 1 chi thì chi bị xung này không hình hay hại được các chi khác chỉ khi chúng xung gần với nhau (riêng chi Tý cũng được coi là bị xung bởi Thìn nếu nó bị xung bởi TKĐX* có điểm hạn - ví dụ 68), các lực này bị giảm thêm... như câu 234/30 và 235/30.
        240/(115;131) - Nếu 1 chi khắc với 1; 2; 3; 4 chi thì các chi bị khắc gần không hình hay hại được các chi khác, nhưng lực hình hay hại của chi bị khắc cách 1 ngôi với các chi khác bị giảm ...?, và cách 2 ngôi.... bị giảm....?
        Nếu 1 chi khắc ít nhất 5 chi thì....(?).
        Hy vọng bạn đọc giúp tôi trả lời các câu hỏi này.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      3. #22
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Y12 - Điểm hạn của Tứ hình

        241/ Tứ hình là phải có đủ 4 chi của tự hình là Thìn, Ngọ, Dậu và Hợi
        242/41 – Nếu trong tứ trụ có ít nhất 3 chi khác nhau và chỉ khi có thêm chi lưu niên (thái tuế) mới đủ tứ hình thì nó mới có 1đh (kể cả khi chúng hóa cục), sau đó mới tính đến các chi thứ 5 trở đi của tứ hình ở trong tứ trụ, đại vận và tiểu vận, mỗi chi được thêm 0,25đh (riêng chi tiểu vận chỉ được thêm 0,13đh).

        Y13 – Điểm hạn của Thương quan gặp Quan

        245/ – Thương quan lộ gặp được Quan cũng lộ thì mới có điểm hạn và điểm hạn này được gọi là điểm hạn của thương quan gặp quan. Nếu Quan hay Thương quan ở trong hợp thì chúng được xem như không gặp được nhau.
        Các điểm hạn của thương quan gặp quan không bị giảm khi Thương quan bị khắc.
        Điểm Thương quan gặp Quan phụ thuộc vào các trạng thái vượng hay suy của thương quan như sau :
        245a/ - Thương quan ở tuế vận mà nó vượng ở lưu niên có 1đh, nó chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, còn nó nhược ở tuế vận có 0đh.
        245b/ - Thương quan ở trong tứ trụ mà nó vượng ở lưu niên có 1đh, nếu nó chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, nếu nó được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 0,25đh, còn nếu nó thất lệnh và nhược ở tuế vận có 0đh.
        246/120 - Thương quan ở tiểu vận gặp Quan ở tuế vận không có điểm hạn.

        Y14 – Điểm hạn của các thần sát

        248a/ - Mỗi cát thần ở can hay chi của đại vận hay lưu niên có -0,25đh (ở tiểu vận chỉ có -0,13đh), còn mỗi hung thần có 0,25đh (nó chỉ có 0,13đh ở can hay chi của tiểu vận).
        248b/ - Thần sát của các can và chi trong các tổ hợp và trong tứ trụ không có điểm hạn (trừ Tứ Phế hay Kình Dương).
        248c/ - Điểm hạn của các thần sát ở thiên can bị giảm tỉ lệ thuận theo các lực khắc chúng, còn điểm hạn của các thần sát ở địa chi mất hết khi chúng bị xung hay bị khắc.
        249/(2;109) - Nếu can tiểu vận ở trạng thái tử, mộ hay tuyệt ở tiểu vận và nhược ở cả lưu niên và đại vận cũng như can đại vận hay can lưu niên mà ở tử, mộ hay tuyệt ở cả lưu niên và đại vận thì các thần sát của chúng không có điểm hạn. Nếu can đại vận hay can lưu niên nhược ở cả đại vận và lưu niên mà bị khắc ít nhất bởi 1 lực có 0.7 đh thì tất cả điểm hạn của các cát thần của nó bị mất hết.
        250/(7;11) – Kình dương ở đại vận hay lưu niên không bị hợp mới có 1đh, khi đó Kình dương ở các vị trí khác không bị hợp mới có 1đh và điểm hạn của Kình Dương không bị giảm khi nó bị khắc.
        250a/(28;149) - Ðiểm hạn của Kình Dương tại lưu niên bị giảm ít nhất 50% nếu thái tuế bị xung hay khắc bởi TKÐX, trừ khi chi xung thái tuế bị xung hay bị khắc bởi chi đại vận (tức chi đại vận cũng là Kình Dương).)
        251/133 - Tại năm sinh, Kình dương ở chi của các tháng của lưu niên cũng có điểm hạn (nếu nó không bị hợp).
        252/2 - Trụ ngày là tứ phế có 1đh. Nếu trụ ngày là Tứ Phế thiên khắc địa khắc với trụ tháng (tức can và chi trụ ngày đều là chủ khắc) thì điểm Tứ Phế được tăng ít nhất 0,25đh.
        253/ - Nếu không sống ở phương (so với nơi sinh của người có tứ trụ) của Nguyên thần (theo hành của Nguyên Thần) thì Nguyên Thần có thể không có điểm hạn (?). .
        254/27 - Nếu can và chi của Không Vong ở tuế vận (hay tiểu vận) không bị hợp thì Không Vong mới có 0,25đh (0,13đh với tiểu vận), điểm hạn này bị giảm tỉ lệ thuận theo lực khắc can của nó và nó không có điểm hạn khi chi của nó bị xung hay bị khắc.
        255/(147;150) - Nếu trong tứ trụ có kim thần thì Hỏa cục luôn luôn có điểm hạn âm, trừ khi có Mộc cục sinh cho nó hay Hỏa cục có ít nhất có 4 chi có điểm hạn (trừ Hỏa cục của các chi trong tứ trụ (?)) bởi vì khi Hỏa quá mạnh, nó sẽ làm kim thần ra tro).

        Y15 - Điểm hạn của thiên la và địa võng

        256/73 - Nếu thiên la (TL) hay địa võng (ĐV) ở trụ ngày trong tứ trụ thì khi nó gặp thái tuế cũng là TL hay ĐV có ít nhất 0,3đh (vì theo các sách cổ thì TL và ĐV là 2 hung thần).
        257/75 - Nếu TL hay ĐV ở trụ năm trong tứ trụ thì khi nó gặp TL hay ĐV ở lưu niên có 0,15đh.
        258/76 - Nếu TL hay ĐV ở trụ năm trong tứ trụ thì khi nó gặp TL hay ĐV ở lưu niên mà có Kình dương ở trong tứ trụ hợp với thái tuế và chi giống với thái tuế trong tứ trụ hóa thành cục có hành giống với hành của Kình dương thì thiên la hay địa võng có 0,38đh.
        259/75 – Nếu trong tứ trụ có Thiên La hay Địa Võng, tới năm Thiên La hay Địa Võng thì tất cả điểm hạn của các thần sát tại thái tuế sẽ bị mất.

        Y16 - Tuế vận gặp nhau

        260/ - Tuế vận gặp nhau (can và chi của đại vận và lưu niên giống nhau) mà can của chúng vượng ở lưu niên có 1đh, nếu chúng chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, còn nếu chúng nhược ở tuế vận có 0,25đh
        261/(62;105) - Nếu tuế vận cùng gặp mà các can của nó là Quan Sát của dụng thần (nghĩa là hành của các can này khắc hành của dụng thần) không bị hợp thì điểm hạn của tuế vận cùng gặp được tăng thêm 50%.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      5. #23
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Các ví dụ mẫu:

        Ví dụ 40 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ") : Nữ sinh ngày 6/6/1961 lúc 7,01’ sáng. Năm 1963 bị liệt 2 chân vì sốt cao.
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6102/6218842104_3e4dc34029_z.jpg[/img]

        1963 là năm Quý Mão thuộc đại vận Nhâm Ngọ và Quý Mùi (tức tiểu vận). Ta xét đại vận Nhâm Ngọ (vì điểm hạn ở đại vận Quý Mùi quá thấp).
        1 – Mệnh này Thân vượng mà Kiêu Ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Ất tàng trong Thìn trụ giờ.
        2 - Dụng thần Ất vượng ở lưu niên có -1đh.
        3 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh.
        4 - Ngọ đại vận hại Sửu trụ năm có 1đh, tự hình Ngọ trụ tháng và Ngọ trụ ngày mỗi lực có 1đh.
        Sửu trụ năm bị hại, vì vậy nó không hình hay hại được các chi khác, còn mặc dù 2 Ngọ trong tứ trụ bị tự hình bởi Ngọ đại vận nhưng chúng vẫn hình, tự hình hay hại được với các chi khác (giả thiết 233/40). Do vậy 2 Ngọ trong tứ trụ tự hình với nhau có 0,5đh, Ngọ trụ tháng hại Sửu trụ năm có 0,5đh và Ngọ trụ ngày hại Sửu trụ năm có 0,25đh (vì cách 1 ngôi).
        Thìn trụ giờ hại Mão thái tuế có 1đh.
        na
        5 – Quý lưu niên có 1 cát thần có -0,25đh. Ngọ đại vận có 2 cát thần có -2.0,25đh. Mão lưu niên có 1 hung thần có 0,25đh.
        6 - Đất ven đường trụ ngày có Canh được lệnh nên khắc được kim trong cát trụ tháng có 1đh.

        Tổng số là 4,75đh. Số điểm này có thể chấp nhận được.
        Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của tự hình và hại. Vì vậy ta phải giải cứu về tự hình và hại.
        2 Ngọ trong tứ trụ bị tự hình bởi Ngọ đại vận và 3 Ngọ hại Sửu trụ năm, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào tháng Ngọ.

        Ví dụ 54 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Nam sinh ngày 5/8/1950 lúc 0,00’ sáng. Tháng 4/2006 mất Quan vào tù.
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6221/6218323941_a0bd5b5670_z.jpg[/img]

        Tháng 4/2006 là năm Bính Tuất thuộc đại vận Kỷ Sửu và tiểu vận Bính Thân.
        1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là tài tinh/ Đinh tàng trong Mùi trụ tháng. Thủy là kỵ vượng.
        2 – Trong tứ trụ có bán hợp của Thân với Tý hóa Thủy.
        Vào đại vận Kỷ Sửu và năm Bính Tuất có đại vận Kỷ Sửu TKĐX với trụ tháng Quý Mùi có 0,25đh +0,05đh (vì Kỷ nhược ở tuế vận).
        3 - Dụng thần Đin la nhập Mộ ở đại vận Sửu nên có 1đh và nhược ở lưu niên có 0đh.
        4 - Nhật can Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh.
        5 – Quý trụ tháng thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh và khắc Bính lưu niên có 0,25đh.
        Nhâm trụ ngày thất lệnh nhưng vượng ở lưu nên có 1đh và khắc Bính lưu niên có 1đh.
        Sửu đại vận xung Mùi trụ tháng có 0,4đh (vì lệnh tháng Mùi bị xung bởi Mùi)
        Tuất lưu niên có 1 hung thần có 0,25đh.
        6 – Ta thấy Mùi trụ tháng hình hay không hình được Tuất lưu niên thì Tuất lưu niên vẫn hình được Sửu đại vận có 1đh, vì vậy Sửu đại vận không thể hình được Mùi trụ tháng.
        Nếu sử dụng giả thiết 236/(54;159) và 237a/106 thì Mùi trụ tháng bị xung gần bởi Sửu đại vận nên lực hình của nó với Tuất thái tuế bị giảm ¾ , vì vậy điểm hình của nó với Tuất thái tuế có 1đh bị giảm ¾ còn 1.1/4 đh = 0,25đh.

        Tổng số là 4,95đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì quá cao).
        Nếu sử dụng giả thiết 254/27 thì Không Vong không có điểm hạn (vì can của Không Vong là Bính bị Nhâm khắc một lực có 1đh), vì vậy tổng số điểm hạn chỉ còn (4,95 - 0,25)đh = 4,7đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

        Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của TKĐX, Hurt, Thủy quá vượng khắc Hỏa, trong khi dụng thần Hỏa quá nhược (vì Hỏa chỉ là can tàng tạp khí). Do vậy ta phải dùng Mộc và Hỏa, nhất là Hỏa để giải cứu và kết hợp với giải cứu về hình.
        Thủy quá vượng khắc Hỏa quá nhược, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Nhâm Thìn bởi vì nó TKĐX với lưu niên Bính Tuất và nó là tháng mà Hỏa vượng còn Thủy nhập Mộ.
        Hỏa bị tổn thương mà Hỏa của tứ trụ này là Tài (tiền), vì vậy người này vì tiền mà phải vào tù.
        Người này mất quan và vào tù bởi vì đại vận là đại vận hình (Sửu đại vận hình Mùi trong tứ trụ), vào năm Bính Tuất giữa tứ trụ với đại vận và lưu niên có đủ tam hình Sửu Mùi Tuất.

        Thân vượng mà Tài (Đinh) và Quan (Kỷ) tàng trong Mùi đều vượng. Đó là mệnh của người phú quý và thường đại phát vào các vận tài hay quan. Thực tế người này đã làm đến cục trưởng. Ở đây đại vận là Quan (Kỷ) nhưng đáng tiếc đại vận Quan bị hình hại là xấu.
        Tổng điểm hạn ở tiểu vận Đinh Dậu là 4,92 nhưng trong thực tế người này không bị thêm tai họa nào bởi vì có thể phần lớn số điểm hạn này đã gây ra tai họa ở tiểu vận Bính Thân hay ông ta vẫn đang còn ngồi trong tù (?).
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 29-10-12 lúc 19:12
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)

      7. #24
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ mẫu
        Ví dụ 30 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Trương Chấn Hoàn chủ nhiệm ủy ban khoa học kỹ thuật quốc phòng (TQ), sinh ngày 21/10/1915 lúc 12,00’ sáng. Năm 1993 có hạn cực nặng.
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6158/6218861566_324a97c50a_z.jpg[/img]

        1993 là năm Quý Dậu thuộc đại vận Mậu Dần, tiểu vận Giáp Tý và Quý Hợi. Ta xét tiểu vận Giáp Tý.
        1 - Mệnh này Thân nhược mà quan sát Kim là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn/ Nhâm ở trụ giờ.
        2 – Trong tứ trụ có lục hợp của Mão với Tuất bị phá. Bởi vì lực xung của Dậu trụ ngày với Mão trụ năm có 8.2/3 đv = 5,33đv (vì cách 1 ngôi) là lớn hơn lực hợp của Tuất trụ tháng với Mão trụ năm chỉ có 3.1/2đv = 1,5đv (vì Tuất phải hợp với Ngọ trụ giờ).
        Vào đại vận Mậu Dần và năm Quý Dậu có:
        Tam hợp Dần Ngọ Tuất hóa Hỏa.
        Ngũ hợp của Mậu với Quý hóa Hỏa (vì chi đại vận hay lệnh tháng là Hỏa dẫn hóa).

        Nếu sử dụng giả thiết 3/30 thì điểm vượng vùng tâm phải tính lại. Hỏa có 3,3đv được thêm 0,96đv của Tuất trụ tháng thành 4,26đv. Thổ có 0,96đv bị mất hết. Do vậy Kim vẫn là kỵ 1 và động (vì Mão trụ năm xung Dậu trụ ngày). Do vậy ta phải tính thêm điểm vượng tuế vận. Kim có 6,4đv được thêm 2.9đv của Dậu thái tuế thành 24,4đv. Hỏa có 4,26đv được thêm 5,75đv của Dần đại vận, 2.4,8đv của Quý và 3đv của Mậu đại vận thành 22,61đv. Kim lớn hơn hỷ dụng thần Thủy và Mộc trên 10đv nên Kim là kỵ vượng.

        Nếu sử dụng giả thiết 77/29 và 78/30 thì Nhâm không khắc được 2 Hỏa cục có tổng cộng 5 can chi. Vì vậy tam hợp Hỏa cục có 0,75đh và ngũ hợp Hỏa cục có 0,5đh.
        3 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên niên có -1đh.
        4 - Nhật can Ất tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
        5 – Mão trụ năm xung thái tuế Dậu có 0,8đh và Mão xung Dậu trụ ngày có 0,15đh (vì cách 1 ngôi).
        Dậu thái tuế có 1 hung thần có 0,25đh nhưng nó bị Mão xung mất hết.
        Tý tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh và 1 hung thần có 0,13đh.
        Nếu sử dụng giả thiết 15/12 thì Dậu thái tuế bị Mão xung có 0,5đh kỵ vượng.
        6 – Nếu sử dụng các giả thiết 237/, 234/và 235a/ thì lực xung của Mão trụ năm với Dậu trụ ngày bị giảm 2/3 (vì Mão xung 2 Dậu không phải Thổ) còn 1/3 nhưng nó bị giảm thêm 1/3 (vì cách 1 ngôi), nó còn 1/3.2/3 và Mão phải sinh cho Hỏa cục động tại Tuất, nó bị giảm thêm 2/3, vì vậy lực này chỉ còn 1/3.2/3.1/3 = 0,07. Cho nên Dậu trụ ngày tự hình Dậu thái tuế có 1đh nhưng nó bị giảm 7%đh còn 1.93%.đh = 0,93đh.
        7 - Đất trên thành của đại vận có can Mậu chỉ vượng ở đại vận nên khắc được nước suối của trụ năm có 0,75đh nhưng can chi của nạp âm đều bị tuế vận hợp nên bị giảm ½ đh còn 0,38đh.
        Đất mái nhà trụ tháng có Bính thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên chỉ khắc nước suối có 0,75đh.

        Tổng số có 4,62đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì nó quá thấp so với thực tế).

        Nếu sử dụng giả thiết 121/30 thì đất mái nhà của trụ tháng khắc nước suối của trụ năm có (0,75 + 0,25)đh = 1đh và đất trên thành khắc nước suối có (0,75 + 0,25).1/2đh = 0,5đh (vì các nạp âm này nhận được sự sinh từ Hỏa cục cùng trụ).

        Tổng số là 5,00đh. Số điểm này mới phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết: “ Khắp nơi các cao sư khí công đều kéo về cứu giúp. Thầy Thiệu Vĩ Hoa cũng dốc hết sức mình cố kéo dài tuổi thọ cho ông “.

        Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm, Mộc xung Kim và Hỏa quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu.
        Trong tứ tự có Mão xung Dậu thái tuế và vào đại vận Mậu Dần có Hỏa quá vượng, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào các tháng của mùa Xuân và mùa Hè, nhất là tháng Mão. Hỏa quá vượng, vì vậy người này bị bệnh Tim bởi vì Hỏa đặc trưng cho Tim,...
        Nếu Nhâm trụ giờ vượng ở lưu khắc hết tổng điểm hạn của 2 Hỏa cục có 5 can chi thì số điểm hạn quá thấp là không thể chấp nhận được.
        Nếu điểm kỵ vượng ở thái tuế bị giảm 1/3 khi nó bị Mão xung còn 0,33 thì tổng số là 4,75đh, nó là quá thấp so với thực tế nên không thể chấp nhận được.

        Ta xét tiểu vận Quý Hợi của năm Quý Dậu:
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6161/6218344877_10d3d66f4c_z.jpg[/img]

        Ở tiểu vận Quý Hợi của năm Quý Dậu (bắt đầu từ ngày 21/10/1993), nếu sử dụng giả thiết 78/30 thì điểm hạn của Hỏa cục bị Nhâm trụ giờ vượng ở lưu niên khắc mất hết, vì vậy đất trên thành và đất mái nhà không được sinh bởi Hỏa cục.
        Các điểm hạn ở tiểu vận Quý Hợi được mô tả ở sơ đồ trên.
        1 – Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý lưu niên và Quý tiểu vận.
        Điểm hạn của Hỏa cục có 3 chi bị Nhâm vượng ở lưu niên khắc mất hết.
        Mậu chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh và khắc 2 Quý có 0,75đh, nên mỗi lực có 0,75.1/2.1/2.đh = 0,19đh, riêng lực khắc Quý tiểu vận chỉ có 0,19/2đh = 0,1đh (vì khắc tiểu vận điểm hạn giảm một nửa).
        Quý lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên có -0,5đh bị khắc mất 19% nên còn -0,5.0,81đh = -0,41đh.
        2 – Nước biển ở tiểu vận có Quý vượng ở tiểu vận khắc khắc đất trên thành của đại vận có 0,5đh.
        Đất trên thành đại vận có Mậu chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối trụ năm có 0đh (vì Mậu đã dùng tất cả 0,75đh để khắc 2 Quý)
        Đất mái nhà trụ tháng có Bính thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối trụ năm có 0,75đh.
        ....................

        Tổng số là 3,51đh. Số điểm này là chấp nhận được bởi vì nó phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết “Ngày 24/10/1993 sau khi bệnh đỡ đã ra viện đi ăn dưỡng, trong nửa năm đó ông lại cố gắng làm việc”.

        Nếu điểm hạn của Hỏa cục không bị Nhâm khắc mất hết thì tổng số là 4,57đh (vì Hỏa cục có 0,75đh, đất mái nhà và đất trên thành khắc nước suối có (0,75 + 0,25)đh = 1đh và 0,25.1/2.1/2 đh = 0,06đh)). Số điểm này không thể chấp nhận được bởi vì với số điểm này ông ta không thể rời khỏi bệnh viện.

        Ta xét điểm hạn của năm 1994:
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6155/6218875290_76e9160043_z.jpg[/img]

        1 – 23/3/1993 đó là năm Giáp Tuất thuộc đại vận Mậu Dần và tiểu vận Quý Hợi có:
        Tam hợp Dần Ngọ Tuất có 4 chi hóa Hỏa, vì vậy Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý tiểu vận hóa Hỏa. Nếu sử dụng giả thiết 11/30 (Nếu các hóa cục cùng hành giữa tứ trụ với tuế vận có tổng cộng từ 6 can chi trở lên (trừ hóa cục của các địa chi trong Tứ Trụ) thì phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng tuế vận mặc dù kỵ 1 là tĩnh (đây là một trường hợp ngoại lệ)) thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Hỏa có 3,3đv được thêm 0,96đv của Tuất trụ tháng thành 4,26đv. Kim vẫn có 6,4đv, vì vậy Thân vẫn nhược và dụng thần không thay đổi. Ta phải tính tiếp các điểm vượng ở tuế vận.
        Hỏa có 4,26đv được thêm 2.3đv của Tuất thái tuế, 5,8đv của Dần đại vận, 3đv của Mậu đại vận và 10đv của Quý tiểu vận thành 29,06đv. Nếu sử dụng giả thiết 22/17 thì Hỏa đã thành kỵ 1 (vì nó lớn hơn Kim là kỵ 1 trên 10đv) và Hỏa có điểm kỵ vượng (vì lớn hơn hỷ dụng thần trên 20đv) nhưng các điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi (vì Hỏa không phải là kỵ 1 từ khi mới sinh). Do vậy nếu sử dụng giả thiết 101/29 thì điểm hạn chính của tam hợp Hỏa có 4 chi được tăng gấp đôi là 1.2đh + 0,25đh và Dần, Tuất và Mậu mỗi can và chi có 0,5đh kỵ vượng còn Quý tiểu vận chỉ có 0,25đh kỵ vượng.
        2 - Dụng Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh.
        3 - Nhật can Ất mộ ở lưu niên niên có 1đh.
        4 – Nhâm trụ giờ vượng ở lưu niên nhưng nó không thể khắc được Hỏa cục có tổng cộng 6 can chi.
        5 - Nước biển của tiểu vận Quý Hợi có can Quý vượng ở tiểu vận khắc lửa đỉnh núi của lưu niên có 1đh và khắc đất trên thành của đại vận có 0,5đh (vì khắc đại vận bị giảm ½).
        Đất trên thành của đại vận có can Mậu chỉ vượng ở đại vận nên khắc nước suối của trụ năm có (0,75 + 0,25)đh = 1đh (vì nó được Hỏa cục trong cùng trụ sinh cho), nhưng nó bị giảm ½ đh (vì nước biển khắc) và ½ đh (vì can và chi của nạp âm đều bị hợp ở tuế vận), nó chỉ còn 1.1/2.1/2.đh = 0,25đh.
        Lửa đỉnh núi của lưu niên có can Giáp chỉ vượng ở đại vận nên khắc đất mái nhà và gỗ liễu có 0,75đh, vì vậy mỗi lực có 0,38đh (chú ý lửa đỉnh núi là lửa của núi lửa nên nó không bị giảm khi nó bị khắc bởi các loại nạp âm của nước).
        Đất mái nhà có Bính thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối có (0,75 + 0,25)đh = 1đh (vì nó được sinh bởi Hỏa cục cùng trụ), nhưng nó bị giảm 38%đh (vì lửa đỉnh núi khắc), nó còn 0,62đh.

        Tổng số là 7,63đh. Số điểm này chấp nhận được bởi vì nó phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết : “Cấp cứu nhưng không có hiệu quả, đã tạ thế ở Bắc Kinh hồi 23,30’ ngày 23 tháng 3 năm 1994 hưởng thọ 79 tuổi“ (theo Tử Bình đã sang ngày 24/3).
        Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và do Hỏa quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu.
        Thân nhược mà thực thương quá mạnh, vì vậy kiêu ấn ở đây vô cùng quan trọng bởi vì nó có chế ngự thực thương Hỏa và sinh cho Thân. Tai họa đã xẩy ra vào tháng Mão của mùa Xuân. Bởi vì vào tháng Mão dụng thần Thủy bắt đầu ở trạng thái tử tuyệt nên nó không có khả năng chế ngự Hỏa và sinh cho Thân.

        Qua ví dụ này cho ta biết khả năng giải hạn của các cao thủ Tử Bình và khí công Trung Quốc chưa đạt tới 7,63đh (nếu số điểm này chính xác).

        Đây là mệnh quý hiển vì Thân nhược có Ấn vượng sinh Thân và chế ngự Thương nhược nên thực sự đúng với câu : «Thương quan mang ấn quý hết chỗ nói».
        Nếu không tính thêm điểm vượng của tuế vận thì Hỏa không phải là kỵ 1 nên điểm hạn của hóa cục không được tăng gấp đôi và không có các điểm kỵ vượng, vì vậy tổng số là 4,76đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 29-10-12 lúc 19:13
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)

      9. #25
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Bài 26 - Định luật giảm và điểm G

        Chương 16

        Định luật giảm và điểm G

        I - Định luật Giảm

        Đây là phần phức tạp nhất của Phương Pháp Tính Điểm Hạn. Định luật giảm có nghĩa là tổng điểm hạn sẽ được giảm theo một tỷ lệ nhất định nào đó, nó phụ thuộc vào các yếu tố giữa tứ trụ với tuế vận mà ở trên ta đã biết trong các dạng đơn giản nhất như tam hợp, tam hội, hóa cục của các chi giống nhau trong tứ trụ ... còn ở phần này bạn đọc sẽ được biết đến một dạng khác.

        Khi thái tuế hay các chi trong tứ trụ bị các chi khác hình, xung, khắc hay hại thì trong một số trường hợp các lực này có điểm giảm được gọi là điểm G. Tổng các điểm G này tương đương với tổng điểm hạn được giảm theo một tỷ lệ nhất định nào đó. Để cho đơn giản tôi tạm thời phân ra thành 10 trường hợp tổng điểm hạn được giảm theo các điểm G như sau :

        Bảng G
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6052/6244699149_95979a42a8_z.jpg[/img]

        Dòng đầu tiên trong bảng là số thứ tự, dòng thứ hai là điểm G và dòng thứ ba là tỉ lệ tổng điểm hạn được giảm tương ứng theo điểm G.
        Nếu số điểm G ít nhất bằng điểm giữa của 2 mức giảm thì tổng điểm hạn mới được giảm ở mức trung bình của 2 mức giảm đó (vd 106; 107).
        Trong phần này hình và tự hình có tác dụng khác nhau

        II - Điểm giảm G

        A - Có 5 dạng chính gây ra các điểm G

        E1 – Các chi ở tuế vận tác động tới các chi trong tứ trụ.
        E2 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế
        E3 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ khắc thái tuế
        E4 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ tự hình thái tuế.
        E5 – Có ít nhất 3 chi giống nhau trong tứ trụ xung, khắc, tự hình, hình hay hại thái tuế.

        E1 - Tuế vận tác động tới các chi giống nhau trong tứ trụ

        281/(101 ;102) : Các trường hợp như sau:
        1 - Dần đại vận hình và hại 2 Tị trong Tứ Trụ.
        2 - Sửu đại vận hình và xung 2 Mùi trong Tứ Trụ.
        3 - Thân đại vận khắc và hình 2 Dần trong Tứ Trụ.
        4 - Tý ở tuế vận cùng hại 2 Mùi trong Tứ Trụ.
        5 - Mùi ở tuế vận cùng hại 2 Tý trong Tứ Trụ.
        6 - ........ ????
        Các lực này mới có các điểm G và chúng được xác định như sau :
        a - Thái tuế hình hay hại có 1G.
        b - Đại vận khắc hay xung có 1G và hình hay hại có 0,5G.

        282/(105;106;107) – Nếu trong tứ trụ có 2 chi giống nhau là Thổ mà mỗi chi này chỉ có 1 lực tác động tới thái tuế hay nếu 2 chi giống nhau này không là thổ mà mỗi chi chỉ có 1 lực hình hay hại thái tuế thì các lực này có điểm G chỉ khi các chi này bị tác động bởi 2 lực của đại vận, khi đó điểm G của các lực này được xác định như sau :
        a - Mỗi lực xung thái tuế có 0,5G.
        b - Mỗi lực hình hay hại thái tuế có 0,25G ?
        (Chú ý dấu ?, nó nghĩa là các giả thiết đó chưa có ví dụ để kiểm tra).

        283/108 - Chi tuế vận tác động với ba chi giống nhau trong tứ trụ :
        a - Mỗi lực hình hay hại của chi đại vận với mỗi chi trong Tứ Trụ có 1,1G
        b - Mỗi lực xung hay khắc của chi đại vận với mỗi chi trong Tứ Trụ có ...?
        c - Mỗi lực hình hay hại của thái tuế với mỗi chi trong Tứ Trụ có... ?

        E2 - 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế

        1 – Các chi là Thổ

        284/(105;109) – 1 hay 2 chi Sửu trong tứ trụ hình và xung Mùi thái tuế có điểm G, còn nếu trong tứ trụ chỉ có 2 chi giống nhau, khi chúng chỉ có 1 lực xung thái tuế thì mỗi lực này có 0,5G chỉ khi chúng bị đại vận tác động có điểm G.
        285/70 – Trong tứ trụ có 1 hay 2 chi là Mùi, Tuất hay Thìn xung thái tuế và có ít nhất 1 chi hình, tự hình hay hại thái tuế thì các lực này có điểm G hay không (chưa có ví dụ để kiểm tra) ?

        2 – Các chi không là Thổ

        286/ 113 - Nếu trong Tứ Trụ chỉ có một chi xung thái tuế (không có các lực hình hay hại thái tuế, trừ lực tự hình thái tuế) thì các lực tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có chi đại vận xung thái tuế.
        287/112 - Nếu các tổ hợp trong tứ trụ bị phá mà chúng có ít nhất 1 chi xung và 1 chi hình hay hại thái tuế thì các lực này không có điểm G nhưng các lực khác vẫn có điểm G khi có chi đại vận tác động tới thái tuế (trừ lực tự hình).
        288/111 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có ít nhất một chi xung và 1 chi hình (trừ tự hình) hay hại thái tuế.
        289/114 – Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi có ít nhất hai chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế.

        E3 - 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ khắc thái tuế

        290/115 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có ít nhất 1 chi khắc và 1 chi hình (trừ tự hình) hay hại Thái tuế.
        291/(116;117;118) - Nếu trong tứ trụ chỉ có 1 chi khắc Thái tuế, ngoài ra không có các lực tác động khác (trừ chi Thân nếu nó hình được thái tuế và các chi trong tứ trụ tự hình thái tuế) thì tất cả các lực tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có thêm lực của chi đại vận hay tiểu vận tác động với thái tuế (kể cả lực tự hình), còn nếu nó ở trong tổ hợp trong tứ trụ từ khi mới sinh bị phá thì các lực này tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có chi đại vận khắc thái tuế.
        292/118 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có Thân khắc và hình Dần thái tuế.
        293/120 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có 2 chi khắc thái tuế.
        294/121 – Các lực tác động tới thái tuế không có điểm G khi 2 chi trong tứ trụ và chi đại vận hay tiểu vận giống nhau là các chi thuộc loại tự hình khắc thái tuế.

        E4 – Thái tuế bị tự hình bởi các chi trong tứ trụ

        295/123 - Nếu trong tứ trụ chỉ có 1 hay 2 chi tự hình với thái tuế thì các lực này có điểm G chỉ khi có thêm chi đại vận cũng tự hình thái tuế, khi đó điểm G của các lực được xác định như sau :
        Mỗi chi trong tứ trụ tự hình thái tuế có 2G.
        Chi đại vận tự hình thái tuế có 1G.
        Chi tiểu vận tự hình, hình hay hại thái tuế có 0,5G, còn xung hay khắc thái tuế có 1G.
        Chi đại vận tự hình các chi trong tứ trụ, mỗi lực có 0,5G, trong đó mỗi lực tự hình với lệnh tháng có thêm 0,25đh..
        Các chi trong tứ trụ tự hình gần với nhau, mỗi lực có 0,25G, trong đó mỗi lực tác động gần với lệnh tháng có thêm 0,13G

        E5 - Ba chi giống nhau trong tứ trụ tác động với thái tuế

        296/125 - 3 chi trong tứ trụ tự hình thái tuế, mỗi lực có ít nhất 1.5G và mỗi lực hình, hại thái tuế có ... ?
        297/211 – 3 chi giống nhau là Thổ trong tứ trụ xung thái tuế, mỗi lực có 1,25G (còn nếu 3 chi giống nhau này không là Thổ ?) và mỗi lực hình, tự hình và hại của các chi trong tứ trụ với thái tuế có 0.5G (?), khi đó :
        - Chi đại vận xung thái tuế có 0.5G (?) và mỗi lực hình, tự hình và hại thái tuế có 0.25G (?).
        - Chi tiểu vận xung thái tuế có 0,25G (?) và mỗi lực hình, tự hình và hại thái tuế có 0.13G.

        B – Nói chung E1, E2 và E3 tuân theo các giả thiết sau đây:

        298/109 - Mỗi chi trong tứ trụ xung thái tuế có 1G và mỗi chi hình hay hại thái tuế có 0,5G, còn chi đại vận hay chi tiểu vận xung thái tuế có 0,5G và hình hay hại thái tuế có 0,25G.
        299/(116...) - Mỗi chi trong tứ trụ khắc thái tuế có 2G và hình hay hại thái tuế có 1G, khi đó chi đại vận khắc thái tuế có 2G (riêng Thân đại vận khắc thái tuế chỉ có 1G) nhưng chi tiểu vận khắc thái tuế chỉ có 1G, còn chi đại vận và chi tiểu vận hình hay hại thái tuế mỗi lực có 0,5G. Tất cả các lực này không có điểm G chỉ khi có 3 hay 4 chi giống nhau là tự hình khắc thái tuế mà ở trong tứ trụ chỉ có 2 trong 3 hay 4 chi này (vd 121 ;122).
        300/ - Nếu chi đại vận xung thái tuế có điểm G thì nó xung với mỗi chi giống với thái tuế ở trong tứ trụ mới có điểm G như vậy.
        301/ - Nếu chi đại vận khắc thái tuế có điểm G thì nó khắc với mỗi chi giống với thái tuế ở trong tứ trụ mới có điểm G nhưng chúng chỉ bằng ½ điểm G như vậy (trừ lực khắc của Thân đại vận không bị giảm - ví dụ 118).
        301a/ - Nếu chi trong Tứ Trụ khắc thái tuế có 2G và chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 0,5G thì chi đại vận hình, tự hình hay hại các chi trong Tứ Trụ cũng có 0,5G chỉ khi trong chúng có ít nhất một chi giống thái tuế (?).
        301b/ - Nếu chi trong Tứ Trụ xung thái tuế có 1G và chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 0,25g thì chi đại vận hình, tự hình hay hại với mỗi chi trong Tứ Trụ có 0,13G chỉ khi trong chúng có ít nhất một chi giống thái tuế (?).
        302/103 - Nếu chi đại vận tác động với các chi trong tứ trụ có điểm G thì các chi giống với chi đại vận ở trong tứ trụ tác động với các chi này mới có điểm G nhưng chúng chỉ bằng ½ .
        303/101 - Nếu mỗi lực của chi đại vận tác động với lệnh tháng có điểm G thì mỗi lực đó được thêm 0,25G và khi đó mỗi lực của thái tuế tác động tới lệnh tháng có điểm G, mỗi lực này mới được thêm 0,25G.
        304/103 - Nếu mỗi lực của các chi trong tứ trụ tác động với lệnh tháng có điểm G thì mỗi lực này cũng được thêm 0,13G.

        Chú ý : Các điểm G ở đây được xác định bởi các chi tác động gần với nhau, còn chúng bị giảm ½ G nếu chúng cách 1 ngôi và ¾ G nếu chúng cách 2 ngôi.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)

      11. #26
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Các ví dụ mẫu:

        Ví dụ 108 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Nam sinh ngày 14/11/1977 lúc 21,30’. Năm 2005 không có hạn.
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6162/6245259850_26f084837f_z.jpg[/img]

        Năm 2005 là năm Ất Dậu thuộc đại vận Mậu Thân, tiểu vận Kỷ Mùi và Mậu Ngọ .
        1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên lấy tài tinh là Mậu tàng trong Tị trụ năm.
        2 - Vào đại vận Mậu Thân có lục hợp của Thân đại vận với Tị trụ năm không hóa bị phá bởi trụ tháng Tân Hợi TKĐX với trụ năm Đinh Tị.
        Tới năm Ất Dậu có bán hợp của thái tuế Dậu với Tị trụ năm hóa Kim nhưng cũng bị TKĐX này phá tan Kim cục nhưng nó còn lại tổ hợp (vì lực xung của Hợi với Tị là 5,65đv là nhỏ hơn lực hợp của Dậu với Tị là 9đv), vì vậy TKĐX có 0,5đh + 0,05đh (vì Đinh vượng ở lưu niên).
        4 - Dụng thần Mậu tàng trong Tị trụ giờ bị tuế vận hợp có 1đh và tử ở lưu niên có 1đh.
        5 - Nhật can Ất tuyệt ở lưu niên có 1đh.
        6 – Tân trụ tháng vượng ở lưu nên khắc 2 Ất, vì vậy mỗi lực có 0,7đh.
        Ất lưu niên có 2 cát thần có -2.0,25đh nhưng bị Tân khắc mất 70% chỉ còn -0,15đh.
        Thân đại vận có 4 hung thần và 1 cát thần có tổng cộng 0,75đh.
        7 – Thân đại vận hại 3 Hợi nên có tổng cộng 2đh.

        Tổng số có 7,55đh. Nếu sử dụng giả thiết 283/108 và 303/101 thì tổng số có 3,55G (thêm 0,25G vì lệnh tháng bị hại) nên tổng điểm hạn được giảm 5/12, vì vậy nó còn 7,55.7/12đh = 4,40đh. Số điểm này là cao nhất có thể chấp nhận được.
        Nếu mỗi lực hại chỉ có 1,0G thì tổng cộng có 3,25G, vì vậy tổng điểm hạn được giảm ở giữa 2 mức 1/3 và 5/12, nó còn 7,55.(2/3 + 7/12).đh = 4,72đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

        .................................................. ......................

        Chủ đề “Nhiệm lý lá số hạn nặng“ của GiáoViên trong mục Tử Vi bên trang web tuvilyso.org nói về một phụ nữ trẻ có Tứ Trụ :

        Nhâm Tuất – Canh Tuất – ngày Kỷ Tị - Giáp Tuất

        Giáo Viên đã viết:


        “Cô bé này, tháng 11 năm ngoái (2010) sinh con gái. Trước hôm đi sinh con 1 tuần, thì phát hiện ra bị liệt một chân, sau đó bác sỹ mổ lấy con ra, rồi nghi là mẹ bị lao xuơng, chuyển qua viện lao nằm 1 tháng.
        ...............................................
        Tháng 1 năm 2011, bác sỹ quyết định mổ cột sống. Nhưng mổ ra, mới biết không phải lao xuơng, mà là một thứ bệnh quái lạ, ung thư đốt sống cùng. Xét nghiệm là tế bào ác, kháng điều trị, và hiện đang chuyển về nhà chờ........
        .................................................. .........
        Bé Vân mất sáng nay rồi (8/10/2011), chiều GV đi Ninhbinh viếng, có gì về sẽ update với mọi người sau.

        Buồn quá .................“ .

        Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn ở tiểu vận Ất Tị (sau ngày sinh 13/10/2010) của năm 2010.
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6118/6244749603_b2cfd15449_z.jpg[/img]

        11/2010 là năm Canh Dần thuộc đại vận Đinh Mùi và tiểu vận Ất Tị.
        1 - Tứ Trụ này có Thân vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương đều ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Giáp ở trụ giờ.
        2 – Ta thấy Nhâm trụ năm hợp với Đinh đại vận và Ất tiểu vận hợp với Canh lưu niên đều không hóa.
        3 - Dụng thần Giáp nhập Mộ ở đại vậnMùi có 1đh và vượng ở lưu niên có -1đh.
        4 - Nhật can Kỷ tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
        5 – Nhâm trụ năm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 0,5đh can và khắc Đinh đại vận có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì khắc trái dấu). Do vậy Đinh đại vận chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh can nhưng nó bị giảm 13% (bị khắc bởi Nhâm) còn 0,5.0,67đh = 0,34đh..
        Canh lưu niên cũng chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Ất tiểu vận có 0,5.1/2.1/2 đh= 0,13đh (vì khắc trái dấu và khắc vào chi tiểu vận).
        Mùi đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Tị tiểu vận có 1 cát thần và 1 hung thần.
        6 – Mùi đại vận hình 3 Tuất trong Tứ Trụ có tổng cộng max 2đh.
        Tị trụ ngày và Tị tiểu vận hại Dần thái tuế có 1đh và 0,5đh, vì vậy Dần thái tuế không hình và hại được 2 Tị.
        7 – Nước biển ở tụ năm có Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận, vì vậy nó khắc Kim trang sức, Lửa trên núi và gỗ Tùng có tổng cộng 0,75đh (vì Nhâm đã sử dụng 0,25đk).
        Nước mưa đại vận có Đinh chỉ vượng ở đại vận nên khắc Lửa đỉnh núi có 0,75đh.
        Lửa trên núi có Giáp vượng ở lưu niên khắc Kim trang sức có 1đh (lực khắc của Lửa đỉnh núi với các nạp âm khác không bị giảm khi nó bị khắc).

        Tổng số là 8,1đh. Nếu ta sử dụng giả thiết 283/108 thì Mùi đại vận hình 3 Tuất có tổng cộng 3,55G (mỗi lực hình có 1,1G và thêm 0,25G vì lệnh tháng bị hình), vì vậy tổng điểm hạn được giảm 5/12, nó còn 8,1.7/12 đh = 4,73đh. Số điểm này có thể chấp nhận được.

        Ở tiểu vận Bính Ngọ có Bính khắc Canh lưu niên có 1đh và Bính có 3 cát thần có -3.0,13đh. Dần thái tuế hợp với Ngọ tiểu vận có 1đh. Tổng số là 8,33đh, nó cũng được giảm 5/12 còn 8,33.7/12 đh = 4,86đh. Với số điểm cao như vậy, tại sao tai họa không xẩy ra ? Cụ Thiệu Vĩ Hoa có nói tới trong cuốn «Dự Đoán Theo Tứ Trụ» là có thai và sinh con có thể giảm được một phần hạn. Điều này có thể được giải thích đơn giản là khi đứa con còn trong bụng mẹ, nó có thể Cõng Giúp cho mẹ nó ít nhất khoảng 0,5đh, vì vậy chỉ còn 4,36đh. Với số điểm này khá thấp nên nó không thể gây ra tai họa nào cả.

        Đến tiểu vận Ất Tị, đáng tiếc là với 4,73đh còn khá cao nên chúng ta dự đoán : Đứa trẻ chưa ra đời, nó mới có thể Cõng Giúp hạn cho mẹ nó còn khi đứa bé đã ra đời thì nó không còn giúp được gì cho mẹ nó nữa (?).

        Nếu sự lý luận này là đúng thì nó là một cách giải hạn vô cùng hữu hiệu cho phái nữ, bởi vì ngày nay người ta sinh đẻ có thể chủ động qua việc thụ tinh bên ngoài ống nghiệm.

        Nếu mỗi lực hình có 1,2G thì tổng cộng có 3,85G, nó tương đương với tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 5/12 và ½ còn 8,1.(7/12 + ½).1/2đh = 4,39đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì nó không phù hợp với thực tế). Kết hợp với ví dụ trên thì các lực hình hay hại này có 1,1G là tin cậy được.

        Sơ đồ tính điểm hạn ngày 8/10/2011 như sau :
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6055/6244740055_27315d922a_z.jpg[/img]

        8/10/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Đinh Mùi và tiểu vận Ất Tị.
        1 – Ta thấy Nhâm trụ năm hợp với Đinh đại vận không hóa và lục hợp của 3 Tuất trong Tứ Trụ hợp với Mão thái tuế hóa Hỏa (vì lực hợp của Mùi đại vận với Mão thái tuế có 5,87đv là nhỏ hơn lực hợp của 3 Tuất với Mão thái tuế có 3.5,03đv). Vì trong Tứ Trụ có 3 chi hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại.
        Hỏa có 4,2đv được thêm 1,5đv của Tuất trụ năm, 1,8đv của Tuất trụ tháng và 0,9đv của Tuất trụ giờ thành 8,4đv. Thổ có 11,3đv bị mất 4,2đv của 3 Tuất còn 7,1đv. Ta thấy Thân vẫn vượng nhưng Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Nhâm ở trụ năm. Vì Hỏa là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 8,4đv được thêm 2.9đv của Mão thái tuế và 4,8đv của Đinh đại vận thành 31,2đv. Kim có 5,28đv được thêm 2.3,1đv của Tân lưu niên thành 11,48đv. Mộc có 4,2đv được thêm 7đv của Ất tiểu vận thành 11,2đv (Tân và Ất động vì Tân khắc Ất tiểu vận). Tị tiểu vận và Mùi đại vận ở trạng thái tĩnh nên điểm vượng của chúng không được tính. Hỏa là kỵ vượng.
        Hỏa cục có 1đh + 0,25đh (vì Hỏa cục có chi thứ 4) và Mão thái tuế hóa Hỏa có 0,5đh kỵ vượng.
        2 - Dụng thần Nhâm bị tuế vận hợp có 1đh và tử tuyệt tại lưu niên có 1đh.
        3 - Nhật can Kỷ nhược ở lưu niên có 0đh.
        4 – Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 1đh và khắc Đinh đại vận có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì khắc trái dấu). Đinh đại vận chỉ vượng ở đại vận có 0,25đh và nếu sử dụng giả thiết 17/67a thì Đinh đại vận có 0,5đh kỵ vượng nhưng 2 điểm hạn này đều bị giảm 13% (vì bị Nhâm khắc) còn 0,25.0,65đh = 0,22đh và 0,5.0,67đh = 0,44đh.
        Mùi đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Tị tiểu vận có 1 cát thần và 1 hung thần.
        5 - Nước biển trụ năm có Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận khắc Kim trang sức và gỗ Tùng có tổng cộng 0,75đh (vì Nhâm đã sử dụng 0,25đk).
        Nước mưa đại vận có Đinh chỉ vượng ở đại vận nên khắc Lửa đỉnh núi chỉ có 0,75đh.
        Lửa đỉnh núi có Giáp vượng ở lưu niên nên khắc Kim trang sức có 1đh.

        Tổng số là 8,29đh. Nếu sử dụng giả thiết 278/38 ( - Nếu trong tứ trụ có 3 chi giống nhau, khi tất cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm 2/3, còn nếu chỉ có 3 chi giống nhau trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12 (trước ví dụ này tôi đã dự đoán được giảm tới ½ nhưng nay thấy không phải như vậy)) thì tổng số các điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12, nó còn 8,29(2/3 + 7/12).1/2 đh = 5,18đh. Số điểm này có thể chấp nhận được.

        Vì tai họa chủ yếu do điểm hạn của 3 Tuất trong Tứ trụ hợp với tuế vận hóa Hỏa nên tai họa dễ xẩy ra vào mùa hè và tháng Tuất. Thực tế cho thấy bệnh của người này đã phát nặng vào mùa hè và cái chết đáng nhẽ phải xẩy ra vào tháng Tuất nhưng đến 23,57' ngày 8/10/2011, tức còn ít nhất 12 tiếng nữa mới sang tháng Tuất. Tại sao lại như vậy? Phải chăng giờ giao lệnh người ta đã xác định sai?

        Ở đây ta thấy chỉ có Hỏa quá vượng và có sự xung khắc của Thủy (Nhâm) với Hỏa (Đinh) nên Thủy và Hỏa đều bị tổn thương, nhất là Thủy. Ta đã biết Thủy đại diện cho bệnh ung thư, vì vậy người này đã bị bệnh ung thư. Còn Hỏa đã đại diện cho xương chăng ?
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 29-10-12 lúc 19:15
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      12. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)

      13. #27
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ tham khảo:

        Xác định giờ sinh với Tứ Trụ của Steve Jobs là khá dễ dàng với phương pháp của tôi. Bởi vì Tứ Trụ này chỉ có thể vượng khi Kiêu Ấn sinh được 50% đv của nó cho Thân. Điều này xẩy ra khi điểm vượng của Kiêu Ấn ít nhất phải bằng điểm vượng của Thực Thương (vì Kiêu Ấn đã lớn hơn Tài tinh và Nhật can đã được lệnh hoặc Thân đã lớn hơn Tài Quan).
        Chưa tính can chi trụ giờ thì Mộc đã có 11,4đv còn Thổ có 6,1đv nếu Thìn trụ ngày bị khắc, và 8,5đv nếu Thìn trụ ngày không bị khắc. Nếu tính lần lượt từng giờ thì chỉ có giờ Mậu Tý và Mậu Tuất là Thân nhược nên Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (Đinh, Bính, Ất, Giáp) mới là hỷ dụng phù hợp với các vận của Steve Jobs. Trong đó giờ Mậu Tý có tổng số điểm hạn quá thấp (với năm 2011) là không thể chấp nhận được cho dù phải hay không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Do vậy Steve Jobs sinh giờ Tuất là một điều không thể chối cãi được.

        Nếu Steve Jobs sinh giờ Tuất thì sơ đồ tính điểm hạn vào ngày 5/10/2011 như sau :
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6119/6240212884_aae32b4c8b_z.jpg[/img]

        5/10/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Tân Sửu.
        1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Thực Thương là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Ất ở trụ năm.
        2 – Vào đại vận Quý Dậu và năm Tân Mão có :
        2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật.
        Bính trụ ngày hợp với Tân lưu niên không hóa.
        Tam hội Dần Mão Thìn hóa Mộc (vì Dậu đại vận xung gần Mão không thể phá được tam hội cục).
        Đến tiểu vận Tân Sửu có Dậu hợp với Sửu tiểu vận hóa Kim.
        Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì tổng điểm hạn rất thấp là không thể chấp nhận được.

        Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

        "Nếu 2 can trong Tứ Trụ hợp với tuế vận là tranh hợp thật mà có ít nhất một địa chi trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của nó thì phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm".

        Nếu sử dụng giả thiết này thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Mộc có 11,4đv được thêm 3,6đv của Thìn trụ ngày thành 15đv. Thổ có 15,06 mất 3,6đv của Thìn còn 11,46đv (nếu điểm vượng của 2 Mậu cũng bị mất thì Thổ chỉ còn 4,6đv). Ta thấy Kiêu Ấn sinh được cho Thân 50% đv của nó, vì vậy Thân có 13,5đv. Thân trở thành vượng mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ. Mộc là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Mộc có 15đv được thêm 2.9đv của Mão thái tuế thành 33đv. Kim có 0đv được thêm 2.3,1đv của Tân lưu niên, 5,07đv của Dậu đại vận và 5,02đv của Sửu tiểu vận thành 10,27đv. Mộc là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được gấp đôi (vì Mộc không phải kỵ 1 từ khi mới sinh).

        Kim cục ở tiểu vận chỉ có 1,5 chi là hỷ dụng khắc Mộc cục là kỵ thần có 3 chi, vì vậy Mộc cục và Kim cục đã gây ra ĐC-1 có (0,7.4 + 0,35) đv = 3,15đh, vì vậy Kim cục có 1đh còn Mộc cục có 0,75đh. Thái tuế Mão có 0,5đh kỵ vượng.
        3 - Dụng thần Tân tử tuyệt tại lưu niên có 1đh.
        4 - Nhật can Bính vượng ở lưu niên có -1đh.
        5 – Bính trụ ngày vượng ở lưu niên khắc Tân có 0,5đh, vì vậy Tân chỉ vượng ở đại vận có -0,5đh, nhưng nó bị giảm 50% còn -0,25đh.

        Tổng số là 5,65đh. Tam hội Dần Mão Thìn ngoài Tứ Trụ hóa Mộc có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ được giảm 1đh nên tổng số còn 4,65đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

        Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải áp dụng giả thiết 202/63 (xem tai họa năm 2009 phía dưới) thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên (là can tranh hợp thật) nên khắc gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.3/4 đh = 0,75đh. Tổng điểm hạn là 5,4. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

        Ví dụ này đã chứng minh rằng các can tranh hợp thật không phải hoàn toàn vô dụng như tôi đã kết luận mà nó vẫn còn khả năng quyết định được lực khắc của các nạp âm của chúng.


        Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ để cấy ghép gen vào tháng 6/2009 do sự mất cân bằng hocmon :
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6238/6239699985_e184cb4e16_z.jpg[/img]

        6/2009 là năm Kỷ Sửu thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Quý Mão.
        1 – Thân nhược và dụng thần là Ất ở trụ năm.
        2 – 2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật.
        Mão tiểu vận xung Dậu đại vận phá tan bán hợp hay lục hợp của Dậu với Sửu thái tuế hay Thìn trụ ngày.
        3 - Trụ năm Ất Mùi TKĐX với lưu niên Kỷ Sửu có 0,25đh + 0,05đh (vì Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận).
        4 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh.
        5 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh.
        6 - Ất trụ năm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 1đh và khắc Kỷ lưu niên có 0,25đh.
        Kỷ lưu niên chỉ vượng ở đại vận có 0,25đh nhưng bị giảm 25% (bị khắc bởi Kỷ) chỉ còn 0,25.0,75đh = 0,19đh. Kỷ khắc Quý tiểu vận có 0,5.1/2= 0,25đh (vì khắc can tiểu vận) nhưng cũng bị giảm 25% còn 0,19đh (vì bị Ất khắc). Quý tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh nhưng bị giảm 19% do Kỷ khắc còn -0,11đh.
        Dậu đại vận xung Mão tiểu vận có 0,15đh và hại Tuất trụ giờ có 1đh., vì vậy Tuất không hình được Sửu thái tuế.
        Mùi trụ năm xung Sửu thái tuế có 0,65đh, vì vậy Sửu thái tuế hình Mùi trụ năm có 1đh nhưng bị giảm ¾ còn 1.1/4 đh = 0,25đh.
        7 – Sét ở lưu niên có Kỷ chỉ vượng ở đại vận nên khắc Kim lưỡi kiếm ở đại vận và Đất trên thành ở trụ tháng, mỗi lực có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Kỷ đã sử dụng 0,5đk).

        Tổng số là 4,13đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

        Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 202/63 (tôi mới bổ xung thêm từ ví dụ này):

        "202/63 – Lực khắc của nạp âm với các nạp âm khác không bị giảm khi chi của nó bị xung hay bị khắc (trừ giả thiết 201/) nhưng bị giảm khoảng ¼ nếu can của nó là tranh hợp thật".

        Nếu áp dụng giả thiết này thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên nhưng là can tranh hợp thật nên lực khắc gỗ đồng bằng ở trụ giờ bị giảm 1/4 và bị giảm thêm 13% do bị sét khắc còn 1.3/4.0,87đh = 0,65đh.

        Tổng số là 4,78đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

        Nếu lực khắc của Kim lưỡi kiếm ở đại vận với gỗ đồng bằng không bị giảm 1/4 thì tổng số là 5,00đh. Số điểm này có thể là hơi cao (?).

        Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ vào tháng 8/2004 bởi ung thư tuyến tụy :
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6170/6260236058_8bc2b8135b_z.jpg[/img]

        8/2004 là năm GiápThân thuộc đại vận Quý Dậu, tiểu vận Mậu Thân và tháng 8 của lưu niên là Nhâm Thân.
        1 - Tứ Trụ này có Thân nhược, dụng thần là Ất ở trụ năm.
        2 – Có 3 Mậu hợp với Quý đại vận và tam hội Thân Dậu Tuất ngoài Tứ Trụ có 3 chi không hóa. Nhìn qua ta thấy tổng điểm hạn là một số âm vì mỗi Mậu trong Tứ Trụ khắc Quý có -0,5đh can trong khi chỉ có 0,5đh + 0,05đh của trụ tháng Mậu Dần TKĐX với lưu niên GiápThân (vì Giáp nhược ở tuế vận). Do vậy nếu giờ sinh là đúng và không có các điểm hạn dương do bên ngoài tác động vào mệnh của người này thì bắt buộc tam hội Thân Dậu Tuất phải bị phá mới có hy vọng giải thích được tai họa này.
        Nhưng với các giả thiết đã có thì chỉ có Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung nhau gần trong Tứ Trụ mới có thể phá được tam hội ngoài Tứ Trụ có 3 chi, mà ở đây chỉ có Dần xung Thân thái tuế. Vậy thì làm sao có thể «Bói» ra giả thiết như thế nào mà có thể phá được tam hội này ?

        Giả thiết này có thể phát biểu như sau :

        "Tam hội có 3 chi không hóa ngoài Tứ Trụ có thể bị phá khi có ít nhất một trụ của nó TKĐX với một trụ ở bên ngoài và có ít nhất 2 chi của nó bị xung hay bị khắc gần bởi 2 chi ở bên ngoài".

        Nếu áp dụng giả thiết này thì rõ ràng có lưu niên Giáp Thân TKĐX với trụ tháng Mậu Dần, Dần xung Thân và Thìn xung Tuất đều là xung gần, vì vậy tam hội đã bị phá.
        3 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh.
        4 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh
        5 – 2 Mậu trong Tứ Trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Mậu có -0,5đh can động và khắc Quý đại vận mỗi lực có 0,13đh.
        Dần trụ tháng xung Thân thái tuế có 0,65đh , vì vậy Thái tuế xung lại lệnh tháng có 0,5đh và hình lại Dần trụ tháng có 1.1/2 đh = 0,5đh (vì bị Dần xung).
        Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ có 1đh.

        Tổng số là 2,46đh. Số điểm này quá thấp là không thể chấp nhận được. Vậy thì đành phải bó tay sao ? Theo châm ngôn : "Còn nước còn tát" hay "Thà Giết Nhầm còn hơn Bỏ Sót" mà "Binh Pháp của Đạo XXX" gì đó đã dạy mang áp dụng vào đây thành "Thà Sai còn hơn Sót Bỏ" như sau :

        "Nếu lưu niên và trụ tháng của lưu niên có chi giống nhau cùng TKĐX với ít nhất 1 trụ trong Tứ Trụ mà các chi của chúng không bị hợp thì can, chi và nạp âm của trụ tháng này chỉ có thể tác động được với các can, chi và nạp âm trong tứ trụ và ngược lại nhưng điểm hạn của chúng bị giảm ít nhất 5/12".

        Nếu áp dụng giả thiết này thì Dần xung 2 Thân nên Thân thái tuế hình lại Dần chỉ bị giảm 1/3 còn 1.2/3 đh = 0,67đh.
        Dần xung Thân (của trụ tháng Nhâm Thân) bị giảm 5/12 còn 0,8.7/12 đh = 0,47đh và Thân trụ tháng này hình Dần có 0,65.7/12 đh = 0,39đh.
        Nhâm vượng ở lưu niên có 0,5đh can và khắc Bính trụ ngày có 1.1/2 đh = 0,5đh. Bính trụ ngày được lệnh nhưng nhược ở lưu niên có -0,5đh (các điểm hạn can không bị giảm vì chúng không phải là các điểm hạn xung khắc hay hình hại nhau).
        Kim lưỡi kiếm ở trụ Nhâm Thân có Nhâm vượng ở lưu niên khắc Gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.1/2 đh = 0,5đh.
        Trụ tháng Mậu Dần TKĐX với trụ Nhâm Thân có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Mậu được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). Có 3 trụ TKĐX với nhau có thêm 0,1đh.

        Tổng số là 4,87đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được

        (Chú ý : ở đây ta mới chỉ xét đến các thông tin giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận, còn nếu tai họa này là do các thông tin bên ngoài tác động vào mệnh của người này gây lên thì giả thiết này là sai).
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 29-10-12 lúc 18:50
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      14. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)

      15. #28
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ tham khảo:

        Trong chủ đề "Giải đáp các thắc mắc về khoá học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp" bác Học Hỏi đã hỏi tôi về cách tính điểm hạn của tai họa sau :

        "Tôi có 1 người bạn cùng tuổi. sinh ngày 31-7-1930 giờ Hợi. Ngày 7-9-2011 bạn tôi bị sốt mấy ngày, ngày 20 hết sốt thì sáng 21 khi ngủ dậy thấy bị liệt 1 tay phải, phải đi nằm viện mãi đến giữa tháng 10 mới gần bình phục hoàn toàn".

        Sơ đồ tính điểm hạn tháng 9/2011 :
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6031/6248247842_bc6833b944_z.jpg[/img]

        9/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Tân Mão và tiểu vận Quý Dậu.
        1 – Tứ Trụ này có Thân vượng (vì Kiêu Ấn sinh được 50% ddvcủa nó cho Thân, Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Đinh tàng trong Ngọ trụ năm.
        2 - Trong Tứ Trụ có lục hợp của 2 Ngọ hợp với Mùi là tranh hợp giả không hóa.
        Đến đại vận Tân Mão và năm Tân Mão có tam hợp Hợi Mão Mùi có 4 chi không hóa phá tan lục hợp. Dậu tiểu vận tử tuyệt tại tuế vận xung 2 Mão không phá được tam hợp có 4 chi này.
        3 - Dụng thần Đinh nhược ở lưu niên có 0đh.
        4 - Nhật can Nhâm tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
        5 - Tuế vận cùng gặp có 0,25đh.(vì 2 Tân nhược ở tuế vận).
        Tổng số là 1,25đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

        Nếu như tai họa này không phải do các nguyên nhân tác động từ bên ngoài gây ra thì ta bắt buộc phải sử dụng đến tháng 9 mà tai họa đã xẩy ra là tháng Đinh Dậu nó TKĐX với tuế vận. Nếu áp dụng giả thiết 179/60 thì trụ tháng của lưu niên là Đinh Dậu TKĐX với 2 trụ Tân Mão đã phá tan tam hợp cục có 4 chi (bới vì 2 trụ là Mão của tam hợp không hóa đều bị TKĐX nên ta có thể coi tam hợp cớ 4 chi chỉ như có 3 chi).
        6 - Ta có thêm 0,15đh của Mão đại vận xung Dậu tiểu vận và 1,3đh của Dậu tiểu vận khắc Mão thái tuế. Dậu tiểu vận có điểm hạn của 2 hung thần nhưng bị Mão đại vận xung mất hết.

        Tổng số là 2,7đh. Số điểm này cũng không thể chấp nhận được.

        Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

        "Nếu trụ tháng của lưu niên chỉ TKĐX với 2 trụ của tuế vận cùng gặp thì can, chi và nạp âm của trụ tháng này chỉ có thể tác động tới các can, chi và nạp âm của tuế vận và ngược lại nhưng các điểm hạn của các lực này bị giảm ¼ cũng như can chi đại vận với can chi của trụ tháng này được coi như cách nhau 1 ngôi và độ vượng suy của can này được xác định tại chi của nó".

        Nếu sử dụng giả thiết này thì ta có thêm các điểm hạn sau :
        7 – Mão đại vận xung Dậu trụ tháng của lưu niên có 0,3.1/2.3/4 đh = 0,11đh.
        Dậu trụ tháng này khắc Mão thái tuế có 1,3.3/4 đh = 0,98đh.
        Đinh trụ tháng này vượng ở Dậu nên có -1đh can và khắc 2 Tân có 1.4.1/2.3/4 đh = 0,53đh, trong đó lực khắc Tân đại vận bị giảm thêm ½ còn 0,53.1/2 đh = 0,27đh (vì cách 1 ngôi). Đinh có 1 cát thần có -0,25đh (điểm hạn can động và của các thần sát không bị giảm ¼ vì nó không phải là điểm hạn xung, khắc, hình, hại).
        8 - Trụ tháng Đinh Dậu TKĐX với 2 trụ giống nhau là Tân Mão, vì vậy mỗi lực bị giảm ¼ và bị giảm thêm ¼ do giả thiết trên còn 1.3/4.3/4 đh = 0,56đh. Có 3 trụ TKĐX với nhau có thêm 0,1đh.

        Tổng số là 4,56đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

        Trường hợp này kết hợp với trường hợp trên của Steve Jobs thì chúng ta còn thiếu trường hợp trụ tháng của lưu niên TKĐX với cả tuế vận và các trụ trong Tứ Trụ.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      16. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      17. #29
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Bài 27 - Điểm hạn và tổng điểm hạn được giảm...

        Chương 15

        Điểm hạn và tổng điểm hạn được giảm

        1 - Tam hợp .

        263/5 – Nếu giữa tứ trụ và tuế vận có tam hợp không hóa có ít nhất 4 chi, trong chúng có ít nhất 3 chi trong tứ trụ thì điểm hạn được giảm 1đh và từ chi thứ 4 trở nên mỗi chi được giảm thêm 0,25đh (riêng chi tiểu vận chỉ được giảm thêm 0,13đh), nếu 3 chi trong tứ trụ tạo thành tam hợp có chi tháng thì được giảm thêm 0,5đh.
        264/(7;14;32) - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận có tam hợp cục có từ 4 chi trở nên, trong đó có ít nhất 3 chi trong tứ trụ và tam hợp có ít nhất 4 chi có điểm hạn thì điểm hạn mới được giảm 1đh và từ chi thứ 4 có điểm hạn trở nên, mỗi chi được giảm thêm 0,25đh (riêng chi tiểu vận chỉ được giảm thêm 0,13đh) và khi đó nếu trong tứ trụ có 3 chi tạo thành tam hợp có chi tháng thì điểm hạn mới được giảm thêm 0,5đh.
        (Chú ý : Các chi trong tứ trụ của tam hợp cục này đã hóa cục có cùng hành từ khi mới sinh thì các chi này mới không có điểm hạn).

        265/35 - Giữa tứ trụ với tuế vận có tam hợp cục có từ 4 chi trở nên, trong đó có ít nhất 3 chi trong tứ trụ, nếu 2 trong 3 chi này giống nhau mà tam hợp cục có hành giống với hành của 2 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm ½ , còn nếu 2 trong 3 chi này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của tam hợp cục thì tổng điểm hạn chỉ được giảm 1/3.

        2 – Tam hội trong và ngoài tứ trụ

        266a/ - Tam hội ngoài tứ trụ, nó nghĩa là chỉ khi có thêm chi của tuế vận mới có tam hội.
        266b/ - Tam hội trong tứ trụ là trong tứ trụ đã có đủ 3 chi để tạo thành tam hội.
        266c/50 - Một trụ được coi là động khi can, chi hay nạp âm của nó xung hay khắc với các can, chi hay nạp âm khác cũng như can hay chi của nó hợp với tuế vận (nếu nạp âm bị khắc hay khắc với các nạp âm khác không có điểm hạn thì nó được coi là tĩnh).
        266d/52 - Nếu tam hội trong tứ trụ hợp với tuế vận thì cả 3 trụ của nó được coi là động.
        267/(26;18;210) - Nếu tam hội ngoài tứ trụ có ít nhất 2 chi khác nhau trong tứ trụ thì điểm hạn được giảm 1đh và từ chi thứ 4 trở đi mỗi chi được giảm thêm 0,25đh (chi tiểu vận chỉ được giảm thêm 0,13đh), nhưng nếu các chi của tam hội tự hình và hại được với nhau thì tổng điểm hạn không được giảm.
        268/34 - Tam hội cục ngoài tứ trụ có ít nhất 3 chi trong tứ trụ, nếu 2 trong 3 chi này giống nhau mà tam hội cục có hành giống với hành của 2 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm ½ , còn nếu 2 trong 3 chi này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của tam hội cục thì tổng điểm hạn chỉ được giảm 1/3.
        269/48 - Nếu trong tứ trụ có tam hội mà 3 chi của nó không liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm 1/3 khi có ít nhất 2 trụ của nó động.
        270/49 - Nếu 3 chi của tam hội trong tứ trụ liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm ½ khi có ít nhất 2 trụ của nó động.
        272/51 - Tam hội trong tứ trụ không được giảm thêm điểm hạn của tam hội ngoài tứ trụ.

        3 – Hình và Hại

        272b/ 206 - Tổng điểm hạn được giảm 5/12 nếu tất cả 7 chi của tứ trụ, tuế vận và tiểu vận hình và hại nhau, và giữa hai mức 1/3 và 5/12 nếu chỉ có 6 chi hình và hại nhau chỉ khi các chi này không bị hợp.

        4 – Hóa cục có các chi giống nhau trong tứ trụ

        273/33 - Nếu trong tứ trụ có 2 chi giống nhau mà 1 trong 2 chi này cùng 1 chi khác trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của 2 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm 1/3.
        274/36 - Nếu trong tứ trụ có ít nhất 2 chi giống nhau mà tất cả 4 chi trong tứ trụ đã hóa thành bán hợp cục hay lục hợp cục từ khi mới sinh có hành giống với hành của các chi giống nhau này thì mặc dù chúng có hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của các chi giống nhau này thì tổng điểm hạn không được giảm.
        275/82 - 4 chi trong tứ trụ hợp với nhau tạo nên 1 bán hợp hay lục hợp không hóa và trong chúng có 2 chi giống nhau, nếu nó không hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của các chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức ½ và 7/12, còn nếu nó hợp với tuế vận hóa cục vẫn là bán hợp hay lục hợp thì tổng điểm hạn được giảm 7/12 (?).
        276/42 - Nếu trong tứ trụ có 2 chi giống nhau và trong chúng chỉ có 1 trong 2 chi này hợp với 1 chi khác trong tứ trụ hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của 2 chi giống nhau này còn chi thứ hai không bị hợp thì tổng điểm hạn được giảm ¼.
        277/37 - Nếu trong tứ trụ có 3 chi giống nhau, khi 1 trong 3 chi này hợp với chi thứ 4 trong tứ trụ hóa cục có hành giống hành của 3 chi này thì tổng điểm hạn được giảm 1/3.
        278/38 - Nếu trong tứ trụ có 3 chi giống nhau, khi tất cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm 2/3, còn nếu chỉ có 3 chi giống nhau trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12.
        279/ - Nếu 3 chi trong tứ trụ giống nhau, khi có 3 chi hay cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm...?
        280/ - Nếu 4 chi trong tứ trụ giống nhau, khi cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành giống hay khác với hành của 4 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm .... ?.

        (Chú ý : Tổng điểm hạn được giảm theo các chi giống nhau trong tứ trụ và giảm theo tam hợp hay tam hội trong tứ trụ hay ngoài tứ trụ là khác nhau).

        Chương 17

        Dự đoán về thời gian và các lĩnh vực dễ xẩy ra hạn

        I – Dự đoán về thời gian xẩy ra tai họa

        1 - Các tháng trong một năm

        305/ - Nếu một trong các nguyên nhân chính gây ra tai họa là hóa cục thì hạn thường xẩy ra vào mùa có hành giống với hành của hóa cục này, nhất là vào các tháng có chi giống với các chi trong tứ trụ của hóa cục này.
        306/ - Nếu một trong các nguyên nhân chính gây ra tai họa bởi các chi trong tứ trụ xung hay khắc thái tuế thì tai họa thường xẩy ra vào các tháng của lưu niên có các chi giống như vậy.
        307/ - Nếu một trong các nguyên nhân chính gây ra tai họa là các trụ trong tứ trụ và tuế vận TKĐX với nhau thì tai họa dễ xẩy ra vào các tháng của năm đó TKĐX với lưu niên hay các trụ trong tứ trụ....

        2 - Tiểu vận và các tháng của năm sinh
        308/ - Tại một năm (lưu niên) nếu hạn đã xẩy ra ở tiểu vận đầu thì sang tiểu vận sau thường không có hạn, mặc dù tổng điểm hạn ở tiểu vận sau vẫn cao (bởi vì đa số các điểm hạn đã gây ra tai họa ở tiểu vận đầu).
        309/ - Tại năm sinh nếu hạn đã phát ra ở một tháng nào đó thì các tháng sau nó không còn khả năng gây ra hạn, cho dù ở các tháng đó vẫn có các điểm hạn cao (bởi vì....tương tự như câu trên).

        ..................................................

        Giả thiết số 309/ đã kết thúc phần lý thuyết chính của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ (đến nay đã có thêm hàng chục giả thiết mới). Sau phần lý thuyết này là 136 ví dụ minh họa cho lý thuyết. Thực chất của 136 ví dụ này là những ví dụ mẫu để từ đó đưa ra 309 giả thiết trên. Trong các ví dụ mẫu này tôi đã diễn giải chi tiết cách xác định dụng thần và cách tính các điểm hạn theo 309 giả thiết này cũng như đưa ra cách giải cứu....

        Tới bây giờ từ các ví dụ mới tôi vẫn tiếp tục đưa ra những giả thiết mới. Số lượng các giả thiết là khá nhiều, đến nỗi tôi cũng không thể nhớ nổi chúng mà thường là phải xem lại như tra Từ Điển khi nghiên cứu 1 ví dụ nào đó. Tôi hy vọng sau này có ai đó sẽ rút gọn hay tóm tắt được các giả thiết này bằng một lý thuyết hay những cách nào đó (tất nhiên chỉ với các giả thiết đã được kiểm tra là đúng).

        Phần lý thuyết sau thuộc về phần “Mở Rộng“ của cuốn sách này. Tôi sẽ trình bầy nội dung chúng qua các bài :

        Bài 28 : Khắc phối hôn (có các giả thiết từ 310 đến 332. Phần này có 28 ví dụ mẫu).
        Bài 29 : Con cái khắc cha mẹ và cha mẹ khắc con cái (có các giả thiết từ 333 đến 348 . Phần này có 16 ví dụ mẫu).
        Bài 30 : Dự đoán về phát Tài
        Bài 31 : Dự đoán về phát Quan.

        Hai bài cuối cùng này tôi mới đang nghiên cứu nên chưa có khả năng đưa được số điểm vào để Cân Đo Đong Đếm xem chúng phát mạnh hay nhẹ như phần dự đoán tai họa.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      18. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      19. #30
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ mẫu:

        Ví dụ 48 (trong cuốn Giải Mã Tứ Trụ):
        [IMG][img]http://farm9.staticflickr.com/8043/8147686054_a46ec3697c_z.jpg[/img]

        9/2/2001 là năm Tân Tị thuộc đại vận Giáp Thìn và tiểu vận Giáp Dần .
        1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn đủ nên dụng thần đầu tiên phải là thực thương/ Nhâm tàng trong Thân trụ tháng.
        2 – Trong trụ có tam hội Thân Dậu Tuất hóa Kim cục.
        3 - Dụng thần Nhâm tử tuyệt ở lưu nên có 1đh và nhập mộ ở đại vận nên có 1đh.
        4 - Nhật can Tân tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
        5 – Đinh trụ năm vượng ở lưu niên khắc 2 Tân nên lực khắc Tân lưu niên có 1,4.1/2 đh = 0,7đh còn khắc Tân trụ ngày có 0,7.1/2 đh = 0,35đh (vì cách 1 ngôi).
        Tân trụ ngày được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên khắc Giáp đại vận chỉ có 0,25.0,65.1/2 đh= 0,08đh (giảm 35% vì bị Đinh khắc và giảm 1/2 do khắc Giáp trái dấu).
        Giáp đại vận nhược ở tuế vận khắc 2 Mậu trong tứ trụ, mỗi lực có 0đh và Giáp có 1 cát thần có -0,25.92%đh = -0,23 đh (vì Giáp đại vận bị Tân trụ ngày khắc).
        2 Mậu trong tứ trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Mậu có 1đh.
        Giáp tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh. Dần tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh và 3 hung thần có 3 .0,13đh.
        Tân lưu niên có 1 cát thần có 0đh (vì Tân tử tuyệt ở tuế vận).
        6 - Dần tiểu vận hình và hại thái tuế, vì vậy mỗi lực có 0,5đh.
        7 - Lửa dưới núi trụ năm có Đinh được lệnh nên khắc đất dịch chuyển trụ tháng có 1đh (phải thừa nhận), vì vậy đất dịch chuyển không khắc được Lửa đèn ở đại vận.
        Kim giá đèn không bị gỗ đồng bằng khắc bởi vì có lửa yếu là lửa đèn (vì theo các sách cổ đã viết như vậy, hy vọng sẽ có bạn đọc giúp tôi giải thích điều này).

        Tổng số là 7,52đh. Số điểm này quá cao là không thể chấp nhận được.
        Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra và sử dụng giả thiết 269/48 thì tổng số điểm hạn được giảm 1/3 còn 7,52.2/3 đh = 5,01đh (vì cả 3 trụ của tam hội cục đều động). Số điểm này mới có thể chấp nhận được .

        Các nguyên nhân chính gây ra hạn này là các điểm hạn của nạp âm, hình, hại và năm Tị có Hỏa quá vượng khắc Kim (tức Kim bị thương tổn chứ không phải do Kim quá vượng như VIETHA đã dự đoán, mặc dù đoán đúng năm Canh Tân). Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu và kết hợp với giải cứu về hình và hại.

        Người này đã may mắn thoát chết bởi vì anh ta sống ở phương tây bắc nên Thủy nhiều phù trợ cho dụng thần Nhâm (thủy) và nó làm cho Hỏa bị suy yếu đi một phần (tam hội ở đây đã chứng minh đúng như thực tế là đã có các Quý Nhân và Thần Linh phù hộ). Nếu anh ta biết trước để giải cứu thêm về hình và hại thì có thể làm cho hạn nhẹ thêm hoặc không có (thực tế đây là một vụ ám sát chính trị bằng khí độc).
        Có Dần tiểu vận hình và hại Tị thái tuế nên vào tháng Dần và ngày Quý Mão (ngày 9/2/2001) đã TKĐX với trụ năm Đinh Dậu, đó chính là 2 nguyên nhân đã tác động làm tai họa xẩy ra.
        Có Hỏa (Đinh) khắc Kim (Tân), vì vậy người này đã bị phẫu thuật phổi bởi vì Hỏa đại diện cho tim, máu,... còn Kim đại diện cho phổi, máu,... và dao, kéo,...

        Tứ Trụ của ví dụ này chính là Tứ Trụ trên bìa của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ” và nó cũng chính là Tứ Trụ trong chủ đề “Tứ Trụ của Thánh Nhân” trong mục Tử Vi hay chủ đề “Thánh Nhân trong Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm” trong mục Tử Bình-Bát Tự tại trang web "Diễn đàn Lý Học Đông Phương" (trong đó tôi có nói qua về tiểu sử của người này).

        Người có Tứ Trụ này là bạn thân của tôi học bên khoa toán. Mặc dù khác khoa nhưng chúng tôi chơi rất thân với nhau.... và cùng vượt biên giới sang tị nạn tại Đức. Và mọi cái được bắt đầu từ các câu hỏi của bạn tôi: “Tại sao tai họa lại xẩy ra đúng ngày Quý Mão (9/2/2001) nó thiên khắc địa xung với trụ năm Đinh Dậu ?”... “Tại sao nó không lệnh đi trước hay sau một ngày?” Là một nhà “Vật Lý” thất nghiệp (đang tị nạn) tôi đã cố gắng suy nghĩ nhưng vẫn không thể giải thích được. Từ hồ nghi rồi đi đến khẳng định rằng: Không, không.... không thể là duy tâm, mê tín dị đoan như cả một hệ thống tuyên truyền trong cái xã hội “Văn Minh-Khoa Học” đã nhồi nhét vào đầu những người như chúng tôi từ khi mới lọt lòng mẹ. Chắc chắn nó phải được xây dựng trên một lý thuyết chính thống của Khoa Học thì mới tồn tại và còn chính xác đến ngày nay như vậy.

        Vâng chính từ điều khẳng định này mà những kiến thức Vật Lý của tôi sau 4 năm học ở trường đã không uổng phí, nhất là khi đang thất nghiệp (tị nạn) này. Đó là lý do sự ra đời của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ”.

        Tất cả những gì tôi muốn nói thêm ở đây đã được viết trong “Lời Nói Đầu” của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ”.
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 02-11-12 lúc 21:27
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      20. Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)

      Trang 3/5 đầuđầu 12345 cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Danh ngôn về Đàn Bà
        By thulankl in forum Thư Giãn - Giao Lưu
        Trả lời: 1
        Bài mới: 03-05-11, 09:18
      2. Ma y thần tướng diễn thi
        By hoa mai in forum Nhân tướng học
        Trả lời: 1
        Bài mới: 14-03-11, 04:38
      3. Thông điệp từ những người anh
        By hoa mai in forum Khoa Học - Kỹ Thuật
        Trả lời: 4
        Bài mới: 11-03-11, 23:02
      4. Người Việt và tiếng Việt tại Úc
        By hoa mai in forum Xã Hội - Con Người
        Trả lời: 0
        Bài mới: 21-01-11, 13:21

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •