Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 3/13 đầuđầu 12345 ... cuốicuối
    kết quả từ 21 tới 30 trên 130
      1. #21
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        ( Ngũ ) thông quan

        71 - Đinh dậu Bính ngọ Đinh dậu Kỷ dậu
        Hỏa kim đấu nhau , lấy thổ thông quan là phú cách , không có thổ tất không thể dụng kim vậy o Là trụ của Cối kê sư giang Vạn Bình Quân o
        72 - Quý hợi Canh thân Giáp dần Ất hợi
        Kim mộc đấu nhau , lấy thủy thông quan , lấy sát ấn tương sanh làm dụng o Là trụ của Lục Kiến Chương o
        Pháp thông quan rất đỗi trọng yếu , như nguyên cục không có thần thông quan, may gặp vận trình điền chổ khuyết đó thì cũng phát triển o
        Dụng thần là như vậy , như có hỉ thần và kị thần , lại gặp vận hành nơi thông quan , điều hòa khí thành tốt o
        Như tài ấn đều thanh, lấy quan sát vận làm tốt đẹp, tháng kiếp dùng tài cách, lấy thực thương vận làm tốt đẹp. Tức là thông quan vậy o
        Như thế khéo thuận dụng thì, tất tài mừng gặp được thực thần sanh, tài sanh quan có thể hộ tài, quan hỉ thấu tài tương sanh , sanh ấn khả để hộ quan ; ấn hỉ quan sát tương sanh , kiếp tài có thể hộ ấn, thực hỉ thân vượng tương sanh , sanh tài có thể hộ thực o
        Như nghịch dụng thì, tất thất sát hỉ thực thần chế phục , kị tài ấn tư phò, thương quan mừng có ấn đeo được chế phục , sanh tài có thể hóa thương, dương nhận mừng được quan sát chế phục, kị không gặp được quan sát, tháng kiếp hỉ thấu quan chế phục , lợi dùng tài thấu thực để hóa kiếp o Cách dùng thuận nghịch là vậy o
        Tài mừng gặp thực thần tương sanh , ví như giáp lấy kỷ thổ làm tài , lấy bính làm thực thần ,
        tài lấy thực thần làm gốc, tài kỷ thổ mừng gặp bính hỏa tương sanh vậy o
        Sanh quan để hộ tài như, giáp lấy giáp ất làm tỉ kiếp, canh tân làm quan sát , có tỉ kiếp thì chia cướp tài tinh, tài sanh quan sát nhờ quan sát có thể khắc chế bớt tỉ kiếp, đó là sanh quan tức để hộ tài vậy o
        Quan hỉ thấu tài để tương sanh , như giáp lấy tân làm quan , lấy kỷ thổ làm tài, quan lấy tài làm gốc , tân mừng gặp kỷ thổ chi tương sanh vậy o
        Sanh ấn để hộ quan như , giáp lấy nhâm quý làm ấn , canh tân làm quan , quan sanh ấn ; đinh hỏa là thương, đinh hỏa khắc chế quan tinh , mừng có nhâm quý ấn chế thương để hộ quan, nên nói sanh ấn để hộ quan vậy o
        Ấn mừng gặp quan sát tương sanh, kiếp tài hộ ấn, giáp lấy nhâm quý làm ấn, mậu kỷ làm tài, kị tài phá ấn, có tỉ kiếp chia tài, tức vì thế hộ ấn vậy.
        Thực thần do ta sanh giả ra , hỉ thân vượng tương sanh o
        Sanh tài để hộ thực là, ví như giáp lấy bính hỏa làm thực, kỷ thổ làm tài , nhâm quý làm ấn, thực thần kị bị ấn chế, có tài phá ấn, tức vì thế hộ thực vậy (thượng lấy giáp là lệ, loại thôi) o
        Tài quan ấn lấy phối hợp âm dương theo chiều thuận , thực thần lấy đồng tính tương sanh theo chiều thuận, theo đường chánh mà phò trợ hay ức chế , vì thế nên khéo thuận dụng vậy o
        Thất sát tức là , khắc mà cùng tính (như dương kim khắc dương mộc, âm kim khắc âm mộc ), tính cường bạo o Thân sát tương quân , nên được chế phục o
        Tài có thể tiết bớt thực để sanh sát , ấn có thể chế thực để hộ sát , nên nói sát kị tài ấn tư phò là vậy o
        Thương quan tức là , tương sanh mà khác tính, nhật nguyên nhược , mừng có ấn chế phục thương quan , nhật nguyên cường , hỉ thương quan sanh tài, tài có thể tiết bớt khí của thương quan chi , tức vì thế hóa thương vậy o
        Dương nhận hỉ quan sát là như , nhật nguyên gặp ngôi vượng , chỉ đối với 5 can dương , nên gọi là dương nhận o
        Cực vượng không có ức chế , tất đầy quá thì phải bị đổ , nên nói mừng gặp quan sát chế phục Nguyệt kiếp là , nguyệt lệnh lộc kiếp , nhật nguyên đắc giờ lệnh khí , tối hỉ quan vượng o
        Nên dùng tài , tức là nên lấy thực thương làm chìa khóa , lấy thực hóa kiếp , chuyển sang sanh tài o
        Dùng sát tất thân sát đều đình , nên dùng thực chế o
        Các phép ấy đều là lấy phò trợ hay ức chế tháng thìn lệnh làm dụng , chẳng thiện nên phải nghịch dụng vậy.
        Đời nay chẳng biết chuyên chú đề cương , xem hỉ kị hết thảy đều quy về nguyệt lệnh , rồi mới xem can chi tứ trụ, thậm chí thấy chánh quan bội ấn , chính là quan ấn song toàn , lại đi luận như ấn thụ dùng quan vậy, thấy tài thấu thực thần, chẳng lấy tài gặp thực sanh , mà cho là thực thần sanh tài , lại luận như thực thần sanh tài, thấy thiên ấn thấu thực , chẳng lấy tiết thân làm đẹp , lại cho là kiêu thần đoạt thực , nên dùng tài chế, lại đi luận như thực thần gặp kiêu, thấy sát gặp thực chế mà lại lộ ấn thì , chẳng chịu lấy khử thực hộ sát , mà cho là sát ấn tương sanh, lại đi luận như ấn thụ gặp sát, đến như sát cách gặp nhận , chẳng lấy nhận giúp thân chế sát , mà cho là lấy thất sát chế nhận lại đi luận như dương nhận lộ sát o Đó đều do chẳng thông nguyệt lệnh mà luận bậy vậy.

        Chánh quan bội ấn tức là nguyệt lệnh chánh quan , hoặc dùng ấn hóa quan, hoặc gặp phải thực thương cản trở quan nên phải lấy ấn chế thực thương để hộ quan vậy o
        Ấn thụ dùng quan tức là nguyệt lệnh ấn thụ , nhật nguyên nhờ ấn tư sanh mà vượng , can thấu 1 quan , mà quan có tài sanh , là quan thanh ấn chánh , quan ấn song toàn , tuy đều có quan ấn , nhưng đeo ấn nên kị tài phá ấn o
        Ấn thụ dùng quan cũng mừng gặp tài sanh quan , nhưng phép dùng tiệt nhiên bất đồng vậy o
        Tài thấu thực tức là nguyệt lệnh là tài , thêm can thấu thực thần , nhờ đó mà hóa kiếp hộ tài.
        Thực thần sanh tàitức là nguyệt lệnh là thực thần , gặp tài tất khí thực thần lưu thông , kị gặp kiếp o
        Thiên ấn thấu thực tức là nguyệt lệnh thiên ấn tư sanh nhật nguyên , thực thần tiết thân làm đẹp, kị gặp tài tinh o
        Thực thần gặp kiêutức là nguyệt lệnh thực thần , 1 chi gặp kiêu , là kiêu thần đoạt thực, nên dùng tài chế kiêu để hộ thực o
        Sát gặp thực chế được ấn lộ tức là nguyệt lệnh gặp sát , bị chi thực thần chế thái quá , lộ ấn thì khử thực hộ sát.
        Ấn thụ gặp sát tức là nguyệt lệnh ấn thụ mà ấn khinh , mừng gặp sát để sanh ấn , vậy là sát ấn tương sanh o
        Sát cách gặp nhận tức là nguyệt lệnh thất sát , nhật nguyên tất suy , may là ngày gặp nhận , lấy nhận giúp thân để chống lại sát vậy o
        Dương nhận lộ sát tức là nguyệt lệnh dương nhận , nhật nguyên tất vượng , lấy thất sát để chế nhận , là sát nhận cách vậy.

        Thảy đều do chưa từng nhận rõ nguyệt lệnh , nên lộn ngôi chủ khách , tuy sai 1 ly , mà đi 1 dặm vậy. Nay đã rõ những chổ trên kế hợp xem kỹ thêm ngày chủ vượng hay suy , chớ nên câu chấp. Cũng có khi nguyệt lệnh không có dụng thần thì làm sao ? Như mộc sanh dần mão, tháng ngày như nhau, chẳng thể lấy vốn là thân làm dụng , tất xem tứ trụ có tài quan sát thực thấu can hay hội chi , lấy riêng ra mà dùng. Đều lấy nguyệt lệnh là chủ , rồi mới tìm dụng , gặp cách gặp lộc tháng kiếp, không dụng tức là dụng thần vậy o
        Cách gặp lộc tháng kiếp , không hẳn thân phải vượng , nếu vượng thì hỉ khắc tiết , lấy tài quan sát thực là dụng, nếu nhược thì hỉ phò trợ , tức lấy ấn kiếp làm dụng o
        Như vậy dụng thần tuy không có ở nguyệt lệnh , nhưng mấu chốt chọn lấy dụng thần , tất tại nguyệt lệnh, gọi là khí nguyệt lệnh đương vượng nắm quyền hành trước tiên , rồi mới phối thêm các thần khác vậy o
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        diennien (26-01-14)

      3. #22
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Chương 9 : Luận dụng thần thành bại cứu ứng

        Dụng thần chuyên tìm ở nguyệt lệnh , phối với tứ trụ , tất có thành bại.
        Vì sao thành ?
        Như quan gặp tài ấn , lại không bị hình xung phá hại , quan cách thành vậy o
        Tài sanh quan vượng , hoặc tài gặp thực sanh mà thân cường đới tỉ, hoặc tài cách thấu ấn mà vị trí thỏa đáng , cả hai đều không tương khắc , thì tài cách thành vậy o
        Ấn khinh gặp sát , hoặc quan ấn song toàn , hoặc thân ấn đều vượng thì dùng thực thương để tiết khí, hoặc ấn nhiều gặp tài mà tài thấu căn khinh , ấn cách thành vậy o
        Thực thần sanh tài , hoặc thực đới sát mà không có tài , bỏ thực theo sát may thấu ấn , thực cách thành vậy o
        Thân cường thất sát gặp chế , sát cách thành vậy o
        Thương quan sanh tài , hoặc thương quan bội ấn mà thương quan vượng và ấn có căn , hoặc thương quan vượng, thân nhược mà thấu sát ấn , hoặc thương quan đới sát mà không có tài , thương quan cách thành vậy o
        Dương nhận thấu quan sát mà lộ tài ấn , lại không gặp thương quan , dương nhận cách thành vậy o
        Gặp lộc tháng kiếp , thấu quan mà gặp tài ấn , thấu tài mà gặp thực thương, thấu sát mà được chế phục , gặp lộc tháng kiếp cách thành vậy o
        Dụng thần đã định xong , thì phải xem kỹ lẽ thành bại cứu ứng o
        Quan gặp tài ấn tức là nguyệt lệnh chánh quan , thân vượng quan khinh mà tứ trụ có tài sanh quan, thân nhược quan trọng mà tứ trụ có ấn hóa quan, hay có chánh quan kiêm đới tài ấn, thành ra tài với ấn đều chẳng ngại ( xem tiết quan luận : chánh quan ấn ) , tất quan cách thành vậy o
        Hình xung phá hại , lấy xung là trọng , xung tức là khắc vậy o
        Như lấy mộc là quan , tất xung quan tất là kim là thương quan , nên nói lấy xung là trọng o
        Hình phá hại nên cân nhắc kỹ , chưa chắc đã là phá cách vậy (xem trụ Hồ Hán Dân chương cách cục cao đê) o
        Tài vượng sanh quan tức là nguyệt lệnh tinh vượng , tứ trụ có quan , tất tài vượng tự sanh quan, hoặc nguyệt lệnh tài tinh mà thấu thực thần , thân cường tất thực thần tiết tú , chuyển thành sanh tài, tài vốn kị tỉ kiếp, có thực thần tất chẳng kị nữa , nên tài có thực thần thì hóa tỉ kiếp vậy o
        Hoặc thấu ấn mà vị trí thỏa đáng tức là tài ấn cả hai đều không tương khắc vậy ( xem tiết tài cách bội ấn ). Như can năm thấu ấn , can giờ thấu tài , ở giữa cách nhau có tỉ kiếp , tất chẳng ngại, nếu ở giữa cách nhau quan tinh tất là tài vượng sanh quan , cũng chẳng ngại, như vậy là tài cách thành vậy o
        Ấn khinh gặp sát , hoặc quan ấn song toàn tức là nguyệt lệnh ấn thụ mà khinh, lấy sát sanh ấn , vậy là sát ấn tương sanh ; lấy quan sanh ấn , vậy là quan ấn song toàn. Nhưng thân cường ấn vượng , tất không thể dùng ấn , mà rất mừng thực thương tiết khí nhật nguyên cho đẹp o
        Nhược ấn quá nhiều , tất nên lấy tổn ấn làm dụng (vì như thổ nhiều kim vùi , thủy nhiều mộc trôi ngũ hành sanh khắc chế hóa nghi kị), tất nên bớt chổ dư , bù chổ thiếu , đó chính là dụng thần vậy o
        Vì vậy như tài thấu căn khinh , gặp vận sanh tài địa , giúp cái thiếu thành ra tốt đẹp vậy o
        Nhược tứ trụ tài không có căn , tất ấn tuy nhiều , cũng không thể dùng tài phá ấn, nguyên cục tài tinh quá vượng , ấn thụ bị thương , tất nên trở ngược lại lấy tỉ kiếp bỏ tài phò ấn làm tốt vậy o
        Như vậy là tùy theo cục mà chọn lấy tài hay không , không thể chấp nhất vậy o
        Nguyệt lệnh thực thần , tứ trụ thấy tài , là thực thần sanh tài , chính là cách vậy o
        Nếu tứ trụ thấu sát, tất thực thần chế sát làm dụng, kị tài a dua theo sát, nên lại nói không có tài mới tốt o
        Nếu như sát vượng mà thấu ấn , tất bỏ thực mà theo sát , nên lấy ấn hóa sát làm dụng, chỉ vì bỏ thực mà theo sát, nên tuy nguyệt lệnh thực thần, không thể lấy thực thần cách mà luận nữa o
        Tứ trụ như thấy kiêu ấn đoạt thực , tất bỏ thực mà theo sát là chánh , ấy là cũng thành cách vậy o
        Nguyệt lệnh thiên quan mà thân cường , tất lấy thực thần chế sát làm tốt đẹp , sát cách thành vậy o
        Như thân cường sát nhược , hoặc sát cường thân nhược , đều không thể lấy chế phục làm dụng, tất thân sát đều vượng , mới thành cách o
        Nguyệt lệnh thương quan , thân cường lấy tài làm dụng , tức là thương quan sanh tài, thân nhược lấy ấn làm dụng , tức là thương quan bội ấn o
        Thương quan vượng , ấn có căn , lấy vận sanh ấn địa làm tốt đẹp o Ấy là 2 cách chánh vậy o
        Như thương quan vượng mà thân nhược , nếu thấu sát ấn , tất nên lấy ấn chế thương , hóa sát tư thân làm dụng o
        Tuy nguyệt lệnh thương quan , nhưng cốt yếu là tại ấn o
        Thương quan đới sát mà không có tài , cũng giống như thực thần đới sát vậy o
        Lấy thương quan đè sát , tức là chế phục , kị tài a dua theo sát , nên nói không có tài mới thành cách vậy o
        Nguyệt lệnh dương nhận , lấy quan sát chế nhận , cách cục tối mỹ o Nhận vượng sát cường , uy quyền hiển hách, ấn tư nhận , tài sanh sát , nên nói gặp lấy cả tài ấn là cát , không nên ngại hĩ o
        Nhận vượng thì , tuy cũng có thể dùng thực thương tiết tú , nhưng vì chuyên dùng quan sát chế, nên lại không thể dùng thực thương , nên nói không có thương quan mới thành cách vậy o
        Gặp lộc tháng kiếp , thấu quan mà gặp tài ấn , tức cũng như quan cách, thấu tài mà gặp thực thương , tức cũng như tài cách ; thấu sát mà bị chế phục , tức cũng như sát cách o
        Lộc kiếp vốn là thân không thể dùng , phải theo lẽ phò trợ ức chế mà dùng , tức cũng như các cách trên vậy o
        Tại sao bại ?
        Quan gặp thương khắc hình xung, quan cách bại vậy, tài khinh tỉ trọng, hay tài thấu thất sát, tài cách bại vậy, ấn khinh gặp tài, hoặc thân cường ấn trọng lại thấu sát, ấn cách bại vậy, thực thần gặp kiêu , hoặc thực sanh tài lộ sát , thực thần cách bại vậy, thất sát gặp tài không có chế phục , thất sát cách bại vậy, thương quan không phải là kim thủy mà gặp quan , hoặc thương sanh tài rồi tài sanh tiếp sát, hoặc thương bội ấn mà thương khinh thân vượng , thương quan cách bại vậy, dương nhận không có quan sát , nhận cách bại vậy.
        Gặp lộc tháng kiếp , không có tài quan , thấu sát ấn , gặp lộc tháng kiếp cách bại vậy o
        Bại tức là điều cấm kị của cách bị phạm vậy o Nguyệt lệnh dụng thần , tất nên sanh vượng o
        Chánh quan gặp thương , tất quan tinh bị chế , xung quan tinh , không phải thương thì là nhận , đều là phá cách o
        Tài khinh tỉ trọng , tất tài bị phân đoạt, tài thấu thất sát , tài không còn của ta nữa mà a dua theo sát , trở thành giúp cái khắc ta , là kị của tài cách vậy o
        Ấn khinh gặp tài , tất ấn bị tài phá ; Hoặc như thân cường ấn trọng , cần lấy thực thần tiết bớt vượng khí của thân, nhưng không gặp thực thần lại thấu sát , tất sát sanh ấn , ấn lại sanh thân , là cấm kị của ấn cách vậy o
        Thực thần gặp kiêu ấn , tất thực bị kiêu ấn cướp đoạt hĩ, Thực thần sanh tài vốn là cách tốt, lộ sát tất tài chuyển ra sanh sát , đều là phá cách vậy o
        Thất sát lấy chế làm dụng , có tài sanh mà không bị chế , tất thất sát thả sức tung hoành nên thân nguy hĩ o
        Thương gặp quan là kị o Duy thương là kim thủy, kim hàn thủy lãnh, điều hậu là cấp bách, có thể gặp quan, còn ngoài ra , gặp quan đều không thể dùng thương o
        Thương quan sanh tài , cũng như thực thần sanh tài , đới sát tất tài chuyển ra sanh sát , là cấm kị của cách vậy o
        Thân vượng dùng thương , vốn không dùng bội ấn, Thương khinh gặp ấn , tất thương bị ấn sở, tú khí không thể phát ra, nên nói là bại cách vậy. Dương nhận lấy quan sát chế nhận là dụng, như không quan sát , tất nhận vượng không bị ức chế bớt hĩ o
        Gặp lộc tháng kiếp , ngày chủ tất vượng , hỉ tài sanh quan , không tài quan mà thấu sát ấn , tất sát sanh ấn, chuyển thành tinh thân , vượng không có cực , đều là phá cách vậy o Thành cách phá cách , khuôn phép có nhiều, cũng có khi nhân hội hợp biến hóa mà ra thành bại vậy , xem thêm tiết dụng thần biến hóa o
        Trong thành có bại , tất là đới kị ; trong bại có thành , toàn nhờ cứu ứng o
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        diennien (26-01-14)

      5. #23
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Đới kị là sao ?

        Như chánh quan gặp tài mà lại gặp thương ; Quan thấu nhi mà lại bị hợp, Tài vượng sanh quan mà lại bị thương hay bị hợp ; Ấn thấu thực vốn có thể tiết khí , mà lại gặp tài lộ, Thấu sát vốn có thể sanh ấn , mà lại thấu tài , khử ấn giữ lại sát ; Thực thần đới sát ấn mà lại gặp tài, Thất sát có thực chế mà lại gặp ấn ; Thương quan sanh tài mà tài lại bị hợp. Bội ấn mà ấn lại bị thương , thấu tài mà lại gặp sát , thảy đều là đới kị vậy o
        Đới kị là tứ trụ có thần thương dụng phá cách , tức là cảm bệnh ; cứu ứng tức là , thuốc khử bỏ bệnh vậy o
        Chánh quan gặp tài , tài sanh quan vượng , cách thành ; tứ trụ lại thấu thương , tất quan tinh bị thương phá cách o
        Nguyệt lệnh chánh quan , can đầu thấu ra , mừng thành cách , mà lại bị hợp, như giáp lấy tân làm quan , sanh tháng dậu , thấu ra tân kim , chánh quan cách thành hĩ, như lại thấu bính, bính tân tương hợp , quan tinh bất thanh thành ra phá cách hĩ o
        Tài vượng sanh quan tức là nguyệt lệnh tài tinh , sanh quan là dụng , cũng giống như chánh quan gặp tài, gặp thương tất quan bị thương , gặp hợp tất tài bị hợp mất , quan cô không có người giúp , đều là phá cách o
        Ấn thấu thực để tiết khí tức là nguyệt lệnh ấn thụ , nhật nguyên sanh vượng, thấu thực để tiết thân cho đẹp , ấn cách thành vậy ; như lại gặp tài lộ , tất tài tổn ấn là bệnh , phá cách hĩ o
        Thấu sát sanh ấn , sát gặp ấn hóa , ấn được sát sanh , thành cách vậy, nếu như lại thấu tài , tấc tài phá ấn mà a dua theo sát thành ra phá cách vậy o
        Thực thần đới sát ấn tức là nguyệt lệnh thực thần mà không có tài , bỏ thực mà theo sát ấn, chính là uy quyền hiển hách ; hoặc lấy ấn tư thân , ấy thực chế sát đều chẳng ngại , cũng là thành cách. Nếu như lại gặp tài , thực sanh tài , tài đến a dua theo sát phá ấn , cách cục bỏ xó hĩ o
        Thất sát gặp thực chế tức là lấy thực chế sát là dụng , nếu như lại gặp ấn đoạt thực là bại cách o
        Thương quan sanh tài tức là thân vượng thì lấy tài tiết thương quan làm đẹp, tài bị hợp tất khí thế chẳng lưu thông , nên cách thương quan sanh tài bị phá o
        Thương quan bội ấn tức là thân nhược lấy ấn tư thân lại gặp tài, tất ấn bị tài thương , cách thương bội ấn bị phá o
        Dương nhận cách mừng có quan sát chế nhận , thấu quan lại gặp thương quan , thấu sát mà sát bị hợp , hiệu dụng chế nhận không còn o
        Gặp lộc tháng kiếp cũng giống như dương nhận o Dùng quan thì mừng gặp tài sanh, gặp thương thì quan không thể chế kiếp , dùng tài hỉ thực thương hóa , dụng sát nên có thực thương chế. Như không gặp thực thương mà còn gặp sát thấu, tất tài a dua theo sát thương thân , phạm cấm kỵ của cách cục o
        Trong thành mà bại, cũng biến hóa vạn đoan , đó chỉ bất quá là đại khái thôi o
        Như tài vượng sanh quan là cách tốt đẹp , nhưng thân nhược thấu quan , tức là phá cách.
        Thương quan gặp quan là cách xấu , thấu tài mà ngôi vị phối trí hợp lý tất thương quan sanh tài lại sanh quan phản cách thành giải , muôn vàn biến hóa , không thể nói hết , học kỹ sẽ diệu ngộ được o
        Trong thành mà bại, hoặc trong bại mà thành , mệnh mỗi người mỗi khác , không thể nhất nhất liệt ra hết o
        Xem thêm các ví dụ sau o Trụ của nam tầm Lưu Trừng o
        73 - Nhâm tuất Kỷ dậu Đinh sửu Giáp thìn
        Canh Tuất / Tân Hợi / Nhâm Tý / Quý Sửu…..
        Nguyệt lệnh tài tinh sanh quan, thành cách, nhưng can thấu kỷ thổ, quan tinh bị thương, trong thành mà bại o
        Can giờ thấu giáp ấn , mà tài ấn đều không ngại , ấn thụ chế thực , cách cục lại thành vậy, quan tinh trên trụ năm bị phá nên chẳng quý ; Đinh kỷ đồng cung , tài tinh có tình , giàu nhất Chiết tây o
        Hành quan sát vận có ấn hóa , trong bại lại thành vậy o
        Trụ của chủ nhân tờ Thân báo Sử Lượng Tài tạo o
        74 - Kỷ mão Bính tý Canh dần Tân tị
        Tân hợi / Canh Tuất / Kỷ Dậu / Mậu Thân / Đinh Mùi
        Thương quan đới sát lại thấu ấn , thành cách vậy. Ấn đóng ở tài , không thể chế thương hóa sát , trong thành mà bại. Vì vậy chỉ gần , không thể là đế vương o Sát thông căn dần tị nên vượng , chỉ có thể dùng thương quan chế sát. Tài là kị thần , ở chi năm, lúc nhỏ tất khốn khổ o Đến mùi vận, hội mão hóa tài , tiết thương giúp sát , bị giết o

        Là trụ của nguyên lão Quốc dân đảng Hồ Hán Dân tạo o
        75 - Kỷ mão Bính tý Bính tý Đinh dậu
        Nguyệt lệnh quan tinh , năm ấn giờ tài , đều không ngại , thành cách tam kì o
        Duy Quan trọng nên hành ấn kiếp , tiếc là chẳng gặp được ở vận o
        Trụ này sanh năm giờ dậu ngày 7 thàng 11 năm quang tự thứ 5, nếu như mà sanh giờ thân ngày 26 , tất trong thành mà bại hĩ o

        Trụ như sau : 
        76 - Kỷ mão Bính ty Bính dần Bính thân
        Nguyệt lệnh quan tinh , tài ấn là phụ , cách chi thành vậy o Tiếc là dần thân xung nhau, tài ấn đều bị thương , chủ tuy là chánh , khổ nổi phụ tá xung đột , làm sao đắc lực được ?
        Là trong thành mà bại o

        Lại như nhà buôn muối Triết tây Chu Tương Linh là
        77 - Giáp tý bính tý bính dần bính thân
        2 trụ tương tự , đều chủ phụ tá khuynh loát , về già suy khốn bất đắc ý vậy o
        78 - Quý tị Bính thìn Nhâm thân Quý mão
        Là trụ của Dương Hạnh Phật o Giờ gặp quý mão , thân vượng tiết tú, can thấu bính hỏa , thông căn ở tị , là thương quan sanh tài , thành cách vậy. Can năm can giờ có 2 quý , quần kiếp tranh tài , trong thành mà bại vậy. Hành vận tới tý , thân tý thìn hội tỉ kiếp cục , lưu năm quý dậu , xung mất mão mộc , bị đâm chết o
        79 - Kỷ mão Đinh sửu Quý sửu Ất mão
        Thực thần chế sát, nhưng trong cách gặp phải tài, là bại cách. May ất đinh cách bởi quý, mộc chẳng sanh hỏa, sát đóng ngôi thực, cách cục lại thành vậy. Gặp sát ở yên 1 chổ, tài không sanh tất không ngại o Đinh hỏa tuy điều hậu , không thể dùng vì đinh hỏa động tất sanh sát o Dụng thần chuyên lấy thực thần , không những tiết tú , còn kiêm chế sát nữa o
        Theo tiết cứu ứng thì , tài gặp sát may nhờ thực thần chế sát làm sanh , có cứu ứng , tức là trong bại mà thành, là quý cách o Vận thân năm canh ngọ , ất mão 2 quan cùng bị thương , lại đinh tị đắc lộc ở năm ngọ, sát vượng công thân, đột nhiên não xung huyết tạ thế o Là trụ của viện trưởng hành chánh Đàm Duyên.
        Là trụ của bộ trường ngoại giao Ngũ Triêu Xu o
        80 - Đinh hợi Bính ngọ Nhâm dần Kỷ dậu
        Dần ngọ hội cục , tài quan đều thấu , hiềm là tháng 5 nhâm thủy hưu tù, tài quan quá vượng, thân nhược không gánh nổi tài quan, hỉ năm hợi gặp lộc , giờ dậu gặp ấn , ấn lộc giúp thân là dụng , trong bại lại thành vậy o
        Trụ của Thạch Có Tam , dương nhận cách o 
        81 - Quý tị Tân dậu Canh thân Bính tuất
        Giờ thấu thất sát , chế nhận là dụng , thành cách o Không may can tháng tân kim hợp bính,
        trên can năm quý thủy chế sát o Là trong thành mà bại vậy.

        Lại như Quách Tùng :
        82 - Quý mùi, bính thìn , bính ngọ , mậu tý
        Cũng là trong thành mà bại vậy Cách thành là như trụ của Tể Quang : đinh mão , bính ngọ , bính tý , nhâm thìn , thành sát nhận cách vậy, gặp lộc như trụ của Giang Vạn Bình : đinh dậu , bính ngọ , đinh dậu , kỷ dậu , lấy thực thần sanh tài , cũng là thành cách vậy o
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        diennien (26-01-14)

      7. #24
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Vì sao có cứu ứng?

        Như quan gặp thương như thấu ấn thì được giải , quan sát hỗn tạp mà hợp mất sát thì thanh, hình xung thì lấy hội hợp để giải ; tài gặp kiếp mà thấu thực thì được hóa , hay có sanh quan thì chế nổi kiếp, tài gặp sát thì lấy thực thần chế sát để sanh tài , hợp mất sát để giữ lại tài, ấn gặp tài thì lấy kiếp để giải , hoặc hợp mất tài mà giữ lại ấn, thực gặp kiêu nhi tựu sát trở thành cách , hoặc sanh tài để hộ thực, sát gặp thực chế , ấn đến hộ sát , gặp tài thì khử ấn mà giữ lại thực, thương quan sanh tài thấu sát là phá cách thì nên hợp mất sát; dương nhận dùng quan sát mà bị gặp phải thương thực , thì lấy trọng ấn để hộ quan sát, gặp lộc tháng kiếp dùng quan , gặp thương mà thương bị hợp , dùng tài mà gặp sát nhưng sát bị hợp , như thế đều là có cứu ứng o
        Quan gặp thương lấy ấn thấu để giải là như giáp mộc sanh tháng dậu, can đầu thấu đinh là phá cách nếu lại thấu nhâm, tất đinh nhâm hợp, đinh hỏa không thương tổn quan dậu kim vậy. Hợp sát là như bính hỏa sanh tháng tý, nhâm quý đều thấu, quan sát hỗn tạp là phá cách, thấu đinh, tất nhâm sát bị hợp mất thành ra quan thanh hĩ o
        Hình xung là như kỷ thổ sanh tháng tháng dần, chi gặp thân, tất thân xung dần mà phá quan chi lại thấy tý, tất tý thân hợp mà hóa thủy, phản sanh dần mộc, gọi là nhờ hội hợp mà giải xung vậy o
        Tài gặp kiếp lấy thực để hóa là như giáp mộc sanh tháng thìn tuất sửu mùi, ất mộc đều thấu, tỉ kiếp tranh tài, can đầu thấu bính hỏa, tất tỉ kiếp sanh thực, nhờ thực mà chuyển ra sanh tài, nên tài cách không bị phá hĩ, hoặc không thấu bính mà thấu tân, tất tân kim khắc chế ất mộc cũng không tranh tài nữa hĩ o
        Gặp sát là như bính hỏa sanh tháng dậu , nguyệt lệnh chánh tài , can thấu nhâm thủy , tất tài sanh sát là phá cách o Như lại thấu mậu thổ , tất nhâm bị mậu chế , mà mậu thổ lại sanh dậu kim tài hoặc không thấu mậu mà thấu đinh , tất hợp mất sát mà giữ lại tài , đều là trong bại gặp cứu vậy o
        Ấn gặp tài thì lấy kiếp giải là như ất mộc sanh tháng hợi , nguyệt lệnh chánh ấn, gặp mậu kỷ thổ tài, tất tài phá ấn là hoại cách o Như thấu giáp ất mộc, tất kiếp chế tài mà hộ ấn ; thấu quý giáp tất hợp tài giữ lại ấn o
        Thực thần gặp kiêu, như giáp mộc thấy bính mà lại thấu nhâm, thực bị kiêu đoạt là phá cách Như thấu canh sát, tất có thể đuổi thực tựu sát để thành cách, hoặc không thấu sát mà thấu mậu thổ tài, tất mậu cũng có thể chế nhâm để hộ bính thực, nên thực cách lại thành vậy
        Ất mộc sanh tháng dậu mà thấu đinh hỏa, là thực thần chế sát. Sát lấy chế làm dụng, gặp nhâm quý khử mất đinh hỏa thực thần, quả là phá cách hĩ. Gặp thêm mậu kỷ thổ, khứ ấn để giữ lại thực, cục chế sát khỏi bị hỏng, thành cách vậy o
        Thương quan sanh tài thấu sát là như giáp mộc sanh tháng ngọ mà thấu kỷ thổ, là thương quan sanh tài cách, thấu thêm canh kim thất sát là phá cách, như trụ thấu ất mộc, tất ất canh hợp, thương quan sanh tài, cách thành hĩ
        Dương nhận cách lấy quan sát chế nhận làm dụng, gặp thêm thương thực chế quan sát là phá cách, như có trọng ấn để khử tác dụng của thực, tất dương nhận cách thành hĩ o
        Gặp lộc cách, gặp kiếp dùng quan mà gặp thương, dùng tài mà gặp sát là như giáp mộc sanh dần là gặp lộc, dùng tân kim quan tinh mà gặp phải đinh hỏa, dùng kỷ thổ tài tinh mà thấu canh kim, đều là phá cách. Như gặp phải đinh hỏa mà có nhâm thấu, đinh nhâm hợp, chẳng thương tân kim , nên có thể dùng quan, thấy canh kim mà có ất thấu, ất canh hợp, tài không dua theo sát nên cách toàn vẹn o Đều là trong bại gặp cứu o
        Trên đã nói về phép trong bại gặp cứu, dễ thấy rõ là, phép cứu ứng không có qui lệ nhất định, xem kỹ thêm các trụ sau, để thấy được khái quát o

        Trụ của Chu Cổ Là:
        83 - Đinh tị Kỷ dậu Canh tý Đinh hợiNguyệt lệnh dương nhận dùng quan , nhưng quan nhiều thì không quý, hay ở chổ kỷ ấn ngăn cách quan tinh trên trụ năm , quan sanh ấn , rồi ấn sanh thân, chuyên dùng quan tinh trên trụ giờ , đến vận trợ quan , quay lại thành đài các, tất nhờ ở kỷ thổ là thần cứu ứng vậy o
        84 - Quý dậu Ất sửu Canh dần Bính tý
        Can giờ thất sát thấu ra , dùng can năm quý thủy thương quan chế sát, có ất mộc cách ở giữa , tất thương quan sanh tài , tài sanh sát , là bại cách o
        Hay ở chổ ất tòng canh hợp , tất quý thủy không thể sanh ất mộc mà lại đi chế sát, nên lấy hợp của vốn là thân làm cứu ứng vậy.
        Là trụ của tỉnh trưởng chiết giang Trương Tái Dương.
        85 - Quý dậu Đinh tị Kỷ mão Giáp tuất
        Kỷ thổ sanh tháng tư , có đinh hỏa thấu ra , hỏa viêm thổ táo được can năm quý thủy phá ấn mà sanh quan , nên lấy quý thủy làm thần cứu ứng vậy o
        Tị dậu hội cục , thực thương hại quan , hay ở chổ có quý thủy thấu , tất thực thương sanh tài,
        Như coi sơ qua 2 trụ trên thì tài ấn hại nhau , quan thương hại nhau , không biết quý ở chổ nào , xét kỹ mới rõ , "Tích thiên tủy" có câu "trừng trọc cầu thanh thanh đắc tịnh, gặp giờ hàn cốc cũng hồi xuân" , chính là như thế o
        86 - Tân tị Nhâm thìn Ất hợi Nhâm ngọ
        Ất sanh thìn nguyệt , nhật tọa trường sanh , dụng ngọ trung đinh tị , thực thần sanh tài cách dã. Ất sanh tháng thìn , ngày đóng trường sanh , dùng đinh trong tị ngọ, là thực thần sanh tài cách Năm thấu tân kim thất sát là phá cách , mừng nhâm thủy trong thìn thấu ra , hóa sát sanh thân lấy nhâm làm thần cứu ứng vậy o Là trụ của tỉnh trưởng Giang tô Trần Đào Di.
        Tuy lấy thực thần sanh tài nhưng vận hỉ thực kị tài , tất do lấy thực có thể tiết tú trong khi tài thì phá ấn vậy. Phàm những trụ nhiều sóng gió chìm nổi , phần nhiều như thế o
        Diệu dụng của trụ , toàn ở lẽ thành bại cứu ứng , trong đó quyền biến nặng nhẹ , rất đỗi linh hoạt o
        Học giả nên lưu tâm, có thể theo lẽ trong dung mà ứng phó vạn biến, là cái đạo lớn của mệnh, ấy là đạt đạo !
        Lẽ thành bại cứu ứng của bát tự, thiên biến vạn hóa , không thể nói hết o Các ví dụ biến hóa kễ trên, đều chọn dụng thần theo nguyệt lệnh như cách phổ thông vậy o Mạnh tử làết , đại tượng lấy quy củ dùng ngừơi, không thể dùng được người xảo, học giả sau khi luyện tập quen, tự ngộ lẽ hay o Như luận về biến hoá, tất bát tự như nhau , mà địa vị thứ tự , biến đổi 1 chút , tức thì ra sanh biến hóa , là thành hoặc bại, được hoặc không được ứng cứu , không thể luận như nhau , cũng không thể kể hết phương thức ra được o
        Duy lhông suốt chỉ có 1 lẽ dung hòa , tất tự nhiên quyền biến nặng hay nhẹ , tả có về nguồn hĩ.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        diennien (26-01-14)

      9. #25
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Chương 9 : Luận dụng thần thành bại cứu ứng

        Dụng thần chuyên tìm ở nguyệt lệnh, phối với tứ trụ, tất có thành bại. Vì sao thành?
        - Như Quan gặp Tài Ấn, lại không bị hình xung phá hại, Quan cách thành.
        - Tài sanh Quan vượng, hoặc Tài gặp Thực sanh mà thân cường đới Tỷ, hoặc Tài cách thấu Ấn mà vị trí thỏa đáng, cả hai đều không tương khắc, thì Tài cách thành vậy.
        - Ấn khinh gặp Sát, hoặc Quan Ấn song toàn, hoặc thân Ấn đều vượng thì dùng Thực thương để tiết khí, hoặc Ấn nhiều gặp Tài mà Tài thấu căn khinh, Ấn cách thành.
        - Thực thần sanh Tài, hoặc Thực đới Sát mà không có Tài, bỏ Thực theo Sát may thấu Ấn, Thực cách thành vậy.
        - Thân cường Thất sát gặp chế, Sát cách thành vậy.
        - Thương quan sanh Tài, hoặc Thương quan bội Ấn mà Thương quan vượng và Ấn có căn, hoặc Thương quan vượng, thân nhược mà thấu Sát Ấn, hoặc Thương quan đới Sát mà không có Tài, Thương quan cách thành.
        - Dương nhận thấu Quan sát mà lộ Tài Ấn, lại không gặp Thương quan, Dương nhận cách thành.
        - Gặp Lộc ở tháng, thấu Quan mà gặp Tài Ấn, thấu Tài mà gặp Thực thương, thấu Sát mà được chế phục, cách "kiến lộc nguyệt kiếp" thành.

        Dụng thần đã định xong, thì phải xem kỹ lẽ thành bại cứu ứng. Quan gặp Tài Ấn tức là nguyệt lệnh Chánh quan, thân vượng Quan khinh mà tứ trụ có Tài sanh Quan, thân nhược Quan trọng mà tứ trụ có Ấn hóa Quan, hay có Chánh quan kiêm đới Tài Ấn, thành ra Tài với Ấn đều chẳng ngại (xem tiết Quan luận, Ấn tiết Chánh quan), tất Quan cách thành vậy. Hình xung phá hại, lấy xung là trọng, xung tức là khắc vậy. Như lấy mộc là Quan, tất xung Quan là kim Thương quan, nên nói lấy xung là trọng. Hình phá hại nên cân nhắc kỹ, chưa chắc đã là phá cách vậy (xem trụ Hồ Hán Dân ở chương "Cách cục cao thấp").

        Tài vượng sanh Quan tức là nguyệt lệnh Tài tinh vượng, tứ trụ có Quan, tất Tài vượng tự sanh Quan; hoặc nguyệt lệnh Tài tinh mà thấu Thực thần, thân cường tất Thực thần tiết tú, chuyển thành sanh Tài. Tài vốn kị Tỷ kiếp, có Thực thần tất chẳng kị nữa, nên Tài có Thực thần thì hóa Tỷ kiếp vậy. Hoặc thấu Ấn mà vị trí thỏa đáng tức là, Tài Ấn cả hai đều không tương khắc vậy (xem tiết "Tài cách bội Ấn"). Như can năm thấu Ấn, can giờ thấu Tài, ở giữa cách nhau có Tỷ kiếp, tất chẳng ngại; nếu ở giữa cách nhau Quan tinh tất là Tài vượng sanh Quan, cũng chẳng ngại, như vậy là Tài cách thành vậy.

        Ấn khinh gặp Sát, hoặc Quan Ấn song toàn tức là nguyệt lệnh Ấn thụ mà ít, lấy Sát sanh Ấn, vậy là Sát Ấn tương sanh; lấy Quan sanh Ấn, vậy là Quan Ấn song toàn. Nhưng nếu thân cường Ấn vượng, tất không thể dùng Ấn, mà rất mừng Thực thương tiết khí nhật nguyên cho đẹp. Nhược Ấn quá nhiều, tất nên lấy tổn Ấn làm dụng vì, như thổ nhiều kim bị vùi lấp, thủy nhiều mộc trôi (xem tiết "Ngũ hành sanh khắc chế hóa nghi kị"), tất nên bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu, đó chính là dụng thần vậy. Vì vậy như Tài thấu căn khinh, gặp vận sanh Tài địa, giúp cái thiếu thành ra tốt đẹp vậy. Nhược tứ trụ Tài không có căn, tất Ấn tuy nhiều cũng không thể dùng Tài phá Ấn; nguyên cục Tài tinh quá vượng, Ấn thụ bị thương, tất nên trở ngược lại lấy Tỷ kiếp bỏ Tài phò Ấn làm tốt vậy. Như vậy là tùy theo cục mà chọn lấy Tài hay không, không thể chấp nhất vậy.

        Nguyệt lệnh là Thực thần, tứ trụ thấy Tài, Thực thần sẽ sanh Tài, chính là cách vậy. Nếu tứ trụ thấu Sát, tất Thực thần chế Sát làm dụng, kị Tài a dua theo Sát, nên lại nói không có Tài mới tốt. Nếu như Sát vượng mà thấu Ấn, tất bỏ Thực mà theo Sát, nên lấy Ấn hóa Sát làm dụng, chỉ vì bỏ Thực mà theo Sát, nên tuy nguyệt lệnh Thực thần, không thể lấy Thực thần cách mà luận nữa. Tứ trụ như thấy Kiêu đoạt Thực, tất bỏ Thực mà theo Sát là chánh, ấy là cũng thành cách vậy.

        Nguyệt lệnh Thiên quan mà thân cường, tất lấy Thực thần chế Sát làm tốt đẹp, Sát cách thành vậy. Như thân cường Sát nhược, hoặc Sát cường thân nhược, đều không thể lấy chế phục làm dụng, tất thân Sát đều vượng, mới thành cách.

        Nguyệt lệnh Thương quan, thân cường lấy Tài làm dụng, tức là Thương quan sanh Tài; thân nhược lấy Ấn làm dụng, tức là Thương quan bội Ấn. Thương quan vượng, Ấn có căn, lấy vận sanh Ấn địa làm tốt đẹp. Ấy là 2 cách chánh vậy. Như Thương quan vượng mà thân nhược, nếu thấu Sát Ấn, tất nên lấy Ấn chế Thương, hóa Sát tư thân làm dụng. Tuy nguyệt lệnh Thương quan, nhưng cốt yếu là tại Ấn. Thương quan đới Sát mà không có Tài, cũng giống như Thực thần đới Sát vậy. Lấy Thương quan đè Sát, tức là chế phục, kị Tài a dua theo Sát, nên nói không có Tài mới thành cách vậy.

        Nguyệt lệnh Dương nhận, lấy Quan sát chế Nhận, cách cục tối mỹ. Nhận vượng Sát cường, uy quyền hiển hách, Ấn tư Nhận, Tài sanh Sát, nên nói gặp lấy cả Tài Ấn là cát, không nên ngại. Nhận vượng, tuy cũng có thể dùng Thực thương tiết tú, nhưng vì chuyên dùng Quan sát chế, nên lại không thể dùng Thực thương, nên nói không có Thương quan mới thành cách vậy.

        Gặp Lộc ở tháng, thấu Quan mà gặp Tài Ấn, tức cũng như Quan cách; thấu Tài mà gặp Thực thương, tức cũng như Tài cách; thấu Sát mà bị chế phục, tức cũng như Sát cách. Lộc kiếp vốn là thân không thể dùng, phải theo lẽ phò trợ ức chế mà dùng, tức cũng như các cách trên vậy.
        Tại sao bại?
        - Quan gặp Thương khắc hình xung, Quan cách bại;
        - Tài khinh Tỷ trọng, hay Tài thấu Thất sát, Tài cách bại; - Ấn khinh gặp Tài, hoặc thân cường Ấn trọng lại thấu Sát, Ấn cách bại;
        - Thực thần gặp Kiêu, hoặc Thực sanh Tài lộ Sát, Thực thần cách bại;
        - Thất sát gặp Tài không có chế phục, Thất sát cách bại;
        - Thương quan không phải là Kim Thủy mà gặp Quan, hoặc Thương sanh Tài rồi Tài sanh Sát, hoặc Thương bội Ấn mà Thương khinh thân vượng, Thương quan cách bại.
        - Dương nhận không có Quan sát, Nhận cách bại.
        - Gặp Kiến Lộc, không có Tài Quan mà thấu Sát Ấn, cách bại.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        diennien (26-01-14)

      11. #26
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Bại tức là điều cấm kị của cách bị phạm vậy. Nguyệt lệnh dụng thần tất nên sanh vượng. Chánh quan gặp Thương, tất Quan tinh bị chế, xung Quan tinh, không phải Thương thì là Nhận, đều là phá cách.

        Tài khinh Tỷ trọng, tất Tài bị phân đoạt; Tài thấu Thất sát, Tài không còn của ta nữa mà a dua theo Sát, trở thành giúp cái khắc ta, là kị của Tài cách vậy.

        Ấn khinh gặp Tài, tất Ấn bị Tài phá; Hoặc như thân cường Ấn trọng, cần lấy Thực thần tiết bớt vượng khí của thân, như không gặp Thực thần lại thấu Sát, tất Sát sanh Ấn, Ấn lại sanh thân, là cấm kị của Ấn cách vậy.
        Thực thần gặp Kiêu ấn, tất Thực bị Kiêu ấn cướp đoạt hĩ; Thực thần sanh Tài vốn là cách tốt, lộ Sát tất Tài chuyển ra Sanh sát, đều là phá cách vậy.

        Thất sát lấy chế làm dụng, có Tài sanh mà không bị chế, tất Thất sát thả sức tung hoành nên thân bị nguy.

        Thương gặp Quan là kị. Duy kim thủy Thương quan là kim hàn thủy lạnh, điều hậu là cấp bách, có thể gặp Quan, còn ngoài ra, gặp Quan đều không thể dùng Thương. Thương quan sanh Tài, cũng như Thực thần sanh Tài, đới Sát tất Tài chuyển ra sanh Sát, là cấm kị của cách vậy. Thân vượng dùng Thương, vốn không dùng bội Ấn; Thương khinh gặp Ấn, tất Thương bị Ấn chế, tú khí không thể phát ra, nên nói là bại cách vậy.

        Dương nhận lấy Quan sát chế Nhận là dụng, như không có Quan sát, tất Nhận vượng không bị ức chế bớt.

        Kiến Lộc và Kiếp ở tháng, mệnh chủ tất vượng, hỉ Tài sanh Quan. Không có Tài Quan mà thấu Sát Ấn, tất Sát sanh Ấn, chuyển thành phù thân, vượng không có cực điểm đều là phá cách vậy. Thành cách phá cách, khuôn phép có nhiều, cũng có khi nhân hội hợp biến hóa mà ra thành bại vậy, xem thêm tiết "Dụng thần biến hóa".

        Trong thành có bại, tất là đới kị; trong bại có thành, toàn nhờ cứu ứng. Đới kị là sao?

        - Chánh quan gặp Tài mà lại gặp Thương;
        - Quan thấu ra can mà lại bị hợp;
        - Tài vượng sanh Quan mà lại gặp Thương hay bị hợp;
        - Ấn thấu Thực vốn có thể tiết khí, mà lại gặp Tài lộ;
        - thấu Sát vốn có thể sanh Ấn, mà lại thấu Tài, phải khử Ấn giữ lại Sát;
        - Thực thần đới Sát Ấn mà lại gặp Tài;
        - Thất sát có Thực chế mà lại gặp Ấn;
        - Thương quan sanh Tài mà Tài lại bị hợp;
        - bội Ấn mà Ấn lại bị thương, thấu Tài mà lại gặp Sát,

        Tất cả đều là đới kị vậy.

        Đới kị là tứ trụ có thần làm tổn thương dụng nên phá cách, tức là bị bệnh; cứu ứng tức là như có thuốc khử bệnh vậy.

        Chánh quan gặp Tài, Tài sanh Quan vượng, cách thành; tứ trụ lại thấu Thương, tất Quan tinh bị Thương phá cách. Nguyệt lệnh Chánh quan, thấu ra can, mừng thành cách mà lại bị hợp, như Giáp lấy Tân làm Quan, sanh tháng Dậu, thấu ra Tân kim, Chánh quan cách thành; như lại thấu Bính, Bính Tân tương hợp, Quan tinh bất thanh thành ra phá cách.

        Tài vượng sanh Quan tức là nguyệt lệnh Tài tinh, sanh Quan là dụng, cũng giống như Chánh quan gặp Tài; gặp Thương tất Quan bị thương, gặp hợp tất Tài bị hợp mất, Quan cô thế không có người giúp, đều là phá cách.

        Ấn thấu Thực để tiết khí tức là nguyệt lệnh Ấn thụ, nhật nguyên sanh vượng, thấu Thực để tiết thân cho đẹp, Ấn cách thành; như lại gặp Tài lộ, tất Tài tổn Ấn là bệnh, bị phá cách. Thấu Sát sanh Ấn, Sát gặp Ấn hóa, Ấn được Sát sanh, tức là thành cách; nếu như lại thấu Tài, tất Tài phá Ấn mà a dua theo Sát thành ra phá cách vậy.

        Thực thần đới Sát Ấn tức là nguyệt lệnh Thực thần mà không có Tài, bỏ Thực mà theo Sát Ấn, chính là uy quyền hiển hách; hoặc lấy Ấn phù thân, lấy Thực chế Sát đều chẳng ngại cũng là thành cách. Nếu như lại gặp Tài, Thực sanh Tài, Tài đến a dua theo Sát phá Ấn, cách cục bỏ xó.

        Thất sát gặp Thực chế tức là lấy Thực chế Sát là dụng, nếu như lại gặp Kiêu đoạt Thực là bại cách.

        Thương quan sanh Tài tức là thân vượng thì lấy Tài tiết Thương quan làm đẹp, Tài bị hợp tất khí thế chẳng lưu thông, nên cách Thương quan sanh Tài bị phá.

        Thương quan bội Ấn tức là thân nhược lấy Ấn giúp thân lại gặp Tài, tất Ấn bị Tài tổn thương, cách Thương bội Ấn bị phá.

        Dương nhận cách mừng có Quan sát chế Nhận, thấu Quan lại gặp Thương quan, thấu Sát mà Sát bị hợp, hiệu dụng chế Nhận không còn nữa. Gặp Lộc hoặc Kiếp ở tháng cũng giống như Dương nhận. Dùng Quan thì mừng gặp Tài sanh, gặp Thương thì Quan không thể chế Kiếp, dùng Tài hỉ Thực thương hóa, dụng Sát nên có Thực thương chế, như không gặp Thực thương mà còn gặp Sát thấu, tất Tài a dua theo Sát thương thân, đều phạm cấm kỵ của cách cục.
        Trong thành mà bại cũng biến hóa rất nhiều, trên đây chỉ bất quá là đại khái thôi. Như Tài vượng sanh Quan là cách tốt đẹp, nhưng thân nhược thấu Quan, tức là phá cách. Thương quan gặp Quan là cách xấu, thấu Tài mà ngôi vị phối trí hợp lý tất Thương quan sanh Tài lại sanh Quan phản cách thành, muôn vàn biến hóa, không thể nói hết, học kỹ sẽ diệu ngộ được.

        Trong thành mà bại, hoặc trong bại mà thành, mệnh mỗi người mỗi khác, không thể nhất nhất liệt kê ra hết. Xem thêm các ví dụ sau. Trụ của nam tầm Lưu Trừng Như.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      12. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        diennien (26-01-14)

      13. #27
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        74 - Nhâm Tuất / Kỷ Dậu / Đinh Sửu / Giáp Thìn

        Hành vận: Canh tuất / tân hợi / nhâm tý / quý sửu / giáp dần / ất mão

        Nguyệt lệnh Tài tinh sanh Quan, thành cách, nhưng can thấu Kỷ thổ, Quan tinh bị thương, trong thành mà bại. Can giờ thấu Giáp Ấn, mà Tài Ấn đều không ngại, Ấn thụ chế Thực, cách cục trở lại thành vậy. Quan tinh trên trụ năm bị phá nên chẳng quý; Đinh Kỷ đồng cung, Tài tinh có tình, là người giàu nhất Chiết tây. Hành Quan sát vận có Ấn hóa, trong bại lại thành vậy.

        75 - Kỷ Mão / Bính Tý / Canh Dần / Tân Tị

        Hành vận: Ất hợi / giáp tuất / quý dậu / nhâm thân / tân mùi

        Trụ của chủ nhân tờ báo Sử Lượng Tài: Thương quan đới Sát lại thấu Ấn, thành cách. Ấn đóng ở Tài, không thể chế Thương hóa Sát, trong thành mà bại. Vì vậy chỉ là gần kề, không thể là đế vương. Sát thông căn Dần Tị nên vượng, chỉ có thể dùng Thương quan chế Sát. Tài là kị thần ở chi năm, lúc nhỏ tất khốn khổ. Đến Mùi vận, hội Mão hóa Tài, tiết Thương giúp Sát, bị giết.

        76 - Kỷ Mão / Bính Tý / Bính Tý / Đinh Dậu

        Hành vận: Ất hợi / giáp tuất / quý dậu / nhâm thân / tân mùi / canh ngọ / kỷ tị

        Tứ trụ của nguyên lão Quốc dân đảng Hồ Hán Dân: Nguyệt lệnh Quan tinh, năm Ấn giờ Tài, đều không ngại, thành cách Tam Kì. Duy Quan trọng nên hành Ấn kiếp, tiếc là chẳng gặp được ở vận. Trụ này sanh giờ dậu ngày 7 tháng 11 năm quang tự thứ 5, nếu như mà sanh giờ Thân ngày 26, tất trong thành mà bại, như sau:

        77 - Kỷ Mão / Bính Tý / Bính Dần / Bính Thân

        Nguyệt lệnh Quan tinh, Tài Ấn là phụ, cách thành. Tiếc là Dần Thân xung nhau, Tài Ấn đều bị thương, chủ tuy là chánh, khổ nổi phụ tá xung đột, làm sao đắc lực được? Đó là trong thành mà bại.

        Lại như nhà buôn muối Triết tây Chu Tương Linh:

        78 - giáp tý / bính tý / bính dần / bính thân

        2 trụ tương tự, đều chủ phụ tá khuynh loát, về già suy khốn bất đắc ý vậy.

        79 - Quý Tị / Bính Thìn / Nhâm Thân / Quý Mão

        Hành vận: Ất mão / giáp dần / quý sửu / nhâm tý / tân hợi

        Tứ trụ trên là của Dương Hạnh Phật. Giờ gặp Quý Mão, thân vượng tiết tú, can thấu Bính hỏa, thông căn ở Tị, là Thương quan sanh Tài, thành cách. Can năm can giờ có 2 Quý, quần Kiếp tranh Tài, trong thành mà bại vậy. Hành vận tới Tý, Thân Tý Thìn hội Tỷ kiếp cục, lưu năm Quý Dậu, xung mất Mão mộc, bị đâm chết.

        80 - Kỷ Mão / Đinh Sửu / Quý Sửu / Ất Mão

        Hành vận: Bính tý / ất hợi / giáp tuất / quý dậu / nhâm thân / tân mùi

        Trụ của Viện trưởng hành chánh Đàm Diên Khải: Thực thần chế Sát, nhưng trong cách gặp phải Tài, là bại cách. May Ất Đinh cách bởi Quý, mộc chẳng sanh hỏa, Sát đóng ngôi Thực, cách cục lại thành. Gặp Sát ở yên 1 chỗ, Tài không sanh tất không ngại. Đinh hỏa tuy điều hậu nhưng không thể dùng, vì Đinh hỏa động tất sanh Sát. Dụng thần chuyên lấy Thực thần, không những tiết tú, còn kiêm chế Sát nữa. Theo tiết "Cứu ứng", Tài gặp Sát may nhờ Thực thần chế Sát làm sanh, có cứu ứng, tức là trong bại mà thành, là quý cách. Vận Thân, năm Canh Ngọ, Ất Mão 2 Quan cùng bị thương, lại Đinh Tị đắc lộc ở năm Ngọ, Sát vượng công thân, đột nhiên não xung huyết mà tạ thế.

        81 - Đinh Hợi / Bính Ngọ / Nhâm Dần / Kỷ Dậu

        Hành vận: Ất tị / giáp thìn / quý mão / nhâm dần / tân sửu / canh tý / kỷ hợi

        Trụ của bộ trưởng ngoại giao Ngũ Triều Xu: Dần Ngọ hội cục, Tài Quan đều thấu, hiềm là tháng 5 Nhâm thủy hưu tù, Tài Quan quá vượng, thân nhược không gánh nổi Tài Quan; hỉ năm Hợi gặp lộc, giờ Dậu gặp Ấn, Ấn lộc giúp thân là dụng, trong bại lại thành vậy.

        82 - Quý Tị / Tân Dậu / Canh Thân / Bính Tuất

        Hành vận: Canh thân / kỷ mùi / mậu ngọ / đinh tị / bính thìn / ất mão / giáp dần

        Trụ của Thạch Hữu Tam là dương Nhận cách. Giờ thấu Thất sát, chế Nhận là dụng, thành cách. Không may can tháng Tân kim hợp Bính, trên can năm Quý thủy chế Sát. Là trong thành mà bại vậy.

        Lại như Quách Tùng:

        83 - Quý mùi, bính thìn, bính ngọ, mậu tý

        cũng là trong thành mà bại vậy.

        Cách thành là như trụ của Tể Quang:

        84 - Đinh mão, bính ngọ, bính tý, nhâm thìn

        thành Sát Nhận cách;

        Gặp Lộc như trụ của Giang Vạn Bình:

        85 - Đinh dậu, bính ngọ, đinh dậu, kỷ dậu

        lấy Thực thần sanh Tài, cũng là thành cách vậy.
        Vì sao có cứu ứng?
        - Quan gặp Thương như thấu Ấn thì được giải,
        - Quan sát hỗn tạp mà hợp mất Sát thì thanh, hình xung thì lấy hội hợp để giải;
        - Tài gặp Kiếp mà thấu Thực thì được hóa, hay có sanh Quan thì chế nổi Kiếp, Tài gặp Sát thì lấy Thực thần chế Sát để sanh Tài, hợp mất Sát để giữ lại Tài;
        - Ấn gặp Tài thì lấy Kiếp để giải, hoặc hợp mất Tài mà giữ lại Ấn;
        - Thực gặp Kiêu nhi tựu Sát trở thành cách, hoặc sanh Tài để hộ Thực;
        - Sát gặp Thực chế, Ấn đến hộ Sát, gặp Tài thì khử Ấn mà giữ lại Thực;
        - Thương quan sanh Tài thấu Sát là phá cách thì nên hợp mất Sát;
        - Dương nhận dùng Quan sát mà bị gặp phải Thương thực, thì lấy trọng Ấn để hộ Quan sát;
        - gặp Lộc tháng hoặc Kiếp dùng Quan, gặp Thương mà Thương bị hợp, dùng Tài mà gặp Sát nhưng Sát bị hợp, như thế đều là có cứu ứng.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      14. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        diennien (26-01-14)

      15. #28
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Quan gặp Thương lấy Ấn thấu để giải, như Giáp mộc sanh tháng Dậu, can thấu Đinh là phá cách, nếu lại thấu Nhâm, tất Đinh Nhâm hợp, Đinh hỏa không thương tổn Quan Dậu kim vậy. Hợp Sát là như Bính hỏa sanh tháng Tý, Nhâm Quý đều thấu, Quan sát hỗn tạp là phá cách, thấu Đinh, tất Nhâm Sát bị hợp mất thành ra Quan được thanh. Hình xung là như Kỷ thổ sanh tháng Dần, chi gặp Thân, tất Thân xung Dần mà phá Quan, chi lại thấy Tý, tất Tý Thân hợp mà hóa thủy, phản sanh Dần mộc, gọi là nhờ hội hợp mà giải xung vậy.

        Tài gặp Kiếp lấy Thực để hóa là như Giáp mộc sanh tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, Ất mộc đều thấu, Tỷ kiếp tranh Tài, can thấu Bính hỏa, tất Tỷ kiếp sanh Thực, nhờ Thực mà chuyển ra sanh Tài, nên Tài cách không bị phá hĩ. Hoặc không thấu Bính mà thấu Tân, tất Tân kim khắc chế Ất mộc cũng không tranh Tài nữa.

        Gặp Sát là như Bính hỏa sanh tháng Dậu, nguyệt lệnh Chánh tài, can thấu Nhâm thủy, tất Tài sanh Sát là phá cách. Như lại thấu Mậu thổ, tất Nhâm bị Mậu chế, mà Mậu thổ lại sanh Dậu kim Tài, hoặc không thấu Mậu mà thấu Đinh, tất hợp mất Sát mà giữ lại Tài, đều là trong bại gặp cứu vậy.

        Ấn gặp Tài thì lấy Kiếp giải là như Ất mộc sanh tháng Hợi, nguyệt lệnh Chánh ấn, gặp Mậu Kỷ thổ Tài, tất Tài phá Ấn là hoại cách. Như thấu Giáp Ất mộc, tất Kiếp chế Tài mà hộ Ấn; thấu Quý Giáp tất hợp Tài giữ lại Ấn.

        Thực thần gặp Kiêu, như Giáp mộc thấy Bính mà lại thấu Nhâm, Thực bị Kiêu đoạt là phá cách. Như thấu Canh Sát, tất có thể đuổi Thực tựu Sát để thành cách; hoặc không thấu Sát mà thấu Mậu thổ Tài, tất Mậu cũng có thể chế Nhâm để hộ Bính Thực, nên Thực cách lại thành vậy.

        Ất mộc sanh tháng Dậu mà thấu Đinh hỏa là Thực thần chế Sát. Sát lấy chế làm dụng, gặp Nhâm Quý khử mất Đinh hỏa Thực thần, quả là phá cách. Gặp thêm Mậu Kỷ thổ, khứ Ấn để giữ lại Thực, cục chế Sát khỏi bị hỏng, trở lại thành cách vậy.

        Thương quan sanh Tài thấu Sát là như Giáp mộc sanh tháng Ngọ mà thấu Kỷ thổ, nếu thấu thêm Canh kim Thất sát là phá cách, nhưng trụ mà thấu Ất mộc, tất Ất Canh hợp, Thương quan sanh Tài, cách thành.

        Dương nhận cách lấy Quan sát chế nhận làm dụng, gặp thêm Thương thực chế Quan sát là phá cách, như có trọng Ấn để khử tác dụng của Thực, tất Dương nhận cách thành.

        Gặp Lộc, gặp Kiếp dùng Quan mà gặp Thương, dùng Tài mà gặp Sát là như Giáp mộc sanh Dần là gặp lộc, dùng Tân kim Quan tinh mà gặp phải Đinh hỏa, dùng Kỷ thổ Tài tinh mà thấu Canh kim, đều là phá cách. Như gặp phải Đinh hỏa mà có Nhâm thấu, Đinh Nhâm hợp, chẳng tổn thương Tân kim, nên có thể dùng Quan; thấy Canh kim mà có Ất thấu, Ất Canh hợp, Tài không dua theo Sát nên cách toàn vẹn. Đều là trong bại gặp cứu.

        Trên đã nói về phép trong bại gặp cứu, dễ thấy rõ là phép cứu ứng không có quy lệ nhất định, xem kỹ thêm các trụ sau, để thấy được khái quát.

        86 - Đinh Tị / Kỷ Dậu / Canh Tý / Đinh Hợi

        Hành vận: Mậu thân / đinh mùi / bính ngọ / ất tị / giáp thìn / quý mão / nhâm dần

        Trụ của Chu Cổ Vi: Nguyệt lệnh Dương nhận dùng Quan, nhưng Quan nhiều thì không quý, hay ở chỗ Kỷ Ấn ngăn cách Quan tinh trên trụ năm, Quan sanh Ấn, rồi Ấn sanh thân, chuyên dùng Quan tinh trên trụ giờ, đến vận trợ Quan, quay lại thành đài các, tất nhờ ở Kỷ thổ là thần cứu ứng vậy.

        87 - Quý Dậu / Ất Sửu / Canh Dần / Bính Tý

        Hành vận: Giáp tý / quý hợi / nhâm tuất / tân dậu / canh thân / kỷ mùi / mậu ngọ

        Trụ của Tỉnh trưởng chiết giang Trương Tái Dương: Can giờ Thất sát thấu ra, dùng can năm Quý thủy Thương quan chế Sát, có Ất mộc cách ở giữa, tất Thương quan sanh Tài, Tài sanh Sát, là bại cách. Hay ở chỗ Ất tòng Canh hợp, tất Quý thủy không thể sanh Ất mộc mà lại đi chế Sát, nên lấy hợp của vốn là thân làm cứu ứng vậy.

        88 - Quý Dậu / Đinh Tị / Kỷ Mão / Giáp Tuất

        Hành vận: Bính thìn / ất mão / giáp dần / quý sửu / nhâm tý / tân hợi / canh tuất

        Trụ của tỉnh trưởng Chiết giang Trử Phụ Thành: Kỷ thổ sanh tháng tư, có Đinh hỏa thấu ra, hỏa viêm thổ táo, được can năm Quý thủy phá Ấn mà sanh Quan, nên lấy Quý thủy làm thần cứu ứng. Tị Dậu hội cục, Thực thương hại Quan, hay ở chỗ có Quý thủy thấu, tất Thực thương sanh Tài, nên nói lấy Quý vận động mà làm tốt đẹp.

        Như coi sơ qua 2 trụ trên thì Tài Ấn hại nhau, Quan Thương hại nhau, không biết quý ở chỗ nào, xét kỹ mới rõ. Tích thiên tủy có câu "Trừng trọc cầu thanh thanh đắc tịnh, gặp giờ hàn cốc cũng hồi xuân", chính là như thế.

        89 - Tân Tị / Nhâm Thìn / Ất Hợi / Nhâm Ngọ

        Hành vận: Tân mão / canh dần / kỷ sửu / mậu tý / đinh hợi / bính tuất / ất dậu

        Trụ của Tỉnh trưởng Giang tô Trần Đào Di: Ất sanh tháng Thìn, ngày đóng trường sanh, dùng Đinh trong Tị Ngọ, là Thực thần sanh Tài cách. Năm thấu Tân kim Thất sát là phá cách, mừng được Nhâm thủy trong Thìn thấu ra, hóa Sát sanh thân, lấy Nhâm làm thần cứu ứng vậy. Tuy lấy Thực thần sanh Tài nhưng vận hỉ Thực kị Tài, tất do lấy Thực có thể tiết tú trong khi Tài thì phá Ấn vậy. Phàm những trụ nhiều sóng gió chìm nổi, phần nhiều như thế.

        Diệu dụng của trụ toàn ở lẽ thành bại cứu ứng, trong đó quyền biến nặng nhẹ, rất đỗi linh hoạt. Học giả nên lưu tâm, có thể theo lẽ trung dung mà ứng phó vạn biến, là cái đạo lớn của mệnh, ấy là đạt đạo !

        Lẽ thành bại cứu ứng của bát tự, thiên biến vạn hóa, không thể nói hết. Các ví dụ biến hóa kễ trên, đều chọn dụng thần theo nguyệt lệnh như cách phổ thông vậy.

        Mạnh Tử viết, đại tượng lấy quy củ dùng người, không thể dùng được người xảo, học giả sau khi luyện tập quen, tự ngộ lẽ hay. Như luận về biến hoá, tất bát tự như nhau, mà địa vị thứ tự, biến đổi 1 chút, tức thì ra sanh biến hóa, là thành hoặc bại, được hoặc không được ứng cứu, không thể luận như nhau, cũng không thể kể hết phương thức ra được.

        Duy thông suốt chỉ có 1 lẽ dung hòa, tất tự nhiên quyền biến nặng hay nhẹ, phải trái đều về nguồn.
        Duy lhông suốt chỉ có 1 lẽ dung hòa , tất tự nhiên quyền biến nặng hay nhẹ , tả có về nguồn.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      16. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        diennien (26-01-14)

      17. #29
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Chương 10: Luận dụng thần biến hóa

        Dụng thần chuyên gửi ở nguyệt lệnh, nhưng nguyệt lệnh tàng chứa bất nhất, nên dụng thần cũng biến hóa. Như trong 12 chi, trừ Tí Ngọ Mão Dậu ra, các chi khác đều tàng chứa dư khí, không chỉ riêng tứ khố (Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ khố, ngoài ra là Dần Thân Tị Hợi). Tức lấy Dần mà luận, Giáp vốn là chủ, như quận có phủ, Bính trường sanh ở Dần, như quận có đồng tri, Mậu cũng trường sanh ở Dần, như quận có thông phán; giả sử tháng Dần là đề cương, không thấu Giáp mà thấu Bính, tất như tri phủ không tới quận, nên đồng tri được tác thành chủ vậy. Biến hóa là như thế.
        Trong 12 chi, Tí Ngọ Mão Dậu là chuyên khí, chỉ tàng 1 chứa thần; Dần Thân Tị Hợi là sanh địa, là nơi tàng chứa khí Trường sanh và Lộc vượng (Lâm quan). Thập can ngũ hành chỉ có 4 sanh địa (ý nói thiên can dương trường sinh ở Dần Thân Tị Hợi). Âm trường sanh là do dương đến cực mà âm sanh, không phải sanh địa chân chính, nên nói trong Tí Ngọ Mão Dậu không có trường sanh vậy. Ở Dần thì Giáp mộc lộc vượng, Bính Mậu trường sanh, nên nói tàng Giáp Mậu Bính. Ở Tị thì Bính Mậu lộc vượng, Canh kim trường sanh, nên nói Tị tàng chứa Bính Mậu Canh, Giáp mộc trường sanh, cố sở tàng là Nhâm Mậu Giáp. Thổ kí sanh ở Dần Thân, kí vượng ở Tị Hợi. Nói Dần Tị mà không nói Thân Hợi vì, do trong Dần có chứa Bính hỏa sanh cho, nên thổ vượng dùng được; trong Hợi có tàng chứa kim thủy tiết khí, nên nói thổ nhược không thể dùng được vậy. Thìn Tuất Sửu Mùi là mộ địa, tàng chứa dư khí vạn vật lúc nhập mộ. Ở Thìn thì mộc còn dư khí, thủy mộ, nên thổ là bản khí, Thìn tàng chứa Mậu Ất Quý vậy, Tuất Sửu Mùi đều như thế. Nên nói lấy Dần mà luận, Giáp là chủ, gặp Dần thì khí đương vượng; kế tới Bính Mậu cũng là có khí. Giả sử tháng Dần là đề cương, không thấu Giáp mà thấu Bính, thì Giáp tuy đương vượng, nhưng trong bát tự không có, cai quản ở đâu chứ; Bính tuy thứ yếu, nhưng chủ trì bát tự, thế nên bỏ Giáp mà dùng Bính. Do thế mà biến hóa vậy.

        Lại nói Đinh sanh tháng Hợi, vốn là Chánh quan, chi toàn Mão Mùi, tất hóa ra Ấn. Kỷ sanh tháng Thân, vốn là Thương quan, tàng chứa Canh mà thấu Nhâm, tất hóa ra Tài. Phàm như thế đều là biến hóa của dụng thần vậy.

        Đinh sanh tháng Hợi, nguyệt lệnh vốn là Chánh quan, chi toàn Mão Mùi, tất tam hợp mộc cục mà hóa ra Ấn, thế là vì hội hợp mà biến hóa vậy. Kỷ sanh tháng Thân, kim vốn là Thương quan, tàng Canh thấu Nhâm, tất Thương quan dùng lấy Tài, thế là vì tàng thấu mà biến hóa vậy.

        Biến khéo thì cách trở thành rất tốt ; biến không khéo thì cách tan, thế nào là biến khéo? Như Tân sanh tháng Dần (giáp Tài Bính Quan Mậu Ấn) , gặp Bính thì Tài hóa ra Quan; Nhâm sanh tháng Tuất (Mậu Sát tân Ấn Đinh Tài) gặp Tân thì Sát hóa ra Ấn. Quý sanh tháng Dần (giáp Thương Bính Tài Mậu Quan) , không thể chuyên lấy Sát mà luận. Quý sanh tháng Dần, nguyệt lệnh Thương Quan nắm lệnh, tàng Giáp thấu Bính, hội Ngọ hội Tuất , tất Dần Ngọ Tuất tam hợp, Thương hóa ra Tài; thêm Bính hỏa thấu ra , hoàn toàn lấy Tài mà luận, tức dùng như không thấu Bính mà thấu Mậu thổ, thì cũng lấy Tài vượng sanh quan mà luận. Thế nên trước tiên lấy Dần Ngọ Tuất tam hợp biến hóa, không luận là Thương Quan gặp Quan vậy. Ất sanh tháng Dần, Giáp kiếp nắm lệnh, hội Ngọ hội Tuất, tất Kiếp hóa ra Thực Thương, thấu Mậu tất Thực Thương sanh Tài, không thể lấy Tỉ Kiếp tranh Tài mà luận. Đó là lấy hội hợp mà biến hóa vậy. Nhờ biến hóa mà kị hóa ra hỉ, là khéo biến vậy.

        Tân sanh tháng Dần, nguyệt lệnh Chánh tài nắm lệnh, thấu Bính tất lấy Tài sanh Quan vượng làm dụng, không thể chuyên lấy Tài mà luận. Nhâm sanh tháng Tuất, nguyệt lệnh Thất sát nắm lệnh, thấu Tân tất Tân kim dư khí tác dụng, Sát Ấn tương sanh, không thể chuyên lấy Sát mà luận. 2 ví dụ đó lấy thấu ra mà biến hóa ra vậy. Quý sanh tháng Dần, nguyệt lệnh Thương quan nắm lệnh, tàng Giáp thấu Bính, hội Ngọ hội Tuất, tất Dần Ngọ Tuất tam hợp, Thương hóa ra Tài; thêm Bính hỏa thấu ra, hoàn toàn lấy Tài mà luận, tức dùng như không thấu Bính mà thấu Mậu thổ, thì cũng lấy Tài vượng sanh Quan mà luận. Thế nên trước tiên lấy Dần Ngọ Tuất tam hợp biến hóa, không luận là Thương quan gặp Quan vậy. Ất sanh tháng Dần, tháng Kiếp nắm lệnh, hội Ngọ hội Tuất, tất Kiếp hóa ra Thực thương, thấu Mậu tất Thực thương sanh Tài, không thể lấy Tỷ kiếp tranh Tài mà luận. Đó là lấy hội hợp mà biến hóa vậy. Nhờ biến hóa mà kị hóa ra hỉ, là khéo biến vậy.

        Thế nào là biến không khéo? Như Bính sanh tháng Dần, vốn là Ấn thụ, can không thấu Giáp mà lại hội Ngọ hội Tuất, tất hóa ra Kiếp. Bính sanh tháng Thân, vốn là Thiên tài, tàng Canh thấu Nhâm, hội Tý hội Thìn, tất hóa ra Sát. Những trụ loại như thế đều là biến không khéo ra bất thiện vậy.

        Bính sanh tháng Dần, Giáp mộc nắm lệnh, vốn là Thiên ấn, can không thấu Giáp mà thấu Bính, hoặc hội Ngọ hội Tuất, tất tam hợp hỏa cục, Ấn hóa ra Kiếp. Bính sanh tháng Thân, Canh kim nắm lệnh, vốn là Thiên tài, can không thấu Canh mà thấu Nhâm, hoặc hội Tý hội Thìn, tất tam hợp hỏa cục, Tài hóa ra Sát. Do biến hóa mà hỉ hóa ra kị, là biến ra bất thiện. Hỉ kị biến hóa không nhất định, xem thêm như sau:

        90 - Nhâm Dần / Đinh Mùi / Kỷ Mão / Ất Hợi

        Hành vận: Mậu thân / kỷ dậu / canh tuất / tân hợi / nhâm tý / quý sửu

        Tứ trụ của Ngũ Đình Phương: Kỷ sanh tháng Mùi, can thấu Đinh hỏa, hỏa thổ đang vượng, thế nhưng chi hội Hợi Mão Mùi mộc cục, can thấu Nhâm thủy, Đinh hợp Nhâm hóa mộc, thêm chi năm Dần, giờ thấu Ất trợ giúp thêm, Đinh Mùi 2 chữ đều hóa ra mộc, Kỷ thổ không khỏi tòng Sát hĩ. Tứ trụ không kim, hội cục thuần túy, tòng Sát cách thành vậy.

        91 - Bính Tý / Nhâm Thìn / Nhâm Thân / Ất Tị

        Hành vận: Quý tị / giáp ngọ / ất mùi / bính thân / đinh dậu / mậu tuất

        Tứ trụ của Vương Khắc Mẫn: Nhâm sanh tháng 3, vốn là mộ địa, Mậu thổ Thất sát nắm lệnh, nhưng trong Thìn không thấu Mậu mà thấu ra Nhâm Ất, Thân Tý Thìn tam hợp thủy cục, tất thổ vượng biến thành thủy vượng, mộc mùa xuân còn dư khí, tiết bớt thủy vượng, Bính hỏa lại đắc lộc ở Tị, biến ra Thương quan sanh Tài cách.

        92 - Ất Hợi / Kỷ Mão / Giáp Thân / Ất Hợi

        Hành vận: Mậu dần / đinh sửu / bính tý / ất hợi / giáp tuất / quý dậu

        Tứ trụ của Hồ bắc đô đốc Tiêu Diệu Nam: Nguyệt lệnh dương nhận, gặp được Thân kim chế, Sát Nhận cách thành. Canh kim trong Thân, ám hợp với Ất mộc trong Mão, khí hiệp tình hòa, chính gọi là "Giáp lấy Ất muội thê Canh, tưởng cát hóa hung" vậy. Dương nhận hợp Sát, Sát chẳng khắc thân, đến vận Giáp làm quan phủ; vận Tuất sanh kim mà hợp mất Mão, cách cục phá hết nên thất lộc.

        93 - Quý Dậu / Đinh Tị / Nhâm Ngọ / Bính Ngọ

        Hành vận: Bính thìn / ất mão / giáp dần / quý sửu / nhâm tý / tân hợi

        Tứ trụ của Tùng hỗ hộ quân sứ Hà Phong Tòng: Nguyệt lệnh Tài Sát, nhật nguyên cực nhược, hay ở chỗ Tị Dậu hợp lại, Tài hóa ra Ấn, Quý khắc mất Đinh, khiến Đinh chẳng hợp Nhâm, cũng chẳng thương Ấn, là dùng Kiếp hộ Ấn. Can giờ Bính hỏa thấu ra, Tài vượng sanh Quan, nhờ có Tài Ấn chẳng hại nhau, toại thành quý cách. Nếu chỉ được Quý thủy cứu ứng, mà không gặp được Tị Dậu biến hóa, cũng không thành nổi vậy.

        Cũng có khi biến hoá mà không làm mất cách cục vậy. Như Tân sanh tháng Dần, thấu Bính hóa Quan, như lại thấu Giáp, trở thành cách Chánh tài, kiêm thêm cách Chánh quan vậy. Ất sanh tháng Thân, thấu Nhâm hóa Ấn, như lại thấu Mậu, tất Tài sanh Quan, Ấn gặp phải Tài thì thoái vị, tuy thông nguyệt lệnh, cách trở thành Thương quan, rất kị gặp Mậu quan. Bính sanh tháng Dần, hội Ngọ Tuất là Kiếp, như lại thấu hoặc Giáp, hoặc Nhâm, Ấn cách bị phạm nhưng không phá. Bính sanh tháng Thân, gặp Nhâm hóa ra Sát, như lại thấu thêm Mậu, tất Thực thần có thể chế Sát sanh Tài, Tài cách bị phạm, nhưng phú quý chẳng bị mất. Đại loại như vậy nhiều lắm, đều là biến hoá mà không làm mất cách cục sẳn có.

        Tân sanh tháng Dần, Giáp mộc Chánh tài nắm lệnh, Giáp Bính đều thấu, tất thành ra cục Tài vượng sanh Quan. Kiêm cách thì dùng kiêm và dụng, không phải là dùng 2 cách riêng biệt.

        Ất sanh tháng Thân, nguyệt lệnh Chánh quan, thấu Nhâm vốn là có thể bỏ Quan dùng Ấn, gặp Mậu Tài đều thấu, tất Tài sanh Quan và phá Ấn, nên xét kỹ khí của Ấn Tài Quan. Giáp mộc trong Dần đang vượng, nên Bính Mậu có khí, Canh kim trong Thân đang vượng, Nhâm Mậu có khí, trước tiên dùng đang vượng, sau mới tới đắc khí, thứ tự nhất định là vậy. Khí đang vượng như thấu xuất ra, tất khí thứ yếu phải thoái nhượng, hoặc lấy sanh trợ thần đương vượng làm dụng, lý nhất định là vậy.

        Quý sanh tháng Dần, Thương quan nắm lệnh, Giáp Bính đều thấu, tất trước lấy tiên Giáp sau mới tới Bính, nhưng vì Thương quan sanh Tài, nên kị gặp Quan tinh.

        Bính sanh tháng Dần, Ấn thụ nắm lệnh, chi hội Ngọ Tuất, tất hóa ra Kiếp. Thấu Giáp tất Giáp Ấn đang quyền, Ấn cách bất biến; thấu Nhâm tất Ấn được Sát sanh, Kiếp bị Sát chế, nên Ấn cách lại cũng bất biến.

        Bính sanh tháng Thân, Thiên tài nắm lệnh, thấu Nhâm tất thủy thông nguồn nên hóa Sát, như lại thấu Mậu, tất Tài được Thực sanh, Sát bị Thực chế, nên Tài cách cũng bất biến. Đó là ví dụ biến mà bất biến vậy.

        Nói rằng bát tự trừ phi dụng thần đã lập, dụng thần không biến hóa thì chẳng linh nghiệm, người khéo xem mệnh nên để ý.

        Xét dụng thần mà không xét lẽ biến hóa ấy, tất không thể xác định được dụng thần, nên xét cho rõ.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      18. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        diennien (26-01-14)

      19. #30
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Chương 11 : Luận dụng thần thuần tạp

        Dụng thần đã có biến hóa, trong biến hóa có chia ra thuần, tạp. Thuần thì cát, tạp thì hung.
        Dụng thần thuần tất khí thế thuần nhất, nên dễ phát huy năng lực; dụng thần tạp tất vướng mắc trăm mối, nên có thể khó hiển lực. "Tích thiên tủy" viết: "nhất thanh đáo để hiển tinh thần, quản lấy bình sanh phú quý chân, trừng trọc cầu thanh thanh đắc tịnh, giờ lai hàn cốc cũng hồi xuân ", tức nói về thuần tạp vậy (Xem thêm "Tích thiên tủy chinh nghĩa, tiết ví dụ Thanh Trọc).

        Thuần là sao? Là dụng tương quan qua lại mà cả 2 đều tương đắc. Như Tân sanh tháng Dần, Giáp Bính đều thấu, Tài và Quan cả 2 tương sanh, tương đắc. Mậu sanh tháng Thân, Canh Nhâm đều thấu, Tài và Thực cả 2 tương sanh, tương đắc. Quý sanh tháng Mùi, Ất Kỷ đều thấu, Sát và Thực tương khắc, tương khắc nhưng lại hợp nhau, nên cả 2 cũng tương đắc vậy. Các loại như thế, đều là dụng thần thuần vậy.

        Tài Quan Thực Ấn, nhiều hỗ dụng, tất rất cần hợp với nhật nguyên, không nên tương hại. Như Tân sanh tháng Dần, tất Tân kim nên gặp thông căn hay lộc, rất cần gặp Quan vượng, thì Quan được Tài sanh. Mậu sanh tháng Thân, Thân nên gặp nhiều trợ giúp, rất cần tiết tú, thì Tài Thực tương sanh, đều là gặp hợp mà tương đắc vậy. Quý sanh tháng Mùi, Ất Kỷ đều thấu, rất cần thân cường, để lấy Thực chế Sát tương xứng nhau. Tóm lại cốt yếu ở hợp, tất tương đắc mà lại thêm đẹp, tức nếu không được cùng xuất ra từ nguyệt lệnh, thì cũng nên được thấu ra từ chi năm, ngày, giờ vậy. Cũng là lấy tương đắc làm tốt đẹp.

        Tạp là sao? Là hỗ dụng nhưng cả 2 không cùng chung mưu vậy. Như Nhâm sanh tháng Mùi, Ất Kỷ đều thấu, Quan với Thương tương khắc, cả 2 không cùng chung mưu vậy. Giáp ở tháng Thìn, Mậu Nhâm đều thấu, Ấn với Tài tương khắc, cũng là cả 2 không cùng chung mưu. Các loại như thế, đều là dụng thần tạp vậy.

        Quan với Thương không thể dùng cả 2, Tài và Ấn không thể dùng cả 2, thường là vậy (trừ 1 số ngoại lệ). Nhâm sanh tháng Mùi, tháng lệnh thấu Kỷ thổ Quan tinh mà tàng Ất, tất Ất mộc không có lực tổn thương nổi Quan. Giáp sanh tháng Thìn, tháng lệnh thấu Nhâm thủy Ấn thụ mà tàng Mậu, tất Thìn thổ cũng không phá nổi Ấn. Như đều thấu ra tất hiềm nhau. Như ngôi vị không tương hại, hoặc can đầu riêng có chế hợp, có thể cứu ứng. Bằng như không có ứng cứu, không luận là tốt được.

        94 - Giáp Tý / Đinh Mão / Kỷ Hợi / Mậu Thìn

        Hành vận: Mậu tuất / đinh dậu / bính thân / ất mùi / giáp ngọ / quý tị

        Như trụ của Dương Tăng Tân. Hợi Mão hội hợp, năm thấu Quan tinh, hay ở chỗ Tý thủy Tài tinh sanh Quan, Quan sanh Ấn, rồi Ấn lại sanh thân, Tài Quan Ấn được thuần mà chẳng tạp vậy. Tiếc là trụ giờ thiếu 1 điểm kim, đến mình là hết, không khỏi con cháu khó khăn.

        95 - Quý Mùi / Giáp Tý / Bính Tuất / Tân Mão

        Hành vận: Quý hợi / nhâm tuất / tân dậu / canh thân / kỷ mùi / mậu ngọ

        Tứ trụ trên của Lương Hồng Chí. Nguyệt lệnh Quan tinh thấu ra, nhưng nguyệt lệnh Tý thủy bị Tuất Mùi bao vây, Quý Mùi lại là Quan đóng ở Thương địa, Bính Tân tương hợp, nhật nguyên tình hướng Tài mà chẳng hướng Quan, cả hai đều không cùng mưu, tựa hồ Giáp tạp. Nhưng xét kỹ, Bính hỏa hợp Tân, khiến Tài không thương Ấn, Ấn chế Thương giữ lại Quan, trong trọc có thanh, vì thế mà quý vậy. Chuyển ngược thành ứng cứu, xét kỹ mới thấy.

        Cái lý thuần tạp, không ngoài biến hóa, không nên sơ xuất, lý ấy rất rõ, người học mệnh không thể không biết.

        Địa chi biến hóa, không ngoài ngũ hợp, tam hợp, lục hợp cùng sanh khắc chế hóa. Phàm bát tự đều thế, dụng thần đã chẳng thuần, ít bậc tất tạp ít, nhiều thứ tất tạp nhiều, những ví dụ trên còn chưa đầy đủ, xem nhiều bát tự tự khắc hiểu rõ.

        Chương 12 : Luận dụng thần cách cục cao thấp

        Bát tự đã có dụng thần, tất có cách cục, có cách cục tất có chia cao thấp, tài quan ấn thực sát thương kiếp nhận, cách nào chẳng quý? cách nào chẳng tiện? bởi cực quý cho tới cực tiện, vạn người mới có 1, thiên biến vạn hóa, sao kể hết được? Nhưng cái lý đại cương, nói gọn lại cũng chỉ ở có tình hay vô tình, có lực hay không có lực.

        Phàm bát tự cùng một cách cục cũng có cao thấp. Cao thấp khác biệt, theo đại thể mà nói là xem ở thành bại ứng cứu với dụng thần thuần hay tạp; như luận kỹ càng, xét can chi tàng thấu, thứ tự phối hợp vị trí, hỉ kị gian thần với nhật nguyên xa cách hay kề cận, hoặc hỉ dụng với nhật nguyên là tiến khí hay thối khí, đều do đó phân ra cách cục cao thấp. Các bát tự có tình vô tình, có lực không có lực khác nhau, nên các mệnh cũng khác nhau. Học giả nhờ xem nhiều bát tự, tinh thần sáng suốt, tự nhiên hội ngộ, không văn tự nào nói rõ được. Thí dụ như sau:

        96 - Mậu Tý / Giáp Dần / Mậu Ngọ / Giáp Dần

        97 - Kỷ Hợi / Bính Dần / Mậu Tý / Giáp Dần

        Hai trụ trên cùng là Sát trọng dụng Ấn (mộc nhiều dụng hỏa tiết khí). Trụ trên nhật nguyên đóng ở Ngọ, 2 Dần củng Giáp (củng Lộc), Tài ở chi năm, giúp Sát sanh Ấn, Ấn đóng ở địa chi, kề cận có lực, 2 Sát giúp 2 bên, tương sanh có tình. Trụ dưới cũng dùng Ấn, Bính Thiên Ấn phục thấu can, chỉ vì nhật nguyên tọa tài, tức là kị thần kề cận nhật chủ. 2 mệnh cùng là quý cách, cùng là Tài Sát Ấn tương sanh, nhưng mà trụ dưới không bằng được trụ trên, như thế là cùng 1 cách cục mà cũng chia ra cao thấp vậy.

        Như Chánh quan bội Ấn, chẳng may thấu Tài, nếu tứ trụ thêm Thương, không còn bội Ấn nữa (Thương quan sinh Tài phá Ấn). Nếu Giáp thấu Dậu Quan, thấu Đinh Thương quan hợp Nhâm Thiên Ấn, là hợp Thương giữ lại Quan, toại thành quý cách, ấy là có tình. Tài kị Tỷ kiếp, cùng Sát tác hợp, Kiếp trở thành dụng. Nên như Giáp sanh tháng Thìn, thấu Mậu thành cách, gặp Ất là Kiếp, gặp Canh là Sát, Ất Canh tương hợp, thảy đều đắc dụng, toại thành quý cách, cũng là có tình vậy.

        Thân nhược dùng Quan, toàn nhờ Ấn hóa; thân cường dùng Quan, nên lấy Tài sanh. Vì vậy Quan Ấn cách không huy hoàng bằng Tài Quan cách vậy. Như tứ trụ có Thương, nhật nguyên đã bị Quan khắc chế, lại bị Thương tiết nhược, tuy dùng Tài có thể tiết khí Thương, nhưng thân nhược không gánh nổi Tài sẽ nguy, chẳng bằng lấy bội Ấn có thể chế Thương hộ Quan, sanh phù nhật nguyên, 1 Ấn mà tới 3 công dụng vậy. Giáp thấu Dậu Quan là như Giáp sanh tháng Dậu, tháng thấu ra Tân kim Quan tinh, gặp Đinh hỏa Thương quan tất Quan bị thương, có Nhâm Thiên Ấn hợp Đinh, không chỉ hợp mất Thương quan, mà Đinh Nhâm hóa mộc, lại giúp nhật nguyên, hóa kị ra hỉ, thế là có tình vậy.

        Tài cách kị Tỷ kiếp tranh Tài (ngoài nhật chủ, Tỉ Kiếp lộ ra nhiều), như thấu Sát tất Tài dua theo Sát, cũng do thế mà phạm cấm kị của cách, thế nhưng Kiếp Sát cùng thấu mà lại hợp nhau, cả 2 đều trở thành đắc dụng. Ấy là vì Sát có thể chế Kiếp, khiến Kiếp không tranh Tài, Kiếp có thể hợp Sát, lại khiến Sát chẳng công thân nữa. Như Giáp sanh tháng Thìn thấu Mậu thành Thiên tài cách, Ất Canh đều thấu, hai bên hợp chế nhau, Tài cách nhờ vậy không bị phá (xem tiết luận Tài cách, Tài đới Thất sát). Lấy kị chế kị, có tình nên quý vậy.

        Thân cường Sát lộ mà Thực thần lại vượng, như Ất sanh tháng Dậu, Tân kim thấu, Đinh hỏa cương, mùa thu mộc thịnh, cả 3 đều đủ mạnh, tất quý cực đẳng, là nhờ ở có lực vậy. Quan tinh cường Tài tinh thấu ra, thân có Lộc Nhận, như Bính sinh tháng Tí, có Quý thấu can, Canh kim cũng lộ, nhật chủ tọa Dần hay Ngọ, cả 3 đều Thân Tài Quan đều vượng, tất thành đại quý, cũng là nhờ có lực rất mạnh.

        Dùng Quan hay Sát có khác biệt. Thân cường Sát vượng nên có Thực chế, thân cường Quan vượng hỉ Tài sanh. Ất sanh tháng Dậu, Tân kim thấu ra là Thất sát cách. Ất mộc mà chi là Dần Mão Hợi, thêm can thấu Tỷ kiếp, thì thu mộc cực thịnh. Nếu Đinh hỏa Thực thần thấu ra, mộc thịnh tất hỏa cũng có lực. Cả 3 đều mạnh, vận hành chế Sát, tất là cực đẳng quý (xem tiết Luận Sát). Thân Sát Thực thần đều vượng ngang nhau mà có lực. Ví dụ như sau:
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      20. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        diennien (26-01-14)

      Trang 3/13 đầuđầu 12345 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 3
        Bài mới: 10-08-12, 09:09
      2. Tử bình chân thuyên
        By Ducminh in forum Tủ sách Huyền Không Lý Số
        Trả lời: 8
        Bài mới: 15-10-10, 20:58

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •