Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 1/4 123 ... cuốicuối
    kết quả từ 1 tới 10 trên 36
      1. #1
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default Ngũ ngôn độc bộ bình chú

        Ngũ ngôn độc bộ bình chú

        Tác giả: Hoàng Đại Lục
        nguồn kimtubinh.net
        Hoàng Đại Lục bình chú:

        Ở nước ta, từ xưa đến nay lưu truyền nhiều phương pháp đoán mệnh, trong đó thịnh hành nhất là thuật Tử Bình. Tử Bình sở dĩ ngàn năm không bị thay thế bởi vì thứ nhất là nó có hệ thống phương pháp luận hoàn chỉnh, độ ứng nghiệm rất cao; hai là vì người nghiên cứu rất đông đảo cung cấp nhiều phú văn mệnh lý để tham khảo, ví dự như: Kế Thiện Thiên, Hỷ Kị Thiên, Định cách cục quyết, Lục Thần thiên, Kính Vị Luận (1), Kim Bất Hoán cốt tủy ca, Tử Bình toát yếu ca, Tứ Ngôn Độc Bộ, Ngũ Ngôn Độc Bộ (2), v.v..., những phú văn này phụ trợ rất tốt cho giáo trình của người học Tử bình.


        Trong nhiều mệnh lý phú văn, Ngũ Ngôn Độc Bộ (tác giả khuyết danh) có thể nói nổi bật nhất, khí thái mạch văn như thác đổ còn phương thức trình tự như mở đường dẫn lối, trong đó trình bày mệnh lý Tử bình với tính chất tinh, thô đều có, vừa đơn giản dễ hiểu vừa tóm tắt khái quát, vừa hợp giới thanh tao trí thức vừa dễ hiểu với tầng lớp thông thường khác, cho nên ảnh hưởng rất lớn đối với giới Tử Bình.

        Song, người đọc vẫn mờ mịt, người thực sự đọc mà hiểu rõ thì rất ít, ngược lại, phần lớn người yêu thích Tử bình đều mất phương hướng y như đọc các tác phẩm mệnh lý lầm lạc của Nhậm Thiết Tiều, Dư Xuân Đài, Từ Nhạc Ngô. Hai mươi năm trước, người viết từng được dạy sai lầm to lớn về cái gọi là "Cân bằng dụng thần" và "Điều hậu dụng thần", làm mất 10 năm lòng vòng, lẩn quẩn về lý luận này. Sau khi trải qua vô số khó khăn và thất vọng mới hoàn toàn tỉnh ngộ, từ từ quay về chính đạo Tử Bình, mà Ngũ Ngôn Độc Bộ chính là yếu tố có tác dụng rất lớn làm tỉnh ngộ. Để hậu học không mê đường lạc lối như trên, người viết đem những chú giải của mình về Ngũ Ngôn Độc Bộ ra công bố, tin hay không, xin hai chữ tùy duyên.

        Chính văn:

        Hữu bệnh phương vi quý
        vô thương bất thị kỳ
        cách trung nhược khử bệnh
        tài lộc hỷ tương tùy.


        (có bệnh mới quý,
        không bị tổn thương thì không có gì đặc sắc,
        trong cách cục mà khử được bệnh,
        tiền của, bổng lộc và may mắn luôn bên mình)



        Đại Lục bình chú:

        Đoạn phú này mở đầu không rào trước đón sau, nêu rõ vấn đề cốt lõi, đánh thẳng vào vấn đề quan trọng nhất, trọng yếu nhất của mệnh lý, trực tiếp đưa ra lời giải đáp đối với hai vấn đề to lớn là làm thế nào để xem phú quý bần tiện và suy đoán cát hung họa phúc, đồng thời đưa ra quan điểm luận mệnh phần lớn ngược với thường lý, xưa nay chưa hề biết tới "Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ".

        Phần đông học giả mệnh lý đều tin rằng ngũ hành Bát tự quý tại cân bằng và lưu thông, tựa như lý thuyết khoa Trung Y: "thất hành tắc bệnh, bất thông tắc thống, hữu bệnh hữu thống tự nhiên tựu bất hảo" (mất cân bằng thì bệnh, không lưu thông thì đau, có bệnh, đau đớn đương nhiên không tốt). Thực ra, lời này là có phần thiên vị, bởi vì cân bằng và mất cân bằng là một cặp mâu thuẫn, cũng là quan hệ tương hỗ một âm một dương, tầm quan trọng như nhau, tại sao ta chỉ nhấn mạnh tính cân bằng? Ta thường nói "ăn ngon do tiệm, hay ho do trí tuệ", "thất bại là mẹ thành công", " muốn cơ thể trẻ nhỏ ổn định, thường thường phải cho nó chịu ba phần đói và lạnh", đây không phải đang nói đến điểm tốt của thuyết mất cân bằng hay sao? Không té ngã sao biết đi, không xuống nước sao biết bơi, không nhiễm vi khuẩn sao hình thành miễn dịch, "văn chương thường ghen số mệnh hanh thông” (3), có uất giận mới xuất hồn thơ, trong xấu ắt hẳn có điểm tốt. Cân bằng là trang thái tĩnh, mất cân bằng là trạng thái động, nước yên thì không chảy, vật bằng phẳng thì bất động thôi mà.

        Sinh mệnh một khi đã sinh ra thì luôn luôn trong trạng thái động, chưa từng vượt quá trạng thái cân bằng thực sự. Bên trong cơ thể tồn tại tính mất cân bằng bẩm sinh, mà chính sự mất cân bằng này mới là yếu tố then chốt quyết định cá tính khác nhau. Có người cá tính mạnh mẽ, có người nhu nhược, có người nhanh nhẹn, có người chậm chạp, có người bướng, có người hiền, có người giỏi biểu đạt bằng lời nói, có người thạo ngôn ngữ tứ chi, có người tinh thông lý số, có người sở trường tưởng tượng, có người sở hữu nhiều nhạc cụ, có người yêu thích sự vật thần bí, Thành Long không thích đọc sách, Dương Lan (4) không thích đánh đấm, Lâm Chí Linh (5) không chơi cử tạ, Dương Lệ Bình (6) không nấu ăn, Lý Bạch không rượu không thành thơ, Cổ Long (7) không sắc khó động bút, v.v..., nếu những người này tất cả đều cân bằng, khiến Lý Bạch không uống rượu, Lý Quỳ tận lực theo nghiệp học hành, Thành Long tài giỏi như Trần Cảnh Nhuận (8), Dương Lan có khả năng đóng phim võ thuật, trình diễn tạp kỹ như Lý Liên Kiệt, vậy những người này sẽ không thích những thứ vốn dĩ năng khiếu của họ, và sẽ không có thành tựu dựa trên năng khiếu đó, rất có thể ngay cả sức khỏe hay cơ thể của họ cũng không được như vốn dĩ phải có. Chỉ có sự mất cân bằng của yếu tố cơ thể mới đưa đến sự khác biệt về thể chất, tính cách, sở thích, năng lực ghi nhớ, sức tưởng tượng, khả năng tính toán và lý luận, v.v... Có khác biệt của các mặt vừa kể cuối cùng mới dẫn đến sự khác biệt thành tựu trong sự nghiệp. Người đạt thành tựu lớn, không một ai không đem tinh lực sở hữu dồn vào một hai yếu tố đang mất cân bằng nghiêm trọng nào đó.


        Bởi vậy, mệnh cách Bát tự phải có bệnh có thương tích mới tốt, vô bệnh vô thương dĩ nhiên cân bằng, nhưng lại thành tầm thường. Phải rực rỡ mới gọi là lạ, không chỉ phải có bệnh thương tích, mà còn cần lâm trọng bệnh, bị trọng thương! Cùng bác sĩ như nhau, người trị hết đau đầu không cho là giỏi, còn người trị khỏi bệnh hiểm nghèo, khởi tử hồi sinh mới là danh y quốc gia. Cùng ra tay như nhau, nhưng đánh bại mầm bệnh tựa như Củng Hán Lâm (9) không cho là hảo hán, đả bại thú dữ như Thái Sâm mới là anh hùng. Vàng thử lửa, gian nan thử sức, nước loạn mới biết tôi trung, thiên hạ đại loạn mới sinh anh hùng.


        Đương nhiên, có bệnh phải có chế, vô chế thì phá cách, phá cách không nghèo cũng yểu. Cho nên viết: "Cách trung nhược khử bệnh, tài lộc hỷ tương tùy." Chú ý! chữ "cách" này hết sức quan trọng, ngàn vạn lần không thể mơ hồ bỏ qua. "Cách" này là chỉ cách cục cấu thành nguyệt lệnh dụng thần, chữ "bệnh" là chỉ bệnh của cách cục, không phải bệnh bát tự hay nhật nguyên. Rất nhiều mệnh lý học giả đều ít chú ý đến chữ "cách" này, mà sai lầm cho là Nhật nguyên và Tài Quan cần phải cân bằng, rồi suy diễn mất cân bằng là bệnh, hàn noãn (sưởi ấm), táo thấp (hanh khô) cũng cần cân bằng, mất cân bằng cũng là bệnh. Bởi vậy, cả thảy tám chữ thì họ tìm ra được một hoặc vài chữ làm cân bằng toàn cục, đem các tên này gọi thành "Cân bằng dụng thần" và "Điều hậu dụng thần". Nếu thật sự như vậy, thì Tử Bình Chân Thuyên đã không viết "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh", Ngũ Ngôn Độc Bộ cũng sẽ không nói "Cách trung nhược khử bệnh", mà sẽ nói "Bát tự nhược khử bệnh" hoặc "Ngũ hành nhược khử bệnh" hoặc "Nhật nguyên nhược khử bệnh". Tác giả sở dĩ nói đến hai chữ "cách trung" bởi vì ở Tử Bình đều là lấy thành bại cao thấp của cách cục để luận, cho nên "Uyên Hải Tử Bình - phần Bảo pháp chi nhị" mới nói: "Thông thường xem số Tử Bình, chọn cách không chắc, mười phần sai hết chín.", phú quý bần tiện, cát hung họa phúc, tất cả đều là "cách trung", không có ngoại lệ. Chỉ có xem chuẩn được thành bại cao thấp của cách cục mới có thể định chuẩn xác mức độ phú quý bần tiện, chỉ có tìm đúng "bệnh" của "cách trung" mới có thể đoán đúng cát hung họa phúc. Mà cái gọi là "bệnh" của "cách trung" là chỉ vấn đề tổ hợp và thuần tạp của Dụng thần và Tướng thần, của Cừu thần và Hỉ thần, v.v... và vấn đề ở đây không phải là vấn đề cân bằng giữa Nhật nguyên và Tài Quan. Dù cho là Dụng, Tướng, Hỉ, hay Kị thần cũng không cần phải cân bằng, mà chỉ cần bảo vệ trạng thái "bệnh trọng hữu chế" mới là trạng thái tốt nhất.

        Có điều, ý nghĩa chữ "cách" này cũng có vài loại: cách là chỉ ngoại cách, mà có khi cách là chỉ chính cách, cục chỉ ngoại cách, cách là cách mà cục là cục, cần phân biệt rõ. Nhưng xem "Uyên Hải Tử Bình", trong đó chỉ ghi "Nội thập bát cách" và "Ngoại thập bát cách", không phân tách giữa cách và cục. Ngũ Ngôn Độc Bộ chỉ dùng một chữ "cách" để bao quát hết nội cách và ngoại cách, cũng không phân nhỏ ra cách và cục. Bởi vậy, chúng ta có thể đem cách và cục gọi chung là "cách" .


        Lý Thiết Bút giải thích:

        Bốn câu đầu khai thông nguồn gốc luận mệnh của hệ thống Bát tự mệnh lý học, đó là "bệnh dược nguyên lý". Thế bệnh là gì, dược là gì? Ta đều biết rằng một bát tự tuyệt đối không hề có chuyện "trung hòa thực sự" (vô bệnh), hầu hết đều có bệnh: Nhật chủ cường, nhật chủ nhược, mệnh cục hàn thấp, mệnh cục viêm nhiệt, ...(hữu bệnh), tất cả đều là Bệnh của Bát tự. Thực ra thì bát tự có bệnh là hiện tượng hết sức bình thường, nếu giả sử một bát tự hoàn toàn cân bằng, không nóng, không lạnh, không cường không nhược thì khi gặp đại vận, lưu niên xảy ra việc kết hợp hình xung hại hợp với kết cấu bát tự thì sự mất trung hòa, mất cân bằng sẽ xảy ra, đương sự lập tức gặp hung hiểm chứ không có gì tốt đẹp. Quá hiển nhiên, một bát tự cân bằng hoàn toàn thì trong đời tai họa sẽ xảy ra liên miên. Cho nên Ngũ ngôn độc bộ mới mở đầu bằng câu: "hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ."
        thay đổi nội dung bởi: Thientam, 09-04-14 lúc 02:44
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #2
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Ví dụ:

        Nam mệnh 1: Đinh Mão / Quý Mão / Tân Dậu / Canh Dần

        Nam mệnh 2: Quý Mão / Ất Mão / Tân Dậu / Kỷ Hợi

        Hai mệnh cục khi lấy "cân bằng dụng thần" để luận thì hai người đều sinh ngày Tân Dậu trong tháng Mão, mệnh 1 có một Canh kim giúp thân, mệnh 2 thì có một Kỷ thổ sinh thân, Thân vượng Thân nhược hơn kém không bao nhiêu, cho dù là cao thủ luận theo "cân bằng dụng thần" cũng khó phân cao thấp của hai mệnh. Vậy hai mệnh sẽ có kết quả giống nhau? Khác nhau to lớn! Mệnh 1 là một nông dân nghèo khó, vãn niên khi đi vận thổ kim thì vợ mất, tang con, đến nay vẫn còn trong diện "Ngũ bảo hộ" (10). Còn mệnh 2 hoàn toàn trái ngược, ông ta là đại gia có tài sản lên đến hàng tỷ đồng (NDT), giờ chói lọi như mặt trời trên cao vậy. Nguyên nhân ở đâu? Ở cách cục.

        - Mệnh nông dân niên can thấu Sát lại có gốc tại chi giờ, muốn khử Quý thủy cũng không được, nếu dùng Thực Thương chế Sát để luận thì Quý thủy lại sinh Mão mộc đóng ở bên dưới, chuyển thành sinh Đinh hỏa, điều này phá đi cách cục.

        - Mệnh đại gia vì không có Quan Sát, là cách cục thuần chính dụng Tài phối Ấn hỷ Tỉ, cho nên vừa gặp Ấn Tỉ vận tức thì đại phát không ngừng. Đây là hai mệnh luận theo cái gọi là "cân bằng dụng thần" để giải thích được rõ ràng ư? Có khả năng dùng Thân vượng Thân nhược suy đoán kết quả thật sự được à? Dám chắc là không thể. Tức có thể thấy được, đó là luận mệnh theo cách cục Tử Bình mới là chính đạo.


        --

        Chú thích:

        (1) Kính và Vị là tên hai con sông, sông Kính rất trong, ngược lại sông Vị rất đục, Kính Vị là ý nói đến "trong đục" tức là ẩn dụ của "thanh trọc", một nguyên lý cơ bản của Tử Bình thuật.

        (2) Tên gọi Tứ ngôn độc bộ, Ngũ ngôn độc bộ. “Độc bộ” ngoài ý nghĩa là vượt bực còn có nghĩa là bước thong thả một bước thì đọc lên 4 chữ (tứ ngôn) hoặc 5 chữ (ngũ ngôn). Thực tế Ngũ ngôn độc bộ mỗi câu là 5 chữ hết sức súc tích, ngắn gọn và tuân thủ quy luật bằng trắc.

        (3) Một câu thơ của Lý Bạch, nguyên văn "văn chương tăng mệnh đạt", nghĩa là văn chương thường ghen ghét số mệnh hanh thông (thơ và số phận nhà thơ thường ngược nhau).

        (4) Dương Lan, một người dẫn chương trình truyền hình xuất sắc, được mệnh danh là "Oprah Winfrey của Trung Hoa".

        (5) Lâm Chí Linh, siêu mẫu kiêm diễn viên Đài Loan.

        (6) Dương Lệ Bình, một trong những nghệ sĩ múa nổi tiếng nhất TQ, từng đóng trong phim Anh hùng xa điêu, vai Mai Siêu Phong.

        (7) Cổ Long, nhà văn Đài Loan viết tiểu thuyết võ hiệp rất nổi tiếng.

        (8) Trần Cảnh Nhuận (1933-1996), nhà toán học nổi tiếng TQ, huy chương Chern (Trần) được lập ra để vinh danh ông, một giải thưởng trao cho những nhà toán học có thành tựu đóng góp cả cuộc đời cho ngành toán.

        (9) Củng Hán Lâm, diễn viên kịch nói Trung Quốc nổi tiếng.

        (10) Ngũ bảo hộ, là chính sách của nhà nước TQ áp dụng đối với người già, người tàn tật, trẻ vị thành niên,... sống neo đơn, không nơi nương tựa, không có khả năng lao động, không người phụng dưỡng,... ở khu vực nông thôn.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #3
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Lại như mệnh Tạ Đông Mẫn(11) :

        Bính Ngọ / Tân Sửu / Giáp Thân / Bính Dần

        Nhật nguyên chỉ có một Dần mộc ở chi giờ, tứ trụ đầy Sát, Thương, nên thân suy nhược không phải nghi ngờ. Phải hành vận nào mới tốt đây? Thuở thiếu niên, hành vận Đông phương giúp thân ắt hẳn hảo vận chứ nhỉ? Thế nhưng, mệnh chủ thuở đó do cha làm ăn thất bại, theo nghiệp sáng tác để mưu sinh, về sau tuy thi đậu vào Đại học Đông Ngô, sau khi tốt nghiệp ở lại trường giảng dạy nhưng sự nghiệp bình thường không có gì đặc sắc. Sau 60 tuổi, khi hành vận Mậu Thân Kỷ Dậu, là đất tử tuyệt của nhật nguyên, gặp thêm cả Tài Sát nữa, chẳng phải là vận nát như cháo sao? Thế nhưng, mệnh chủ ngay trong hai đại vận này thăng quan nhậm chức Chủ tịch tỉnh Đài Loan, Phó Tổng thống trong Chính phủ Đài Loan.


        Còn như một nam mệnh khác:

        Tân Sửu / Tân Sửu / Giáp Dần / Ất Hợi

        Niên nguyệt là Quan tinh, thời là Kiếp Ấn, mà Nhật nguyên vẫn tọa Lộc, ắt phải thuộc loại bát tự tốt Thân Sát lưỡng đình, ít nhất so với mệnh Tạ Đông Mẫn thì điều kiện thân vượng Quan vượng càng phù hợp hơn. Song, Mệnh chủ học hành thất bại, sự nghiệp không thành công, vài lần ở tù, vận Mậu Tuất năm Canh Ngọ bị phán xử hình phạt tử hình hoãn thi hành án trong hai năm. Vận Đinh Dậu, năm Ất Hợi bị thương nặng trong trại giam, thiếu chút nữa chết trong tù. Thử nghĩ, hai mệnh này có thể sử dụng "cân bằng dụng thần" để luận giải được không? Dám chắc không thể. Chỉ có thể dùng cách cục Tử Bình mới có thể giải thích được.

        - Mệnh Tạ Đông Mẫn dù Quan sát khá mạnh, Nhật nguyên gốc yếu, nhưng có Thực Thương chế Sát, tức cấu thành một cách tốt là Sát yêu Thực chế (Sát mời Thực chế). Xem mệnh cục, Quan sát mặc dù đương lệnh, nhưng Dần Ngọ hợp hỏa còn có lưỡng Bính thấu can, lực cũng không nhỏ, cơ bản là Sát Thực cân bằng. Cho nên thời thiếu, trung niên hành vận mộc hỏa chỉ gặp sự tốt đẹp nhỏ nhoi mà không có may mắn lớn. Lúc tuổi già hành vận thổ kim, lực Quan Sát tăng vọt, lực Thực Thương giảm mạnh, gốc Nhật nguyên hoàn toàn không có, bệnh của cách cục tăng thêm, nhưng chỉ cần một ít Thực Thương không tệ là có khả năng kiềm chế Quan Sát cường đại, đó là kỳ tích của lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh; từ đó khiến Mệnh chủ đạt tới tột đỉnh sự nghiệp.

        - Tứ trụ Tân Sửu dù Thân Sát lưỡng đình, nhưng Dần Hợi hợp, Ấn lại không thấu can, không thể cấu thành cách cục Sát Ấn tương sinh, thuộc bát tự phá cách. Lại hành vận Tài Sát vượng địa, Quan Sát sẽ công thân, cho nên vi phạm pháp luật dính tù tội triền miên, sống không bằng chết.


        --
        Chú thích:

        (11) Tạ Đông Mẫn, đây là cựu Phó tổng thống của Đài Loan, đừng nhầm với diễn viên Hồng Kông Tạ Đông Mẫn đóng trong phim Bằng Chứng Thép.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #4
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Dần mão đa kim sửu
        bần phú cao đê tẩu
        nam địa phạ phùng thân
        bắc phương hưu kiến dậu.


        (Dần Mão nhiều kim sửu,
        giàu - nghèo - cao - thấp là do vận hạn,
        đi về phương Nam sợ gặp Thân,
        đi về phương Bắc đừng thấy Dậu)


        Đại Lục bình chú:

        Tác giả Ngũ ngôn độc bộ sau khi đề xuất dùng cách cục làm cương lĩnh luận mệnh, liền bắt đầu lấy Giáp Ất mộc nhật nguyên làm thí dụ để luận mệnh từ nhiều góc độ. Ngày Giáp sinh tại tháng Dần Mão là Nguyệt Kiếp cách. Nguyệt Kiếp không thể làm dụng, hơn nữa nó là hung thần cần phải chế hóa. Nếu bát tự nhiều kim (bao gồm Sửu vốn tàng chứa kim) thì Nguyệt Kiếp có chế, có thể cấu thành Nguyệt Kiếp dụng Quan cách.

        - Đại vận nếu thuận hành, trước tiên đi về Đông phương thì Kiếp trọng Quan khinh, đa phần là nghèo khổ, sau đó đến gặp Nam phương vận là tử địa Tỉ Kiếp, hơn nữa Tị Ngọ hỏa có thể hóa Kiếp thành Thực Thương, cách biến thành Thực Thương chế Sát, cho nên có thể phát giàu có.

        - Đại vận nếu nghịch hành, nhập vận Bắc phương trước thì Tỉ Kiếp làm càn, phần nhiều chủ bần khốn, sau đó vào vận Tây phương thì là Quan sát vượng địa, Tỉ Kiếp thụ chế cũng có thể làm giàu.

        Bất luận Đại vận thuận nghịch, đa số đều là mệnh "tiên bần hậu phú", cho nên mới nói: "bần phú cao đê tẩu". Trường hợp sinh tháng Dần thuận hành, sợ gặp vận Thân xung đề cương (lệnh tháng) phá cách; sinh tháng Mão nghịch hành thì lại sợ gặp vận Dậu xung đề cương phá cách, nên cho rằng: "Nam địa sợ gặp Thân, Bắc phương đừng thấy Dậu". Thân Dậu này đều là phương Tây, vì sao nói thành Nam địa và Bắc phương? Ý của nó là chỉ đại vận hành theo hướng Nam hoặc hướng Bắc.


        Ví dụ:

        Mệnh Vệ Lập Hoàng (1897-1960) (12):

        Đinh Dậu / Nhâm Dần / Ất Tị / Ất Dậu

        Thiên can Đinh Nhâm hợp mộc, Tỉ Kiếp đương lệnh làm càn, may mắn có Tị Dậu hợp Sát chế Kiếp, cấu thành tổ hợp "dần mão đa kim sửu", Nguyệt Kiếp dụng Sát cách. Thời trẻ hành vận là Sát tinh tử địa, học hành không toại ý, 15 tuổi vào quân đội. Vào đại vận Mậu Tuất, sinh vượng Tài Sát, mệnh chủ thăng tiến rất nhanh, chức vị đến Tỉnh trưởng tỉnh Hà Nam, Tổng tư lệnh tập đoàn quân. Về già vẫn đảm nhiệm chức Phó chủ tịch Ủy ban quốc phòng CHND Trung Hoa. Thân vận phá đề cương, bệnh mất, chính là "Bắc địa sợ gặp Thân".


        Một nữ mệnh:

        Đinh Mùi / Nhâm Dần / Ất Sửu / Đinh Sửu

        Cũng là thiên can Đinh Nhâm hợp mộc, Tỉ Kiếp hoành hành, mừng được chi ngày giờ tọa Sửu Sát, khắc chế nguyệt lệnh Dần mộc Tỉ Kiếp, thành cách Nguyệt Kiếp dụng Sát. Thời trẻ hành vận Đông phương mộc, Kiếp Nhận khó chế, mệnh chủ khổ cực đủ điều, trăm phương kế đều thất bại. Sau khi kết hôn vào năm Canh Ngọ - đại vận Ất Tị, theo chồng buôn bán làm ăn, cuộc sống dần dần chuyển biến tốt đẹp, vận Bính Ngọ gia cảnh đạt tiểu phú. Đây là điều phú văn đã nói "dần mão đa kim sửu, giàu nghèo lên xuống là do vận hạn".


        Thần Phong Thông Khảo có ghi nhận mệnh của Lưu Nhị Khánh đạo nhân:

        Kỷ Dậu / Bính Dần / Giáp Tý / Ất Sửu

        Cũng là mệnh "dần mão đa kim sửu", nhưng mệnh chủ lại là một đạo nhân hết sức điên rồ, đáng ghét, "Bắc phương vận cơm áo tương đối tốt, nhập Tây phương vận tay chân bại liệt, trông giữ lều tranh tại bến đò, Dậu vận thì mất". Tại sao mệnh ông ta không tồn tại cái "bần phú cao đê tẩu"? Tại vì nguyệt lệnh lộ ra Bính hỏa Thực thần và Kỷ thổ Tài tinh, cấu thành Thực Thương sinh Tài cách, nhưng Kỷ thổ Tài tinh lại chuyển sinh cho Dậu kim Thất Sát đóng bên dưới, đây là cái phá cách cục, đã không thể cấu thành Nguyệt Kiếp dụng Sát cách, và Thực Thương sinh Tài cách cũng hỏng, cho nên một việc cũng không thành. Bắc phương vận, kim chìm trong thủy, khử bệnh của cách, cho nên cơm áo tương đối tốt. Tây phương vận Kị thần cướp càn cho nên bại liệt tay chân. Dậu vận Kị thần nắm quyền giữa đường, đây gọi là "Bắc phương đừng thấy Dậu", nên chết ở vận này.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #5
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Lại có một nam mệnh:

        Kỷ Dậu / Bính Dần / Giáp Tuất / Tân Mùi

        Cùng loại với mệnh Lưu Nhị Khánh, cũng là Dậu kim Quan tinh phá Thực Thương sinh Tài cách. Mệnh chủ ở vận Giáp Tý, năm Ất Sửu, mặc dù cũng trong vận thủy Sát tinh tử tuyệt, chỉ vì Tý Sửu hợp thổ, Dậu Sửu hợp kim, Quan Sát phá cách nghiêm trọng mà khiến phạm tội hiếp dâm, bị xử 16 năm tù giam.

        --

        Chú thích:

        (12) Vệ Lập Hoàng, tự là Huy San, hoặc Tuấn Như, còn có biệt danh là Vệ Bách Thắng, một trong những Tư lệnh tài năng nhất của quân đội Trung Hoa dân quốc (Đài Loan). Sau do cãi lệnh Tưởng Giới Thạch không chịu rút quân mà thất trận ở mặt trận Đông Bắc nên bị Tưởng giam lỏng ở Nam Kinh; đến 1949 trốn được sang Hồng Kông khi Tưởng thất thủ Nam Kinh, đoạn tuyệt với chính quyền Đài Loan, ở đây Vệ có bỏ vốn kinh doanh nhưng thất bại nặng nề. Năm 1955 thì chạy sang đại lục, tham gia chính quyền nhân dân Trung Hoa, từng giữ nhiều chức vụ cao trong quân đội, quốc hội, được Chu Ân Lai phong tặng bốn chữ "Khởi nghĩa tướng lĩnh".

        Ngày 17/01/1960, vào lúc 00:40", mất tại Bắc Kinh do bệnh tim phổi (xơ vữa động mạch vành và viêm phổi).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #6
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Kiến lộc sinh đề nguyệt
        Tài Quan hỷ thấu thiên
        Bất nghi thân tái vượng
        Duy hỷ mậu Tài nguyên.


        Đại Lục bình chú:

        Ở đây mang tính tổng kết điều đã nói, là chỉ cần nhật nguyên sinh ở tháng Tỉ Kiên thì lấy Kiến Lộc cách để luận. Loại Bát tự này ưa hai chữ Tài Quan thấu can hữu lực, để chế phục Tỉ Kiếp. Chỉ cần Đại vận không gặp Tỉ Kiếp vượng địa, và hành vận ở đất Tài vượng thì tất nhiên phú quý.


        Ví dụ:


        Mệnh Đỗ Thế Thành (13):

        Canh Dần / Mậu Dần / Ất Mùi / Bính Tuất

        Nguyệt lệnh là Kiếp tài, có Tài Quan thấu ra thiên can, hay hơn chính là thời can lại thấu Thương Quan, như thế thành ra Thương sinh Tài, Tài sinh Quan, Quan chế Kiếp, cấu thành thượng cách Thực Thương sinh Tài mà hỷ Quan. Cho nên mệnh chủ quan lộ hanh thông, làm quan đến Phó tỉnh trưởng tỉnh Sơn Đông , Bí thư Thành ủy Thanh Đảo, mà còn tham lam kiếm bộn tiền. Về già hành vận Giáp Thân, thiên khắc địa xung đề cương, Tài Quan cách cục đều bị phá, cho nên âm mưu bị phát giác, bị tuyên án tù chung thân, chính là ứng nghiệm "Nam địa sợ gặp Thân".


        Còn mệnh của Quảng Đông - Nam Thiên Vương Trần Tế Đường (14):

        Canh Dần / Mậu Dần / Giáp Tý / Bính Dần

        Mệnh này và mệnh của Đỗ Thế Thành hầu như giống nhau, do nhật chi là Tý, lúc tuổi già hành vận Thân nên Thân Tý hợp và không xung đề cương (tham hợp quên xung), cho nên phú quý đến già.


        Một nam mệnh:

        Ất Mùi / Mậu Dần / Ất Mão / Canh Thìn

        Nguyệt lệnh kiến Lộc, Tài Quan thấu thiên can, nhưng không phải là mệnh tốt. Tại sao? Bởi vì một Canh không hợp hai Ất, thành ra niên can Tỉ Kiên dễ bị phá bởi Tài tinh thấu ở nguyệt lệnh, cách cục bị hỏng. Thêm nữa, đại vận nghịch hành, cho nên cuộc sống mệnh chủ ít danh tiếng, tiền bạc kém, của cải chưa đầy đã vơi, gia kế vừa lên lại xuống, đến già vẫn chỉ là một người sống cuộc sống thanh bần. Điều may mắn là Canh kim Quan tinh có khả năng năng kiềm chân nhật nguyên Tỉ Kiếp, chủ tuổi già tốt hơn, cho nên sinh được bốn người con đều có tài.


        Còn mệnh Triệu Nhữ Khiêm (15):

        Ất Mão / Mậu Dần / Giáp Dần / Tân Mùi

        Xem sơ thấy là bát tự phá cách do thời can Quan tinh không thể khắc chế niên can Kiếp Nhận, mà chẳng biết thời trụ và niên trụ Mão Mùi cùng hợp, Tân kim liền có thể khắc chế niên can Kiếp Nhận để hộ Tài, thành cách dụng Tài hỷ Quan. Cho nên mệnh chủ năm 16 tuổi Tân Mão trúng cử nhân, 18 tuổi Quý Tị nhậm chức Tri huyện, kim vận làm quan đến chính khanh (16).



        Một nam mệnh khác:

        Canh Tý / Mậu Dần / Ất Sửu / Kỷ Mão

        Thân vượng Tài vượng Quan vượng, trung niên đại vận lại hành vận Nam phương là đất Tài tươi tốt, tựa hồ là mệnh đại phú đại quý. Nhưng mệnh chủ chỉ là một Chủ nhiệm Trung tâm khoa học kỹ thuật lâm nghiệp huyện, cấp bậc thấp nhất của chức tước quan trường. Mệnh này Tài tinh không bị Kiếp phá cách, vì sao không thể đại quý? Nguyên nhân ở chổ, Canh kim Quan tinh sinh Tý thủy, cấu thành Quan Ấn cách, tiếc là đại vận đông nam là đất tử tuyệt của Quan Ấn, cho nên quý khí rất nhỏ. Có thể thấy được, sai đi một chữ cách cục sẽ khác đi, mức độ phú khác liền, điều này không thể dùng phép luận Thân vượng Thân nhược mà có thể giải thích rõ ràng được.
        --

        Chú thích:

        (13) Đỗ Thế Thành, người đã từng giữ các chức vụ Phó tỉnh trưởng, Phó Bí thư, Tỉnh trưởng rồi Phó Bí thư tỉnh Sơn Đông kiêm Bí thư thành phố Thanh Đảo. Thậm chí, Đỗ Thế Thành còn được bầu là Ủy viên dự khuyết Trung ương năm 2002. Đỗ Thế Thành bị bắt, mất chức và bị tuyên án tù chung thân vào ngày 24-12-2006 do cáo buộc tham nhũng 62,6 triệu nhân dân tệ. Vụ án của ông Đỗ này rất nổi tiếng vì có liên quan đến một người đẹp gốc Việt là Lý Vi.

        (14) Trần Tế Đường (1890-1954), một viên tướng Quốc dân đảng và quân phiệt Trung Hoa Dân Quốc. Trong Thế chiến 2, ông giữ các chức ủy viên trong Chính phủ Quốc dân, Ủy ban Quốc phòng Tối cao và Ủy ban Chiến lược, cũng như Bộ trưởng Nông Lâm trong nội các. Ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch đảo Hải Nam (thuộc Quảng Đông) sau chiến tranh. Ông chạy sang Đài Loan vào tháng 4 năm 1950, khi Hải Nam rơi vào tay quân Cộng sản, được bổ nhiệm làm Cố vấn chiến lược phủ Tổng thống. Ông mất ngày 3 tháng 11, 1954 tại Đài Loan.

        (15) Triệu Nhữ Khiêm (1515-1589), người đất Thông Hải, tỉnh Vân Nam. Từ 16 tuổi đã đậu cử nhân vào khoa thi năm Tân Mão (1531), nên được gọi là “Thần đồng”. Năm 18 tuổi đã là Tri huyện Phú Thuận, Tứ Xuyên, kiêm luôn Huyện sự huyện Tử Đồng (Miên Dương, Tứ Xuyên). Thời làm quan trẻ của ông có một câu chuyện quan thanh liêm. Sau vài năm nhậm chức Tri huyện, có một vụ án xảy ra tại địa phương, số là con gái của một người bán nước La Dụng Tân là Lan Anh bị con trai của một quan lớn lừa vào tư dinh ép làm thiếp, Lan Anh không chịu nên bị đánh bằng trượng đến chết, xác bị vùi trong hoa viên. La Dụng Tân kêu oan cho con gái, bất chấp quan lớn này hối lộ, mua chuộc, Triệu Nhữ Khiêm vẫn thụ lý vụ án, thậm chí ông còn cải trang vi hành tìm bằng chứng, sau khi có được chứng cứ thuyết phục liền bắt hung thủ quy án, kết tội chết. Nhân dân lấy đó làm cảm kích hết mực vì trừ hại cho bá tánh. Nhưng cũng vì “đắc tội” với quan lớn nên ông phải từ chức hồi hương. Trước lúc trở về, dân chúng đưa tiễn rất xa, lại quyên góp cả trăm lạng gửi ông nhưng ông không nhận, chỉ nhận La Dụng Tân vì hoàn cảnh đang bơ vơ làm tùy tùng. Ông về quê mở lớp học học, xây cầu,…

        (16) Chính khanh, chức quan đại thần chấp chính và là chỉ huy tối cao trong quân đội phong kiến. Trong đoạn này Hoàng Đại Lục nhầm thành năm Tân Mùi và năm Quý Dậu.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #7
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Thổ hậu đa phùng hỏa
        quy kim vượng ngộ thu
        đông thiên thủy mộc phiếm
        danh lợi tổng hư phù.


        Đại Lục bình chú:

        Nguyệt Kiếp cách nếu hữu Tài mà vô Quan thì cần phải hành vận đất Thực Thương vượng, đây là ý nghĩa của câu "thổ hậu đa phùng hỏa". Vì sao phải nói là "thổ dày", thổ mỏng không được à? Không thể được, bởi vì nguyệt lệnh Tỉ Kiếp như giặc cướp giữa đường, một chút ít Tài tinh nhỏ nhoi thì khó sinh tồn được, cho nên phải cần thổ dày và còn phải cần "đa phùng hỏa" để hóa tiết hung tính của Tỉ Kiếp, như thế mới có thể khiến Tài tinh đứng vững được trên gót chân, đồng thời cấu thành cách Tài hỷ Thực sinh.

        Cách Nguyệt Kiếp nếu như Tài tinh ít ỏi lại không hành vận nam phương hỏa để hóa tiết Tỉ Kiếp, vậy thì chỉ đến khi vãn niên hành vận thu kim mới có thể chế phục Tỉ Kiếp, do đó mới hưởng được phúc con cái (Thực Thương). Loại bát tự này sợ nhất hành vận đông thủy, thủy mộc quá nhiều, Tỉ Kiếp lan tràn gây lụt lội, dù cho bát tự có được một chút Tài, Quan thì cái lợi danh kia cũng chỉ là hư phù.


        Ví dụ một mệnh trong sách "Chi tú mệnh lý", tác giả Lý Hậu Khải:

        Mậu Dần / Giáp Dần / Giáp Tuất / Giáp Tý
        Ất mão - Bính thìn - Đinh tị - Mậu ngọ - Kỷ mùi - Canh thân

        Nguyệt Kiếp thấu can, hữu Tài vô Quan, Tài tinh mất chổ dựa sao có thể chen chân, cho nên Tài tinh vốn đại diện cho cha và vợ bị khắc thành tật, cha người này bị mù, vợ thì bệnh tâm thần, bản thân thì ở những vận đầu mộc học hành không tốt, sự nghiệp bất thuận. Chỉ khi đến tuổi trung niên hành hỏa vận thì mới được đảm nhiệm một chức vụ bán thời gian (cấp phó phòng).


        Lại như một nam mệnh:

        Ất Mão / Mậu Dần / Giáp Tuất / Bính Dần

        Mặc dù Tài Thực cùng thấu, cấu thành cách Thực Thương sinh Tài, nhưng niên can Tỉ Kiếp khắc phá nguyệt lệnh Tài tinh, phá hỏng cách cục. Cho nên mệnh chủ chỉ là một lão nông bình thường học xong ba năm cơ sở, ban đầu vào vận thủy, thủy mộc phù phiếm, mặc dù nắm giữ chức vị chủ nhiệm một hội nông dân cấp xã, đội trưởng đội sản xuất trong nhiều năm, nhưng đều là hư danh hư lợi, khó tránh được cảnh nghèo khó mà còn mang nổi buồn góa vợ, gánh nặng nuôi nấng 4 đứa con. Tuổi già vào kim vận, được Quan sát chế Kiếp cứu cho cách cục, con trưởng được phong hàm Thiếu tướng, vì vậy được chung hưởng phúc của người con này, chính là "quy kim vượng ngộ thu".


        Lại như một nam mệnh khác:

        Mậu Ngọ / Ất Mão / Ất Mùi / Mậu Dần
        Bính thìn - Đinh tị - Mậu ngọ - Kỷ mùi

        Rất nhiều người luận mệnh theo thuyết "cân bằng dụng thần" đều cho rằng mệnh này thân vượng Tài vượng, lại hành vận nam phương Thực Thương sinh Tài, nhất định giàu có nhất phương; mà chẳng biết rằng mệnh này Tỉ Kiếp đương quyền, vô Quan chế Kiếp, hỏa không thấu can lực mỏng, thêm vào đó sinh tháng hai thổ tử mà không được hỏa sinh, tức Thực Thương không thể hóa tiết Tỉ Kiếp một cách hữu hiệu để sinh Tài, cho nên là một bát tự phá cách. Bởi vậy, mệnh chủ sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở liền vào làm công nhân khai thác than đá trong mỏ tối tăm, năm 17 tuổi Ất Hợi thuộc đại vận Đinh Tị thiệt mạng vì sập hầm mỏ.


        Còn như một nữ mệnh:

        Mậu Ngọ / Ất Mão / Giáp Ngọ / Đinh Mão
        Giáp dần - Quý sửu - Nhâm tý

        Nhìn có vẻ cũng là một bát tự tốt Thương quan sinh Tài, chẳng biết rằng sinh tháng hai thổ tử, một ít Mậu thổ khó chịu nổi Đinh hỏa sinh, dễ bị Ất mộc cướp đoạt, cũng thuộc bát tự phá cách. Cho nên mệnh chủ vào vận Quý Sửu, năm Nhâm Ngọ bị hai tên hiếp xong rồi giết chết, do Sửu thổ Quan tinh muốn chế Nhận mà gặp phải Thương quan trùng điệp phản khắc.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #8
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Giáp Ất sinh cư Mão
        Kim đa phản cát tường
        Bất nghi trọng kiến Sát
        Hỏa địa đắc y lương.


        Đại Lục bình chú:

        Giáp Ất nhật sinh tại tháng Mão là Nguyệt Kiếp cách, tuy nói phải có Quan sát chế Kiếp thì cát tường, nhưng Thất Sát không nên nhiều quá, nếu như một Kiếp có ba bốn Quan Sát đến chế, chế Kiếp quá mức sẽ tổn cách hại người, cho nên "Hỷ Kị Thiên" ghi rằng: "Nguyệt lệnh tuy phùng kiến lộc, thiết kị hội Sát vi hung" (Nguyệt lệnh tuy kiến Lộc, phải tránh gặp Sát thành hung). Thông thường, cách đều hỷ thanh thuần mà kị hỗn tạp, bất kể là Dụng thần hay Tướng thần đa số thường không thanh thuần hơn nữa không chuyên nhất, trách nhiệm không rõ, những ba hòa thượng sẽ thiếu nước uống thôi, cho nên Dụng thần hay Tướng thần không nên nhiều quá. Thông thường là, một Sát chỉ có thể hợp chế một Nhận, nếu như kiến Sát trùng trùng, những Thất Sát dư thừa sẽ ở vào trạng thái vô chế, mà hung thần vô chế thì như giặc cướp hoành hành, tính mệnh thân gia khó bảo toàn được, lúc này ngược lại cần hỏa đến khắc chế những Thất Sát dư ra, cho nên mới nói: "không nên thấy nhiều Sát, hỏa địa đắc y lương". Ý tức là ở Nguyệt Kiếp cách mà Quan sát quá nhiều, chỉ có hành vận Thực Thương thanh thuần mới giảm bớt được Quan sát dư thừa, như thế mới có thể hưởng được cuộc sống sung túc, áo gấm cơm ngọc.

        Còn nữa, đoạn trước đã đề cập "Nam địa sợ gặp Thân, Bắc phương đừng thấy Dậu", biểu thị Kiếp Nhận sợ xung đột, nhất là Dương Nhận khi gặp xung dễ kích động tính chất cương bạo, nhẹ thì thị phị phá tài, nặng thì mất cha, tang vợ, hoặc tang chính mình. Đã là nguyệt kiếp cách sinh tháng Dần Mão thì đại vận đều sợ Thân Dậu, bát tự nào có Thân Dậu xung nguyệt lệnh càng phải đề phòng hơn cả. Lấy Quan sát chế Tỉ Kiếp, lại phân ra xung khắc và hợp chế, hợp chế nếu so với xung khắc thì tốt hơn nhiều. Vì sao vậy? Bởi vì xung khắc biểu thị còn đang xung đột, như hai người đánh nhau chưa phân thắng bại, nếu như Nhận trọng Sát khinh, thì sẽ kích động Thất Sát công Thân, cho dù là Sát Nhận lưỡng đình (cùng mạnh như nhau), yên ổn cũng chỉ là tạm thời, một Dương nhận cương kiện bất khuất bất cứ lúc nào cũng sẽ phản công Thất Sát. Mà hợp Sát thì không giống vậy, hợp Sát như lấy dây thừng trói trâu ngựa, dù chỉ là dây ba thước của trẻ con cũng có tác dụng. Cho nên sách mệnh học mới nói là: "hợp Sát vi quý", "Dương nhận sợ xung".

        Ví dụ:

        Mệnh của Lục Quang Tổ (17):

        Tân Tị / Tân Mão / Giáp Thân / Giáp Tuất


        Giáp mộc sinh tại tháng Mão, Quan tinh trùng trùng chế Nhận, bất xung bất chiến là điều cát tường, cho nên mệnh chủ sớm ra làm quan, liên tục thăng quan làm đến Lễ bộ Thượng thư.


        Một nam mệnh:

        Ất Dậu / Kỷ Mão / Giáp Tuất / Tân Mùi


        Cũng thuộc cách Dương Nhận dụng Quan nhưng Dậu xung Mão, phá cách. Mặc dù Mão Mùi hợp có thể giải Mão Dậu xung, nhưng gặp tuế vận phá hợp thì đại sự không ổn. Quả nhiên, khi 18 tuổi là đại vận Đinh Sửu, năm Quý Mão, mệnh chủ phạm tội hiếp dâm, bị tuyên án 17 năm tù giam. Đây chính là bởi Sửu Dậu hợp thì Mão Mùi xung chiến gây kích động hung tính của Dương Nhận.
        Một nữ mệnh:

        Bính Tuất / Tân Mão / Giáp Thân / Quý Dậu


        Nguyệt lệnh Dương Nhận, tuy có Thân kim ám hợp, nhưng ám hợp khó giải minh xung, cho nên luận Dậu kim xung Mão mộc. Cách cục liền bị phá, mọi thứ đều bế tắc. Mệnh chủ 11 tuổi mắc bệnh tâm thần, đều trị lâu mà không khỏi, năm 42 tuổi Mậu Thìn uống lầm thuốc trừ sâu mà chết. Nếu như nệnh này hành vận Nam phương hỏa, đem Quan sát trùng trùng vây hãm vào tuyệt địa, như thế mệnh chủ sẽ tốt hơn nhiều, có khi còn kiếm được một tài sản nhỏ nữa chứ.



        Chú thích:

        (17) Lục Quang Tổ (1521- 1597), người Chiết Giang, do hướng về Phật giáo, nên lấy hiệu là Ngũ Đài cư sĩ, một viên quan nổi tiếng sống ở triều đại nhà Minh. Năm 1547 đậu tiến sĩ, được phong Tri huyện Tuấn (Hà Nam), sau đó liên tục thăng quan, làm đến chức Thượng thư bộ Lại (nắm sự vụ về quan lại phong kiến như bổ miễn nhiệm, điều động, thăng giáng,…). Tuổi già một lòng với Phật pháp.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #9
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Hỏa kị tây phương dậu
        Kim trầm phạ thủy hương
        Mộc thần hưu kiến ngọ
        Thủy tại mão trúng thương.

        (Hỏa kị dậu ở tây phương, kim sợ chìm xuống nước, khí mộc chớ thấy ngọ, thủy trúng thương ở mão)

        Đại Lục bình chú:

        Xem đại vận phải chú ý vài chổ quan trọng, như Trường Sinh, Mộc Dục, Lâm Quan, Đế Vượng, Mộ khố, Tử Tuyệt, v.v..., đều là điểm phải xét ở mỗi mệnh. Đoạn văn này chính là nói đến Tử địa, tức là hỏa đến Dậu là tử, kim đến Tý là chìm, mộc đến Ngọ là cháy tiêu, thủy đến Mão bị thương. Điều này cốt yếu ở chổ Tướng, Hỉ thần đến nơi đó thì nhiều hung hiểm, còn Kị, cừu thần đến đó thì nhiều tốt đẹp.


        Nam mệnh 1:

        Bính Tý / Canh Tý / Ất Sửu / Kỷ Mão

        Tý thủy Ấn tinh làm dụng, Canh kim Quan tinh làm Tướng, đáng tiếc Thiên can Bính hỏa Thương quan, địa chi Tý Sửu hợp, Tý Mão hình nhau mà thương Ấn, thêm nữa đại vận đến Mão, Ấn tinh bị thương lần nữa, cho nên mệnh chủ khoảng chừng 30 mắc bệnh tâm thần, sau này vẫn điên điên khùng khùng, không hôn nhân, không công việc.


        Nam mệnh 2:

        Mậu Thìn / Tân Dậu / Nhâm Tý / Quý Mão

        Nhìn qua thì thấy Quan Ấn thành cách, ắt hẳn phải là một người có chức tước. Song, tiếc là đại vận Bắc phương, kim trầm thủy hương, phá hủy Ấn tinh, phá hỏng cách cục, cho nên mệnh chủ sau một năm tham gia quân đội thì đào ngũ về nhà làm ruộng, gia cảnh trở thành một hộ có thâm niên nghèo khổ.


        Nam mệnh 3:

        Bính Tuất / Bính Thân / Quý Sửu / Quý Sửu

        Ấn tinh đương lệnh, có Sửu Tuất Quan sát sinh cho, thành cách Ấn nhờ Quan sinh. Bệnh của cách cục là Ấn trọng Quan khinh, đại vận nên hành vận Tài Quan vượng. Mậu Tuất vận, Quan tinh thấu thanh hữu lực, mệnh chủ đảm nhiệm cục phó Cục thuế, phát tài, tiền của cả triệu đồng, được mát mày mát mặt nhất thời. Vừa đến Hợi Tý thủy vận, kim chìm, hỏa tắt, thổ tan, dụng tướng thần đều bị thương, cách cục bị phá tận cùng, sự nghiệp lụn bại, đến nổi cuối cùng chết trong nghèo đói.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #10
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Thổ tú hưu hành hợi
        Lâm quan phạ tị cung
        Nam phương căn hữu vượng
        Tây bắc mạc tương phùng.

        Đại Lục bình chú:

        Vừa bàn xong hỏa kim mộc thủy thì liền nói đến thổ. Thổ tuyệt địa ở đâu? Tại Hợi, vì nơi này mộc lâm Trưởng sinh còn thổ thụ khắc. Về phần Tị, mặc dù là Lâm quan của thổ, tự đắc Lộc mà vượng, thực ra trong Tị hàm chứa 5 phần kim khí nên gặp kim sẽ biến, đây là tính "hỏa gian" (gian trá của hỏa), tùy thời cơ mà đem bán hỏa (phản bội hỏa), cho nên mới nói "sợ Tị cung", có người nói thổ Tuyệt tại Tị không phải không có lý. Ngoài hai chổ Hợi Tị ra thì thổ chỉ sợ đến phương Tây bắc vì kim trọng thổ hư (kim nặng thì thổ rỗng), thủy đại thổ tán (nước lớn thì đất tan), ngược với nam phương là sẽ thấy ngay suy nhược. Đương nhiên, ở phương Tây bắc thì cũng có khác nhau chút ít: như thổ đến Thân thì trong Thân còn có gốc Mậu; đến Dậu thì hoàn toàn không có căn khí, cho nên thổ tại Thân có lực hơn một chút so với tại Dậu; thổ đến Tuất xem qua thấy như đắc khố căn, nhưng thực ra tháng Tuất kim trọng tiết thổ, thổ tương đối suy yếu, chẳng qua nếu so với tại Thân Dậu thì hữu lực hơn một chút xíu. Về phương bắc Hợi Tý Sửu, thổ yếu nhất là ở Hợi, tiếp theo ở Tý, kế nữa mới đến Sửu. Đương nhiên, cần phải phân âm thổ và dương thổ, lực âm thổ tại đất thủy yếu hơn dương thổ, bởi vì dương thổ tương đối khá cứng cỏi, bẩm sinh vốn đủ sức khắc thủy tính.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 1/4 123 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 3
        Bài mới: 10-08-12, 09:09

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •