Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 2/4 đầuđầu 1234 cuốicuối
    kết quả từ 11 tới 20 trên 35
      1. #11
        Tham gia ngày
        Dec 2009
        Đến từ
        Hanoi, Vietnam
        Bài gửi
        3,387
        Cảm ơn
        844
        Được cảm ơn: 4,604 lần
        trong 1,996 bài viết

        Default

        mượn bài:

        LOGIC HỌC PHẬT GIÁO
        Thích Nguyên Hạnh


        PHÂN I : KHÁI QUÁT VỀ LOGIC HỌC

        CHƯƠNG I
        LOGIC HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
        CŨNG GỌI LÀ NHÂN MINH HỌC


        I- LOGIC HỌC LÀ GÌ ?

        Lôgic học hay luận lý học phương Đông cũng gọi là Nhân minh học. Nhân minh học vốn gốc từ Ấn Độ, và là một trong năm môn học, gọi là ngũ minh, tại các trường Đại học Phật giáo thời Trung cổ như Nalanda. Từ minh nghĩa là nghiên cứu hay làm rõ. Năm minh đó là :

        a-Nội minh : nghiên cứu giáo lý đạo Phật.
        b-Y phương minh : nghiên cứu việc trị bịnh, cho thuốc.
        c-Công xảo minh : nghiên cứu công kỹ nghệ.
        d-Thanh minh : nghiên cứu các ngôn ngữ, văn phạm, tu từ học.
        e-Nhân minh : nghiên cứu luận lý học.

        Từ nhân (reason) trong nhân minh có các nghĩa căn cứ, tức là căn cứ của lập luận, lý do của lập luận.

        II- NHÂN MINH CŨ VÀ NHÂN MINH MỚI
        Môn học Nhân minh mới, là môn học của Phật giáo, do luận sư Dignãga (Trần Na) thành lập, mà Dignãga lại là học trò trực tiếp của Luận sư Duy Thức nổi tiếng Vasubandhu (Thế Thân), sống vào cuối thế kỷ thứ V, do đó có thể đoán biết Dignãga cũng sống vào thời kỳ đó, ở Ấn Độ tức vào khoảng thế kỷ thứ V Công nguyên (480- 540). Dignãga thành lập môn Nhân minh học Phật giáo không phải từ con số không mà là từ những thành tựu của môn Nhân minh học cũ, được đại diện bởi Triết phái Nyãya, là một trong sáu triết phái chính thống (astika) thuộc Ấn Độ giáo. Thuật ngữ Nyãya dịch âm là Nê giạ da, dịch nghĩa là Chánh Lý phái.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #12
        Tham gia ngày
        Dec 2009
        Đến từ
        Hanoi, Vietnam
        Bài gửi
        3,387
        Cảm ơn
        844
        Được cảm ơn: 4,604 lần
        trong 1,996 bài viết

        Default

        Vì triết phái Chánh Lý có một số điểm giống triết phái Vaisesika (Hán dịch âm Phệ Thế Sư Ca phái, dịch nghĩa là Thắng Luận phái, cho nên hai triết phái này thường được giới thiệu cặp đôi với nhau: Vaisesika-Nyãya. Điểm khác biệt chỉ là triết phái Chánh lý chú trọng nhiều về mặt biện luận và Logic, còn triết phái Thắng luận thì rất chú ý thuyết minh sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ.

        Theo truyền thuyết, vị Tổ sáng lập ra triết phái Nhân minh cũ là Gotama, có tên là A. Ksapada, nghĩa là Túc Mục, tức người có con mắt nơi chân, một nhân vật huyền thoại mà lai lịch và năm sinh đều không ai biết. Đại sư Khuy Cơ, học trò Ngài Huyền Trang, trong cuốn “Nhân minh đại sớ” viết “Kiếp sơ Túc Mục” nghĩa là Túc Mục thời kiếp sơ. Nhưng kiếp sơ là năm nào? Tức là một năm nào đó thời thượng cổ, không thấy ghi chép trong sử sách. Từ thời Túc Mục đến thời Dignãga đã tân trang lại luận lý học, tức Nhân minh học cũ của Túc Mục, khai Tổ của triết phái Nyãya (Chánh lý phái).

        1-Sử liệu hay văn liệu của Nhân minh cũ và Nhân minh mới.
        Những sử liệu và văn liệu hiện còn lưu lại, có quan hệ tới hai môn học trên, gồm có :
        a- Nyãya sutra, tức Kinh Nyãya, là kinh điển cơ bản của triết phái Nyãya. Có nguyên bản tiếng Pàli, nhưng không có bản Hán dịch.
        b- Nhân minh chánh lý môn luận, gồm một cuốn của Luận sư Dignãga với 2 bản Hán dịch của Huyền Trang và Nghĩa Tịnh.
        c- Nhân minh nhập chánh lý luận, một cuốn của Sankarasvamin (học trò của Dignãga), có bản dịch của Huyền Trang.
        d- Sớ giải cuốn “Nhân minh nhập chánh lý luận” của Khuy Cơ.
        e- Cuốn “Nyãya bindu” (Một giọt logic) của Dharmakĩrti (Pháp xứng) kèm theo sớ giải của Dharmottara (Pháp Thượng). Bản dịch Anh ngữ của Viện sĩ Nga Stcherbatsky.
        f- Lôgic học Phật giáo (Buddhist Logic) của Viện sĩ Nga Stcherbatsky (bản Anh ngữ).
        Trên đây là những cuốn sách cơ bản để nghiên cứu môn Nhân minh mới của Phật giáo.

        2- Vài điểm khác biệt giữa môn học Nhân minh cũ và mới
         Điểm khác biệt thứ nhất:
        Khác biệt về cách thức lập luận. Nhân minh cũ dùng 5 đề mục để lập luận, gọi là Ngũ phần tác pháp.

        Như trong cuốn Sớ giải Nhân minh của Khuy Cơ:

        Đề mục 1- Âm thanh là vô thường (Tôn).

        Đề mục 2- Vì tính chất của nó là bị làm ra (sở tác tánh cố). Mục này hay phần này là Nhân (căn cứ của lập luận).

        Đề mục 3- Ví dụ như cái bình ( Dụ)

        Đề mục 4- Cái bình vì là vật bị làm ra, cho nên là vô thường. Âm thanh vì cũng bị làm ra, cho nên cũng là vô thường (mục này gọi là Hợp).

        Đề mục 5- Do vậy, biết rằng. âm thanh là vô thường (Kết).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #13
        Tham gia ngày
        Dec 2009
        Đến từ
        Hanoi, Vietnam
        Bài gửi
        3,387
        Cảm ơn
        844
        Được cảm ơn: 4,604 lần
        trong 1,996 bài viết

        Default

        Trong năm mục trên, mục đầu gọi là Tôn, lần lượt các mục sau gọi là Nhân, Dụ, Hợp, Kết.
        Tôn là chủ trương của người lập luận, bị đối phương phản bác. Vì có đối phương phản bác cho nên người lập luận phải đưa ra chứng cứ, tức là mục Nhân. Nhân là lý do giải thích vì sao bên lập luận lại đưa ra chủ trương như vậy.

        Trong ví dụ trên,
        + lập Tôn: Âm thanh là vô thường, chứng cớ hay lý do là vì âm thanh là cái bị làm ra (sở tác tánh cố). không phải tự nhiên mà có. Mà tất cả những cái bị làm ra, đều là vô thường, không tồn tại mãi được, cũng như cái bình (dùng làm ví dụ) cho nên là vô thường. Đó là Dụ, hay Ví dụ. Kết hợp Nhân với Dụ lại là mục 4, tức là Hợp. Âm thanh cũng là cái bị làm ra cho nên cũng là vô thường (Kết, tức Kết luận).

        Điểm đổi mới của Dignãga nhận thấy, trong năm mục của Nhân minh cũ, chỉ có ba mục đầu: Tôn, Nhân và Dụ là không thể thiếu, còn hai mục sau có thể lược đi được.

        -Tôn: Âm thanh là vô thường

        - Nhân: Vì âm thanh là cái bị làm ra.

        - Dụ: Tất cả những cái bị làm ra đều là vô thường như cái bình.
        Công thức ba mục của Nhân minh mới không những giản đơn hơn so với Nhân minh cũ, mà mục Dụ diễn đạt một cách khẳng định hơn so với công thức của

        Nhân minh cũ: Tất cả những cái bị làm ra đều là vô thường như cái bình. Trong mục Dụ của Nhân minh cũ, không có từ tất cả như trong công thức của Dignãga.
        Như vậy, điểm khác biệt thứ nhất giữa Nhân minh cũ và Nhân minh mới là số mục trong công thức của Nhân minh cũ là 5, còn trong Nhân minh của Phật giáo chỉ có 3, hơn nữa cách diễn đạt trong Nhân minh mới ở mục Dụ lại có tính chất khẳng định hơn.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #14
        Tham gia ngày
        Dec 2009
        Đến từ
        Hanoi, Vietnam
        Bài gửi
        3,387
        Cảm ơn
        844
        Được cảm ơn: 4,604 lần
        trong 1,996 bài viết

        Default

         Điểm khác biệt thứ hai:
        Khác nhau về nội dung của năng lập và sở lập.
        Từ Lập của Nhân minh cũng như từ đề xuất hay chủ trương. Năng lập là chủ động đề xuất hay chủ trương. Sở lập là cái được hay bị đề xuất hay chủ trương. Đối với Nhân minh học cũ, thì năng lập là Tôn, như trong ví dụ Tôn: Âm thanh là vô thường. Nhân cũng là năng lập, âm thanh là cái bị làm ra. Dụ cũng là năng lập, ví dụ cái bình. Còn Sở lập đối với môn học Nhân minh cũ chỉ là thuộc tính của tôn, tức vô thường.
        Đối với môn Nhân minh học mới, sở lập chính là Tôn: âm thanh là vô thường. Còn năng lập là nhân và dụ, tức là tánh bị làm và cái bình.
        Tôn là đối tượng tranh cãi giữa bên lập và bên phá (tức là bên chủ trương và bên bác). Còn nhân và dụ, nếu đề xuất đúng đắn thì cả hai bên lập và phá đều công nhận.

         Điểm khác biệt thứ ba :
        Sự khác biệt về Tôn thể và Tôn y.
        Thế nào là tôn thể và tôn y? Tôn: âm thanh là vô thường, như có thể thấy gồm hai phần: Phần I: âm thanh; phần 2: vô thường. Phần 1 và phần 2 gọi là Tôn y. Câu hỏi đặt ra là điểm tranh luận giữa hai bên là phần 1 hay là phần 2. Môn Nhân minh học với Dignãga cho rằng điểm tranh luận không phải là phần 1 hay 2, mà là sự liên kết của hai phần, gọi chung là Tôn thể hay mệnh đề. Điểm tranh luận không phải là âm thanh hay vô thường. Nội dung của hai điểm này, có thể nói hai bên đều nhất trí. Nhưng điểm không nhất trí là sự liên kết của hai điểm đó với nhau tức âm thanh là vô thường, nghĩa là bản thân mệnh đề.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #15
        Tham gia ngày
        Dec 2009
        Đến từ
        Hanoi, Vietnam
        Bài gửi
        3,387
        Cảm ơn
        844
        Được cảm ơn: 4,604 lần
        trong 1,996 bài viết

        Default

         Điểm khác biệt thứ tư:
        Khác biệt thuộc về Nhân, mục thứ hai của lập luận.
        Nhân có ba tướng, lập ra đúng hay sai, thì cách nhìn của Nhân minh cũ và mới có khác nhau. Muốn hiểu vấn đề này, trước hết phải hiểu khái niệm đồng phẩm và dị phẩm. Đồng phẩm là chỉ tất cả những vật có tính vô thường như là âm thanh vậy, và tất cả những gì thường còn như hư không đều là dị phẩm. Trong ví dụ âm thanh nói trên, cái bình là vật vô thường là đồng phẩm, còn hư không vì không phải là vô thường nên là dị phẩm. Nói rõ hơn, tất cả những vật dùng làm ví dụ mà đồng thuộc tính của tôn, tức trong trường hợp ví dụ : Tôn, âm thanh là vô thường vì có thuộc tính bị làm ra. Tất cả những vật, như cái bình đồng thuộc tính vô thường đều là ví dụ đồng phẩm. Còn tất cả những vật thường còn như hư không, thì đều là dị phẩm.

        Trong môn Nhân minh học cũ, đã từng phân biệt có 9 loại nhân dựa vào tiêu chuẩn đồng phẩm và dị phẩm nói trên. Sách Nhân minh học gọi là cửu cú nhân. Từ cú ở đây không có nghĩa là câu, mà có nghĩa phạm trù hay khái niệm. Tức là có tới 9 phạm trù nhân được xem xét:
        - Đồng phẩm có, dị phẩm có : Nhân phạm lỗi bất định.
        - Đồng phẩm có, dị phẩm không có: Nhân đúng đắn.
        - Đồng phẩm có, dị phẩm vừa có, vừa không có : Lỗi bất định.
        - Đồng phẩm không có, dị phẩm có : Lỗi tương vi, tức là không đúng , lập luận như vậy gọi là bất thành. Lỗi tương vi còn nặng hơn lỗi bất định, vì cái nhân lập rat hay vì chứng minh cho tôn mình lại có phản tác dụng, phản bác tôn của chính mình thành lập.
        - Đồng phẩm cũng không có, dị phẩm cũng không có : Lỗi bất định.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #16
        Tham gia ngày
        Dec 2009
        Đến từ
        Hanoi, Vietnam
        Bài gửi
        3,387
        Cảm ơn
        844
        Được cảm ơn: 4,604 lần
        trong 1,996 bài viết

        Default

        CHƯƠNG II
        LOGIC HỌC PHẬT GIÁO

        I. Định nghĩa môn Logic học và những lợi ích thiết thực
        a) Định nghĩa:
        Logic học là môn khoa học nghiên cứu về các quy luật và hình thức của tư duy hướng về việc nhận thức đúng đắn hiện thực. Môn Logic học dạy chúng ta tư duy đúng đắn, nhận thức đúng đắn, đồng thời cũng dạy chúng ta diễn đạt tư duy và nhận thức đó một cách có sức thuyết phục, có lý, có lẽ.

        b) Những lợi ích thiết thực:
        Tự mình tư duy và nhận thức đúng đắn là điều mà Phật giáo gọi là Tự ngộ. Còn diễn đạt và nhận thức đúng đắn đó cho người khác nghe, đọc để thuyết phục họ, thì Phật giáo gọi là Ngộ tha, tức là giác ngộ cho người khác. Như chúng ta đều biết, hai sự nghiệp tự ngộ và ngộ tha mà làm được đến nơi đến chốn, làm đến chỗ viên mãn, thì chúng ta sẽ thành Phật.

        Để chứng minh cho định nghĩa trên, ta bắt đầu dẫn chứng câu mở đầu cuốn “Nhân minh nhập Chánh lý luận” của Ngài Sankarasvamin, là học trò của Luận sư Dignãga, vị Luận sư đã lập ra môn Nhân minh mới, tức Logic học Phật giáo, là một bước cải tiến so với Nhân minh cũ của học phái Nyãya. Bản dịch hán văn của bộ luận này là do Ngài Huyền Trang làm.

        Câu mở đầu bộ luận của Ngài Sankarasvamin (Huyền Trang dịch như sau): “Năng lập dự năng phá cập tợ, duy ngộ tha. Hiện lượng dự tỷ lượng cập tợ, duy tự ngộ. Như thị, tổng nhiếp chư luận yếu nghĩa”.

        Năng lập là lập thuyết của mình.
        Năng phá là bác bỏ thuyết của người khác, của đối phương. Hai từ cập tợ, có nghĩa là năng lập mà sai gọi là tợ năng lập, năng phá mà sai thì gọi là tợ năng phá. Duy ngộ tha, có nghĩa hai hoạt động năng lập thuyết này là phản bác thuyết của người khác.cũng đều chỉ nhằm mỗi mục đích là giác ngộ cho người khác.

        Hiện lượng là nhận thức trực tiếp chủ yếu bằng cảm quan, như mắt, tai, mũi, lưỡi...v.v.. Tỷ lượng là suy diễn mà biết, là cái biết gián tiếp. Hiện lượng và tỷ lượng đều có đúng có sai, cho nên mới có các từ cập tợ. Cập tợ là Tợ hiện lượng, và Tợ tỷ lượng chứ không phải là hiện lượng và tỷ lượng đích thực, đúng đắn. Nhưng dù sai hay đúng thì mục đích của các hoạt động hiện và tỷ lượng đều là tự ngộ, giác ngộ cho mình.

        Các ví dụ về hiện lượng sai và tỷ lượng sai rất nhiều, như ngồi trên xe hỏa khi tàu bắt đầu chạy, chúng ta thấy cây, nhà cửa như là chạy vậy. ---> Thuyết tương đối Einstein !

        Hay là mắt chúng ta thấy mặt trời mọc, mặt trời lặn, còn trái đất chúng ta đứng yên, nhưng tình hình thực tế thì không như vậy. ---> Trời tròn đất vuông của người xưa!

        Trong sách Phật giáo, có ví dụ quen thuộc, nhìn cái dây thừng lại cho là con rắn. Còn ví dụ về Tỷ lượng sai thì rất nhiều, quá nhiều. Nhìn xa, trên núi có sương mù, cho là khói, và suy luận là có lửa. Thấy trời dâm, mây kéo che phủ, suy luận là nhất định phải có mưa, nhưng trời vẫn không mưa, do có một đợt gió làm tan mây..v.v..

        Câu cuối cùng trong đoạn văn: “Như thị tổng nhiếp chư luận yếu nghĩa”. Ý tứ là các hoạt động Chơn năng lập, Tợ năng lập, Chơn năng phá, Tợ năng phá, Chơn hiện lượng, Tợ hiện lượng, Chơn tỷ lượng, Tợ tỷ lượng ….tám nội dung hoạt động này, thâu tóm ý nghĩa của các bộ luận (chứ không riêng bộ luận về Nhân minh).

        Dẫn chứng đoạn văn trên không những để giải thích thế nào là Logic học Phật giáo, mà gián tiếp còn chỉ ra rằng, lợi ích cuối cùng của Logic học là tự giác và giác tha, chính là lợi ích cao nhất của hàng Bồ tát. Và lợi ích này, nếu thành tựu viên mãn, thì nhà Logic học sẽ thành Phật.

        Những lợi ích khác của Nhân minh học: Nói lợi ích tự giác và giác tha hay tự ngộ và ngộ tha là nói chung, nói theo bộ luận nổi tiếng của Ngài Thương Yết La Chủ : (Sankarasvamin).
        Tất cả mọi hành động thành công của con người đều bắt đầu bằng nhận thức đúng đắn”. “All successful human action is preceded by right knowledge”.
        Câu này mở đầu bộ luận “ Nyãya bindu”. (Một giọt lôgic) của Luận sư Dhramakĩrti (Pháp xứng).

        Dharmakĩrti không nói tự giác hay giác tha, mà nói tới “mọi hành động cụ thể của con người ”. Thí dụ, viết luận văn tốt nghiệp, luận văn cao học .v.v.. thậm chí cả tới những chuyện rất thế tục và tầm thường như đi buôn, tiếp thị, quảng cáo, yêu đương… cũng đều cần có nhận thức đúng đắn mở đầu.

        Tình hình có quá nhiều gia đình tan vỡ, nhiều vụ ly dị, những chuyện bi thảm như tự tử vì thất tình v.v.. chứng tỏ là rất nhiều đôi trai gái không nhận thức vấn đề yêu đương một cách đúng đắn. Tại sao, khi đôi trai gái chưa thành vợ thành chồng, thì chàng trai là thiên thần đối với cô gái, cô gái là nàng tiên, hay ít nhất cũng là nàng Kiều thơ mộng đối với chàng trai, nhưng chỉ cần vài tháng sống như vợ chồng thì chàng trai biến thành quỷ dữ, còn cô gái lại biến thành sư tử Hà Đông ? Tại sao ? Luận sư Dharmakĩrti sẽ trả lời là do nhận thức về yêu đương không đúng đắn từ ban đầu.

        Đối với ngoại ngữ cũng vậy, cần có nhận thức về mục đích và phương pháp học ngoại ngữ thì học ngoại ngữ mới thành công tốt đẹp.

        Cần phải nhớ tốt, mà muốn nhớ tốt phải biến học thành niềm vui. Học mà lo sợ, sợ thầy, sợ cô, sợ khi đi thi thì làm sao mà nhớ tốt được. Nhà văn hào Nga Dostoviesky nói ông chỉ nhớ rõ những quãng đời vui và hạnh phúc của đời ông mà thôi….Các ông thầy Do Thái dạy kinh Thánh Torah cho trẻ em, trước khi bắt đầu giảng kinh thì nhỏ một giọt mật vào đầu trang sách để báo trước cho các em biết Kinh Torah ngọt như mật vậy, các em phải vui mà nghe, mà học, có như vậy mới dễ nhớ lời dạy của Thượng đế…Một Phật tử, khi hành thiền niệm hơi thở ra vào, cũng niệm những câu: “Với tâm hân hoan tôi thở vô, với tâm hân hoan tôi thở ra, với tâm định tĩnh tôi thở vô, với tâm định tĩnh tôi thở ra “ và cuối cùng “ Với tâm giải thoát, tôi thở vô, với tâm giải thoát ,tôi thở ra…”.

        Nói chung lại một câu, làm bất cứ công việc gì, chúng ta phải biết tìm niềm vui ở đó, thì làm công việc đó mới thành công mỹ mãn.

        Nói cách khác, nhận thức đúng đắn sẽ giúp chúng ta thành công và vượt qua khó khăn. Trong sách Phật giáo Thiền Tây Tạng bằng Anh ngữ, thường hay dùng từ effortlessly, nghĩa là không phí sức, không có khẩn trương cố gắng, không bị ức chế vì cố gắng. Kiểu như vua Trần Nhân Tông, nói chuyện tu hành, mà lại viết :

        Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.
        ( Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #17
        Tham gia ngày
        Dec 2009
        Đến từ
        Hanoi, Vietnam
        Bài gửi
        3,387
        Cảm ơn
        844
        Được cảm ơn: 4,604 lần
        trong 1,996 bài viết

        Default

        Đúng như Luận sư Dharmakĩrti nói, khi mở đầu bộ luận Nyãya bindu (Một giọt logic) của ông: “Tất cả mọi hành động thành công của con người đều bắt đầu bằng sự nhận thức đúng đắn ” .

        Một câu hỏi: Vì sao, Dharmakĩrti bắt đầu bộ luận “Nyãya bindu” bằng nghiên cứu nhận thức luận còn ngài Thương Yết La Chủ thì bắt đầu bộ luận của mình bằng năng lập, năng phá, nhằm mục đích ngộ tha ? Rõ ràng, trình tự viết hai bộ luận có khác nhau. Vì sao vậy ?

        Tuy nhiên, nếu đọc cả hai bộ luận, chúng ta sẽ thấy ngài Thương Yết La Chủ, tuy bắt đầu bằng năng lập, năng phá với mục đích ngộ tha, rồi tiếp sau là hiện lượng, tỷ lượng với mục đích tự ngộ. Nghĩa là cả hai mục đích tự ngộ và ngộ tha đều thành tựu, nhưng mục đích ngộ tha đặt ra trước.

        Còn Dharmakĩrti tuy đầu tiên bàn về vấn đề nhận thức, nhưng sau hai chương I và II bàn về nhận thức cảm quan (sense perception), và nhận thức suy lý (inference), lại dành cả chương III để bàn về tam đoạn luận (syllogism), nhằm mục đích ngộ tha.

        Chúng ta biết đạo Phật xuất hiện không phải trong khoảng không của sa mạc, mà là trong một bối cảnh lịch sử - xã hội với Bà la môn giáo ngự trị trong lĩnh vực tư tưởng và tín ngưỡng. Với sự xuất hiện của Phật giáo, toàn bộ các cơ sở lý thuyết và tín ngưỡng của Bà la môn giáo với những triết phái đi kèm (6 darsanas – tức sáu học thuyết chính thống tán thành quyền uy của sách Thánh Veda) bị một chấn động lớn, và buộc phải xét lại, cải tiến cơ sở lý thuyết và tín ngưỡng của mình.

        Trong cuốn “Triết học Ấn Độ” tập 2, Tiến sĩ Radhakrishnan viết: “Kỷ nguyên Đức Phật là suối nguồn vĩ đại của tinh thần triết học Ấn Độ…. Sự chống đối của đạo Phật và đạo Jain …tạo ra một kỷ nguyên trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ, vì cuối cùng nó làm giải thể, tan vỡ phương pháp chủ nghĩa giáo điều, và giúp đề xuất một quan điểm phê phán. Đối với các tư tưởng gia Phật giáo lớn, Lôgic học là kho vũ khí chủ yếu, tạo ra những vũ khí phê phán hủy diệt phổ biến…. Phật giáo phục vụ như liều thuốc tẩy, quét sạch tâm thức khỏi những hậu quả xơ cứng của những trở ngại cổ xưa… Các trường phái bảo thủ bắt buộc phải hệ thống hóa quan điểm của họ và bào vệ chúng một cách lôgic. Mặt phê phán của triết học cũng trở thành quan trọng như mặt tư biện….”

        Đoạn câu Anh văn trích dẫn: “The age of Buddha represents the great spring tide of philosophic spirit in India… the revolt of Buddhism and Jain…. Forms an era in the history of India thought, since, it finally exploded the method of dogmatism and helped to bring about a cricical point of view. For the great Buddhist thinkers, logic was the main arsenal, where were forged the weapons of universal destructive criticism. Buddhism serves as a cathartic in clearing the mind of the cramping effects of ancient obstructions…. The conservative schools were compelled to codify their views and set forth logical defences of them. The critical side of philosophy became as important as the speculative….”.
        (Indian philosophy- Radhakrishnan- volumn II, p.17)

        Không những vào thời Phật Thích Ca thuyết pháp và trình bày giáo lý Phật giáo, mà lâu về sau, sau khi Bà la môn giáo và các triết phái chính thống điều chỉnh và cải tiến cơ sở triết học và tín ngưỡng của mình, các cuộc tranh luận vẫn tiếp tục kéo dài giữa các triết phái thuộc giòng chính thống (astika) và Phật giáo.

        Mục tiêu của Luận sư Dignãga khi sáng lập môn Logic học Phật giáo là phục vụ cho cuộc tranh luận kéo dài giữa đạo Phật và các triết phái chính thống của Bà la môn giáo, do đó mà yêu cầu ngộ tha, giác ngộ cho người khác chiếm vị trí ưu tiên. Vì vậy, trong sách Logic học Phật giáo hay dẫn chứng nhiều ví dụ lấy từ cuộc tranh luận đó. Tuy rằng, Dignãga lấy mục tiêu ngộ tha làm chính, nhưng ông cũng không quên tầm quan trọng của nhận thức luận, mà hai công cụ chính là hiện lượng và tỷ lượng.

        Các nhà tư tưởng lớn của Phật giáo đã dùng vũ khí của Nhân minh học để phản bác các triết phái chính thống của Ấn Độ giáo, và nêu cao lập trường, quan điểm của mình. Luận sư Dignãga khi sáng lập ra môn Logic học Phật giáo, chính là nhằm để cho cuộc tranh luận giữa Phật giáo và các triết phái của Bà la môn giáo được tiến hành nghiêm túc, có lý có lẽ, không thể có chuyện cãi chày cãi cối, như đã từng xảy ra ở Hy Lạp thời cổ đại với phái Ngụy biện (Sophists). Yếu tố này giải thích vì sao bộ luận của ngài Thương Yết La Chủ bắt đầu bằng các câu “ năng lập dữ năng phá…”, với mục đích ngộ tha.

        II- Về tính chất khó hiểu, khó học của môn Logic học Phật giáo.
        Môn Logic học là một trong 5 môn học của các trường Đại học Phật giáo ở Ấn Độ, khi Phật giáo còn ở vào thời kỳ thịnh trị tại xứ này. Logic học là môn học, có thể nói rất có giá trị thực tiễn, vì nó dạy chúng ta tư duy và lập luận đúng đắn, có sức thuyết phục.
        Tuy nhiên, những cái khó của môn Logic học Phật giáo gồm:

        - Thứ nhất, sách Logic học Phật giáo hay dẫn chứng những ví dụ liên quan đến cuộc tranh cãi kéo dài giữa Phật giáo và các Triết phái thuộc phái chính thống Astika của Ấn Độ giáo. Muốn hiểu những ví dụ dẫn chứng đó, chúng ta không thể không biết qua về triết Ấn, nhất là 6 triết phái chính thống của Ấn Độ giáo tức là các triết phái Nãya- Vaisẽsika, Sãnkhya- Yoga, Pũrva Mimãmsa và Uttara Mimãmsa (học phái này về sau có tên gọi quen thuộc là Vedãnta ). Đó là cái khó thứ nhất.

        -Cái khó thứ hai thuộc về từ ngữ. Bộ môn khoa học hay triết học nào cũng có kho từ ngữ của nó. Môn Logic học Phật giáo lại dùng nhiều từ ngữ của triết phái Chánh lý, tức triết phái Nyãya của Ấn Độ giáo : một từ ngữ, nhưng Phật giáo hiểu khác, phái Nyãya tức là phái Logic học của Ấn Độ giáo lại giải thích khác. Khi nghiên cứu, chúng ta không thể lẫn lộn các khái niệm và từ ngữ của Logic học Phật giáo và Logic học của Ấn Độ giáo.

        -Cái khó thứ ba thuộc về văn dịch Hán và Hán – Việt. Khi người dịch là Ngài Huyền Trang thì không ai dám chữa cả, dù ngài Huyền Trang dùng từ khó hiểu mấy đối với chúng ta là người hiện đại.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #18
        Tham gia ngày
        Dec 2009
        Đến từ
        Hanoi, Vietnam
        Bài gửi
        3,387
        Cảm ơn
        844
        Được cảm ơn: 4,604 lần
        trong 1,996 bài viết

        Default

        III- Sự khác biệt giữa Lôgic học tức Logic Phật giáo và Lôgic học phương Tây

        Đại diện điển hình của Lôgic học phương Tây là Lôgic học hình thức của Aristotle, sau này được bổ sung và cải tiến bởi Lôgic học của học phái Khắc Kỷ (Stoiciens) và Lôgic học toán.

        Trong bài này, chủ yếu giới thiệu những nét cơ bản của Lôgic học hình thức của Aristolte. Aristotle là học trò của Triết gia Platon. Ông cũng là thầy dạy của hoàng đế Alexander vĩ đại. Ông sinh năm 382 và mất năm 322 trước Công nguyên.
        Công thức luận lý hình thức của ông bắt đầu bằng hai tiền đề và từ hai tiền đề đó. Rút ra hai kết luận thích đáng.

        Tiền đề thứ nhất gọi là Đại tiền đề (major premise) như nói: Tất cả mọi người đều phải chết.

        Thứ hai Tiểu tiền đề (minor premise), như nói: Socrates là người

        Thứ bakết luận: hay đoán án, rút ra từ hai tiền đề trên : Ví Socrates là người cho nên ông ta cũng chết.

        Tất nhiên, chúng ta giả định là đại tiền đề và tiểu tiền đề đều chính xác, đó là điều kiện tiên quyết, Bởi lẽ, có trường hợp, kết luận có thể rất đúng, rút ra một cách thích đáng từ hai tiền đề. Nhưng hai tiền đề này lại sai. Một ví dụ để minh họa :

        Đại tiền đề : Trái đất là hình vuông.
        Tiểu tiền đề : Cái gì vuông đều tròn.
        Kết luận : Do đó trái đất là tròn.

        Ai cũng có thể thấy hai tiền đề sai như thế nào rồi. khi lập luận Aristotle thiên về kiểu thức các mệnh đề hay luận thức đều theo mô hình chủ ngữ - vị ngữ . Như nói: Mọi người/ đều phải chết. Mọi người là chủ ngữ, đều phải chết là vị ngữ. Hay trong câu: Socrates/ là người. Socrates là chủ ngữ, là người là vị ngữ.

        Có thể vì Aristotle không thích toán học, cho nên ông không dùng mô thức toán để lập luận, đơn giản hơn.

        Một con đường thẳng trên có điểm A, B, C. Và A đứng giữa B và C. Bây giờ hãy thêm một điểm D ở bên ngoài C. Chúng ta có chuỗi các điểm D, B, A, C. Chúng ta có thể kết luận ngay là A nằm giữa D và C.

        Hãy đem tam đoạn luận ( syllogism) gồm ba thành tố đại tiền đề, tiểu tiền đề và kết luận của công thức Aristotle, so sánh với công thức ngũ chi tác pháp của triết phái Nyãya, và tam chi tác pháp của Dignãga, Phật giáo. Chỉ cần đưa ví dụ minh họa, là thấy ngay sự khác biệt.

        Trong đại tiền đề của lập luận của Aristotle : Tất cả mọi gnười đều phải chết, rõ ràng đó là một khái quát hóa mà mọi người đều đồng thuận.

        Còn trong lập luận của Nhân minh, dù là cũ hay mới, thì mệnh đề đầu tiên gọi là tôn, lại chính là đề tài tranh chấp giữa bên lập và bên phá, tức là giữa người lập thuyết và người phản bác, như nói :

        Tôn : Trên núi đàng xa có lửa.
        Nhưng vì đúng đàng xa làm sao thấy được có lửa, cho nên người nghe phân vân, hay ít nhất cũng nói điều nghi của mình: Lửa có thấy đâu ?

        Người lập thuyết bèn nói: Bởi vì có khói um lên.
        Khói là thành tố thứ hai, cũng gọi là thành tố trung gian (the middle term). Đó là thành tố quan trọng nhất của tam đoạn luận của Logic học Phật giáo, bởi vì nó chứng minh cho mệnh đề: Trên núi đàng xa có lửa.

        Hai bên có đồng thuận là đồng thuận thành tố trung gian này. Đúng là trên núi có khói, ai cũng thấy.
        Bên lập bèn nói tiếp: Bất cứ ở đâu có khói là có lửa, cũng như bất cứ ở đâu có lửa là có khói. Về điểm này, thì cả hai bên lập và phá đều đồng thuận, cũng giống như đại tiền đề trong lập luận của Aristotle. Đó là một khái quát hóa từ rất nhiều hiện tượng đã được quan sát: Ở đâu có lửa là có khói. Đó là một thao tác quen thuộc của tư duy gọi là quy nạp (induction). Nghĩa là từ rất nhiều hiện tượng cụ thể, cá biệt quy nạp thành một khái quát chung, gọi là generalization.

        Các mệnh đề như: “Tất cả mọi người đều phải chết.” (Aristotle) hay như: “Ở đâu có khói là có lửa và ngược lại cũng vậy”., cũng đều là những khái quát, quy nạp nhiều hiện tượng, sự vật hay quá trình cá biệt và cụ thể.
        Và cả hai luận lý học phương Tây và luận lý học phương Đông (Ấn Độ giáo và Phật giáo) cũng đều rút ra kết luận. Một bên (Aristotle) thì rút ra từ hai tiền đề đại và tiểu, và một bên (phương Đông) thì rút ra từ thành tố thứ hai là nhân, tức là cái dấu hiệu logic liên hệ tất yếu với sự vật, hiện tượng hay quá trình bị che dấu, mà cảm quan không nắm bắt được trực tiếp, như lửa trong trường hợp ở trên núi đàng xa. Khói là cái nhân, cái dấu hiệu logic, giúp chúng ta biết là trên núi có lửa, mặc dù chúng ta không trực tiếp thấy có lửa.

        IV- Phân biệt giữa Logic học mới của Phật giáo với Logic học cũ của Ấn Độ giáo, cụ thể là của phái học Nyãya (Chánh lý phái).
        Lập luận của Nhân minh học của triết phái Nyãya dựa trên cái gọi là Ngũ chi tác pháp. Tác pháp là kiểu thức hay mô thức hoạt động, Ngũ chi là năm thành tố.

        Thí dụ:
        - Lập tôn: trên núi có lửa. ( Lập tôn cũng như nói lập thuyết vậy)
        - Nhân: vì trên núi có khói.
        - Dụ: nơi nào có khói thì có lửa, ví dụ cái bệp lò.
        - Hợp: trên núi đã có khói thì phải có lửa.
        - Kết: trên núi kia có lửa.

        Lập luận như trên, có tới 5 thành tố, gọi là 5 đoạn hay 5 chi. Nhân minh học mới của Dignãga rút 5 đoạn xuống còn 3 đoạn, gọi là tam chi tác pháp, về số lượng thành tố, thì cũng tương đương với tam đoạn luận của Lôgic học phương Tây (syllogism).

        Trong 5 chi của Nhân minh luận cũ, chỉ có ba thành tố tôn , nhân, dụ là cần thiết, không có không được, còn hai thành tố hợp và kết, bất quá chỉ là rút ra từ ba thành tố trên mà thôi. Vì vậy, với Dignãga, chỉ còn để lại ba thành tố là tôn, nhân và dụ.

        Tôn : Trên núi có lửa.
        Nhân : Vì trên núi có khói.
        Dụ : Tất cả những nơi nào có khói đều có lửa, như cái bếp lò.

        Như vậy là đủ không cần hai thành tố hợp và kết nữa. Hơn nữa, trong dụ, còn thêm: tất cả những nơi nào có khói đều có lửa. Hai từ tất cả nhấn mạnh tính khẳng định của dụ, không những có tính cá biệt mà mang tính phổ biến.

        Điểm khác biệt thứ hai là nội dung khác nhau của năng lập và sở lập.
        Đối với Nhân minh cũ thì cả ba tôn, nhân, dụ đều cấu thành năng lập, và lấy hai thành tố tự tánh (như âm thanh trong tôn âm thanh là vô thường), và sai biệt (tức vô thường) là sở lập. Còn đối với Dignãga, thì trong ba thành phần tôn, nhân, dụ thì nhân và dụ tạo thành năng lập, còn tôn là sở lập. Như chúng ta dễ thấy, tôn là cái tranh chấp giữa hai bên lập và bên phá, còn nhân và dụ lại là cái nhất trí giữa hai bên.

        Điểm khác biệt thứ ba thuộc về nhận thức về hai thành phần của tôn tức phần trước gọi là tiền trần, phần sau gọi là hậu trần. Như trong mệnh đề quen thuộc: âm thanh là vô thường. Âm thanh là tiền trần, vô thường là hậu trần. Trong Nhân minh cũ, có sự tranh cãi về điểm này. Có người nói đó là tiền trần, có người nói là hậu trần, có người nói là cả hai. Với Nhân minh mới của Dignã ga, tiền trần hay hậu trần đều không phải là điểm tranh luận, mà điểm tranh luận chính là sự liên kết giữa tiền trần và hậu trần thành một mệnh đề, như âm thanh là vô thường, hay trên núi có lửa.

        Ngài Khuy Cơ, học trò Ngài Huyền Trang giải: Hai thành phần tiền và hậu trần gọi là tôn y, còn sự liên kết giữa hai tôn y lại gọi tôn thể. Tôn thể mới là đầu mối của tranh luận.
        Còn hai điểm khác biệt nữa liên quan tới nhân và dụ, nội dung khá phúc tạp, đợi tới khi bàn tới mục lớn “ Tam đoạn luận” sẽ bàn cụ thể. Trong bài dẫn nhập, chỉ bàn sự khác nhau đại khái giữa hai môn Nhân minh mới và cũ mà thôi.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #19
        Tham gia ngày
        Dec 2009
        Đến từ
        Hanoi, Vietnam
        Bài gửi
        3,387
        Cảm ơn
        844
        Được cảm ơn: 4,604 lần
        trong 1,996 bài viết

        Default

        CHƯƠNG III
        VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ NHÂN MINH HỌC PHẬT GIÁO

        DÀN BÀI
        I- Vài nét về lịch sử Nhân minh học Phật giáo.
        II- Hai nhà Lôgic học Phật giáo sau Vasubandhu : Dignãga (Trần Na) và Dharmakĩrti (Pháp Xứng).
        III- Nhân minh học ở Trung Hoa và Nhật Bản.
        IV- Nhân minh học ở Tây Tạng.
        V- Trình tự giảng môn Nhân minh học Phật giáo.

        CHƯƠNG III
        1- Vài nét về lịch sử phát triển của môn Nhân minh học ở Ấn Độ.

        Học phái Nyãya chủ trương Thực tại luận (realism), cho rằng mọi sự vật và hiện tượng ngoại cảnh là có thực. Trong khi Phật giáo với Nãgãrjuna (Long Thọ) và về sau với Vasubandu (Thế Thân), Asãnga (Vô Trước) thì chủ trương mọi sự vật và hiện tượng ngoại cảnh đều là không rỗng, không thực, do tâm thức biến hiện.

        Các nhà logic học (tức Nhân minh học) Phật giáo nổi tiếng sau này như Dignãga (Trần Na), Dharmakĩrti (Pháp Xứng), Sankarasvamin (Thương Yết La Chủ), Dharmottara (Pháp Thượng) v.v…. đều nhất quán phản bác Thực tại luận của học phái Nyãya và chịu ảnh hưởng Duy thức luận của Vasubandhu. Ông này vừa là nhà Duy thức vừa là nhà Nhân minh học. Ông được người thời ông xứng tán là Đức Phật thứ hai. Trong khi Triết phái Nyãya chủ trương Thực tại luận, tức sự vật ngoại cảnh là có thật, thì Nãgãrjuna, với phương pháp biện chứng của ông chứng minh là tất cả hiện tượng giới đều chỉ tồn tại một cách tương đối, và vì là tồn tại tương đối cho nên chúng là vô thường, không rỗng, không thực.

        Quan điểm này của Nãgãrjuna được trình bày trong hai bộ luận, trong đó cuốn “Hồi tránh luận” có trong Đại tạng dịch ra chữ Hán vào thời Hậu Ngụy đầu đề Sanskrit là “Vigraha Vyavarkani” (năm 541 sau Công nguyên), Nãgãrjuna phản bác 16 chủ đề trong bộ luận “Nyãya sutra” của Gautama đều chỉ có giá trị tồn tại tương đối, do đó đều là không thực.

        Chúng ta thấy rắng, Nãgãrjuna khẳng định là với Lôgic học, không thể nào đạt tới Chân lý tối hậu được. Lôgic học chỉ có giá trị trên bình diện ngôn ngữ và tư duy của thế giới hiện tượng mà thôi, và nếu dừng lại trên bình diện ngôn ngữ và tư duy bình thường thì logic học của Triết phái Nyãya cũng đủ, không cần có sự viện trợ bổ sung của Phật giáo nữa. Có thể vì lẽ đó mà Nhân minh học Phật giáo không được đề cao vào thời ông.

        Mãi đến thới kỳ Asãnga (Vô Trước), và Vasubandhu (Thế Thân), giới Phật giáo mới cảm thấy cần thiết sử dụng logic học để chứng minh cơ sở của thuyết Duy thức.

        Nhưng Asãnga cũng chỉ dứng lại luận thức “Ngũ chi tác Pháp” của phái Nyãya, với các nguyên lý tranh luận, vốn được phái này xác định. Nhưng với Vasubandhu vốn là một nhà logic học xuất sắc, logic học của phái Nyãya được cải tiến. Bản thân Vasubandhu cũng soạn tới ba, bốn cuốn logic học, trong số này chỉ có một cuốn được dịch ra chữ Hán. Đầu đề “Vada- vidhi” có nghĩa là nghệ thuật tranh luận. Nội dung bộ luận, trên những nét khái quát, không khác mấy cuốn “Nyãya sutra” của Gautama. Sau này, Dignãga, trong tác phẩm của mình, đã trích dẫn nhiều đoạn trong bộ luận của Vasubandhu. Trích dẫn theo bộ luận của Vasubandhu, Dignãga nhắc lại định nghĩa nhận thức cảm quan (sense- perception) như là nhận thức xuất phát từ bản thân đối tượng, chứ không từ một nguồn gốc nào khác. Nói bản thân đối tượng, để phân biệt với hình ảnh của đối tượng, được tạo ra về sau. Khi đã thành hình ảnh, thì chỉ có một phần là có giá trị thực tại. Dignãga cho rằng định nghĩa trên về nhận thức cảm quan, mặc dù là của Vasubandhu cũng không thỏa đáng lắm, cần được bổ sung thêm.

        Tuy nhiên như chúng ta đều biết, Vasubandhu cùng với Asanga là hai vị luận sư đã khởi xướng môn Duy thức học, phủ định tính thực tại của ngoại cảnh và khẳng định ngoại cảnh là do tâm thức biến hiện. Do đó, mà Dignãga, học trò của Vasubandhu, cho rằng định nghĩa nói trên của Vasubandhu về đối tượng của nhận thức cảm quan, thật ra không phải là của Vasubandhu, hay nói đúng hơn là của Vasubandhu khi ông này còn là luận sư thuộc bộ phái Vaibhãsa (Tỳ Bà Sa), khi ông viết bộ Câu Xá (Kosa).

        Về mặt Lôgic học, Vasubandhu vẫn dùng lại Ngũ chi tác pháp của học phái Nyãya, nhưng ông đã nói về ba dấu hiệu của cái nhân logic (the three aspects of the logical reason), mà sau này Dignãga sẽ luận bàn chi tiết.

        Ba dấu hiệu của cái nhân logic gọi là:
        1- Biến thị tôn pháp tánh.
        2- Đồng phẩm định hữu tánh.
        3- Dị phẩm biến vô tánh.

        Dịch nghĩa và sơ bộ giải thích:
        1- Sự hiện hữu của nó (tức là của nhân) trong đối tượng được nhận thức của Tôn.

        2- Sự hiện hữu của nó chỉ trong các trường hợp đồng phẩm.
        3- Sự vắng mặt tuyệt đối của nó trong mọi trường hợp dị phẩm.

        Trường hợp đồng phẩm là trường hợp tương tợ như hậu trần của tôn.

        Thí dụ : lập tôn : âm thanh là vô thường. Vô thường là hậu trần của tôn. Tất cả cái gì là vô thường đều là trường hợp đồng phẩm. Ngược lại, mọi cái thường trú, vĩnh cửu đều là trường hợp dị phẩm. Vấn đề đồng phẩm và dị phẩm, khi giảng tới mục nhân, sẽ giải thích rõ hơn.

        Nhưng Vasubandhu thỉnh thoảng cũng dùng luận thức Tam chi tác pháp, sau này được Dignãga sử dụng rộng rãi và là một luận thức rút gọn từ luận thức Ngũ chi tác pháp của học phái Nyãya.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #20
        Tham gia ngày
        Dec 2009
        Đến từ
        Hanoi, Vietnam
        Bài gửi
        3,387
        Cảm ơn
        844
        Được cảm ơn: 4,604 lần
        trong 1,996 bài viết

        Default

        II- Tiểu sử của hai nhà logic học Dignãga và Dharmakĩrti.

        Dignãga và Dharmakĩrti đều là học trò của Vasubandhu, cho nên có thể nói hai ông vừa là nhà logic học Phật giáo vừa là nhà Duy thức. Vasubandhu đã nổi tiếng rồi, khi Dignãga đến dự các buổi giảng của ông, còn Dharmakĩrti thì không phải là học trò trực tiếp của Dignãga, mà đúng hơn là học trò của học trò Dignãga, tức là Isvarasena. Vì Dharmakĩrti sống vào giữa thế kỷ thứ VII , như vậy Vasubandhu có thể sống vào cuối thế kỷ thứ IV.

        Cả hai Dignãga và Dharmakĩrti đều có quê quán ở vùng Nam Ấn và thuộc dòng họ Bà La môn. Dignãga có sinh quán gần Kanci. Từ thời còn trẻ, Dignãga đã xuất gia theo đạo Phật với một đạo sư thuộc bộ phái Vatsiputrya. Vì bộ phái này công nhận có một cái ta, có thật, tách biệt khỏi các yếu tố cấu thành con người, cho nên Dignãga phản bác các quan điểm này của Thầy và sau đó rời bỏ tu viện. Ông đi lên phía Bắc Ấn, với ý muốn theo học Vasubandhu ở Magadha lúc bấy giờ đã nổi tiếng và được tán thán trong các giới Phật giáo thời bấy giờ như là đức Phật thứ hai. Trong số các học trò, có những người sau này cũng nổi danh và phát triển theo đường hướng nghiên cứu mà mình tự lựa chọn. Đó là các luận sư Sthiramati (An Tuệ), một luận sư Duy thức; Vimuktasena, chuyên về triết học nhất nguyên, Gunaprabha, chuyên về giới luật và Dignãga, chuyên về logic học tức Nhân minh học.

        Tác phẩm Nhân minh học của Dignãga được sưu tập trong một bộ sách Lôgic lớn có đầu đề : Pramana- samuccay, gồm sáu chương. Do văn phong khó hiểu của bộ luận, nên cuốn ớ giải của Jinedrabuddhi là rất cần thiết để tìm hiểu tác phẩm của Dignãga.

        Dignãga nổi danh như là nhà logic học, sau cuộc tranh luận thành công của ông với một luận sư Bà la môn, tên là Sudurjaya, tại trường đại học Nalanda. Sau đó, ông thường tham gia nhiều cuộc tranh luận lý thuyết ở Bắc Ấn Độ, nơi mà các cuộc tranh luận lý thuyết như vậy trở thành một nếp sống quen thuộc, được tổ chức long trọng, thường có sự tham dự của nhà vua và triều đình, với rất nhiều tu sĩ và dân chúng. Người chiến thắng trong cuộc tranh luận, thường được nhà vua và triều đình ban thưởng, với nhiều học trò mới theo học, nhiều tiền bạc, quà tặng. Với tiếng tăm của Dignãga, Phật giáo được truyền bá rộng rãi thời bấy giờ. Trong khắp Ấn Độ, hình như chỉ vùng Cacchemire (Kasmir) là Dignãga không đến thăm, nhưng từ vùng này, cũng có nhiều học trò đến học ông và khi trở về, cũng lập ra môn Nhân minh học Phật giáo tại xứ này.

        Luận sư Dharmakĩrti cũng có sinh quán ở Nam Ấn tại vùng có tên gọi là Trimalaya , và cũng thuộc giòng họ Bà la môn. Ông đến Nalanda với hy vọng được theo học trực tiếp Vasubandhu, nhưng ở Nalanda, chỉ có Dharmapãla, học trò Vasubandhu là còn sống và đã rất già. Ông xuất gia với Dharmapãla, Dharmakĩrti rất hứng thú với môn Nhân minh học, nhưng Dignãga cũng qua đời. Ông bèn theo học Isvarasena, là một học trò trực tiếp của Dignãga. Nhưng không bao lâu, chính ông thầy cũng công khai thừa nhận Dharmakĩrti đã tỏ ra hiểu biết một cách đầy đủ và thông suốt hệ thống logic của Dignãga hơn cả mình nữa. Từ đó, cho đến khi ông qua đời, Dharmakĩrti soạn nhiều bộ sách logic, trong đó có quyển “ Nyãya bindu” mà chúng ta đang học, mở trường dạy học và tham gia nhiều cuộc tranh luận lý thuyết với các luận sư thuộc các trường phái Ấn Độ giáo. Ông qua đời ở Kalinga, trong một tu viện do ông sáng lập.

        Mặc dù tài năng và tiếng tăm của Dignãga và Dharmakĩrti, và sự hưng thịnh của Phật giáo tạm thời mà hai ông này đem lại, thời kỳ suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ đã bắt đầu, với những ngôi sao sáng của Ấn Độ giáo cách tân trên bầu triết học và tôn giáo Ấn Độ. Đó là Kumãrila và Sãnkaracarya.

        Sự nghiệp của Dharmakĩrti được nổi tiếng bởi Dharmottara, người viết sớ giải cho cuốn Nyãya bindu. Dharmakĩrti viết tất cả 7 bộ luận về Nhân minh, trong đó, cuốn cơ bản là cuốn Pramana vartika (Hán dịch là Lượng thích luận).

        Toàn văn chia làm 4 chương, tổng cộng gồm có 1500 bài tụng, về mặt nội dung mà nói, tuy là sớ giải của bộ luận “Tập lượng luận” ( Pramana samuccaya) của Dignãga, nhưng trong đó, Dharmakĩrti trình bày nhiều kiến giải sáng tạo của mình. Ngoài ra ông còn viết 6 bộ luận khác là:

        1- Pramana viniscaya- Lượng quyết trạch luận.
        2- Nyãya bindu- Chánh lý nhất trích luận (Việt dịch là Một giọt Lôgic)
        3- Hetu bindu- Nhân nhất trích luận
        4- Sambandha pariksa- Quán tướng thuộc luận
        5- Vada Nyãya- Tránh chánh lý luận
        6- Samtanantara siddhi- Thành tha tương tục luận.

        III- Nhân minh học ở Trung Hoa và Nhật Bản
        Nhân minh học Ấn Độ du nhập vào Trung Hoa qua hai đợt : đợt đầu vào thế kỷ thứ 5, do công lao của Tăng sĩ Ấn Độ Paramãrtha (Chân Đế). Đợt du nhập này không thành công mấy, vì theo chân của Paramãrtha, không có công rình logic học nào xuất hiện ở Trung Hoa, dù là dưới dạng những sớ giải.
        Đợt du nhập thứ hai là do Ngài Huyền Trang, với hai bộ luận về Nhân minh học đều do Ngài Huyền Trang dịch. Bộ thứ nhất là cuốn Nyãya dvara cũng gọi là Nyãya mukha của Dignãga, và bộ thứ hai là cuốn Nyãya Pravesa (Nhân minh nhập chánh lý luận) bởi Sankarasvamin (Thương Yết La Chủ), chính là bộ luận chúng ta sử dụng rộng rãi trong giáo tài này. Tôi có sớ giải của Ngài Trí Húc, và cũng có bản Việt dịch của thầy Thiện Siêu, cũng như bản nội dung tóm tắt của cụ Lê Đình Thám. Cuốn của Sankarasvamin theo nhận định của Stcherbatsky, thiếu phần triết học và nhận thức luận. Đây đúng là một cuốn Nhân minh học nhập môn, soạn ra chủ yếu dành cho những người sơ học. Lý do vì sao Huyền Trang không dịch các tác phẩm logic học của Dignãga, người được xem như là đã sang lập ra môn Nhân minh học Phật giáo, thật là khó hiểu. Theo Stcherbatsky, có thể là vì ông quan tâm hơn mặt tôn giáo của Phật giáo hơn là các mặt logic học và nhận thức luận.


        Tuy nhiên, đợt du nhập thứ hai của môn Nhân minh học Phật giáo vào Trung Hoa có ảnh hưởng rộng và lâu dài hơn. Một học trò của Huyền Trang là Khuy Cơ viết sáu bản sớ giải về cuốn Nhân minh nhập chánh lý luận của Sankarasvamin.

        Nhân minh học Phật giáo cũng được du nhập vào Nhật Bản, ở thế kỷ thứ VII, vào thời Ngài Huyền Trang, bởi một Tăng sĩ Nhật có tên là Doshoh. Khi trở về nước, ông có lập ra ở Nhật Bản một trường phái Nhân minh, mang tên dịch Anh ngữ là The South Hall (Sảnh đường phía Nam).

        Vào thế kỷ VIII tiếp theo, một Tang sĩ Nhật khác tên Ghemboh, đem từ Trung Hoa về các sớ giải Nhân minh của Ngài Khuy Cơ và lập ra ở Nhật một trường phái Nhân minh mới, mang tên tiếng Anh : The North Hall (Sảnh đường phía Bắc).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 2/4 đầuđầu 1234 cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. KINH-DỊCH : Là Khoa-Học của Khoa-Học
        By tranbinhchuong in forum Khoa học huyền bí
        Trả lời: 0
        Bài mới: 02-05-14, 07:10
      2. Năng lượng Siêu thường từ Luyện công
        By Boxer in forum Khoa học huyền bí
        Trả lời: 1
        Bài mới: 17-02-14, 12:32
      3. Tu luyện thần thông và giác ngộ
        By huyenkhong in forum Tủ sách Huyền Không Lý Số
        Trả lời: 1
        Bài mới: 08-04-13, 15:30
      4. Số phận Lê Văn Luyện
        By 1268 in forum Tử vi
        Trả lời: 5
        Bài mới: 11-09-11, 18:11
      5. Những câu hỏi siêu củ chuối của các bạn nữ
        By thulankl in forum Thư Giãn - Giao Lưu
        Trả lời: 8
        Bài mới: 25-07-10, 10:20

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •